Chế Lan Viên (1920-1989)
là một nhà thơ, nhà
văn hiện
đại nổi tiếng ở Việt Nam.
Cuộc
đời văn nghiệp
Chế Lan Viên tên thật là Phan
Ngọc Hoan, sinh ngày 20
tháng 10 năm 1920 (tức
ngày 9 tháng 9 năm Canh Thân) tại xã Cam An, huyện Cam
Lộ, tỉnhQuảng
Trị.
Ông lớn lên và đi học ở Quy
Nhơn, đỗ bằng Thành chung (THCS
hay cấp II hiện nay) thì thôi học, đi dạy tư kiếm
sống. Có thể xem Quy
Nhơn, Bình
Định là
quê hương thứ hai của Chế Lan Viên, nơi đã để lại
những dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn của nhà thơ.
Ông bắt đầu làm thơ từ năm
12, 13 tuổi. Năm 17 tuổi, với bút danh Chế Lan
Viên, ông xuất bản tập thơ đầu tay nhan đề Điêu
tàn, có lời tựa đồng thời là lời tuyên ngôn
nghệ thuật của "Trường Thơ Loạn". Từ đây, cái tên
Chế Lan Viên trở nên nổi tiếng trên thi đàn Việt
Nam. Ông cùng với Hàn
Mặc Tử, Yến Lan,Quách
Tấn được
người đương thời gọi là "Bàn
thành tứ hữu" của Bình
Định.
Năm 1939,
ông ra học tại Hà Nội. Sau đó Chế
Lan Viên vào Sài Gòn làm
báo rồi ra Thanh Hóa dạy
học. Năm 1942,
ông cho ra đời tập văn Vàng sao,
tập thơ triết luận về đời với màu sắc siêu hình,
huyền bí.
Cách mạng tháng Tám nổ
ra, ông tham gia phong trào Việt
Minh tại
Quy Nhơn, rồi ra Huế tham
gia Đoàn xây dựng cùng với Hoài
Thanh, Lưu
Trọng Lư, Đào Duy Anh.
Thời kỳ này, Chế Lan Viên viết bài và làm biên tập
cho các báo Quyết
thắng, Cứu
quốc, Kháng
chiến. Phong cách thơ của ông giai đoạn này
cũng chuyển dần về trường phái hiện thực. Tháng 7
năm 1949,
trong chiến dịch Tà
Cơn-đường 9 (Quảng
Trị), Chế Lan Viên gia nhập Đảng Cộng sản Đông
Dương[1].
Năm 1954,
Chế Lan Viên tập kết ra Bắc làm biên tập viên báo Văn học.
Từ năm 1956 đến
năm 1958,
ông công tác ở phòng văn nghệ, Ban tuyên huấn
trung ương và đến cuối năm 1958 trở lại làm biên
tập tuần báo Văn
học (sau
là báo Văn
nghệ). Từ năm 1963 ông
là ủy viên thường vụ Hội nhà văn Việt Nam, ủy viên
ban thư kí Hội nhà văn Việt Nam. Ông cũng là đại
biểu Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa các
khóa IV, V và VI, ủy viên Ban văn hóa - giáo dục
của quốc hội.
Sau 1975,
ông vào sống tại Thành phố Sài Gòn.
Ông mất ngày 19 tháng 6 năm 1989 (tức
ngày 16 tháng 5 năm Kỷ Tỵ) tại Bệnh viện Thống Nhất, thành phố Sài Gòn,
thọ 69 tuổi.
Ông được nhà nước Việt Nam
truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về
văn học nghệ thuật (1996).
Con gái ông, bà Phan Thị Vàng Anh,
cũng là một nhà văn nổi tiếng.
Phong
cách của Chế Lan Viên
Con đường thơ của Chế Lan
Viên "trải qua nhiều biến động, nhiều bước ngoặt
với những trăn trở, tìm tòi không ngừng của nhà
thơ"[2],
thậm chí có một thời gian dài im lặng (1945-1958).
Trước Cách mạng tháng Tám,
thơ Chế Lan Viên là một thế giới đúng nghĩa
"trường thơ loạn": "kinh dị, thần bí, bế tắc của
thời Điêu
tàn [3] với
xương, máu, sọ người, với những cảnh đổ nát, với
tháp Chàm". Những tháp Chàm "điêu tàn" là một
nguồn cảm hứng lớn đáng chú ý của Chế Lan Viên.
Qua những phế tích đổ nát và không kém phần kinh
dị trong thơ Chế Lan Viên, ta thấy ẩn hiện hình
bóng của một vương quốc hùng mạnh thời vàng son,
cùng với nỗi niềm hoài cổ của nhà thơ.
Sau Cách mạng tháng Tám, thơ
ông đã "đến với cuộc sống nhân dân và đất nước,
thấm nhuần ánh sáng của cách mạng"[4],
và có những thay đổi rõ rệt. Trong thời kì
1960-1975, thơ Chế Lan Viên vươn tới khuynh hướng
sử thi hào hùng, chất chính luận, đậm tính thời
sự. Sau năm 1975, "thơ Chế Lan Viên dần trở về đời
sống thế sự và những trăn trở của cái "tôi" trong
sự phức tạp, đa diện và vĩnh hằng của đời sống"[5].
Phong cách thơ Chế Lan Viên
rất rõ nét và độc đáo. Thơ ông là sức mạnh trí tuệ
được biểu hiện trong khuynh hướng suy tưởng -
triết lí. "chất suy tưởng triết lí mang vẻ đẹp trí
tuệ và sự đa dạng, phong phú của hình ảnh thơ được
sáng tạo bởi một ngòi bút thông minh, tài hoa"[6] Khai
thác triệt để các tương quan đối lập. Và nổi bật
nhất là năng lực sáng tạo hình ảnh phong phú, độc
đáo nhiều ý nghĩa biểu tượng.
Các bút danh
Ngoài bút danh Chế Lan Viên
(được hiểu là tác giả tự nhận mình là bông hoa lan
trong khu vườn nhà họ Chế- dòng họ vua chúa của
dân tộc Chàm ở nước Chiêm Thành xưa) nổi tiếng,
trong bài giới thiệu tập tiểu luận Những
bước đường tư tưởng của tôi của Xuân
Diệu, đăng trên báo Văn
học tháng
9 năm 1958, ông ký bút danh Thạch
Hãn (tên
một con sông tỉnh Quảng
Trị quê
ông). Nhiều bài báo in trên báo Thống
Nhất, xuất bản ở Hà Nội trước tháng 5 năm
1975, ông cũng ký bằng bút danh này.
Từ năm 1959 đến năm 1963,
trong thời gian làm biên tập báo Văn
học, phụ trách chuyên mục Nói
chuyện văn thơ, trả lời bạn đọc, ông ký bút
danh Chàng Văn. Năm 1961,
Nhà xuất bản Văn học đã cho xuất bản hai tập Vào
nghề và Nói
chuyện văn thơ của
tác giả Chàng Văn.
Trong mục Nụ
cười xuân trên
báo Văn
học, Chế Lan Viên có hai bài viết ngắn là Ngô
bói Kiều và Lý
luận Đờ Gôn ký
tên Oah (tức Hoan).
Tác phẩm
chính
Thơ
- Điêu tàn (1937)
- Gửi các anh (1954)
- Ánh sáng và
phù sa (1960)
- Hoa ngày
thường - Chim
báo bão (1967)
- Những bài thơ
đánh giặc (1972)
- Đối thoại mới (1973)
- Ngày vĩ đại (1976)
- Hoa trước
lăng Người (1976)
- Dải đất vùng
trời (1976)
- Hái theo mùa (1977)
- Hoa trên đá (1984)
- Tuyển tập thơ
Chế Lan Viên (tập
I, 1985; tập II, 1990)
- Ta gửi cho
mình (1986)
- Di cảo thơ I,
II, III (1992,
1993, 1995)
- Tuyển tập thơ
chọn lọc
Văn
- Vàng sao (1942)
- Thăm Trung
Quốc (bút
ký, 1963)
- Những ngày
nổi giận (bút
ký, 1966)
- Bác về quê ta (tạp
văn, 1972)
- Giờ của đô
thành (bút
ký, 1977)
- Nàng tiên
trên mặt đất (1985)
Tiểu
luận phê bình
- Kinh nghiệm
tổ chức sáng tác (1952)
- Nói chuyện
thơ văn (1960)
- Vào nghề (1962)
- Phê bình văn
học (1962)
- Suy nghĩ và
bình luận (1971)
- Bay theo
đường bay dân tộc đang bay (1976)
- Nghĩ cạnh
dòng thơ (1981)
- Từ gác Khuê
Văn đến quán Trung Tân (1981)
- Ngoại vi thơ (1987)
- Nàng và tôi (1992)