Bùi
Giáng (17
tháng 12 năm 1926 –
7 tháng 10 năm 1998),
là nhà
thơ, dịch giả và là
nhà nghiên cứu văn học của Việt
Nam. Các bút danh khác của ông
là: Trung
niên thi sĩ, Thi sĩ, Bùi Bàn Dúi, Bùi Văn Bốn,
Vân Mồng... Ông nổi tiếng từ
năm 1962 với
tập thơ Mưa nguồn.
Cha
ông là Bùi
Thuyên, thuộc đời thứ 16 của dòng họ Bùi ở Quảng Nam. Do
người vợ cả qua đời sớm nên ông
lấy người vợ kế là bà Huỳnh Thị Kiền. Bùi Giáng
là con đầu của Bùi Thuyên với
Huỳnh Thị Kiền, nhưng là con thứ 5 nếu tính tất
cả các anh em. Khi vào Sài Gòn,
ông được gọi theo cách gọi miền Nam là Sáu
Giáng.
Năm 1933,
ông bắt đầu đi học tại trường làng Thanh Châu.
Năm 1950,
ông thi đỗ tú
tài đặc biệt do
Liên khu V tổ chức, được cử tới Hà
Tĩnh để tiếp tục học.
Từ Quảng
Nam phải đi bộ theo đường
núi hơn
một tháng rưỡi, nhưng khi đến nơi, thì ông quyết
định bỏ học để quay ngược trở
về quê, để đi chăn bò trên vùng rừng núi Trung
Phước.
Năm 1952,
ông trở ra Huế thi tú tài 2 ban Văn chương. Thi
đỗ, ông vào Sài Gòn ghi
danh
học Đại học Văn khoa. Tuy nhiên, theo T. Khuê
thì sau khi nhìn
danh sách các giáo sư giảng dạy lại, ông quyết
định chấm dứt việc học và bắt
đầu viết khảo luận, sáng tác, dịch thuật và đi
dạy học tại các trường tư thục.[1]
Năm 1965,
nhà ông bị cháy làm mất nhiều bản thảo của ông.
Năm 1969,
ông "bắt đầu điên rực rỡ" (chữ của Bùi Giáng).
Sau đó, ông
"lang thang du hành Lục tỉnh" (chữ của Bùi
Giáng), trong đó
có Long
Xuyên, Châu
Đốc.
Hiện
nay, nhiều
tác phẩm của ông đã và đang được tái bản và xuất
bản trong và ngoài nước.
Tình
cảm với Kim
Cương
Bùi
Giáng có
tình cảm với NSND Kim Cương khi
bà
mới 19 tuổi. Ông tỏ tình với bà nhưng không
thành vì bà thấy ông có vẻ bất
bình thường.[5][6]
Sau
đó, Bùi
Giáng vẫn giữ tình cảm với bà trong suốt cuộc
đời ông.[6] Cả
đời Bùi Giáng chỉ nhớ mỗi số điện thoại nhà của
Kim Cương, khi ông làm náo loạn
trật tự, bị công an "hỏi thăm" cũng chỉ biết đọc
lên số điện thoại
này; lúc bị ngã xe vào cấp cứu bệnh viên, tỉnh
lại cũng mang số điện thoại ra
để trả lời bác sĩ.[5][6]
Đánh
giá
Trước
và sau
năm 1975,
đã có nhiều bài viết về ông và sự nghiệp
văn chương của ông. Ở đây chỉ trích giới thiệu
thêm ý kiến của nhà nghiên cứu
T. Khuê được in trong Từ điển văn học (bộ
mới):
Bùi
Giáng viết
rất nhiều, nhưng những gì còn lại chính là
thơ. Thơ ông, ngay từ thuở đầu đã
rong chơi, lãng mạn, tinh nghịch, nhẹ nhàng,
hóm hỉnh, luôn là những lời vấn
đáp lẩn thẩn về ý nghĩa cuộc đời, về lẽ sinh
tồn, về những chuyện phù du, dâu
bể, ẩn khuất khía cạnh dục tình khép mở
của Hồ Xuân Hương...Từ Nguyễn Du,
ông tạo nên một môtip bạc mệnh hiện
đại, có màu sắc siêu thực qua tính cách tạo
hình, có chất hoang mang của con
người bất khả tri về mình, về người khác trong
cuộc sinh tồn hiện hữu...
Bùi
Giáng đã tái
dựng lục
bát trong bối cảnh
mới của thời đại hiện sinh. Nguồn thơ của ông
phát tiết trong khoảng thời gian
ngắn, chỉ hai năm 1962–1963 đã có tới 6 tập
thơ…Chuyện hạ bút thành thơ của ông
được xác định như là một hiện tượng độc
đáo…Tuy nhiên bi kịch của Bùi Giáng là
ông lập lại chính mình, ngay cả trong thơ, cho
nên những hình ảnh đẹp, những tư
tưởng tân kỳ, nhiều khi được dùng lại nhiều
lần trở thành sáo và vô nghĩa...
Nhưng
dù sao
chăng nữa, ông cũng đã tạo được một mẫu ngông
thời đại, sáng tạo một kiểu say
sưa, chán đời của thế kỷ 20, khác với Nguyễn Khuyến trong thế kỷ 19 hoặc Tản Đà ở
đầu thế kỷ 20[7].