Tranh vẽ Chu Văn An thời Nguyễn
Chu Văn An (chữ Hán: 朱文安; 1292–1370),
tên thật là Chu
An, hiệu là Tiều
Ẩn (樵
隱), tên chữ là Linh
Triệt (靈
澤), là một nhà giáo, thầy thuốc,
đại quan nhà Trần trong lịch sử Việt Nam,
được phong tước Văn
Trinh Công nên
đời sau quen gọi là Chu Văn An.
Tiểu sử
Quê ông ở làng Văn Thôn, xã Quang
Liệt, huyện Thanh Đàm Hà Nội (nay
thuộc xóm Văn, xã Thanh
Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội).
Là người chính
trực, đã từng đỗ Thái học sinh nhưng
không ra làm quan mà mở trường dạy học ở làng
Huỳnh Cung, bên kia sông Tô Lịch, ông có công lớn
trong việc truyền bá, giáo dục tư tưởng đạo
đức Khổng giáo vào Việt Nam.
Vua Trần Minh Tông (1300–1357)
mời ông ra làm tư nghiệp Quốc tử giám, dạy cho Thái tử
Trần Vượng, tức là vua Trần Hiến Tông tương
lai. Đến đời Dụ Tông, ông thấy quyền thần làm
nhiều điều
vô đạo, ông dâng Thất trảm sớ xin
chém 7 tên gian nịnh, nhưng vua không nghe.
Ông chán nản từ quan về ở núi Phượng Hoàng (Chí Linh, Hải Dương), lấy hiệu là Tiều
ẩn (người
đi ẩn hái củi), dạy học, viết sách cho tới khi
mất.
Vinh danh
Cuộc đời thanh bạch và tiết tháo của
ông là tấm gương sáng của thời phong kiến Việt
Nam. Ông là một trong số rất ít bậc hiền nho
được thờ ở Văn Miếu.
Sự nghiệp của ông được ghi lại trong văn bia ở Văn Miếu-Quốc Tử
Giám.
Hiện nay còn lăng mộ và đền thờ của
ông nằm trên núi Phượng Hoàng, thuộc xã Văn
An; cách khu di tích Côn Sơn khoảng 4 km.
Đây là một điểm di tích văn hoá và danh thắng,
với cảnh rừng thông đẹp trùng điệp, có đền thờ
cũ và mới xây xong năm 2007. Lăng mộ Chu Văn
An nằm trong khu di tích này. Lễ hội vào tháng
tám và tháng một, trọng hội vào ngày 25-8 và
26-11. Khu di tích được xếp hạng năm 1998.
Tên ông được đặt cho nhiều đường phố
trên khắp Việt Nam như: thị xã Quảng Yên (từ
đường Vận tải Bạch Đằng đến phố 12 Tháng 9),
thành phố Uông Bí (từ
đường Bạch Đằng đến giáp đường sắt Hà
Lạng),...
Đền
thờ ông trên núi Phượng Hoàng
Câu đối thờ Chu An:
-
- Trần vãn thử hà
thời, dục vịnh đại phi hiền giả lạc
- Phượng sơn tồn ẩn
xứ, trĩ lưu trường ngưỡng triết nhân
phong
Dịch:
-
- Cuối đời Trần là
thời nào, ngâm vịnh rong chơi há chẳng
phải là cái thú vui của bậc hiền giả?
- Núi Phượng vẫn còn
dấu vết ở ẩn, đỉnh non vẫn mãi mãi
ngưỡng mộ phong thái của kẻ triết
nhân !
- Ông được Đại
Việt Sử Ký Toàn Thư chép
- An
(người Thanh Đàm), tính cương nghị, thẳng
thắn, sửa mình trong sạch, bền giữ tiết
tháo, không cầu lợi lộc. Ông ở nhà đọc
sách, học vấn tinh thông, nổi tiếng gần
xa, học trò đầy cửa, thường có kẻ đỗ đại
khoa, vào chính phủ. Như Phạm
Sư Mạnh, Lê
Quát đã
làm hành khiển mà vẫn giữ lễ học trò, khi
đến thăm thầy thì lạy hỏi ở dưới giường,
được nói chuyện với thầy vài câu rồi đi xa
thì lấy làm mừng lắm. Kẻ nào xấu thì ông
nghiêm khắc trách mắng, thậm chí la hét
không cho vào. Ông là người trong sạch,
thẳng thắn, nghiêm nghị, lẫm liệt đáng sợ
đến như vậy đấy. Minh Tông mời ông là Quốc
Tử giám tư
nghiệp, dạy thái tử học.
- Dụ
Tông ham chơi bời lười chính sự, quyền
thần nhiều kẻ làm trái phép nước, An
khuyên can, [Dụ Tông] không nghe, bèn dâng
sớ xin chém bảy tên nịnh thần, đều là
những kẻ quyền thế được vua yêu. Người bấy
giờ gọi là "Thất
trảm sớ". Sớ dâng lên nhưng không
được trả lời, ông liền treo mũ về quê.
- Ông
thích núi Chí Linh, bèn
đến ở đấy. Khi nào có triều hội lớn thì
đến kinh sư. Dụ Tông đem chính sự trao cho
ông, ông từ chối không nhận. Hiến
Từ thái hoàng thái hậu bảo:
"Ông ta là người không thể nào bắt làm tôi
được, ta sai bảo thế nào được ông ta?".
Vua sai nội thần đem quần áo ban cho ông.
Ông lạy tạ xong, liền đem cho người khác
hết. Thiên hạ đều cho là bậc cao thượng.
- Đến
khi Dụ Tông băng, quốc thống suýt mất,
nghe tin các quan đến lập vua,
ông mừng lắm. Chống gậy đến xin bái yết,
xong lại xin trở về quê, từ chối không
nhận chức gì. Khi ông mấtVua sai
quân đến tế, ban tặng tên thụy, ít lâu sau
có lệnh cho tòng tự ở Văn miếu.[1]
Tác phẩm