HIẾN CHẾ TÍN LÝ VỀ GIÁO
HỘI |
Lumen Gentium
Bản dịch Việt Ngữ của Giáo Hoàng Học Viện Piô X
Lời Giới Thiệu
Căn cứ vào những vấn đề đã được trình bày, ngày nay ai cũng công
nhận Hiến Chế tín lý về Giáo Hội là then chốt của cả Công Ðồng
Vaticanô II. Là vì, sau thế chiến thứ nhất, vấn đề bản tính Giáo
Hội đã trở thành trọng tâm của các cuộc tranh luận về thần học.
Quả thực các Công Ðồng trước, như lịch sử chứng minh, đã luôn cố
gắng đưa ra những giải đáp thích hợp với nhu cầu thời cuộc;
nhưng vấn đề bản tính sâu xa của Giáo Hội vẫn còn là trọng tâm
cho các cuộc tranh luận và cho các quyết định của Công Ðồng
Vaticanô II.
Người ta có thể viện dẫn nhiều lý do lịch sử, xã hội, thần học
để giải thích cho sự tập trung chủ đề ấy về Giáo Hội.
Công Ðồng Vaticanô I, do những đòi hỏi của thời cuộc, đã khởi sự
suy tư về bản tính thần học của Giáo Hội. Tuy nhiên, chương
trình quá rộng rãi và hoàn cảnh chính trị bất lợi đã không cho
phép công cuộc khẩn thiết ấy được kết thúc tốt đẹp. Bởi vậy,
những chương trình dang dở của Vaticanô I cần phải được bổ túc
cấp thời, nếu không, khoa Giáo hội học có nguy hiểm là quá thiên
về một phía, tức về quyền tối thượng của Giáo Hoàng Rôma và các
quyền bính của Ngài, dễ làm phương hại đến những giá trị khác
trong Giáo Hội.
Hơn nữa, sau thế chiến thứ nhất, một tình trạng mới đã nảy sinh,
lôi kéo theo một lối nhìn mới về Giáo Hội và một cách thức cảm
nghiệm mới về những thực tại của Giáo Hội. Ðể có lối nhìn mới đó
- ngoài những yếu tố kinh tế, văn hóa, xã hội mà chúng ta không
muốn nhắc tới ở đây - chúng ta hãy nêu lên những động lực sau
đây thuộc khoa Giáo hội học đã gây nên một ảnh hưởng không nhỏ:
a) Phong trào Công giáo Tiến Hành hoặc những phong trào tương tự
trong giáo dân đã cổ võ một tinh thần tông đồ mới và đồng thời
làm cho họ tin tưởng cách chính đáng là họ thuộc về Giáo Hội
nhiều hơn. Sự ý thức "thuộc về" sâu xa hơn ấy tiến triển dần dần
trong cộng đoàn Giáo Hội. Giáo Hội không được coi là một thực
tại dành riêng cho các giáo sĩ nhưng cho hết mọi người cùng
sống, cùng khổ và cùng làm việc trong đó. Như thế, khoa thần học
về giáo dân được phát huy một cách đặc biệt và sống động, nêu ra
mối suy tư thần học về Giáo Hội.
b) Sự suy tư thần học này
đã giúp nhiều cho lối nhìn mới về Giáo Hội, vì đã áp dụng những
tiến bộ của các khoa Thánh Kinh, lịch sử và nhân văn. Thật vậy,
thần học phô bày ý nghĩa xã hội gắn liền với chính nhân vị. Sự
liên hệ giữa đặc tính xã hội hóa đang vươn lên và ý thức mãnh
liệt về địa vị con người không thể không bày tỏ mối suy tư thần
học về Giáo Hội. Do đó mà khoa Giáo hội học ngày nay có những
khía cạnh xã hội và nhân loại, huyền nhiệm và tượng trưng dễ đối
kháng với một khoa Giáo hội học nặng tính cách pháp lý trước
đây.
c) Phong trào hiệp nhất
cũng ảnh hưởng đến sự biến đổi này. Ước nguyện hiệp nhất tạo nên
những cuộc đối thoại về thần học, trong đó các vấn đề không được
thảo luận đặt trong tình trạng tương phản biện chứng với các ý
kiến khác nhau. Nhờ thế mà những trực giác về bản tính Giáo Hội
nhất thiết phải phát hiện.
Những điều đó đặt ra cho Giáo Hội hai việc cần thực hiện: làm
sáng tỏ và tìm hiểu các vấn đề của Giáo Hội trong toàn bộ. Ðã
đến lúc Giáo Hội càng ngày càng phải nghiên cứu, đào sâu và diễn
tả chân lý về chính mình. Ngoài ra, ý thức về chính mình cũng
cần được xếp đặt cho có hệ thống theo tính cách năng động cổ
truyền.
Cần nói thêm rằng "trực giác minh bạch về sự kiện này là: cộng
đoàn Kitô giáo chắc chắn sẽ không theo kịp bước tiến của thế
giới ngày nay và phải chịu tăng triển chậm chạp dù đã đi tiên
phong về vấn đề Giáo hội học", trực giác ấy không thể không buộc
Giáo Hội suy nghĩ về những trách vụ cấp bách của mình, cũng như
không thể không buộc Giáo Hội phải làm cho tổ chức của mình
không còn bị cô lập, sự cô lập mà Giáo Hội có thể rơi vào.
Những điều nói trên cho ta thấy một hình ảnh khá chính xác của
một khoa Giáo hội học tiền Công Ðồng:
a) Trước hết nó mang tính chất đối thoại. Ðối thoại chân
thành và cởi mở với mọi thực tại thụ tạo, trong đó ý định cứu
rỗi của Thiên Chúa được hoàn tất. Giáo Hội không thể chỉ tự giải
thích về bản chất của mình, nhưng còn cần phải tự đả thông với
người khác: với các Kitô hữu không công giáo và với một thế giới
thờ ơ với ơn cứu rỗi.
b) Tuy nhiên, cuộc đối thoại - dù cần thiết - cũng không thể tự
hạn chế vào việc thông cảm đơn thuần nhằm mục đích hiểu biết.
Nhưng Giáo Hội còn phải đi sâu vào những nguyện vọng của mọi
người. Giáo Hội phải hiện diện với mọi thực tại và với những nỗ
lực của mọi người để làm cho xã hội nên tốt đẹp hơn. Bởi vậy,
khoa Giáo hội học cũng mang tính chất nhập thể vì Giáo
Hội hiện diện sống động theo kiểu Chúa Kitô, hầu có thể cứu
chuộc thế giới.
c) Muốn thế, cần phải có sự canh tân tận bên trong, phải cải tổ
cơ cấu, phải mở rộng tới những cách thức hiện hữu mới, mà không
làm Giáo Hội mất sự canh tân và cải tổ. Khuynh hướng cải
tổ, tuy đôi khi đi đến tận căn và thái quá, nhưng nói chung vẫn
có giới hạn chính đáng, rõ ràng, theo câu châm ngôn cổ truyền:
"Giáo Hội phải được cải tổ không ngừng".
d) Khuynh hướng cải tổ trong khoa Giáo hội học nói lên một tính
chất tiêu biểu khác: tính chất hiệp thông. Giáo Hội phải
là trung tâm hiệp thông nhân loại trong các hoạt động thế tục
cũng như trong các hoạt động tôn giáo. Bởi vậy, Giáo Hội như là
bí tích tạo nên sự hiệp thông ấy.
Những đặc điểm trên của khoa Giáo hội học ngày nay được thu thập
và chấp nhận trong văn kiện mà chúng ta sẽ giải thích sau đây.
Chắc hẳn, văn kiện chúng ta hiện có không phải chỉ được soạn
thảo một lần. Trong Giáo Hội vẫn còn nhiều chống đối với lối
nhìn vấn đề theo cách thức mới mẻ này: Có hai khuynh hướng xuất
hiện trong các cuộc thảo luận ở Công Ðồng: khuynh hướng thứ nhất
ủng hộ quan niệm hiện tại mới mẻ và sống động hơn về Giáo Hội mà
yếu tính là như một sự hiệp thông với mầu nhiệm đời sống Ba
Ngôi; khunh hướng thứ hai coi Giáo Hội như một thể chế, một xã
hội hoàn hảo giữa lòng thế giới, có những bổn phận và quyền lợi
riêng. Ðấy chỉ là những vấn đề được nhấn mạnh vì không bên nào
cho quan điểm đối lập là sai. Chính vì đó mà giai đoạn khởi đầu
của văn kiện đã trở nên rất sôi nổi, lâu dài và đôi khi bi đát.
Chúng ta sẽ cố gắng rút ra những đường nét chính từ việc soạn
thảo này.
Lược đồ đầu tiên gồm một tập dầy 123 trang đã được gửi đến các
Giám Mục vào tháng 11 năm 1962. Lược đồ gần như là một bản toát
yếu các vấn đề mà trước khi họp Công Ðồng, Ðức Gioan XXIII đã
hỏi ý kiến cả thế giới. Lược đồ gồm 11 chương và một phụ trương,
trong đó không thấy có những tiêu chuẩn rõ rệt. Ðây là những vấn
đề được bàn đến: về bản tính của Giáo Hội chiến đấu ở trần gian;
về những phần tử của Giáo Hội chiến đấu và về việc Giáo Hội cần
cho ơn cứu rỗi; về chức Giám Mục chính tòa; về các bậc sống theo
đường lối hoàn hảo của Phúc Âm; về giáo dân; về quyền giáo huấn
của Giáo Hội; về uy quyền và sự vâng phục trong Giáo Hội; về
liên quan giữa Giáo Hội và chính quyền; về sự cần thiết của Giáo
Hội để loan báo Phúc Âm cho mọi dân tộc trên khắp mặt đất; về sự
hiệp nhất. Trong phần phụ trương còn thêm lược đồ về "Ðức Trinh
Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa và Mẹ nhân loại".
Lược đồ đầu tiên ấy được thảo luận trong kỳ họp thứ nhất (từ
ngày 1 đến ngày 7 tháng 12 năm 1962 trong 6 phiên họp: phiên họp
khoáng đại thứ 31 tới 36). Tất cả đồng thanh dành ưu tiên cho đề
tài về Giáo Hội nhưng cũng có đôi điều chỉ trích: lược đồ thiếu
liên kết và tổng hợp, không nêu ra những đường nét chủ chốt.
Người ta còn mong muốn một lược đồ có tầm mức mục vụ hơn. Về nội
dung, nhiều Nghị Phụ nhấn mạnh cần phải lưu ý tới những viễn
tượng rộng lớn hơn của khoa thần học hiện đại, bởi vì cái gọi là
"mới", thường chỉ là một ý thức sắc bén hơn về một chân lý đã
quá xa xưa. Cần nhấn mạnh khía cạnh Giáo Hội là cộng đoàn thiêng
liêng, là hiệp thông và mầu nhiệm, hơn là khía cạnh Giáo Hội là
một xã hội hoàn hảo. Một cách tiêu cực, người ta chỉ trích lược
đồ đầy vẻ phô trương thanh thế (trình bày Giáo Hội như một thế
lực đi từ chiến thắng này tơi chiến thắng khác), quá thiên về
giáo sĩ (giản lược đời sống Giáo Hội vào hoạt động của giáo phẩm
mà gạt giáo dân ra ngoài), có tính cách pháp lý (quá nhấn mạnh
những yếu tố pháp lý, vì dù có cần thiết và chính yếu thật,
chúng không phải là những yếu tố duy nhất trong Giáo Hội). Một
cách tích cực, người ta muốn lược đồ đề nghị phải trình bày một
Giáo Hội thấm nhuần tinh thần Phúc Âm, nghĩa là một tinh thần
cởi mở và phổ quát, một tinh thần truyền giáo, một tinh thần
khiêm tốn và phục vụ. Có lưu ý đến những điều đó rồi mới thấy
việc sửa chữa lại lược đồ là việc làm không thể tránh được.
Theo sự chỉ dẫn của Công Ðồng, ủy ban thần học bắt tay vào việc
trong thời gian giữa kỳ họp nhất và kỳ họp hai. Ủy ban lưu tâm
vào phần trên của lược đồ sơ khởi: phần dưới, ủy ban chỉ giữ lại
một vài đoạn và đưa lên một trong các chương trên. Văn thể cũng
được sửa lại hết. Tất cả chỉ còn lại 4 chương và được gửi tới
các Nghị Phụ vào mùa hè năm 1963. Bốn chương đó bàn về:
I. Mầu nhiệm Giáo Hội.
II. Cơ cấu phẩm trật Giáo Hội, đặc biệt về chức Giám Mục.
III. Dân Chúa, đặc biệt về giáo dân.
IV. Lời kêu gọi nên thánh trong Giáo Hội.
Trước kỳ họp hai, theo sự gợi ý bằng giấy viết của nhiều Nghị
Phụ, thứ tự này đã được sửa đổi. Ủy ban chấp thuận. Và đây là
thứ tự mới: các đoạn mà toàn thể có đặc điểm về Dân Chúa đều
được rút ra khỏi các chương I và III. Những yếu tố này được đặt
trong một phần khai triển mới, nằm ngay sau phần trình bày về
mầu nhiệm Giáo Hội và trước phần nói về phẩm trật. Chương III
không còn đề cập đến Dân Chúa, nhưng chỉ bàn về những phần tử
của Dân Chúa trên toàn thế giới, tức là giáo dân. Sau cùng là tu
sĩ được đề cập rõ ràng trong tựa đề của chương IV.
Trong nghị trường, các Nghị Phụ thảo luận theo cách chia sơ khởi
là bốn chương. Các thảo luận kéo dài từ ngày 30 tháng 9 đến 31
tháng 10 năm 1963. Bản trình bày mới được tiếp nhận nồng hậu.
Hầu như toàn thể các phiếu (2,301 chống với 43) đều chấp thuận
coi nó như nền tảng cho việc tranh luận. Nhưng hai khuynh hướng
thần học, như chúng ta đã nói trên, tiếp tục biện hộ cho quan
điểm của mình. Phần đông các Giám Mục hoan hỉ và hài lòng về lối
trình bày tỉ mỉ và nhận định rằng toàn bộ từ đây đã được xây
dựng vững chắc hơn. Các ngài vui mừng đón nhận những ý kiến gợi
lên việc hiệp nhất và mục vụ. Các cuộc thảo luận trở nên gay go
khi bàn về Giám Mục Ðoàn (chương II). Người ta sợ Giám Mục Ðoàn
sẽ phương hại tới quyền tối thượng của Giáo Hoàng. Một cuộc bỏ
phiếu để làm sáng tỏ đã được tổ chức ngày 30 tháng 10 năm1963.
Kết quả là đa số nghiêng về Giám Mục Ðoàn. Tuy nhiên các cuộc
thảo luận vẫn tiếp diễn và cũng nhờ có thảo luận mà cơ ấu của
lược đồ thay đổi dần dần. Một cơ cấu mới hình thành. Chủ đề Dân
Chúa làm thành chương II và tiếp theo sau là chủ đề về Phẩm
Trật. Các tu sĩ xin Công Ðồng bàn về họ trong một chương biệt
lập. Chương IV của lược đồ phân thành hai: lời kêu gọi nên thánh
(chương V) và các tu sĩ (chương VI). Sau các cuộc thảo luận khá
sôi nổi và sau một cuộc bỏ phiếu với kết quả sát nút, Công Ðồng
quyết định cho xen lược đồ về Ðức Mẹ vào Hiến Chế về Giáo Hội
(Chương VIII). Sau cùng, Công Ðồng còn thêm một chương khác
(chương VII) nói về đặc tính cánh chung của Giáo Hội, về sự liên
lạc giữa Giáo Hội dưới đất và Giáo Hội trên trời. Ðó là diễn
tiến của bản văn chung quyết như chúng ta hiện có.
Theo cách sắp xếp hiện thời, thì cứ hai chương một đi với nhau,
theo một thứ tự hợp lý, có lẽ không ngờ tới, nhưng dễ biện minh:
1) Hai chương đầu nói về mầu nhiệm Giáo Hội, trước hết
theo chiều hướng siêu việt, sau đó theo hình thức lịch sử. Những
đặc điểm căn bản của Giáo Hội như phương tiện cứu rỗi đều thấy
xuất hiện trong suốt cả hai chương. Cách mô tả giản dị nhưng
không một ai có thể nghi ngờ về ý tưởng phong phú của chúng.
2) Hai chương kế tiếp mô tả cơ cấu hệ thống của cộng đoàn
được Chúa Kitô thiết lập. Các mục tử giảng dạy, thánh hóa và cai
trị. Còn giáo dân, dưới sự chỉ dẫn của các ngài, tham gia vào
một công trình cứu độ: đó là hai mặt của một bức hình: một mặt
là chương III nói về Phẩm Trật và mặt kia là chương IV, về Giáo
Dân.
3) Sau đó, lược đồ chú ý tới sứ mệnh cốt yếu của Giáo Hội
tức là việc thánh hóa mọi phần tử trong Dân Chúa. Ðời sống tu
trì gắn liền với mục đích ấy và đó là lý do khiến Giáo Hội coi
nó là quan trọng và rất lưu tâm đến. Xét trên bình diện này,
người ta không còn để ý tới sự phân biệt giữa giáo phẩm và giáo
dân. Ðức ái hoàn hảo là luật sống độc nhất cho mỗi người, trong
khi đó không phải ai cũng giữ qui luật đời tu. Phản đối nguyên
tắc này có nghĩa là không biết đến giá trị Kitô giáo của hôn
nhân và gia đình.
4) Chúng ta đi hai chương cuối cùng: chương VII trình bày sự
bành trướng cánh chung của Giáo Hội trong huy hoàng và trong
cộng đoàn các Thánh; chương VIII và cũng là chương sau cùng, bàn
về địa vị và sứ mệnh của Ðức Trinh Nữ, Mẹ Chúa Kitô và Mẹ
nhân loại, ở trong cộng đoàn có Ngài là kiểu mẫu và là Ðấng bảo
trợ. Nhờ có chung nền tảng mà hai chương này liên kết được với
nhau. Cả hai cùng hướng về cuộc kết thúc huy hoàng, lúc đó bóng
đêm của mầu nhiệm sẽ nhường chỗ cho ánh sáng.
Sau các cuộc thảo luận gay go và nhiều lần bỏ phiếu, người ta đã
đi đến kết thúc. Nhưng một thiểu số ngoan cố không chịu khuất
phục. Ðể xoa dịu và để mọi người đồng thanh chấp nhận một vấn đề
quan trọng như thế - một sự đồng thanh cần thiết trong tất cả
các quyết định của Công Ðồng - ngày 16 tháng 11 năm 1964, Ðức
Giáo Hoàng đã đề nghị với Công Ðồng để thêm một phần "chú thích
sơ khởi" cho chương III của Hiến Chế. Giáo lý của chương III
trong Hiến Chế phải được giải thích và được hiểu theo phần chú
thích này. Một số đông các Nghị Phụ bối rối về phần chú thích,
nhưng dường như không có lý do. Thật vậy, phần đó không chứa
đựng điều gì thực sự mới mẻ nhưng chỉ giải thích rõ rệt hơn một
vài ý niệm pháp lý, vì có một số Nghị Phụ dựa vào những ý niệm
này để bênh vực cho những thắc mắc của các ngài. Cũng nên biết
rằng, phần chú thích sơ khởi ấy tương ứng với phần giải thích
rất tỉ mỉ về 5 vấn đề đặt ra ngày 30 tháng 10 năm 1963, phần
giải thích mà ngay cả những vị bây giờ thắc mắc với phần chú
thích cũng đã không ngần ngại bỏ phiếu chấp thuận. Lời diễn tả ở
hai phần kể là như nhau. Khi mây đen dần dần tan biến, người ta
đã xóa tan được những ngộ nhận sau cùng, nhờ xem kỹ lại phần chú
thích sơ khởi. Trong cuộc đầu phiếu ngày 19 tháng 11 năm 1964 về
toàn bộ lược đồ, chỉ còn 10 phiếu chống; trong cuộc đầu phiếu
chung quyết trọng thể ngày 21 tháng 11 năm 1964, số phiếu chống
trụt xuống còn 5. Như thế kể là mọi người đã đồng thanh chấp
nhận.
Sau phần phác họa về lịch sử các biến cố, chúng ta sang phần
phân tích bản văn, đi theo thứ tự của Hiến Chế. Mục đích mà
chúng ta muốn nhằm tới là: qua những chú thích đơn sơ vắn tắt,
chúng ta sẽ trung thành hết sức có thể với điều Công Ðồng giảng
dạy. Chúng ta nhằm đến phần chính yếu, tìm cách xác định nội
dung những điều Công Ðồng quả quyết và bỏ qua những điều giải
thích sâu rộng hơn cũng như những vấn đề đang được các thần học
gia tranh luận.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
BÀI GIẢNG CỦA ĐỨC
THÁNH CHA PHANXICÔ TRONG LỄ LÀM PHÉP DẦU THỨ NĂM TUẦN THÁNH,
28-03-2013,
TẠI ĐỀN THỜ THÁNH PHÊRÔ |
Bản dịch của Lm Phi Khanh
Vương Đình Khởi, ofm (WHĐ)
Đôi lời giải thích
Bài giảng sau đây của ĐTC
Phanxicô gồm 9 khúc. Vì Lễ Làm Phép Dầu đặc biệt hướng về chức
Tư tế, nên ngài đã khai thác ý nghĩa của hai đoạn Kinh Thánh
liên quan tới Tư tế A-ha-ron (Tv 133, 2) và lễ phục e-phốt của
Vị Thượng tế trong Cựu Ước (Xh 28, 6-14. 21), để ngỏ lời với Dân
Chúa , đặc biệt với các linh mục. Tôi mạn phép
tô đỏ những câu liên quan trực
tiếp hay gián tiếp tới đề tài 1: “Dầu quý đổ trên đầu
A-ha-ron…”, và tô xanh những
câu đề cập tới ý nghĩa biểu tượng của lễ phục ê-phốt (đề tài 2).
Đề tài 1 được triển khai nhiều hơn, nhưng cả hai đề tài bổ túc
cho nhau, quyện vào nhau, và đều hướng lên đỉnh cao và trung tâm
của chức tư tế, là Đức Giêsu-Kitô, Đấng-Được-Xức-Dầu, Đấng thực
sự vác Dân thánh trên vai và mang tên mỗi tín hữu được khắc ghi
trong tim mình với công hiệu cứu độ hoàn hảo.
Một chi tiết đáng chú ý:
Trong câu Tv 133, 2 được ĐTC trích dẫn và khai thác, có một từ
ngữ mà các nhà chú giải và các dịch giả đã hiểu hai cách khác
nhau. Nói vắn tắt và đơn giản: Dầu quý đổ trên đầu ông A-ha-ron
chảy xuống râu ông, rồi chảy đến đâu nữa?
Các độc giả Việt Nam có thể
kiểm tra dễ dàng:
– Bản dịch của Nhóm Phiên
Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ chọn cách hiểu 1): “… như dầu quý đổ
trên đầu – xuống râu xuống cổ áo chầu A-ha-ron”.
– Còn linh mục Nguyễn Thế
Thuấn ðã chọn cách hiểu thứ 2): “Như dầu tốt tươi đổ trên đầu –
lan cả xuống râu. – Từ râu Aharôn – lan xuống gấu áo chầu”.
Chắc hẳn mỗi dịch giả hoặc
nhóm dịch giả có những lý do để đi đến sự chọn lựa của mình. Tôi
không thể trình bày cặn kẽ ở đây vấn đề chuyên môn và phức tạp
này, nhất là khi phải đối chiếu các bản dịch Kinh Thánh cổ kính
và các bản dịch lớn trên thế giới.
Một điều chắc chắn là tôi –
cũng như tất cả những ai đọc bài giảng của ĐTC – phải tuyệt đối
tôn trọng cách hiểu của ngài, khi ngài đã chọn cách hiểu thứ
hai. Ngài dùng chữ tiếng Ý “l’orlo” là “gấu áo”.
Và ngài khai thác tối đa ý nghĩa của dầu quý chảy từ đầu ông
A-ha-ron xuống đến râu, rồi xuống tận gấu áo, tức tới mút cùng
chiếc áo chầu của ông. Mà theo ngài, chiếc áo chầu (e-phốt), tức
lễ phục thánh thiêng của Vị Thượng Tế, tượng trưng cho cả vũ trụ
[k. (2)], và gấu áo tượng trưng cho các
“vùng ngoại biên (periferie)” của xã hội: ngài
dùng từ ngữ này đến 5 lần [k. (4); k. (5) hai lần; k. (6); và k.
(9)], ngoài ra ngài dùng thêm những cụm từ tương đương như:
“…đến
tận bờ cõi vũ trụ” [k.
(2)], “chảy xuống tận đường viền của
thực tế cuộc sống” [k.
(5)]. Ý tưởng này có thể được coi
như sợi chỉ đỏ, được tô điểm thêm bằng sợi chỉ xanh của đề tài
2, chạy xuyên suốt cả bài giảng.
Chi tiết thứ hai đáng chú ý,
là ĐTC dùng danh từ tiếng Ý “l’unzione” rất nhiều lần
trong bài giảng này, với cả bốn nghĩa (tương tự như danh
từ tiếng Pháp “l’onction”) được xác định trong các quyển
từ điển Ý-Ý hay Ý-Pháp, Pháp-Ý… có uy tín nhất. Đó là: 1)
l’unzione chỉ hành động xức dầu; 2) chỉ trạng thái của người
được xức dầu; 3) chỉ chính dầu dùng để xức – tôi dịch thành “dầu”
hoặc “dầu xức”; và 4) theo nghĩa rộng và loại suy, “l’unzione”
chỉ “khả năng khuyến dụ kẻ khác làm điều thiện bằng những cử chỉ
và lời nói đầy sức thuyết phục”, những cử chỉ và lời nói này
“biểu thị lòng đạo đức, sốt sắng, dịu dàng”, dường như có chất
dầu thánh thiêng đã thấm nhập vào lòng trí con người đó, khiến
người đó có được khả năng dẫn đưa kẻ khác đến đời sống đạo đức,
sốt sắng…-- ĐTC dùng danh từ “l’unzione” theo nghĩa 4)
tại khúc (5) mà tôi đã dịch thành “với
sức thấm nhập đầy thuyết phục của dầu xức”. Còn những chỗ
khác thì tùy ngữ cảnh mà dịch.
Sau đây là bản dịch Bài
giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô:
Anh Chị Em thân mến,
(1) Thật là một niềm vui cho
tôi, khi được cử hành Thánh Lễ Làm Phép Dầu đầu tiên trong cương
vị Giám mục Rôma. Với lòng trìu mến, tôi chào tất cả anh chị em,
đặc biệt các anh em linh mục thân yêu, hôm nay, anh em cũng như
tôi, nhớ lại ngày chịu chức thánh của mình.
(2) Các Bài đọc, và cả Thánh
vịnh đáp ca nữa, nói với chúng ta về những
“Người-Được-Xức-Dầu”: Người Tôi
Trung của Thiên Chúa trong sách Isaia, vua Đavít, và Đức Giêsu,
Chúa chúng ta. Cả ba Vị này có một điểm chung, là
phép xức dầu, mà các ngài lãnh
nhận, đều nhắm vào việc xức dầu
cho dân Thiên Chúa gồm những tín hữu, mà các ngài là những đầy
tớ phục vụ họ; mục đích của việc các ngài
chịu xức dầu là để phục vụ người
nghèo, người bị cầm tù, người bị áp bức… Một hình ảnh rất đẹp
diễn tả ý nghĩa “hiện hữu cho tha nhân” hàm chứa trong Dầu
Thánh, là hình ảnh tìm thấy trong Thánh vịnh 133:
“Như dầu quý đổ trên đầu, xuống râu ông
A-ha-ron, xuống gấu áo chầu của ông” (câu 2). Hình ảnh dầu chảy
tràn, từ râu ông A-ha-ron xuống đến tận gấu lễ phục thánh thiêng
của ông, là hình ảnh diễn tả phép xức dầu cho các tư tế, dầu đó,
xuyên qua Người-Được-Xức-Dầu, chảy đến tận bờ cõi vũ trụ được
biểu trưng bởi lễ phục.
(3)
Lễ phục thánh thiêng của Vị Thượng Tế có rất nhiều hệ thống biểu
tượng: một trong số đó là biểu tượng mang tên các con trai của
ông It-ra-en, tên của họ được khắc trên những viên đá mã
não trang điểm cho hai cầu vai của áo ê-phốt, là tiền thân của
áo lễ – casula – chúng ta dùng ngày nay: sáu tên trên miếng đá ở
cầu vai phải và sáu tên trên miếng đá ở cầu vai trái
(x. Xh 28, 6-14). Trên túi đeo trước
ngực cũng khắc tên mười hai chi tộc It-ra-en (x. Xh 28, 21).
Điều này có nghĩa là: vị tư tế khi cử hành phụng tự thì vác trên
vai mình chính dân đã được trao phó cho mình và mang tên của họ
được khắc ghi trong tim. Khi khoác chiếc áo lễ khiêm tốn của
chúng ta vào mình, điều này có thể giúp chúng ta cảm thấy thấm
thía, trên đôi vai và trong trái tim, sức nặng và gương mặt của
dân tín hữu chúng ta, của các thánh và các Vị tử vì đạo của
chúng ta, mà thời nay có không biết bao nhiêu mà kể!
(4) Từ vẻ đẹp của những gì
thuộc về Phụng vụ, – mà không chỉ đơn thuần để trang trí và đáp
ứng một sở thích thưởng thức cái đẹp nơi vải vóc, nhưng chính là
sự hiện diện của vinh quang Thiên Chúa đang tỏa rạng nơi dân của
Người, một dân sống động và được củng cố vững mạnh, bây giờ
chúng ta hãy bước sang phần chú mục vào hành động.
Dầu quý xức lên đầu ông A-ha-ron không
chỉ ướp hương cho con người ông thơm tho, nhưng chảy tràn và
chạm đến các “vùng ngoại biên”. Chúa sẽ nói rõ điều đó:
ngài được xức dầu là vì người nghèo, vì người bị cầm tù, vì
người bệnh tật và vì những ai buồn bã, cô đơn. Anh em thân mến,
dầu xức không phải để ướp thơm bản thân
chúng ta và lại càng không phải để lưu trữ trong bình,
trong lọ, vì nó sẽ trở nên ôi khét… và cõi lòng sẽ trở thành
đắng đót.
(5) Người ta nhận ra một linh
mục tốt từ cách dân của ngài được xức
dầu như thế nào; đây là bằng chứng rõ ràng. Khi dân chúng
của chúng ta được xức bằng dầu hoan lạc,
người ta sẽ nhận thấy: ví dụ, khi họ ra khỏi nhà thờ sau Thánh
Lễ với gương mặt của người đã nhận được một tin mừng. Dân chúng
của chúng ta ưa thích Tin Mừng được rao giảng
với sức thấm nhập đầy thuyết phục của
dầu xức, ưa thích khi Tin Mừng mà chúng ta rao giảng đi
vào cuộc sống thường ngày của họ, khi Tin Mừng,
giống như dầu xức cho ông A-ha-ron, chảy
xuống tận đường viền của thực tế cuộc sống, khi Tin Mừng chiếu
sáng cho những hoàn cảnh tột cùng, những “vùng ngoại biên”,
nơi mà dân tín hữu bị đẩy vào nguy cơ bị xâm lăng bởi những kẻ
muốn cướp phá đức tin của họ. Dân chúng cám ơn chúng ta vì họ
cảm thấy rằng chúng ta đã đưa vào lời cầu nguyện của mình những
thực tế đời sống thường ngày của họ, những đau khổ, những niềm
vui, những lo âu và hy vọng. Và khi họ cảm thấy hương thơm của
Đức Kitô, Đấng-Được-Xức-Dầu, đến với họ qua chúng ta, họ được
khích lệ để ký thác cho chúng ta tất cả những gì họ ước muốn đẩy
lên tới Chúa: “Xin Cha cầu nguyện cho con, vì con có vấn đề
này…”, “Xin chúc lành cho con”, “Xin cầu nguyện cho con”,
đó là dấu hiệu cho thấy dầu xức đã đạt
tới gấu chiếc áo choàng, bởi lẽ nó đã biến thành lời cầu
khẩn, lời khẩn cầu của Dân Thiên Chúa. Khi chúng ta đứng trong
mối tương quan như thế với Thiên Chúa và với Dân của Người, và
ơn thánh đi xuyên qua chúng ta, lúc đó chúng ta là linh mục, là
người trung gian giữa Thiên Chúa và loài người. Điều tôi cố ý
làm nổi rõ là chúng ta phải làm cho ơn thánh luôn luôn hồi sinh,
và phải thấy được bằng trực giác rằng, trong mỗi lời xin, đôi
khi không đúng lúc, đôi khi thuần túy vật chất hoặc nói trắng ra
là tầm thường – nhưng chỉ có dáng vẻ như thế thôi –, trong mỗi
lời xin của dân chúng có chứa đựng một ước muốn
được xức bằng dầu thơm, vì họ
biết chúng ta có thứ dầu đó. Nhận
thức bằng trực giác và cảm nhận, như Chúa đã cảm nhận sự lo âu
đầy hy vọng của người đàn bà bị bệnh xuất huyết, khi bà ấy chạm
tới vạt áo choàng của Người. Thời khắc ấy của Đức Giêsu ở giữa đám dân
chúng đang vây quanh Người từ mọi phía,
thể hiện tất cả vẻ đẹp của A-ha-ron mang lễ phục tư tế và với
dầu xức đang chảy xuống trên áo chầu.
Đó là một vẻ đẹp ẩn giấu, chỉ tỏa rạng cho cặp mắt đầy lòng tin
của người đàn bà đã bị bệnh xuất huyết ấy. Tuy nhiên, chính các
môn đệ – những linh mục tương lai – đã không thấy được, không
hiểu được: trong “vùng ngoại biên của
cuộc hiện sinh”, họ chỉ thấy bề mặt của sự kiện đám đông
đang chen lấn từ mọi phía làm Đức Giêsu nghẹt thở (x. Lc 8, 42).
Trái lại, Chúa thì cảm nhận được sức
mạnh của dầu xức mà Người đã nhận lãnh từ Thiên Chúa tràn đến
viền áo choàng của mình.
(6) Như thế
chúng ta cần phải đi ra để trải nghiệm
phép xức dầu của chúng ta, trải nghiệm sức mạnh và tính
công hiệu mang giá trị cứu chuộc của nó: tại những “vùng
ngọai biên”, nơi có đau khổ, nơi có đổ máu, nơi có sự mù
lòa đang ước muốn được nhìn thấy, nơi có những tù nhân của biết
bao ông chủ xấu xa. Ắt hẳn, không phải qua những tự lực thử
nghiệm hoặc sự nội quan lặp đi lặp lại mà chúng ta gặp gỡ được
Chúa đâu: các khóa học tự trợ giúp trong cuộc đời có thể hữu
ích, nhưng sống đời sống linh mục của chúng ta bằng cách đi từ
khóa học này đến khóa học khác, từ phương pháp này đến phương
pháp nọ, sẽ đưa chúng ta đến chỗ trở thành những đồ đệ của
Pélage, làm giảm nhẹ sức mạnh của ơn thánh, là yếu tố trở nên
sinh động và tăng trưởng trong mức độ mà chúng ta, được thúc đẩy
bởi đức tin, đi ra để trao ban chính mình và trao ban Tin Mừng
cho tha nhân, trao ban cái chút xíu dầu
xức chúng ta đang có cho những người không có tí nào cả.
(7) Linh mục nào mà ít đi ra
khỏi chính mình, ít xức dầu (cho dân chúng) – tôi không nói “không xức tí nào cả”, bởi
lẽ, cảm tạ Chúa, chính dân chúng “lấy cắp” được
dầu của chúng ta –, linh mục ấy
sẽ đánh mất phần tốt nhất trong dân của chúng ta, đánh mất điều
có khả năng kích hoạt phần sâu sắc nhất của trái tim linh mục.
Ai không đi ra khỏi chính mình, thì, thay vì làm người trung
gian, sẽ từng bước trở thành một người môi giới và một nhà quản
trị. Tất cả chúng ta đều biết sự khác biệt: người môi giới và
nhà quản trị “đã lãnh thù lao của mình rồi”, và bởi lẽ họ không
đem chính mạng sống và chính trái tim mình ra để đánh cược, thì
họ cũng không nhận được một lời cảm ơn trìu mến xuất phát từ
trái tim (của dân chúng). Chính từ đó phát sinh tâm trạng không
thỏa mãn nơi một số linh mục, và cuối cùng các vị này mang tâm
thế buồn, trở thành những linh mục buồn và biến chất thành một
thứ nhà sưu tập đồ cổ hoặc đồ mới, thay vì làm những mục tử với
“hương thơm của đoàn chiên” – vâng, chính đây là điều tôi xin
anh em: anh em hãy làm những mục tử với “hương thơm của đoàn
chiên”, hương thơm này phải được người ta cảm nhận; và thay vì
làm những mục tử ở giữa đoàn chiên của mình, thì hãy làm những
người thả lưới gom người. Đúng là cái được gọi là cuộc khủng
hoảng căn tính linh mục đang de dọa tất cả chúng ta và nó được
ghép vào với cuộc khủng hoảng của nền văn minh; tuy nhiên, nếu
chúng ta biết chế ngự làn sóng của nó, chúng ta sẽ có thể ra
khơi nhân danh Chúa mà thả lưới. Thật là một điều tốt, khi chính
thực tế cuộc sống đưa đẩy chúng ta ra đi đến chỗ, mà cái thực
chất của chúng ta vốn do ơn thánh mới có được, nay xuất hiện rõ
ràng như ơn thánh thuần túy, ngay trong biển cả của thế giới hôm
nay, nơi chỉ dầu xức – chứ không
phải chức năng – là thực sự có giá trị, và chỉ những tấm lưới
nào được thả xuống nhân danh Đấng, mà chúng ta đặt hết lòng tín
thác vào Người, tức là Đức Giêsu, thì mới mang lại kết quả phong
phú.
(8) Anh chị em tín hữu thân
mến, anh chị em hãy ở gần bên các linh mục của mình với lòng
trìu mến và kinh nguyện, để các ngài luôn luôn là những mục tử
như lòng Chúa ước mong.
(9) Anh
em linh mục thân mến, nguyện xin Thiên Chúa Cha lại ban Thần Khí
của sự thánh thiện vào trong chúng ta, chúng ta đã
được xức
bằng chính dầu Thần Khí, xin Chúa Cha
lại ban Thần Khí của Người vào trong trái tim chúng ta thế nào,
để dầu xức chạm tới được tất cả các “vùng ngoại biên”,
nơi mà dân tín hữu của chúng ta đang chờ đợi và coi trọng
dầu ấy nhất. Chớ gì người dân của
chúng ta cảm nhận được chúng ta là những môn đệ của Chúa, cảm
nhận được rằng chúng ta mang tên của họ
như một tấm áo, rằng chúng ta không tìm kiếm một căn tính
nào khác; và chớ gì, qua lời nói và việc làm của chúng ta, họ
nhận được thứ dầu hoan lạc mà Đức Giêsu,
Đấng-Được-Xức-Dầu, đã mang đến cho chúng ta. Amen.
ĐGH
Phanxicô |
VỀ MỤC LỤC |
|
Nhật ký Ngày thứ nhất
Hội nghị Thường niên kỳ I-2013 Hội đồng Giám mục Việt Nam (1–5/4/2013) |
WHĐ
(03.04.2013) – Khởi đầu buổi sáng ngày Hội nghị đầu tiên, như
thông lệ, Đức cha Chủ tịch HĐGMVN mời Đức Tổng giám mục Leopoldo
Girelli, đại diện Đức Thánh Cha Phanxicô, phát biểu đôi lời chia
sẻ về Đức tân Giáo hoàng và những điểm nhấn trong đường hướng
của vị mục tử chung của toàn thể Hội thánh Công giáo. Con đường
đối thoại chân thành và ôn hòa với thế giới trong đó Hội thánh
Chúa Kitô hiện diện và sống vẫn luôn là con đường cơ bản để loan
báo Tin Mừng cứu độ. Cũng như Đức Giêsu Kitô đến để làm chứng
cho Sự thật, đã chấp nhận chịu nạn, chết và rồi phục sinh, hai
ngàn năm qua Hội thánh cũng được Chúa Thánh Thần dẫn đưa vào Sự
thật qua đối thoại với thế giới, dẫu có bị chống báng hay bắt
bớ. Vị Đại diện Đức Thánh Cha điểm lại tình hình mới của Giáo
hội trong thế giới cũng như sự tiến triển của cuộc đối thoại
thời gian qua giữa Tòa Thánh với chính phủ Việt Nam. Ngài cũng
nhìn nhận Giáo hội Việt Nam đã thể hiện sự đồng hành cùng dân
tộc, để xây dựng và làm chứng cho chân lý Tin mừng Tình thương
và Giải thoát. Ngài còn khuyến khích các giáo phận, sau khi
viếng thăm nhiều nơi ở vùng sâu và xa vừa qua, hỗ trợ nhau hơn
nữa trong công cuộc loan báo Tin Mừng.
Sau đó, các
giám mục trong HĐGMVN tiếp tục trao đổi và chia sẻ với nhau chủ
đề sống mầu nhiệm hiệp thông, cụ thể là, qua cách đồng hành cùng
dân tộc trong bối cảnh xã hội ngày nay, qua sự quan tâm và liên
đới với nhau mạnh mẽ hơn nữa trong cuộc loan báo Tin mừng. Có
thể nói chân lý và sự bình an của Đấng Phục sinh tiếp tục được
ban xuống trên các giám mục đang dự Hội nghị.
Tiếp theo, Đức
hồng y Gioan Baotixita tường trình về chuyến đi bầu giáo hoàng
mới: theo lời Đức hồng y, xem ra Đức tân Giáo hoàng Phanxicô
quan tâm cách riêng đến Giáo hội Việt Nam. Rồi kế đến là chia sẻ
của các Đức cha Chủ tịch Ủy ban Loan báo Tin Mừng và Ủy ban Văn
hóa về Hội nghị toàn thể Thượng Hội đồng Giám mục thế giới lần
XIII vừa qua về đề tài Tân Phúc âm hóa. Theo lời kể của Đức cha
Giuse giáo phận Phát Diệm đã tham dự Thượng Hội đồng, các nghị
phụ Thượng Hội đồng lần này đặc biệt nhấn mạnh đến việc khởi đầu
lại công cuộc loan báo Tin Mừng cách mới mẻ phải đi từ sự gặp gỡ
cá vị với Chúa Kitô, đó là điều kiện tiên quyết, từ đó mới có
nhiệt huyết mới để loan báo Tin Mừng cũng như duyệt lại và đổi
mới các cách thức, phương pháp loan báo Tin Mừng ngày nay.
Buổi chiều, vào
đầu giờ, các Đức cha tiếp tục cho ý kiến về tổ chức công cuộc
Tân Phúc âm hóa này bắt đầu như thế nào từ trách nhiệm của HĐGM;
xem ra Ủy ban Loan báo Tin Mừng thuộc HĐGMVN sẽ đảm nhận thêm
mối quan tâm mới này. Kế đến Đức cha Nha Trang tường trình về
tiến trình án phong chân phước cho Tôi tớ Chúa là Đức cố Hồng y
Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, mà sắp tới đây việc điều tra
cấp giáo phận sẽ cử hành nghi thức bế mạc vào tháng 7 năm nay.
Sau đó, Đức cha
Chủ tịch Ủy ban Giáo lý Đức tin giới thiệu và xin các Đức cha
góp ý cho sách Giáo lý Hội thánh Công giáo dạng hỏi-thưa. Cuối
cùng, Đức cha Đà Lạt trình bày kế hoạch thành lập Đại chủng viện
giáo phận Đà Lạt và được tất cả các Đức cha ủng hộ.
Buổi tối, các
Đức cha họp riêng theo ba giáo tỉnh. Một ngày làm việc kết thúc
tốt đẹp.
WHĐ |
VỀ MỤC LỤC |
|
CON ĐƯỜNG EMMAUS HY VỌNG |
Nguyễn
Tiến Cảnh,MD
Chúng ta thường nghe nói con đường Emmaus, nhưng ít khi suy nghĩ
tường tận xem con đường đó ám chỉ những gì. Dựa vào tông thư của
ĐTC Biển Đức XVI Spe Salvi facti summus (Trong Hy Vọng, chúng ta
được cứu rỗi), chúng ta thử tìm hiểu ý nghĩa câu chuyện hai môn
đệ của Chúa Kitô trên đường Emmaus. (Luca 24: 13-35).
Chuyện kể rằng, sau ngày Sabbath, tức ba ngày sau khi Chúa Giêsu
chịu chết trên thập giá và chịu táng trong mồ, hai môn đệ quá
buồn phiền chán nản bèn rời Jerusalem đi về một làng nhỏ gần đó
tên là Emmaus.
Trên đường đi, Chúa sống lại đã hiện ra, cùng đi và trò chuyện
với hai ông, nói về cả kinh thánh, việc Chúa Giêsu chịu
chết....nhưng hai ông đã không nhận biết ra Chúa. Tin Mừng thánh
Luca thuật lại rằng, Chúa thấy hai môn đệ buồn nản, chẳng còn
lòng dạ nào nữa, than van rằng Chúa Giêsu, thày mình đã chịu cực
hình, rồi chết và trở về trời trong vinh quang của Người. Khi
tới nơi, Chúa vào nhà cùng với hai môn đệ, ngồi xuống bàn với
họ, làm phép bánh và bẻ bánh với họ….Lúc đó nhờ cung cách bẻ
bánh, các ông mới nhận ra Chúa chính là người lữ khách đồng hành
đã nói chuyện với các ông trên đường Emmaus. Nhưng lúc đó Chúa
lại biến hình khỏi tầm nhìn của các ông. Các ông quá ngỡ ngàng
và kinh ngạc về sự hiện diện của Chúa. Cử chỉ bẻ bánh, một dấu
hiệu Chúa hiện diện.
Ngay lập tức sau đó, hai ông liền trở về lại Jerusalem và kể tất
cả những gì đã xẩy ra mắt thấy tai nghe cho các môn đệ và bạn
bè…
Địa danh làng Emmaus thì không được xác định rõ ràng nó nằm ở
đâu. Mặc dù có nhiều giả thuyết khác nhau, nhưng chắc chắn nó
cho chúng ta một suy tư chiêm nghiệm rất phong phú đầy ý nghĩa.
Emmaus có thể là bất cứ chỗ nào. Con đường dẫn đến Emmaus tức là
đoạn đường tượng trưng cho cuộc hành trình đời sống của mỗi con
người nói chung, của mỗi một người tín hữu Kitô giáo nói riêng ở
trần thế này. Xuyên suốt đoạn đường hành trình này, Chúa Kitô
phục sinh luôn luôn là người bạn đường đồng hành với chúng ta.
Người đốt lửa tâm hồn chúng ta. Người nung ấm đức TIN, đức CẬY /
HY VỌNG của chúng ta và BẺ BÁNH HẰNG SỐNG cùng chúng ta mỗi
ngày.
Trong câu chuyện đàm thoại giữa hai tông đồ và người lữ hành xa
lạ, thánh Luca đã kể rằng một trong hai môn đệ đã nói: “Lúc
đó chúng tôi đã hy vọng….” (Luca 24:
21). Như vậy có nghĩa là lúc đó chúng tôi ĐÃ TIN,
chúng tôi ĐÃ THEO, chúng tôi ĐÃ HY VỌNG….nhưng bây giờ, hiện nay
thì những hành động, cử chỉ, ý nghĩ đó tất cả đã qua đi rồi,
không còn nữa. Ngay cả Đức Giêsu thành Nazaret là một ngôn sứ
đầy quyền năng trong hành động cũng như lời nói đối với tất cả
mọi người cũng đã thất bại và chúng tôi thất vọng.
Thảm trạng này của các môn đệ trên đường Emmaus phản ảnh tình
trạng của nhiều người trong chúng ta hiện nay. Đôi khi chúng ta
đã đánh mất đức tin của chúng ta. Chúng ta không còn tin tưởng
vào Chúa, có cảm tưởng Chúa bỏ rơi chúng ta vì những kinh nghiệm
chua chát tiêu cực trong cuộc sống, vì những thất bại trong mưu
toan dự tính của chúng ta.
Tình trạng buồn nản và thất vọng của hai môn đệ này cũng tượng
trưng cho các môn đệ thời nay khi họ tự mình xa rời Jerusalem,
nơi Chúa bị chết treo trên thập giá và sống lại lúc mà họ không
còn tin tưởng vào quyền năng và sự hiện diên sống động của Chúa.
Vấn đề ma quỉ, đau khồ, cực hình, vấn đề đàn áp, bất công và lạm
dụng, vấn đề sợ hãi người này người kia, những người anh em nội
bộ của mình, những người từ ngoài đến, từ những vùng xa xôi xâm
nhập nội bộ mình, đe dọa khủng bố mình làm mình phải kinh sợ.
Nhưng con đường dẫn đến Emmaus này chính là con đường HY VỌNG có
thể giúp chúng ta thanh tẩy tâm hồn, tin tưởng vào Chúa một cách
hăng say mạnh mẽ và trưởng thành hơn nhờ có Chúa đồng hành với
chúng ta, cũng như hai môn đệ trên đường Emmaus, vì được gặp
Chúa đồng hành hướng dẫn nên đã từ tâm trạng mất niềm tin vào
Người và vấp ngã vì thập giá (câu 18 , 21), các ông tìm lại được
niềm tin nhờ thông hiểu lời kinh thánh (câu 25-27 và 32). Chúng
ta tin tưởng hy vọng rằng Chúa sẽ giải thoát chúng ta khỏi ác
quỉ, tội lỗi, đau khổ, cực hình, sợ hãi và bất công..
Ngày nay, mỗi khi chúng ta cầu nguyện, chuyện vãn với Chúa, lắng
nghe lời Chúa là chúng ta đang đi trên đường Emmaus. Mỗi khi
chúng ta tham dự thánh lễ là Chúa bẻ bánh và ban cho chúng ta
bánh thánh tức chính máu và thịt Chúa đã tu sửa con mắt Đức Tin
chúng ta để chúng ta nhìn mọi sự và mọi người bằng con mắt của
Chúa, dưới ánh sáng Tình Yêu của Chúa.
Với hành động đó, qua sự tiếp cận với Chúa Kitô phục sinh, chúng
ta ngày nay có thể có được một đức tin thực sự và sâu đậm hơn,
có thể nói, được vun trồng bởi lửa phục sinh. Đức tin này rất
vững mạnh, được nuôi dưỡng không phải bởi tâm tư ý nghĩ của con
người mà chính bởi Lời Chúa và sự Hiện Diện của Chúa trong bí
tích Thánh Thể.
Đoạn Phúc Âm kỳ diệu này đã tóm gọn toàn bộ cấu trúc của thánh
lễ Misa: Phần đầu thánh lễ là phần nghe lời Chúa qua các đoạn
sách thánh; phần hai là phần nghi thức Thánh Thể và hiệp lễ /
rước mình thánh Chúa với sự hiện diện của chính Chúa Ktô trong
bí tích Thịt và Máu thánh Chúa.
Được nuôi dưỡng tại bàn tiệc thánh lễ có hai phần như vậy, Giáo
Hội luôn luôn được xây dựng bồi đắp và tân trang cải tiến từng
ngày một trong đức TIN, đức CẬY / HY VỌNG và đức MẾN. Qua sự cầu
bầu của Đức Trinh Nữ Maria cực thánh, chúng ta mỗi người Kito
hữu, mỗi cộng đoàn, cộng đồng hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta làm
hồi sinh lại, tái diễn quang cảnh hai môn đệ đi trên đường
Emmaus hầu làm sống lại ân sủng đã được gặp Chúa Kitô phục
sinh.
Chúa đã sống lại, đồng hành với các môn đệ của người, đốt cháy
tâm hồn họ bằng lời Chúa đối thoại, biểu hiện ra với họ qua cung
cách bẻ bánh.
Trong Chúa Giêsu, chúng ta thấy lòng can đảm hơn khả dĩ làm cho
chính ta và những người xung quanh ta mạnh mẽ lên nhờ gương sáng
của Chúa Giêsu Kito, một tặng phẩm của cả nhân loại
Hãy đi và làm chứng tá ân sủng về lòng thương xót của Chúa,
nguồn HY VỌNG cho mỗi người chúng ta và cho cả thế giới. Hãy đặt
Chúa Kitô vào trung tâm điểm đời sống của chúng ta. Hãy thiết
lập lâu đài thân xác và tâm hồn của chúng ta luôn luôn hiện diện
trong Người.
Chúa đã phục sinh. Hy vọng sự sống đời đời.
Pace Garden, Fleming Island-Florida
NTC |
VỀ MỤC LỤC |
|
LỜI CHÚA, NGUỒN
MẠCH CỦA TỰ DO |
Chuyển ngữ: Thérèse Trần Thiết + Fr. Marie Bảo Tịnh O.Cist
Lời Mời gọi của HĐGMVN:
Giáo Hội tại Việt Nam phải “phát động chương trình mỗi gia đình
một cuốn Kinh Thánh được đặt nơi xứng hợp, cổ võ đọc và cầu
nguyện với Lời Chúa”, khuyến khích học thuộc lòng những đoạn
Kinh Thánh cốt yếu. Mọi thành phần Dân Chúa, giáo dân, chủng
sinh, tu sĩ và các mục tử, cần tập thói quen đọc và suy niệm Lời
Chúa hằng ngày, đặc biệt theo phương thức Lectio divina. (Thư
Chung của HĐGMVN, ngày 1.5.2011, số 11)
Xin giới thiệu cho nhiều người thân tham gia Gia Đình Lectio
Divina Lecdiv@gmail.comđể có thể hiệp thông với nhau trong đời
sống cầu nguyện và cùng giúp nhau thực hành "điều cần thiết nhất
trong mọi điều cần thiết". Đan viện Xitô Thánh Mẫu Tâm Mỹ Ca,
Nha Trang, sẽ cầu nguyện lâu dài cho tất cả những ai trung thành
thực hành và cố võ việc thực hành Lectio divina.
Mọi thắc mắc về Lectio divina, xin gởi email cho cha Bảo Tịnh,
O.Cist fr.baotinh@yahoo.fr
*****
Tác Phẩm: MỘT VỊ THIÊN CHÚA NGỎ LỜI!
Thiên Chúa tỏ mình cho con người thế nào?
Nguyên tác:
Michel HUBAUT
UN DIEU QUI PARLE!
Comment Dieu se révèle-t-il à l’homme?
Chương 15: LỜI CHÚA, NGUỒN
MẠCH CỦA TỰ DO
Lắng
nghe và ở lại
Trong Tin Mừng, chỉ có một
đoạn duy nhất, ở đó Đức Ki-tô nói cách cụ thể rõ ràng về tự do:
“Nếu các ông ở lại trong lời của tôi,
thì các ông thật là môn đệ tôi;
các ông sẽ biết sự thật,
và sự thật sẽ làm cho các ông được tự do” (Ga 8, 31-32).
Những câu này của Gio-an đủ
tạo nên một bài thần học rất cô đọng. Nó vén mở cho chúng ta
nguồn gốc, sức năng động và những điều kiện của tự do ki-tô hữu.
Những kiểu nói khác nhau của
Gio-an như: “ở lại trong Đức Ki-tô”, “ở lại trong Lời Thầy” hay
“ở lại trong tình yêu của Thầy” đều có cùng một thực tại
thiêng liêng. Đó luôn luôn là việc đón nhận Đức Ki-tô hằng
sống, yêu thương, đón nhận Lời chân thật của Thầy, trong tận
thâm cung lòng mình.
Nếu (một điều kiện) anh em
ở lại trong Lời Thầy, theo ngôn ngữ của Gio-an, nghĩa là nếu
anh em kết hiệp mật thiết với Thầy, nếu anh em đón nhận
Lời Thầy tận đáy lòng anh em, để nghiền ngẫm và sống Lời đó, thì
anh em sẽ thực sự là môn đệ của Thầy, anh em sẽ
“nhận biết được sự thật” về Thiên Chúa và về con người, và sự
thật đang được sống kia sẽ là nguồn mạch của một tự do mới mẻ
cho anh em.
Cái nhận biết về sự thật này,
không phải là một thứ nhận biết của trí thức, bên ngoài, mà là
một nhận thức của hiện hữu. Vì đối với Gio-an, sự Thật không
phải là một khái niệm trừu tượng, nhưng là chính con người
của Thầy Giê-su, bằng cử chỉ, Lời nói và cả cuộc sống của
Thầy, mạc khải cho chúng ta biết Thiên Chúa là ai, con người là
ai.
Đón nhận và đi vào hiệp thông
mật thiết với Đức Ki-tô, chính là hướng mở đến mầu nhiệm Thiên
Chúa, khám phá ra con tim Thiên Chúa. Và đồng thời cũng khám phá
ra mầu nhiệm con người, sự mỏng dòn nhưng cũng cao cả của con
người trong kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa.
Sự thật sẽ làm anh em
nên những con người tự do! Đức Ki-tô dùng thì tương lai! Ngược
lại với những xác quyết trong Tuyên Ngôn Nhân Quyền, người ta
khi sinh ra không tự do và bình đẳng! Tự do không phải là một
bản năng bẩm sinh, con người không có được tự do từ trong nôi,
như đôi mắt xanh hay mái tóc đen. Nhưng là một ơn ban của Thiên
Chúa mà chúng ta phải đón nhận bằng cách nghe Lời có sức giải
thoát của Đức Ki-tô. Ai ở lại trong Lời Thầy, để
nghiền ngẫm và sống Lời đó, dần dần sẽ trở nên người tự
do.
Thiên Chúa là ơn ban, là hiệp
thông của tình yêu, là không chiếm hữu ngay cả bản thân mình.
Người đã không dựng nên ta để bắt ta phải lệ thuộc vào quyền
năng của Người. Vậy đâu là thánh ý Chúa trên con người, nếu
không phải là một lời đáp yêu thương, một giao ước của tình yêu.
Nếu Thiên Chúa đã dựng nên con người, không phải để con người
làm nô lệ, luôn phải quì gối tung hô Người trong sợ hãi khiếp
đảm, nhưng là để tình yêu, để cuộc sống của Người tuôn trào
trong ta, để chính sự tự do của Người trở thành nguồn suối cho
tự do của ta. Làm sao ta có thể gặp gỡ Thiên Chúa nơi người
khác, nếu ta không gặp được Người trong chính bản thân mình, ở
tận nguồn mạch tự do của ta. Nguồn cội của tự do ki-tô hữu là
“lắng nghe” Lời Thầy, là đón nhận trong niềm tin, một Lời vừa là
Thần Khí và Sự Sống, Thần Khí giải thoát, dẫn đưa chúng ta đến
Sự Thật.
Nên đối với ki-tô hữu, người
tự do là người tiếp nhận Lời của một Ai đó khác với mình, vượt
ra khỏi thế giới hạn hẹp của mình. Đó là cái nghịch lý của niềm
tin ki-tô hữu: tôi càng vượt ra khỏi bản thân, thì càng dễ dàng
tiếp nhận Đức Ki-tô và Lời sự Sống của Thầy, càng trở nên người
tự do. Việc đón nhận Lời Chân Lý của Đức Ki-tô là trường dạy tự
do nội tâm, là nguồn suối của một cuộc tái sinh, là một cuộc
hoán cải trường kỳ.
Khi vừa khen Gio-an Tẩy Giả
vĩ đại hơn các ngôn sứ, Thầy Giê-su liền thêm ngay “Tôi nói
cho anh em biết: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, không có ai
cao trọng hơn ông Gio-an; tuy nhiên kẻ nhỏ nhất trong Nước Thiên
Chúa còn cao trọng hơn ông” (Lc 7, 28). Nhận xét này không
lấy bớt chút thánh thiện nào của vị Tiền Hô, mà Thầy chỉ muốn
nhấn mạnh sự mới mẻ tuyệt đối do sự hiện diện của Thầy mang lại.
Thầy mở ra một chiều kích mà thời Giao Ước Thứ Nhất của Gio-an
Tẩy Giả không thể cho được, đó là cuộc sinh hạ thiêng liêng của
nội tâm (x. Ga 3), mà biến cố Vượt Qua của Thầy sẽ là
nguồn gốc. Thánh Phao-lô nói về “một cuộc tạo dựng mới”, “con
người mới”, mà từ nay chúng ta sẽ được mời gọi trở nên trong
Đức Giê-su Ki-tô. Với Đức Ki-tô, Ki-tô giáo thay đổi tận căn
thểchế của mình. Không còn là tùng phục một vị thần thánh
ở bên ngoài, mà là một hiệp thông khắng khít, thân mật với một
Người, mà theo kiểu nói của thánh Au-gus-ti-nô là “Sự Sống của
đời sống chúng ta”.
Ai chưa đi vào trong Tình Yêu
nhưng không, trong sự tín thác song phương này, thì chẳng hiểu
được gì về Ki-tô giáo. Sự Hiện Diện thân tình tạo nên phẩm cách
duy nhất của mỗi người, để trở thành một khả năng vượt qua vô
tận, là trở nên “hữu thể thánh thiêng”. Chính cuộc “tái sinh
mới mẻ” này làm cho chúng ta đi từ cái “tôi sinh học” đến cái
“tôi thiêng thánh”, trở nên dưỡng tử của Thiên Chúa. Đây
chính là sự tự do cơ bản của con người.
“Kẻ sống theo sự thật,
– chứ không phải kẻ nghĩ! – thì đến cùng ánh sáng”, họ
được tự do (Ga 3, 21). Những hành động của ta được Lời
Chúa Ki-tô soi sáng và sinh động, sẽ biến đổi con người cũng như
mọi tư duy của ta. Những hành động kia sẽ dần dần giải thoát
hoặc nô lệ hoá chúng ta mỗi ngày một hơn. Sự giải phóng, theo
tín hữu ki-tô là bám rễ trong đức tin đã tiếp nhận ơn sủng từ
Lời cứu rỗi của Đức Giê-su Ki-tô.
Tự do không bởi con người
chinh phục được, mà là kết quả của một lịch sử năng động, liên
quan đến con người toàn diện: chiều kích cá nhân (sự thật về
chính bản thân) và các tương quan, kinh tế xã hội, chính trị,
mọi điều kiện sinh sống của con người.
Đức Ki-tô nói: “Nếu anh em
ở lại trong Lời Thầy (…) anh em sẽ trở thành những con người tự
do.” Tự do vừa là một cuộc hành trình cá nhân, vừa mang tính
cách cộng đồng. Tự do, theo Tin Mừng là một ơn ban của Thiên
Chúa mà cũng là một vấn đề cá nhân và tập thể.
Ta nên nhớ rằng, trong Tin
Mừng Gio-an, ở ba bài “giảng huấn” quan trọng, Thầy Giê-su đều
hứa sai Thánh Thần đến hiện thực hoá sự hiện diện của Thầy trong
lòng mọi tín hữu. Thầy không hứa một sự biểu lộ ngoạn mục bên
ngoài, hay nơi trí thông minh, nhưng rõ là một ơn hiểu biết thâm
sâu, cho riêng từng cá nhân, về mầu nhiệm của chính Thiên Chúa.
Trong việc lắng nghe, nghiền ngẫm, suy nguyện Lời, tín hữu có
thể trải nghiệm, nếm thử sự dịu dàng yêu đương của sự Hiện Diện
của Chúa, mặc dù vẫn là trên bình diện đức tin.
“Ai yêu
mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy.
Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14, 23).
Một hiện diện chẳng bao giờ
chia cách, mà là hiện diện của cả Cha, Con và Thánh Thần. Việc
lắng nghe Lời Thầy đưa chúng ta vào trong mối thân tình của tình
yêu Ba Ngôi. Đối với thánh Gio-an, hạnh phúc mà con người hằng
mơ ước – hay ơn cứu độ, theo lối nói của Kinh Thánh – không là
gì khác hơn sự hiện diện thân tình này của Thiên Chúa, trong kẻ
biết lắng nghe Lời Người.
Lắng nghe Lời để trở thành
suy gẫm, suy nguyện, là trường dạy tự do theo Tin Mừng. Lắng
nghe, cầu nguyện, ở lại lâu giờ trong tình thân mật với Đức
Ki-tô, là tự để mình được hoán cải, được gột tẩy. Nguồn gốc của
tự do ki-tô hữu là chiêm niệm. Việc lắng nghe và suy nguyện Lời
Chúa là nguồn mạch cho trí tuệ tâm linh, nó giải phóng con người
khỏi sự chuyên chế của tội lỗi, của đam mê, của ách nô lệ thế
gian.
“Thật, tôi
bảo thật các ông: hễ ai phạm tội thì làm nô lệ cho tội. Mà kẻ
nô lệ thì không được ở trong nhà luôn mãi, người con mới
được ở luôn mãi. Vậy, nếu người Con có giải phóng các ông,
thì các ông mới thực sự là những người tự do” (Ga 8, 34-36).
Kinh Thánh nói: “Không ai
có thể thấy Thiên Chúa mà không phải chết.” Đúng vậy, chúng
ta không thể đi vào trong sự thân mật với Lời Chúa mà không được
mời gọi “làm chết đi” sự dối trá, tất cả những gì ngược lại với
sự thật, nơi chúng ta.
Lời Chúa được suy nguyện,
nghiền ngẫm trong thinh lặng, giúp tôi vạch trần những bóng tối,
và thẩm định cách sáng suốt để biết phải cam kết dấn thân, hay
tiếp tục trận chiến tâm linh của mình trên điểm nào. Trước khi
tiến tới sự bình an, tới sự nghỉ ngơi trong Đất Hứa, tới sự tự
do của tâm hồn trong thân tình với Thiên Chúa, cũng như dân
Do-thái xưa, chúng ta phải từ bỏ những “củ hành củ tỏi Ai Cập”
và vượt qua những thử thách của sa mạc.
Lắng nghe Lời còn luôn là một
“chiến trường” tâm linh để ta lớn lên trong tự do. Sự tự do nội
tâm này là một công trình của Chúa Thánh Thần: “Chúa là Thần
Khí, và ở đâu có Thần Khí của Chúa, thì ở đó có tự do” (2 Cr 3,
17).
Mấy câu trích dẫn trên kia
của thánh Gio-an chứng tỏ cho ta thấy rằng sự tự do ki-tô hữu
không đến từ một triết thuyết, nhưng là từ biến cố giải phóng
của Đức Ki-tô Chết và Sống lại. Tự do ki-tô hữu quả là độc đáo,
chưa từng thấy, là “vượt qua!” Nó là sự giải phóng một nền
chuyên chế căn bản: chuyên
chế của tội lỗi (của sự chết được gắn liền với nó).
Các ki-tô
hữu tiên khởi đã không lầm khi để niềm vui của họ bùng phát ngay
vào buổi đầu của thời đại mới của tự do. “Chúc tụng Ðức Chúa
là Thiên Chúa Ít-ra-en đã viếng thăm cứu chuộc dân Người. Từ
dòng dõi trung thần Ða-vít, Người đã cho xuất hiện Vị Cứu Tinh
quyền thế để giúp ta (...) sẽ cứu ta thoát khỏi địch thù” (Lc 1,
68-79). Đây chính là một cuộc giải phóng.
Niềm xác tín này sẽ được
thánh Phao-lô lặp lại cách hứng thú khi ngài triển khai những
hiệu quả của bí tích Thánh Tẩy, như nguồn suối của một sự tự do
mới:
“Anh em
không biết rằng: khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để
thuộc về Ðức Ki-tô Giê-su, là chúng ta được dìm vào trong cái
chết của Người sao? (...) Chúng ta biết rằng: con người cũ nơi
chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá với Ðức Ki-tô, như vậy,
con người do tội lỗi thống trị đã bị hủy diệt, để chúng ta không
còn làm nô lệ cho tội nữa” (Rm 6, 1 tt).
“Anh em
hãy vui mừng cảm tạ Chúa Cha, đã làm cho anh em trở nên xứng
đáng chung hưởng phần gia nghiệp của các thánh trong cõi đầy ánh
sáng. Người đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm, và
đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái” (Cl 1, 12-13).
Ki-tô hữu chúng ta vô cùng
ngưỡng mộ trước sự giải phóng mà Đức Giê-su Ki-tô đã thực hiện
cho mọi người, trong niềm xác tín rằng ơn cứu độ của Đức Ki-tô
vượt trên mọi hình thức giải phóng của con người. Cuối cùng
trong Tân Ước, Đức Ki-tô được giới thiệu như Đấng giải thoát con
người khỏi kẻ thù nguy hại nhất, khỏi sự tha hóa và sự sợ hãi
lớn lao nhất, đó là sự chết. Vận mệnh mù quáng này đã minh họa
tất cả thảm trạng của nền văn minh cổ Hy lạp.
“Thù địch
cuối cùng bị tiêu diệt ... Vậy khi cái thân phải hư nát này mặc
lấy sự bất diệt, khi cái thân phải chết này mặc lấy sự bất tử,
thì bấy giờ sẽ ứng nghiệm lời Kinh Thánh sau đây: Tử thần đã bị
chôn vùi. Ðây giờ chiến thắng! (...). Nhưng tạ ơn Thiên Chúa, vì
Người đã cho chúng ta chiến thắng nhờ Ðức Giê-su Ki-tô, Chúa
chúng ta” (1Cr 15, 26; 15, 54 tt).
Tuy nhiên mọi cuộc giải phóng
ở trần gian đều là bất toàn. Cuộc giải phóng cho con người toàn
diện chỉ được thực hiện vào ngày sống lại, ngày mà thân xác
chúng ta cũng sẽ được biến đổi, giải thoát khỏi sự mỏng dòn và
giới hạn của nó. Và đối với thánh Phao-lô, cuộc giải phóng tối
hậu này là chính sự chờ đợi, là niềm hy vọng của mọi tạo vật,
của tất cả mọi vật thể hay hư nát: “tuy nhiên, vẫn còn niềm
trông cậy là có ngày cũng sẽ được giải thoát, (...) được cùng
với con cái Thiên Chúa chung hưởng tự do và vinh quang. Thật
vậy, chúng ta biết rằng: cho đến bây giờ, muôn loài thọ tạo cùng
rên siết và quằn quại như sắp sinh nở” (Rm 8, 21-22).
Viễn tượng
ki-tô hữu về cuộc giải phóng của con người toàn diện này không
phải là một không tưởng, một lời hứa xa vời. Tương lai giải
thoát kia đang bắt đầu ngay từ bây giờ, cho người biết nghe và
thực hành Lời Chúa: “Thật, tôi bảo thật các ông: ai nghe lời
tôi và tin vào Ðấng đã sai tôi, thì có sự sống đời đời và khỏi
bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống” (Ga 5, 24).
Việc nghe và cầu nguyện Lời
Chúa giải thoát chúng ta khỏi hai bẫy trái nghịch nhau: “chủ
trương quan phòng” và “chủ trương hành động”. Xu hướng thứ nhất,
tự rút lui, thu mình trong bàn tay của một Thiên Chúa, Đấng chỉ
ra tay hành động qua các phép lạ, còn xu hướng thứ hai lại cho
rằng tương lai thế giới chỉ dựa vào sức cố gắng của chúng ta.
Thế mà việc lắng nghe, cầu
nguyện Lời Chúa lại là nơi gặp gỡ giữa tình yêu nhưng không, sự
tự do của Thiên Chúa và tự do của con người. Một nơi ưu tiên cho
việc cộng tác giữa Thiên Chúa và con người. Ta không được xúc
phạm đến dung nhan Thiên Chúa, cũng không được trẻ con hoá con
người. Người ta không thể phóng đại Thiên Chúa bằng cách hạ thấp
con người, cũng như ngược lại, thổi phồng con người bằng cách
giảm giá Thiên Chúa!
Suy nguyện Lời Chúa chẳng bao
giờ là một thao tác thụ động, mà là một động tác sáng tạo. Vì
như chúng ta đã thấy, Khi Thiên Chúa nói, Người hành động,
Người tác tạo. Môn đệ tự để mình được yêu thương, tái tạo, uốn
nắn bởi Lời Chúa trong suy nguyện, đến lượt mình, cũng sẽ trở
thành kẻ tác tạo, có khả năng cộng tác với kế hoạch tình yêu của
Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa luôn là người khởi xướng, thì Người
cũng không thể làm gì ngoài sự tự do đồng thuận của chúng ta.
Lắng nghe và cầu nguyện Lời, là tiếp đón Thiên Chúa, với sự
sống, tình yêu, ơn huệ của Thần Khí Người nơi tôi, và qua tôi,
mọi tác động của Người trên thế gian.
Cầu nguyện không phải là làm
những “bài giảng đạo đức” về Thiên Chúa, nhưng là tự để mình bị
lay động, không ngừnghoán cải bởi Lời Người, là “Thần
Khí và sự sống” và chuyển hướng mọi sinh hoạt hàng ngày của
tôi theo kế hoạch yêu thương của Người cho tôi và cho nhân
loại.
Việc nghe và cầu nguyện Lời
Chúa là một khoảng thời gian quyết định, lúc ấy tôi tái thiết tự
do của tôi trong lịch sử năng động của ơn cứu độ (hạnh phúc của
con người). Ta hiểu được tại sao lắng nghe Lời lại cũng là một
hành động cốt lõi cho việc tăng trưởng và giải phóng con người,
như việc ăn uống. Nó bảo đảm cho tương lai hài hoà, nhịp nhàng,
của con người.
Thiên Chúa tái tạo nên tôi
mỗi ngày với chính thân tôi
Lạy Chúa,
Có những người thật diễm phúc
Thường được nghe Chúa nói
Và thấy Chúa can thiệp vào
mọi sự không đâu.
Họ bắt Chúa nói nhiều,
Và hành động quan phòng khắp
nơi nơi.
Họ xem Chúa như “Chúa Quan
Phòng”:
Bịt kín mọi lỗ thủng,
Hoàn tất nhiều phép lạ,
Nơi chúng con chỉ biết
“khoanh tay”,
Đem hoà bình đến nơi chúng
con mua bán súng đạn,
Đem lương thực đến chỗ
chúng con không biết sẻ chia.
Phần con, con lại thấy Chúa
khá dè dặt.
Như thế bảo đảm cho con hơn,
lạy Chúa.
Con không chịu nổi những bà
“mẹ gà”,
những người cha lo lắng,
Ấp ủ đến độ làm con cái mình
nghẹt thở,
Chỉ vì muốn chúng luôn
được an toàn, che chở.
Con càng không thích cảm thấy
mình như “con rối”
Mà trong bóng tối, Chúa giật
dây.
Một sự
tùng phục của kẻ nô lệ, chấp hành cách mù quáng,
Quả là bất xứng, với Chúa, và
cả với con.
Con bái phục quyền năng cao
cả Chúa,
Nhưng như một quyền bính của
yêu thương.
Con tin tình yêu này không
làm con người ra tha hoá,
Mà kiến tạo và giải phóng
nó luôn luôn.
Con cám ơn, lạy Chúa, đã tạo
dựng và đã gọi con
Trở thành một đứa con biết tự
do cộng tác
Vào kế hoạch yêu thương tốt
lành của Chúa.
Trong nắng ban mai hoàn toàn
mới mẻ,
Trong buổi chiều tà, êm ả
nghỉ ngơi,
Con ưa thích có cuộc-hẹn-tình
yên tĩnh,
Cuộc hẹn của cộng tác thân
thương,
Của sự tiếp tay đầy trân
trọng.
Sáng, tối, Chúa đều đến
trước,
Chúa luôn là Đấng đến trước
thăm con,
Trong khu vườn thẳm lặng của
lòng con,
Gió hiu hiu và ánh sáng vội
vàng,
Con quì gối, bên bờ thời gian
trôi chảy,
Từ Chúa, con trông chờ mọi
sự,
Chúa cũng đợi tất cả, ở nơi
con.
Ở đó, hiện diện vô hình Chúa
bao phủ,
Con cầu nguyện, mặc Chúa yêu
thương và uốn nắn
Theo mức độ tình Chúa đến
cho con.
Thật quá tuyệt vời, ôi lạy
Chúa,
Được ở đây, kề vai bên lòng
Chúa,
Con nghỉ ngơi và hoạt động
cùng với Chúa.
Chẳng có gì vừa nhưng không,
lại vừa năng động,
Có gì mạnh mẽ hơn được tình
yêu.
Phút tuyệt vời là lúc nguyện
cầu trong tĩnh mịch,
Thật kín đáo mà vô cùng linh
hoạt!
Đó chính là hoạt động lớn
nhất, trong ngày sống của con.
Con biết Chúa làm việc không
ngơi nghỉ,
Nhưng Chúa không muốn làm gì
cả, nếu vắng con.
Con tâm đắc, Chúa ơi, Chúa vô
cùng tế nhị.
Con muốn “Chúa là Chúa”, làm
công việc của Chúa.
Còn con làm người, chu
toàn sứ vụ của con người.
Trong thinh lặng của lời con
nguyện,
Cho con được đồng lòng với
Lời và sự Sống Chúa,
Với ân sủng của Thần Khí Chúa
ban;
Cho
con được đồng lòng với tác động của Chúa trong con,
Và qua con, với tác động của
Chúa trên thế giới.
Ai hành động, lạy Chúa, Chúa
hay con?
Tình yêu của Chúa hay tự
do của con?
- Cả hai, con ạ!
Vì nơi mà Ta thích tác tạo,
mạc khải và hoạt động hơn cả
Chính là đền thánh của lòng
con,
Và của lương tâm con thức
tỉnh.
Lịch sử loài người, con thấy
chứ,
chúng ta đã cùng nhau tác tạo.
Đó là cái bất trắc đẹp đẽ
nhất của tình Ta.
Cũng là bất trắc nên thơ
nhất cho tự do của con đó!
Fr. Michel Hubaut |
VỀ MỤC LỤC |
|
LỜI CỦA THÁNH GIÁ (NÓI CHUYỆN
VỚI CÁC NỮ TU DÒNG KÍN) |
Lm.
JB NGUYỄN MINH HÙNG
Tuần
Thánh là dịp thuận tiện mời gọi chúng ta suy niệm để sống mầu
nhiệm thánh giá Chúa Kitô. Nhưng khi nói về tất cả những đau khổ
của Chúa, không phải để chúng ta bi quan, mà là cơ hội để mỗi
người nhận ra sự nặng nề của tội lỗi, nhờ đó giúp khám phá nhiều
hơn nữa, mạnh mẽ hơn nữa, xác tín hơn nữa tình yêu hiến dâng của
Thiên Chúa, một tình yêu núi không thể đo, biển không thể lường,
mà Thiên Chúa đã quyết định dâng hiến cho loài người trong sự
đau khổ và thánh giá ê chề của Chúa Kitô, Con Duy Nhất của
Người. Nhờ khám phá nỗi yêu đương vô cùng của Thiên Chúa, chúng
ta can đảm gánh trọn con đường thánh giá đời mình và tiến vào ơn
phục sinh của Chúa Kitô trong vinh quang, chiến thắng như Người.
I. THÁNH GIÁ VẪN VỮNG CHÃI TRONG ĐỜI SỐNG HỘI THÁNH.
Chính Chúa Kitô đã cho thấy Người kiên vững theo đuổi đến cùng
con đường thánh giá mà Người đã chọn lựa để vâng phục thánh ý
Chúa Cha. Người đã hiến thân mình để chu toàn sứ mạng Chúa Cha
uỷ thác, là quy tụ toàn thể nhân loại về dưới quyền thống trị
của Chúa Cha. Dẫu trên bước đường rao giảng, cũng có nghĩa là
trên bước đường tiến tới sự hoàn tất của thánh giá, Chúa Kitô đã
phải đối diện với tất cả sự phản trắc của lòng người, của thế
gian. Nhất là qua những lần báo trước giờ tử nạn, Chúa Kitô cho
thấy Người đã đối diện, đã nhìn thấy sự nặng nề, đau đớn của
thánh giá. Nhưng thay vì rút lui, Chúa Kitô vẫn một dạ trung
thành. Người quyết đi đến cùng với thánh giá trong đời của
Người, ngay cả khi đau khổ nổi dậy và gia tăng dồn dập nhất.
Dù theo Chúa, được Chúa chuẩn bị nhiều lần (qua những lần tuyên
báo tử nạn) nhằm có thể đón nhận mầu nhiệm thánh giá, các tông
đồ không thể hiểu mọi tâm tư của Chúa Kitô, càng không thể hiểu
thánh ý Thiên Chúa. Họ là đại diện cho cả Hội Thánh, là thành
phần của Hội Thánh. Nói đúng hơn, họ chính là Hội Thánh. Vì các
tông đồ là chính Hội Thánh, có thể nói, ngay từ đầu, Hội Thánh
đã không sẵn sàng vác thánh giá của mình. Nhất là khi Chúa Kitô
thụ nạn, đó là giờ thánh giá đã đến, các tông đồ cay đắng cho
rằng tương lai đời mình sụp đổ. Hội Thánh, qua các tông đồ, đã
có lúc chối từ và chạy trốn thánh giá. Chỉ khi được biến đổi nhờ
ơn phục sinh và việc Chúa Thánh Thần hiện xuống, Hội Thánh mới
hiểu, thánh giá chẳng những không là sự thất bại, mà còn là một
chiến thắng vinh quang, một sự sống khải hoàn, một tình yêu vững
chắc.
Rồi từ đó đến nay, không những Hội Thánh không khước từ thánh
giá, mà còn hiên ngang rao truyền thánh giá, tự hào vì thánh
giá, sống chết cho niềm tin vào thánh giá. Hội Thánh say sưa với
thánh giá, tôn thờ thánh giá, ôm ấp thánh giá tận cõi lòng mình.
Hội Thánh gìn giữ thánh giá, xem đó là bảo vật của mình, là lý
tưởng của mình, là sự sống còn của mình, là tình yêu của mình,
là của cải bảo đảm cho hạnh phúc đời đời của mình, là đèn dẫn
đường công lý của mình, là tất cả niềm vui sống của mình, là tất
cả hạnh phúc của mình, là nguồn động lực thúc giục mọi khả năng
hiến thân và hiến dâng của mình, là ánh quang làm sáng rực đẩy
lui những bóng tối của ngờ vực, là sức mạnh giao hòa của mọi
chia rẻ, là sự uy hùng cho tất cả mọi lối sống tầm thường, thấp
kém, tội lỗi…
Tiếp tục truyền thống các tông đồ sau khi họ khám phá khuôn mặt
lừng lẫy của thánh giá, Hội Thánh từ trong lịch sử, đến hôm nay
và mãi về sau, vẫn nghiêm khắc chứng minh cho tất cả những ai
thù nghịch, phi bác thánh giá bằng việc làm chứng không mệt mỏi
rằng: Chúa Kitô đã phục sinh từ thánh giá. Nếu ai chống
đối thánh giá bằng cách nêu lên luận điệu rằng: Giêsu chỉ là một
con người, đã bị kết án bởi Do Thái giáo và bị giết trên thập
giá đớn đau, thì Hội Thánh một lòng trung tín với truyền thống
các tông đồ, bênh vực đức tin vào thánh giá bằng cách giải thích
cho thấy thánh giá sở dĩ có, là do sự ác của con người. Sự ác ấy
đã chẳng chối từ cả Đấng là Cứu Chúa của mình. Nhưng sự ác ấy đã
được Thiên Chúa sử dụng. Người rút ra từ sự ác ấy những điều tốt
lành để quay ngược lại ban ơn cứu độ cho chính con người. Thiên
Chúa đã sử dụng phương tiện độc ác của con người, để biến thập
giá thành thánh giá. Thiên Chúa cứu độ con người tội lỗi và độc
ác bằng chính thánh giá mà con người gây nên.
Nơi các thơ Thánh Phaolô, còn cho thấy Hội Thánh vui mừng, hoan
lạc bởi khám phá và khám phá không ngừng, khám phá ngày một tăng
nét phong phú, vẽ đẹp diễm kiều, tình yêu sâu sắc, lòng trung
tín ngất cao của Thiên Chúa nơi mầu nhiệm thánh giá Chúa Kitô.
Từ vinh quang vô cùng của thánh giá, Hội Thánh coi đau khổ và sự
chết của mỗi con cái mình như của lễ hoàn hảo mà Hội Thánh kết
hợp với sự chết của Chúa Kitô mà dâng lên Thiên Chúa. Hội Thánh
coi mọi thăng trầm trong đời sống mình, và đời sống các con cái
của mình như là phương tiện khả dĩ để kết hợp và nên một với
Chúa Kitô, nhằm lập công chuộc lại tội lỗi mà mọi con cái của
mình và của cả thế gian xúc phạm đến Thiên Chúa.
Nhìn lên thánh giá, Hội Thánh bắt chước Chúa Kitô: sống và rao
truyền sự vâng phục tuyệt đối của Người, dù cho cây thánh giá mà
Hội Thánh phải vác đi giữa lòng đời có lớn đến đâu. Bởi Chúa
Kitô đã vâng phục thánh ý Chúa Cha cho đến chết. Hội Thánh sẽ
không bao giờ đi ngoài con đường vâng phục này.
Hội Thánh nhìn thấy thánh giá chính là vinh quang của mình. Bởi
không có con đường nào khác, chỉ trừ một con đường thánh giá
Chúa Kitô đã đi qua, mới chính là sự sống và là đích đến sự sống
muôn đời của Hội Thánh. Hơn thế, Hội Thánh nhìn thấy thánh giá
là vinh quang của mình, còn vì thánh giá đã được tôn vinh như là
biểu lộ tuyệt hảo về tình thương Thiên Chúa, là dụng cụ hữu hiệu
của sự khôn ngoan và quyền năng Thiên Chúa hoà giải trần gian
với Người.
Vậy, thuở ban đầu, vì chưa hiểu hết mầu nhiệm cay đắng của thánh
giá, có thể làm cho những thành viên của Hội Thánh thoái lui.
Nhưng một khi khám phá chân lý thánh giá ngàn đời, Hội Thánh đã
không bao giờ ngừng vinh danh thánh giá trong đời sống, trong
suy tư, trong mọi hoạt động của mình. Vì thế, mãi mãi thánh giá
vẫn vững chãi đến vô cùng trong suốt dòng thời gian của đời sống
Hội Thánh.
II. THÁNH GIÁ VỚI TỪNG NGƯỜI CHÚNG TA.
Nói đến thánh giá là nói đến tình yêu: Tình yêu diệu vợi của
Thiên Chúa đã làm phát sinh những kết quả vô cùng từ thánh giá.
Học lấy tình yêu của Thiên Chúa nơi thánh giá Chúa Kitô, chúng
ta xác tín mạnh mẽ, chỉ một mình Thiên Chúa mới là Người Yêu
đích thực của chúng ta. Nhờ Người Yêu và nhờ tình yêu có một
không hai ấy, con đường thánh giá trở thành con đường đẹp, tinh
tuyền, xóa hết những tội lỗi, những thù nghịch để chỉ còn lại
một bầu trời dung thứ, bình an, thắng vượt, nghĩa ân. Chúa Kitô
muôn đời trở nên vì Thiên Chúa gần gũi, sống động của con người.
Thánh giá của Người mãi mãi là cây thánh giá của ơn nâng đỡ, sớt
chia, ủi an dành cho từng người chúng ta.
Biết bao nhiêu tâm hồn chìm trong tội, nhận ra bầu trời
trong–mát–dịu của thánh giá, can đảm tách rời khỏi quá khứ tội
lỗi, làm lại cuộc đời.
Biết bao nhiêu tâm hồn suốt đời chỉ chìm trong bạo lực đã nhìn
lên bóng thánh giá mà rửa mình sạch mọi dơ bẩn để trở nên hiền
hòa, đức độ.
Biết bao nhiêu con người đêm ngày ngụp lặt trong bất công, xảo
kế, bỗng một lần nhìn lên thánh giá, đã quay lưng với tất cả lợi
lộc từ những gian xảo mang lại, để biến mình thành môn đệ Chúa
Kitô.
Biết bao nhiêu những tâm hồn lồng lộng dữ dằn như những con thú
hoang, bỗng một lần khám phá ánh sáng yêu thương chiếu dọi từ
thánh giá, đã trở nên hiền hòa, nhân hậu, đáng mến.
Biết bao nhiêu kẻ sống ích kỷ, đêm ngày chỉ biết tư lợi, bỗng
một lần nhìn lên thánh giá, đã trở thành kẻ xả kỷ, biết hiến
thân và hiến dâng.
Cũng vậy: Biết bao nhiêu tâm hồn bị đày ải, khổ đau, cuộc sống
như chỉ còn muốn sống cho qua ngày, đoạn tháng, bỗng được tình
yêu của thánh giá chiếu rọi, trở nên bình an hơn, chấp nhận
trong vui tươi hơn.
Biết bao nhiêu kẻ tử tù, trên đường đi về cái chết, đã nhìn thấy
thánh giá, và thánh giá bỗng trở nên sức mạnh khiến cuộc ra đi
không còn đau đớn, chỉ còn là niềm tin chiến thắng.
Biết bao nhiêu anh chị em của chúng ta thầm lặng, hoặc công
khai, giữa những lúc bị bách hại, vì thánh giá, bất chấp mọi đe
dọa, đêm ngày rao giảng đức tin vào tình yêu kỳ diệu của thánh
giá Chúa Kitô.
Biết bao nhiêu người, nhìn cứ tưởng yếu đuối, mỏng dòn, nhưng
nhờ tin vào thánh giá Chúa Kitô, họ đã có sức mạnh phi thường
vượt thắng mọi thách thức mà con người, hay hoàn cảnh, hay môi
trường mang lại.
Biết bao nhiêu người nghèo khổ, bệnh tật, bị bỏ rơi…, vì thánh
giá Chúa Kitô, đã có thể sống trung thành với đức tin mà không
gợn một chút nghi nan, một chút u uất nào.
Biết bao nhiêu tâm hồn đầy chữ nghĩa, khoa bản, hiểu biết…, nhìn
lên thánh giá, đã biết học lấy bài học của khiêm tốn, sống đơn
sơ, thậm chí thô sơ với mọi anh chị em dù họ thấp kém, hay sang
trọng.
Ngược lại, cũng có biết bao nhiêu tâm hồn, nhờ tình yêu đối với
thánh giá, và đêm ngày chỉ biết suy tư cùng thánh giá, ôm lấy
thánh giá trọn đời mình, dù họ là người kém cõi, ít hiểu biết,
lại trở nên khôn ngoan, thấu hiểu những chân lý cao siêu lạ
thường.
Biết bao nhiêu người suốt đời chỉ biết nhìn lên thánh giá, chọn
thánh giá làm lẽ sống, vì thế đời họ luôn luôn sáng rực nụ cười
và gieo nụ cười ấy khắp nơi.
Biết bao nhiêu người đã có thể trải lòng mình cho mọi người ở
mọi nơi, mọi lúc, nhờ kiên định trong tình yêu đối với thánh giá
Chúa Kitô.
Biết bao nhiêu người bước ra từ trong đau khổ, vẫn không mất
niềm bình an, bởi họ đã tin vào thánh giá Chúa Kitô.
Bởi vậy, chị em thân mến,
Chính chúng ta, những kẻ được mọi người gọi là “chân tu”, chúng
ta có nhìn thấy vẽ đẹp của thánh giá mà bao nhiêu anh chị em
chúng ta đã nhìn thấy? Hay chúng ta vẫn còn những oán than,
những lối sống, lối nghĩ, lối thực hành đạo không phù hợp với
tình yêu mà thánh giá gợi lên trong chúng ta?
Có lẽ, nhìn thân xác quằn quại trên thánh giá, một thân xác
không còn hình tượng người ta, khó có ai bảo rằng đó là “Con
Người” đẹp nhất trần gian. Chúng ta phải tự hỏi, vì đâu mà thân
xác của “Con Người” ấy lại không còn vẽ đẹp? Phải chăng những
nhà “chân tu” là chúng ta cũng đang là những kẻ phá hoại chính
thân xác ấy?
Nhưng quả thật, đó là “Con Người” đẹp nhất trần gian, một khi
chúng ta nh́n bằng ánh mắt của t́nh yêu mà Người đã yêu, và vẫn
yêu chúng ta. Chúa Kitô, một tình yêu kiểu mẫu, một tình yêu rực
sáng, một tình yêu dòi dọi, một tình yêu vĩnh cửu, một tình yêu
đại lượng. Người là người đẹp nhất bởi vì Người đã yêu, vẫn yêu,
yêu đến cùng, yêu cả khi không nhận được tình yêu từ người mình
yêu, yêu càng mãnh liệt khi bị kẻ mình yêu khước từ, chống đối,
giết chết.
Người là người đẹp nhất bởi tình yêu nguyên tuyền, không một
chút phai, không một chút nhạt, không một chút suy suyển, dẫu
Người chỉ nhận được những cuồng nộ, những bạo lực.
Người là người đẹp nhất, bởi tình yêu của Người đứng trên tất cả
mọi tình yêu đã vậy. Tình yêu của Người còn đứng trên cả sự tàn
ác, hung bạo của những kẻ mình yêu.
Mãnh lực của tình yêu Giêsu Kitô vừa lạ lùng, vừa cuốn hút, vừa
êm đềm, vừa mạnh mẽ. Tất cả chúng ta hãy sống, hãy tỉnh thức mà
khám phá tình yêu quá đỗi ấy. Hãy bắt chước Người mà yêu đến
cùng, yêu đến hy sinh, yêu đến mất mạng sống… cho tất cả mọi anh
chị em mà Chúa đào chúng ta phải yêu.
“Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác Thập giá mình mà theo Ta”.
Đó là lời mời gọi Chúa Kitô dành cho những kẻ muốn tiếp bước đi
theo Người, để họ nhận ra điều kiện tiên quyết là phải hy sinh.
Vậy hy sinh là chữ đầu tiên mà ta có thể sống để tháp nhập mình
vào thánh giá Chúa Kitô.
Càng là những nhà chân tu, ta càng tập sống yêu như Chúa đã yêu
ta. Hãy để thánh giá Chúa sống trong đời ta. Thánh giá sẽ nhắc
ta trong mọi chiều kích của cuộc đời rằng: LẼ SỐNG CỦA CHÚNG TA
LÀ CHÍNH CHÚA GIÊSU KITÔ.
Thứ ba tuần Thánh, 26.3.2013
Lm. JB NGUYỄN MINH HÙNG |
VỀ MỤC LỤC |
|
CỤ GIÀ BÁN RAU |
Br.
Huynhquảng
Qua loạt bài
Sống Sao Cho Đẹp, chúng ta như được thưởng thức những món ăn
ngon trong bàn tiệc cuộc đời, học được những bài học thấm đậm
trong cách cư xử hằng ngày, và thấy được những gương sáng của
những con người dù bình thường nhưng rạng chiếu vẻ đẹp trong thế
giới chúng ta. Mục Sống Sao Cho Đẹp xin được tiếp tục
chia sẻ với quí bạn chủ đề mới: Trung tín và Chung thuỷ. Hy vọng
với chủ đề này, chúng ta tìm thêm niềm vui và vẻ đẹp vốn được
phú bẩm trong con người chúng ta; để con người chúng ta ngày mỗi
thêm hoàn thiện, và đời chúng ta thêm tươi đẹp hơn.
* * *
Gần đây qua
internet chúng ta biết được, chuyện một bà cụ bán rau tại Việt
Nam đã giữ chữ tín với khách hàng đến nỗi bà đã ngã bệnh và qua
đời ít ngày sau đó. Gương của bà cụ đã làm cho nhiều người xúc
động và cảm phục lòng chân thành và tín trung của người nông dân
chất phát.
Do bị đánh động bởi
lòng trắc ẩn khi thấy một bà cụ già phải bán rau vất vả kiếm
sống hằng ngày, một chàng thanh niên trên đường đi làm đã dừng
xe máy lại mua ít bó rau với mục đích là để giúp bà. Vì lý do
đó, chàng luôn tiện nhờ bà giữ giúp rau cho đến lúc chiều đi làm
về rồi chàng ghé lấy rau. Nhưng thực ra, ý của chàng là giúp bà
chứ đâu phải mua rau, vì thế chàng đã quên hẳn việc “gởi” rau
nhờ bà cụ giữ giúp. Hoá ra, bà cụ đã vì trách nhiệm và chữ tính
đã ngồi chờ chàng thanh niên dưới cơn mưa tầm tả cho đến chiều
tối - kết quả bà ngã bệnh và qua đời sau ít ngày. Những người
bán nước xung quanh bà hối thúc bà cất rau, trốn mưa, đi về nhà
sớm... bà cương quyết không nghe theo họ, vì bà chờ chàng thanh
niên lấy rau, người mà bà đã nhận tiền của chàng từ sáng. Ôi!
Chữ tín đẹp làm sao trong cuộc đời!
Trung tín, chung
thuỷ có nghĩa trong tiếng Latin là “fidelis.”
Fidelis được bắt nguồn từ danh từ fides, nghĩa là đức
tin, tính thác. Khi bàn về nghĩa từ “đức tin, tính thác” tức là
nói đến mối quan hệ không chỉ giữa con người với nhau, nhưng nói
lên mối quan hệ giữa một vị thần linh và con người. Hay nói cách
khác, từ mối quan hệ chung thuỷ giữa một vị thần với con người
đã giúp con người học được ý nghĩa trọn vẹn thế nào là trung tín
và chung thuỷ. Vị thần linh luôn luôn chung thuỷ với con người,
còn con người thì thường thiếu sự chung thuỷ với ngài.
Khi bàn đến chung thuỷ và
trung tín, chúng ta không thể
không bàn tới “lời hứa.” Chính lời hứa là sợi mắc xích, là gạch
nối, và cũng là nguyên nhân dẫn chúng ta suy tư và tập sống
chung thuỷ và trung tín.
Lời hứa đi theo cuộc sống con
người từ lúc có trí khôn cho đến lúc trưởng thành. Thởu thiếu
thời, con trẻ được giáo dục và dạy bảo về giá trị của lời hứa
qua những việc bình thường trong ngày: “Con nhớ nhé, con làm
điều này nhé… Dạ, con nhớ. Dạ, con hứa…” Mối liên hệ, niềm tin
giữa người lớn và trẻ nhỏ cũng được chớm nở và phát triển từ đó.
Niềm tin dành cho nhau giữa hai người được hun đúc có lẽ phần
lớn dựa vào khả năng giữ lời hứa của mỗi người. Cứ thêm một lần
lời hứa được giữ, thì niềm tin dành cho nhau càng thêm được cũng
cố và phát triển. Ngược lại, nếu cứ một lần
lỗi hẹn, thì niềm tin
dành cho nhau cũng bị xói mòn. Trẻ em là người có khả năng nhạy
bén nhất để nhận ra điều này. Niềm tin giữa cha mẹ và con cái
phát triển tới mức nào cũng phụ thuộc rất nhiều vào khả năng giữ
lời hứa của cha mẹ dành cho con cái, nhất là lúc các em con
thiếu thời.
Khi một lời hứa với ai đó
được giữ cẩn thận, thì điều đó có nghĩa là sự tôn trọng của
chúng ta dành cho người kia được thẫm định. Dầu vậy, xa hơn thế
nữa, khi một lời hứa được giữ, điều trước hết chính là chúng ta
tôn trọng chính con người chúng ta, chúng ta giữ lời hứa, chữ
tín với chính con người chúng ta – đó chính là điểm then chốt
trong việc giữ lời hứa với người khác. Thực đúng như thế, khi
tôi hứa một điều gì với ai, tức là tôi thừa nhận với chính tôi
và đương sự ấy rằng tôi có khả năng để thực hiện điều đó – Chính
giai đoạn thừa nhận với chính tôi đã tạo cho tôi một niềm tin
trong tôi; nhờ niềm tin này mà tôi giám hứa với người khác.
Hôm nay,
Sống Sao Cho Đẹp
mời gọi bạn nhìn ngắm vẻ đẹp của đức tín trung tín và chung
thuỷ. Hãy dành đôi phút để hãnh diện về chính con người của mình
vốn được ban tặng đức tín cao đẹp này một cách nhưng không. Nhờ
niềm tin và lời hứa mà mình đã tạo được biết bao nhiêu mối quan
hệ đẹp trong đời: Tình cha mẹ, anh em, bạn hữu, và vợ chồng, con
cái. Hãy dành đôi phút để tạ ơn cuộc đời, tạ ơn con người, tạ ơn
người thân, vì cũng chính nhờ niềm tin và lời hứa của họ mà ta
thêm vững tin xây dựng cuộc đời, xây dựng đời mình.
Bạn thân mến, việc hoàn thiện
đời người không chỉ là việc nhổ cỏ dại, nhưng quan trọng hơn
chính là trồng thêm lúa, hoa, và rau. Càng trồng thêm lúa, hoa,
rau… thì cỏ dại không có cơ hội chiếm đất trống để mọc. Sống
trong tâm tình tạ ơn, cảm kích sẽ giúp ta trồng thêm đức tính
tốt và thực hiện được ước mơ làm người sống đẹp, sống tốt. Chúng
ta cùng hứa với lòng mình và với nhau là trồng thêm lúa, hoa
bằng cách giữ lời hứa với mình và với người trong niềm vui cảm
tạ.
Br.
Huynhquảng |
VỀ MỤC LỤC |
|
TÓM LƯỢC HIẾN CHẾ
MẶC KHẢI CỦA THIÊN CHÚA DEI VERBUM (TÌM HIỂU CÔNG ĐỒNG VATICANÔ
II - BÀI 4) |
Phaolô
Phạm Xuân Khôi (tóm lược)
Có thể nói
rằng Dei Verbum là một văn kiện nền tảng và được bàn cãi sôi nổi
nhất trong Công Đồng Vaticanô II. Văn kiện này bắt đầu được đưa
ra vào tháng 12-7- 1962, và mãi đến ngày 29 - 10 -1965 mới được
thông qua với 2.018 phiếu thuận, 27 phiếu chống và 7 phiếu bất
hợp lệ. Hiến chế này đã không giải quyết mọi vấn đề nhưng cũng
nói lên một bước tiến rất tích cực trong công cuộc tìm hiểu Mặc
Khải và có một tầm ảnh hưởng lớn trong nền Thần học Công giáo và
cuộc đối thoại hiệp nhất. Bài này chỉ tóm lược những điểm chính
của văn kiện. Để tránh hiểu lầm về những điều được đề cập ở
đây, độc giả cần phải đọc lại từng câu của Dei Verbum cùng tất
cả những chú thích trong đó. Đó là lý do tại sao chúng tôi tóm
lược từng câu để độc giả tiện tra cứu.
Mở Đầu
1.
Lời mở đầu của Dei Verbum nói rằng khi
thành kính lắng nghe và dạn dĩ công bố Lời Chúa, Công Đồng làm
theo lời trong Thư Thứ Nhất của thánh Gioan để chúng ta được
hiệp thông với các Tông Đồ và hiệp thông với Thiên Chúa, vì
chính các ngài hiệp thông với Chúa Cha và với Đức Kitô.
Công Đồng
cũng xác nhận là có ý
theo bước chân của
Công Đồng
Trent và Vaticanô
I trong việc trình bày giáo lý chân chính về mặc khải của Thiên
Chúa và
việc lưu
truyền
mặc khải
này.
I. Về
Chính Việc
Mặc Khải
2.
Thiên Chúa đã muốn mặc khải chính mình. Công trình mặc khải này
được thực hiện bằng những việc làm và lời nói có liên hệ mật
thiết với nhau, ngõ hầu các việc Thiên Chúa thực hiện biểu lộ và
củng cố cả giáo huấn lẫn những thực tại được diễn tả bởi lời
nói; còn lời nói thì công bố các việc làm và làm sáng tỏ mầu
nhiệm được chứa đựng trong đó. Đức Kitô vừa là Trung Gian vừa
là sự viên mãn của toàn thể mặc khải.
3. Thiên Chúa trong việc tạo
dựng mọi
sự
và bảo tồn chúng qua Lời Chúa,
không
ngừng làm chứng về
Chính Ngài qua các tạo vật.
Với
ý định mở ra con đường cứu rỗi từ
trời, Ngài cũng
tỏ Mình
ra
cho
nguyên tổ
của chúng ta.
Sau khi
họ sa
ngã, Ngài
đã
nâng
họ
lên
để hướng
họ đến
niềm hy vọng bằng cách hứa
ban cho họ ơn
cứu
độ.
4.
Sau khi phán dạy nhiều phần và nhiều cách qua các ngôn sứ, “vào
thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Con của
Ngài”.
Ngôi
Lời nói những lời của Thiên Chúa và
hoàn thành
công trình cứu độ mà Chúa Cha đã trao phó cho Người.
Ai
thấy Người
là
thấy
Chúa
Cha. Vì vậy,
công trình
Kitô giáo như giao ước mới và dứt khoát, sẽ không bao giờ được
thay thế, và giờ
đây
không
còn
mặc khải công cộng mới
nào nữa
trước khi Đức Kitô trở lại.
5.
Với
Thiên Chúa
là
Đấng mặc khải,
chúng ta phải
"vâng
phục
trong
đức tin",
nghĩa là phó thác toàn thân cho Ngài và tự nguyện hoàn toàn chấp
nhận và qui phục Mặc Khải của Ngài với cả lý trí lẫn ý chí.
Chúng ta cần ân sủng
và sự trợ
giúp của Chúa Thánh Thần để hiểu mặc khải hơn.
6.
Qua mặc khải, Thiên Chúa bày tỏ và thông ban chính mình Ngài
cùng những ý định muôn đời của Ngài liên quan đến phần rỗi nhân
loại.
Công Đồng thú nhận rằng
người ta
có thể biết
Thiên Chúa
qua
ánh sáng lý trí tự nhiên.
Nhưng chính nhờ mặc khải mà tất cả những gì thuộc về Thiên Chúa,
tự nó vốn không vượt quá khả năng lý trí con người, trong hoàn
cảnh hiện tại của nhân loại, đều có thể biết được cách dễ dàng
và chắc chắn mà không sai lầm.
II. Việc
Lưu
Truyền Mặc Khải của Thiên Chúa
7.
Để
những gì
Người đã
mặc khải
có thể được truyền đến
mọi
thế hệ, Đức Kitô
truyền cho
các Tông Đồ rao giảng Tin Mừng cho
mọi người.
Việc này được thực hiện cách trung thành, một phần do các Tông
Ðồ: hoặc qua lời giảng dạy, gương lành và các thể chế, và một
phần do chính các ngài và những người phụ tá các ngài đã viết
lại Tin Mừng cứu rỗi dưới sự linh ứng của cùng một Chúa Thánh
Thần.
Nhưng để Tin Mừng được giữ gìn toàn vẹn và sống động mãi trong
Hội Thánh, các Tông Ðồ đã để lại những người kế vị là các Giám
Mục, và trao lại cho họ Huấn Quyền của các ngài.
8.
Vì vậy, những lời giảng dạy của các Tông Ðồ được đặc biệt ghi
lại trong các sách linh ứng, phải được bảo tồn và liên tục lưu
truyền cho đến tận thế.
Do đó
các Tông
Ðồ khuyến cáo tín hữu phải giữ gìn các Truyền Thống thánh mà họ
đã học biết qua lời giáo huấn hay bằng thư từ.
Thánh Truyền do các Tông Ðồ truyền lại được tiến triển trong Hội
Thánh dưới sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần,
vì phát triển cả bằng
việc
tiếp nhận những lời
được
truyền lại
lẫn việc
suy niệm
cùng học
hỏi
của
các tín
hữu.
Qua
bao thế kỷ, Hội Thánh luôn hướng tới sự viên mãn của chân lý
Thiên Chúa, cho đến khi Lời Chúa được hoàn tất nơi chính Hội
Thánh.
Lời các
Giáo Phụ làm chứng cho sự hiện diện sống động của Thánh Truyền.
Nhờ cùng một Thánh Truyền ấy, Hội Thánh biết được toàn bộ quy
điển Thánh Kinh và cũng nhờ Thánh Truyền, Thánh Kinh được hiểu
biết sâu sắc hơn và không ngừng hoạt động trong Hội Thánh. Như
vậy Thiên Chúa, Ðấng xưa đã phán dạy, nay vẫn không ngừng ngỏ
lời với Hiền Thê của Con yêu dấu Ngài. Và Chúa Thánh Thần hướng
dẫn các tín hữu nhận biết toàn thể chân lý cùng làm cho lời Đức
Kitô tràn ngập lòng họ
9.
Bởi vậy Thánh Truyền và Thánh Kinh liên kết mật thiết với nhau
làm một và truyền thông cho nhau vì cả hai phát xuất từ một
nguồn mạch là Thiên Chúa, và cùng hướng về một mục đích. Thực
vậy, Thánh Kinh là lời nói của Thiên Chúa được ghi lại dưới sự
linh ứng của Chúa Thánh Thần; còn Thánh Truyền truyền lại trọn
vẹn Lời Chúa, mà Đức Kitô và Chúa Thánh Thần đã ủy thác cho các
Tông Ðồ để nhờ Thần Chân Lý soi sáng, các ngài trung thành gìn
giữ, trình bày và phổ biến qua lời rao giảng. Do đó, Hội Thánh
biết cách chắc chắn về những điều được mặc khải không chỉ nhờ
Thánh Kinh mà thôi mà còn cả Thánh Truyền. Vì thế cả Thánh Kinh
lẫn Thánh Truyền đều phải được đón nhận và tôn kính bằng một tâm
tình quý mến và kính trọng như nhau.
10.
Thánh
Truyền và Thánh Kinh hợp thành một kho tàng thánh duy nhất chứa
đựng lời Thiên Chúa và được ủy thác cho Hội Thánh. Tuy nhiên,
nhiệm vụ chú giải chính thức Lời Chúa đã được viết ra hay lưu
truyền chỉ được ủy thác cho Huấn Quyền
sống động của Hội Thánh, và Hội Thánh thi hành quyền đó nhân
danh Chúa Giêsu Kitô. Tuy nhiên Huấn Quyền này không ở trên Lời
Chúa, nhưng phục vụ Lời Chúa, chỉ dạy những gì đã được truyền
lại. Bởi thế, Thánh Truyền, Thánh Kinh và Huấn Quyền của Hội
Thánh liên kết và phối hợp với nhau đến nỗi không thực thể nào
trong ba có thể đứng vững một mình được. Dưới tác động của một
Chúa Thánh Thần duy nhất, cả ba, theo phương cách riêng, cùng
góp phần hữu hiệu vào việc cứu rỗi các linh hồn.
III. Sự
Linh Hứng
và Việc Chú Giải
Thánh Kinh
11.
Mẹ Hội
Thánh, nhờ đức tin tông truyền, xác nhận rằng toàn bộ Cựu Ước và
Tân Ước là Sách Thánh và được ghi vào quy điển Thánh Kinh: bởi
lẽ được viết ra dưới sự linh ứng của Chúa Thánh Thần nên tác giả
của các sách ấy là chính Thiên Chúa. Nhưng để viết các sách ấy,
Thiên Chúa đã chọn những con người và dùng họ trong khả năng và
phương tiện của họ, để khi chính Ngài hành động trong họ và qua
họ, họ viết như những tác giả thật tất cả những gì Chúa muốn, và
chỉ viết những điều đó thôi.
Vì
thế
mọi
điều
mà các
Thánh Ký
khẳng định
là
được khẳng định bởi Chúa Thánh Thần,
nên phải
công nhận rằng Thánh Kinh dạy ta cách chắc chắn, trung thành và
không sai lầm, những chân lý mà Thiên Chúa muốn Thánh Kinh ghi
lại vì phần rỗi chúng ta.
12.
Vì trong
Thánh Kinh, Thiên Chúa đã nhờ loài người và dùng cách nói của
loài người mà phán dạy, nên để thấy rõ điều Chúa muốn truyền
đạt, nhà chú giải Thánh Kinh phải cẩn thận tìm hiểu điều các
Thánh Ký thực sự có ý trình bày và điều Thiên Chúa muốn diễn tả
qua lời lẽ của họ.
Ðể tìm ra
chủ ý của Thánh Ký, chúng ta cần phải xét đến văn loại. Vì chân
lý được trình bày bằng nhiều thể văn khác nhau, như lịch sử,
tiên tri, thi phú hoặc những thể văn khác. Hơn nữa, nhà chú giải
còn có bổn phận tìm hiểu ý nghĩa mà trong những trường hợp xác
định, Thánh Ký đã muốn diễn tả và thực sự đã diễn tả trong hoàn
cảnh thời đại và văn hóa của họ, qua các lối văn được dùng trong
thời đó.
Nhưng
vì
Thánh Kinh
phải
được đọc và
chú
giải
trong
cùng một Thánh Thần
là Đấng đã
viết
Thánh Kinh. Để hiểu đúng ý nghĩa của Sách Thánh, chúng ta cũng
phải cẩn trọng lưu ý đến nội dung và sự thống nhất toàn bộ của
Thánh Kinh, dựa trên Thánh Truyền sống động của toàn thể Hội
Thánh và trên sự tương hợp toàn bộ đức tin.
Nhà
chú giải có nhiệm vụ nỗ lực tìm hiểu và trình bày ý nghĩa Thánh
Kinh cách sâu rộng hơn theo các qui tắc ấy, hầu sự học hỏi của
họ, như một việc làm sơ bộ, giúp phán quyết của Hội Thánh được
chín chắn. Chung cuộc mọi điều liên hệ đến việc chú giải Thánh
Kinh đều phải tùy thuộc vào phán quyết của Hội Thánh, vì Hội
Thánh được Thiên Chúa trao cho sứ mệnh và chức vụ gìn giữ và
giải thích Lời Chúa.
13.
Cho nên,
trong Thánh Kinh, trong khi sự chân thật và thánh thiện của
Thiên Chúa luôn được bảo toàn, sự "hạ cố" kỳ diệu của Ðấng khôn
ngoan muôn đời cũng được bày tỏ rõ ràng. Vì những lời của Thiên
Chúa được diễn tả qua ngôn ngữ loài người, được đồng hóa với
tiếng nói loài người, cũng như xưa Lời của Chúa Cha Hằng Hữu đã
trở nên giống loài người, sau khi nhận lấy sự yếu đuối của xác
thịt.
IV.
Cựu Ước
14.
Thiên Chúa
chí ái, khi ân cần trù liệu và chuẩn bị việc cứu độ toàn thể
nhân loại, đã tuyển chọn một dân tộc để ủy thác những lời hứa.
Vì
vậy chương trình cứu độ được các Thánh Ký tiên báo, thuật lại và
giải thích trong các sách Cựu Ước được coi như những lời nói
thật của Thiên Chúa. Vì thế các sách được Thiên Chúa linh ứng
này luôn có một giá trị vĩnh viễn.
15.
Mục đích
đặc biệt của kế
hoạch của Cựu Ước
là
chuẩn bị cho
Đức Kitô, Đấng cứu chuộc
mọi người,
và cho
vương quốc của Đấng
Thiên Sai.
Những
sách này, mặc dù chứa
đựng
những điều
chưa
hoàn hảo và tạm thời, nhưng
cho thấy
một khoa sư phạm thực sự của Thiên Chúa.
16. Vì vậy, Thiên Chúa là tác giả và
là Đấng
Linh Hứng
của cả hai Giao Ước.
Ngài
sắp
đăt cho
Tân Ước được tiềm ẩn trong Cựu Ước, và Cựu Ước trở nên sáng tỏ
trong Tân Ước.
Trong
Tân Ước,
những điều
trong Cựu
Ước nhận được
và
cho thấy ý
nghĩa đầy đủ của
chúng.
V.
Tân Ước
17. Lời Chúa được trình bày một cách
tuyệt diệu
trong các sách Tân Ước.
Ngôi
Lời đã thành nhục thể và ở giữa chúng ta
cùng khai
trương Nước
Thiên Chúa trên trần
gian. Người mặc khải Cha Người và Chính Mình qua lời nói, việc
làm và hoàn tất công trình của Người khi Người chết, sống lại,
lên trời vinh hiển và khi Người sai Chúa Thánh Thần đến.
Người
đã
kéo mọi người đến với
Người:
Mầu
nhiệm này chưa bao giờ được tỏ lộ cho các thế hệ khác, nay đã
được mặc khải trong Chúa Thánh Thần cho các Thánh Tông Ðồ của
Người và cho các Ngôn Sứ, để họ rao giảng Tin Mừng, cổ võ lòng
tin vào Chúa Giêsu, Ðấng Được Xức Dầu và là Chúa, để đoàn tụ Hội
Thánh.
18.
Các sách Tin Mừng ưu việt hơn tất cả các sách khác trong Tân Ước.
Ở
mọi thời và ở mọi nơi, Hội Thánh đã và vẫn luôn quả quyết rằng
bốn sách Tin Mừng bắt nguồn từ các Tông đồ.
Thật vậy, những điều mà theo lệnh truyền của Đức Kitô, các Tông
đồ rao giảng, sau này nhờ Chúa Thánh Thần linh hứng, chính các
ngài và những người sống bên các ngài đã lưu truyền cho chúng ta
bằng văn bản làm nền tảng đức tin dưới hình thức bốn sách Tin
Mừng.
19.
Hội Thánh
đã và luôn kiên trì quả quyết rằng bốn sách Tin Mừng nói trên,
mà lịch sử tính của chúng Hội Thánh không ngần ngại khẳng định,
trung thành lưu truyền những gì Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, khi
sống giữa loài người, thật sự đã làm và đã
dạy để họ được phần rỗi đời đời,
cho tới ngày Người được đưa lên trời.
Sau
khi Chúa lên trời, các Tông đồ đã truyền lại cho những người
nghe những gì Người đã nói làm với sự thông hiểu đầy đủ hơn mà
các ngài có nhờ học được từ các biến cố vinh hiển của Đức Kitô
và nhờ Thần Chân Lý dạy dỗ. Bốn Thánh Ký đã chọn một số trong
nhiều điều đã được truyền lại bằng miệng hay đã được viết lại,
tóm tắt hoặc giải thích một số điều tuỳ theo tình trạng của các
Hội Thánh, sau cùng các ngài vẫn giữ hình thức lời giảng, mà bao
giờ cũng nhằm truyền đạt cho chúng ta những điều xác thực và
chân thành về Chúa Giêsu.
20.
Ngoài bốn
sách Tin Mừng, quy điển Tân Ước còn bao gồm các Thư thánh Phaolô
và những văn bản khác thời các Tông đồ, đã được viết dưới sự
linh hứng của Chúa Thánh Thần. Do ý định khôn ngoan của Thiên
Chúa, các sách ấy xác nhận những gì liên hệ đến Đức Kitô, trình
bày mỗi ngày một rõ ràng hơn giáo huấn đích thực của Người, rao
giảng quyền năng cứu độ của công trình thần linh của Đức Kitô,
và tường thuật lại những bước đầu và sự bành trướng kỳ diệu cùng
tiên báo sự hoàn tất vinh hiển của Hội Thánh.
VI: Thánh Kinh trong đời sống của Hội Thánh
21.
Hội Thánh
đã luôn tôn kính Thánh Kinh như đã tôn kính chính Thánh Thể
Chúa: nhất là trong phụng vụ thánh, Hội Thánh không ngừng lấy
bánh ban sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa cũng như bàn tiệc Mình Đức
Kitô mà trao cho các tín hữu. Hội Thánh đã và vẫn luôn luôn coi
Thánh Kinh cùng Thánh Truyền như quy luật tối cao cho đức tin
của mình, bởi vì Thánh Kinh truyền đạt Lời của chính Thiên Chúa
cách bất di bất dịch. Vì vậy, toàn thể công việc rao giảng
trong Hội Thánh cũng như chính Kitô giáo phải được Thánh Kinh
nuôi dưỡng và hướng dẫn.
Lời
Chúa có năng lực lớn lao có thể nâng đỡ và ban sinh lực cho Hội
Thánh, cùng là sức mạnh cho đức tin, lương thực cho linh hồn,
nguồn sống tinh tuyền và trường tồn cho đời sống thiêng liêng
của các con cái Hội Thánh.
22.
Lối vào
Thánh Kinh phải được rộng mở cho các Kitô hữu. Chính vì thế,
ngay từ buổi đầu, Hội Thánh đã nhận bản Bảy Mươi làm của mình.
Hội Thánh luôn quý trọng các bản dịch Đông phương khác và các
bản dịch Latinh, nhất là bản Phổ thông. Nhưng vì Lời Chúa phải
luôn tiện dụng cho mọi thời đại, Hội Thánh liệu sao cho có các
bản dịch thích hợp và đúng nghĩa sang các thứ tiếng, nhất là
dịch từ nguyên bản các Sách Thánh. Nếu hoàn cảnh thuận tiện và
được giáo quyền chấp thuận, các bản dịch đó được thực hiện với
sự cộng tác của các anh em ly khai, để tất cả mọi Kitô hữu đều
có thể dùng được.
23.
Để
đạt được sự hiểu biết sâu
xa
hơn
về
Thánh Kinh, Hội Thánh
khuyến
khích cả việc nghiên cứu các Giáo Phụ Đông phương cũng như Tây
phương và các loại Phụng vụ thánh.
Các
nhà chú giải Thánh Kinh Công Giáo và
các nhà
nghiên cứu thần học phải cùng nhau
làm việc dưới sự
chỉ dẫn
của Huấn Quyền, để
khảo sát
và trình bày Thánh Kinh, ngõ hầu có càng nhiều càng tốt những
người phục vụ Lời Chúa có khả năng cung cấp hữu hiệu cho dân
Chúa lương thực Thánh Kinh một cách hiệu quả,
phù
hợp với đường hướng
của Hội Thánh.
24.
Bởi vì
Khoa Thần học dựa trên Thánh Kinh vài Thánh Truyền, như dựa trên
một nền tảng trường tồn, cho nên việc học hỏi Thánh Kinh phải
như linh hồn của khoa Thần học.
Nhờ
chính lời Thánh Kinh này, thừa tác vụ Lời Chúa, gồm có việc
giảng thuyết mục vụ, việc dạy giáo lý và toàn thể giáo huấn Kitô
giáo, trong đó bài giảng trong phụng vụ phải chiếm ưu thế, được
nuôi dưỡng lành mạnh và tăng cường sinh lực thánh thiện.
25. Do đó tất cả các giáo sĩ, đặc biệt là các linh mục
và những ai phục vụ Lời Chúa, như các
phó tế hay giáo lý viên,
phải
quen thuộc với Thánh Kinh
nhờ chuyên
cần đọc Sách Thánh và học hỏi kỹ càng.
Công Đồng nhiệt liệt và đặc biệt khuyến khích mọi Kitô hữu, nhất
là các tu sĩ, học được “sự hiểu biết tuyệt vời về Chúa Giêsu
Kitô” (Pl 3,8) nhờ năng đọc Sách Thánh,
vì
“không biết Thánh Kinh là không biết Đức Kitô”.
Hơn nữa, họ nên nhớ rằng
kinh
nguyện
phải
đi cùng với việc đọc Thánh Kinh.
Các
Giám Mục
có phận sự
dạy cách thích hợp cho các tín hữu đã được uỷ thác cho các ngài
biết sử dụng cho đúng các Sách Thánh. Việc này có thể được thực
hiện qua các bản dịch Sách Thánh có kèm theo những lời giải
thích cần thiết và đầy đủ.
Hơn nữa,
cũng nên
cung cấp các bản dịch
Thánh Kinh với các ghi chú phù hợp
để
sử dụng
cho những
người ngoài Kitô giáo.
Kết Luận
26.
Chớ gì nhờ
việc đọc và
học hỏi
các Sách Thánh,
Lời Chúa được lan tràn nhanh chóng cùng được tôn vinh,
và
kho tàng Mặc Khải càng ngày càng đổ đầy tâm hồn con người.
Như
đời sống Hội Thánh được tăng trưởng nhờ năng tiếp xúc với mầu
nhiệm Thánh Thể thế nào, thì chúng ta cũng được phép hy vọng
rằng đời sống thiêng liêng nhận được một kích thích mới nhờ việc
gia tăng lòng sùng kính Lời Chúa, là Lời tồn tại muôn đời.
Phaolô
Phạm Xuân Khôi tóm lược
http://giaoly.org/vn/ |
VỀ MỤC LỤC |
|
Hư không |
Lm. Minh
Anh chuyển ngữ
Nguyên tác: Taking Flight - Bay Lên Đi
Tác giả: Anthony de Mello, S.J.
Chuyển ngữ: Lm. Minh Anh (Gp. Huế)
Chỉ dẫn:
Tốt nhất, các câu chuyện sẽ được đọc theo thứ tự như đã sắp xếp.
Mỗi lần đọc không quá một hoặc hai mẩu chuyện nếu bạn ước ao có
được một cái gì đó hơn là chỉ giải trí.
Lưu ý:
Các chuyện kể trong tập sách này đến từ nhiều đất nước, nhiều
nền văn hoá và tôn giáo khác nhau; chúng thuộc về những di sản
thiêng liêng, những câu chuyện hài hước được ưa chuộng của dòng
đời nhân loại.
Những gì tác giả làm là xâu kết chúng lại với nhau theo một ý
hướng đặc thù. Công việc của tác giả là công việc của người thợ
dệt và thợ nhuộm, tác giả chẳng có công trạng gì về những tấm
vải và những sợi chỉ.
LTS. Chỉ
dẫn và lưu ý trên đây là của tác giả. Tuy nhiên, vì Đặc San GSVN
chỉ phát hành 2 tuần một lần nên mỗi số báo BBT xin giới thiệu
trung bình từ 5 đến 7 mẫu chuyện. Bạn đọc có thể lưu lại để
nghiền ngẫm suy tư.
Chủ đề : Các “Thánh”
139. Hư không
Người môn
đệ Subhuti của Phật đột nhiên khám phá sự vô biên và phong nhiêu
của hư không - nhận ra rằng mọi thứ đều phù du, hụt hẫng và vô
ngã. Trong tâm trạng hư vô thần thiêng này, người môn đệ vui
sướng ngồi dưới gốc cây thì đột nhiên, hoa bắt đầu rơi chung
quanh mình.
Các vị
thần thì thầm, “Chúng tôi vô cùng thích thú trước những giáo
huấn siêu phàm của ông về sự hư không”.
Subhuti
đáp, “Nhưng tôi không hé một lời về sự hư không”.
“Đúng”,
các vị thần đáp. “Ông không nói về sự hư không, chúng tôi không
nghe sự hư không. Đây quả là hư không đích thực”.
Và những
cơn mưa hoa tiếp tục...
Nếu tôi đã
nói về sự trống rỗng của mình hoặc thậm chí ý thức về nó, liệu
nó có còn trống rỗng chăng?
Âm nhạc
cần đến những cái lỗ của cây sáo; chữ viết cần đến cái trắng
tinh của trang giấy; ánh sáng cần đến những khoảng không gọi là
cửa sổ; thánh thiện cần đến sự vắng bóng của bản ngã.
ڰ
140. Khiêm nhượng ống điếu
Một giáo
sĩ cao niên liệt giường, các đồ đệ thì thầm bên cạnh ông. Họ
đang ca tụng các nhân đức vô song của thầy mình.
“Kể từ
thời Salomon, không có người nào khôn ngoan như ngài”, một người
trong họ trầm trồ. “Niềm tin của ngài mạnh như đức tin của tổ
phụ Abraham”, người khác bảo. “Chắc chắn lòng kiên nhẫn của ngài
không thua gì lòng kiên nhẫn của Giacóp”, người thứ ba bảo. “Chỉ
trong Môisen, chúng ta mới có thể tìm thấy người nào đó trò
chuyện thân tình với Chúa”, người thứ tư bảo.
Vị giáo sĩ có vẻ lo lắng. Khi các đồ đệ đã đi ra, vợ ông bảo,
“Ông có nghe họ ca ngợi ông không?”.
“Tôi có nghe”, giáo sĩ đáp.
“Thế thì tại sao ông bực bội đến thế?”, người vợ hỏi.
“Sự khiêm tốn của tôi”, giáo sĩ phàn nàn. “Không ai đề cập sự
khiêm tốn của tôi!”.
Người ta thực sự làm thánh khi nói “Tôi chỉ là bốn bức tường
trống rỗng - không có gì bên trong”. Không ai có thể tràn đầy
hơn.
ڰ
141. Linh mục mất tích
Một linh mục chín mươi hai tuổi được mọi người trong thành tôn
kính. Khi ngài xuất hiện trên đường, người ta cúi chào - đó là
nhờ danh thơm thánh thiện của ngài. Ngài cũng là hội viên Câu
Lạc Bộ Rotary. Mỗi lần câu lạc bộ hội họp, ngài đều hiện diện,
luôn đúng giờ và luôn ngồi ở chỗ ngài yêu thích nhất là ở góc
phòng.
Ngày kia, vị linh mục mất tích. Ngài như thể biến mất vì dù tìm
ở đâu, dân thành cũng không thể thấy dấu vết nào của ngài.
Tuy nhiên, vào tháng sau, khi câu lạc bộ họp, ngài vẫn ở đó như
thường lệ, ngồi ở góc.
“Nhưng thưa Cha”, mọi người la lên, “Cha đã ở đâu?”.
“Ở tù”, Cha bình thản trả lời.
“Ở tù? Lạy Chúa, cha không làm tổn thương một con ruồi! Điều gì
đã xảy ra?”.
“Chuyện dài lắm”, cha bảo, “Nhưng tắt một lời, chuyện thế này:
Cha mua cho mình một vé xe lửa đến thành phố và chờ ở sân ga cho
đến khi một cô gái xinh đẹp trời đánh bị một viên cảnh sát dẫn
đi. Cô ta nhìn cha rồi quay lại nói với viên cảnh sát, “Chính
hắn đã làm điều đó”. Và thành thật mà nói, cha đã quá tự tôn khi
biện hộ cho mình.
ڰ
142. Giữ thinh lặng
Bốn thầy dòng quyết định thinh lặng một tháng. Họ khởi đầu khá
tốt, nhưng sau ngày thứ hai một thầy nói, “Tôi phân vân liệu
mình có khóa cửa phòng trước khi chúng ta bắt đầu ra đi không”.
Thầy khác nói, “Anh ngốc thật! Chúng ta đã quyết định giữ thinh
lặng một tháng và bây giờ anh đã đi và phá vỡ sự thinh lặng!”.
Thầy thứ ba bảo, “Anh thì sao? Anh cũng phá vỡ sự thinh lặng!”.
Thầy thứ tư bảo, “Cám ơn Chúa, tôi là người duy nhất chưa
nói!”.
ڰ
142. Đau đầu
Một người đàn ông vào phòng bác sĩ và nói, “Thưa bác sĩ, tôi đau
đầu kinh khủng, đau liên lỉ. Bác sĩ có thể cho tôi một loại
thuốc nào đó để trị nó không?”.
“Được thôi”, bác sĩ đáp, “Nhưng tôi muốn kiểm tra một vài điều
trước đã. Hãy nói cho tôi hay anh có uống nhiều rượu không?”.
“Rượu?” người đàn ông phẫn nộ hỏi, “tôi không bao giờ nếm thứ
cặn bã đó”.
“Hút thuốc thì sao?”.
“Thật kinh tởm. Chưa một lần trong đời tôi đụng đến thuốc lá”.
“Tôi hơi bối rối khi hỏi điều này, anh có thường chạy quanh vào
ban đêm không?”.
“Dĩ nhiên không. Ông có ý gì? Tôi ở trên giường mỗi đêm, muộn
nhất là mười giờ”.
“Hãy cho tôi hay”, bác sĩ bảo, “chứng đau đầu mà anh nói đến có
dữ dội và gay gắt không?”.
“Vâng”, người đàn ông trả lời. “Có - đau dữ dội và gay gắt”.
“Đơn giản, anh bạn thân mến của tôi! Vấn đề chỉ là tại anh quá
căng thẳng với những gì trong đầu. Vậy chỉ cần để cho cái đầu
của anh nghỉ ngơi.
Vấn đề nằm ở chỗ lý tưởng. Nếu lý tưởng hoá tất cả, bạn không
thể sống nổi với chúng.
ڰ
143. Từ chối chức huân tước
Một chính trị gia uy thế ở Anh không ngừng tìm cách gây ảnh
hưởng để được thủ tướng Dioraeli phong chức huân tước. Thủ tướng
không biết làm sao thoả mãn được mong muốn của nhà chính trị,
nhưng cũng liệu cách từ chối mà không gây tổn thương cho ông.
Ông nói, “Tôi xin lỗi, tôi không thể trao cho anh chức huân tước
nhưng tôi có thể trao cho anh một điều gì đó tốt hơn. Anh có thể
mách với bạn bè rằng, tôi cho anh chức huân tước và anh đã từ
chối nó”.
ڰ
144. Kẻ tưởng mình có tội
Ngày kia, một giám mục quỳ trước bàn thờ với niềm sốt mến đạo
đức dâng trào, ngài bắt đầu đấm ngực và hô lên: “Con là kẻ tội
lỗi, xin thương xót con! Con là kẻ tội lỗi, xin thương xót
con!”.
Linh mục quản xứ được thôi thúc bởi gương khiêm tốn này cũng quỳ
xuống bên cạnh giám mục, bắt đầu đấm ngực và nói, “Con là kẻ tội
lỗi, xin thương xót con! Con là kẻ tội lỗi, xin thương xót
con!”.
Người giữ phòng thánh nhà thờ tình cờ có mặt lúc đó đã xúc động
đến không thể kìm mình. Anh cũng quỳ xuống, đấm ngực và than
van, “Con là kẻ tội lỗi, xin thương xót con!”.
Thấy thế, vị giám mục hích khuỷu tay vào linh mục, chỉ người giữ
phòng thánh rồi mỉm cười nói: “Coi kìa, một kẻ tưởng mình có
tội”. |
VỀ MỤC LỤC |
|
CÁC MỐI TƯƠNG QUAN MỤC VỤ (tiếp theo) |
Lm. Micae-Phaolo Trần Minh Huy, pss.
BẢN THẢO
ỨNG SINH LINH MỤC HỌC & SỐNG LINH ĐẠO LINH MỤC GIÁO PHẬN
GIÁO TRÌNH TU ĐỨC LỚP THẦN II & III
ĐẠI CHỦNG VIỆN THÁNH GIUSE HÀ NỘI
2011-2012
CHƯƠNG HAI
ỨNG SINH LINH MỤC GIÁO PHẬN HỌC VƯỢT LÊN KHỦNG HOẢNG VÀ TÁI ĐỊNH
HƯỚNG ĐỜI SỐNG VÀ SỨ VỤ ƠN GỌI LINH MỤC
LINH MỤC GIÁO PHẬN SỐNG SỨ VỤ TRONG CÁC MỐI TƯƠNG QUAN MỤC VỤ
(tiếp theo)
16. Tương
quan với giới thiếu nhi
16.a Những gì nên cư xử, nói và làm
· Thiếu
nhi là tương lai của Giáo hội và đất nước, cần được uốn nắn từ
nhỏ, nên phải dạy giáo lý và đào tạo các em nên người, nên người
kitô hữu và nên người tông đồ mai sau.
· Đầu
tư thời giờ, tiền bạc, sách vở cho việc giáo dục các em thiếu
nhi về giáo lý và kiến thức xã hội. Khuyến khích các em tham gia
buổi học giáo lý theo từng lứa tuổi, với tất cả lòng nhiệt thành
yêu mến.
· Tổ
chức việc dạy và học giáo lý sao cho hiệu quả, tăng tiến đức tin
và đời sống thiêng liêng. Nên vận dụng sự hấp dẫn của những sinh
hoạt vui chơi, ca múa và phương pháp nghe nhìn.
· Nên
để các em tự do lui tới và vui chơi trong khu vực nhà thờ, nhà
xứ. Các em sẽ có ấn tượng là ngoài mái ấm gia đình thì nhà thờ,
nhà xứ được coi như gia đình thứ hai ghi khắc nhiều kỷ niệm sống
đạo đẹp đẽ của tuổi thơ các em.
· Cần
tổ chức các buổi sinh hoạt, liên hoan văn nghệ, vui chơi tập thể
như hội chợ, các trò chơi thi đua, các trò chơi vận động để các
em phát triển tính sáng tạo và sống hoà đồng với nhau. Cũng đừng
quên tổ chức những buổi hành hương, tham quan cho thiếu nhi.
· Cố
gắng sống tinh thần trẻ trung, dí dỏm, quảng đại và vui vẻ, để
các em có thể đến gần và coi linh mục là người cha, người thầy
đáng mến và gần gũi, yêu thương.
· Hãy
vẽ vào tâm hồn trong trắng các em những dường nét đầu tiên của
Phúc âm Chúa; chúng sẽ ảnh hưởng mạnh nơi các em suốt đời.
· Phải
có sự thống nhất đời sống và lời giảng dạy: các em sẽ nhìn vào
cách ta sống mà bắt chước hơn là nghe lời ta nói, cho dù hay ho
đến mấy đi nữa, hầu giúp các em hướng thiện.
· Hãy
tiết kiệm lời hứa, nhưng phải giữ lời hứa với mọi người, nhất là
với thiếu nhi. Luôn tỏ thái độ dịu dàng và vui tươi với các em.
· Hàng
tuần nên có thánh lễ dành riêng cho các em, để giúp các em tham
dự với ý thức, tích cực và sống động, hầu thăng tiến đời sống
đức tin và đạo đức của các em. Cũng nên tổ chức những buổi dành
riêng cho các em cầu nguyện và chầu Thánh Thể.
· Quan
tâm tới việc giáo dục nhân bản và giáo dục đức tin cho các em,
qua việc mở các lớp học Giáo lý phù hợp theo từng lứa tuổi của
các em. Có chương trình cụ thể cho việc Xưng Tội, Thêm Sức trong
năm.
· Trong
giao tiếp nên dùng những cử chỉ gần gũi, lời nói nhẹ nhàng thân
thiện và tỏ ra hiểu nhu cầu của các em. Nên coi các em như những
người con để tận tình hướng dẫn, chỉ bảo hầu giúp các em sống
mỗi ngày một tốt hơn.
16.b Những gì không nên cư xử, nói và làm
· Không
quá nghiêm khắc la hét, quát tháo hay doạ nạt, nhất là đừng bao
giờ đánh các em vì bất cứ lý do gì. Phải chấp nhận và nhẫn nại
chịu đựng tính hiếu động, thích chơi nghịch cách thoả mái, tự
do, hồn nhiên của các em. Nhưng cũng không quá dễ dãi, đừa cợt
với các em, vì như vậy không thể giáo dục các em được.
· Tuyệt
đối không đánh trẻ nhỏ, không dùng hình phạt có tính nhục mạ,
xúc phạm đến nhân phẩm em nào trước mặt cộng đoàn, trong nhà
thờ, nhất là giữa thời buổi tôn trọng và đề cao cá nhân và trẻ
con như hiện nay.
· Không
bao giờ được lợi dụng sự thân thiện, đơn sơ của trẻ để có những
hành vi đồi bại làm gương xấu cho các em. Không bao giờ gọi trẻ
vào phòng riêng một mình, tránh chiều chuộng em này hơn em khác.
Hãy thận trọng và đứng đắn đối với trẻ nữ.
· Không
coi thường các em mà hứa suông bao giờ. Nếu đã hứa gì thì đừng
rút lại và phải giữ lời hứa. Không nói những lời cũng như làm
những việc thiếu lịch sự trước mặt các em. Vì chúng như tờ giấy
trắng, cần in những lời nói việc làm tốt đẹp vào tâm hồn chúng.
· Không
nên khoán trắng thiếu nhi cho người phụ trách, để rồi chúng như
thế nào cũng không biết. Không nên phó mặc thiếu nhi cho thầy
xứ, các dì, giáo lý viên, ông bà quản… trong việc dạy giáo lý.
Đừng quá bủn xỉn trong việc đầu tư: tiền của, thời gian… cho
việc giáo dục đức tin cho các em.
· Đừng
bao giờ quở trách các em trong khi tham dự phụng vụ, nếu cần hãy
chỉ bảo các em cách dịu dàng. Không la mắng khi không cần thiết,
và sau khi la mắng hãy luôn làm hòa cách vui vẻ, trung thực.
17. Tương
quan với người giúp nhà xứ, nhất là cô bếp
17.a Những gì nên cư xử, nói và làm
· Nhu
cầu có người giúp việc là điều chính đáng. Tuy nhiên, người
nữ giúp việc đừng có trẻ quá (phải
đủ tuổi luật buộc), đừng quá nhan sắc, đừng
quá nhí nhảnh, đừng
quá khoe khoang, đừng lắm lời, đừng quá tò mò chuyện người khác,
cũng đừng có tiếng xấu, nghĩa
là đừng để nên cạm bẫy cho cha hay làm dịp cho người khác ngờ
vực.
· Đừng
bao giờ hỏi ý kiến hay tâm sự với họ về nỗi đau buồn, chán
chường, hoặc nỗi thất vọng của mình. Cây leo trước tiên bắt đầu
bò từ gốc rễ, không ngờ nó lớn lên, cao lên rồi nó vấn vít đè
ngột cả những cành cao nhất. Cây leo của cha bò tới đâu rồi?
· Nhớ
lời thánh Cypriano dạy phải luôn nghiêm khắc đối với phụ nữ và
thi hành quyền bính nghiêm trang đứng đắn. Tại nhà xứ, quyền
bính phải được thi hành dưới hình thức quân chủ chứ không phải
lối dân chủ (bàn hỏi và theo ý kiến người giúp việc).
· Hãy
liệu để người nữ giúp việc biết niềm nở tiếp đón các linh mục,
tu sĩ, khách khứa, người nghèo và bổn đạo. Người
nữ giúp việc càng kém phẩm chất bao nhiêu, càng làm cha mất lòng
dân và đưa cha đến thất bại, suy sụp bấy nhiêu.
· Phải
thông cảm với họ là họ phải cáng đáng bao nhiêu là những công
việc lặt vặt không tên trong ngày. Nên có những lời động viên
khích lệ, nhất là trong những lúc bận nhiều công việc. Có những
lời khen hoặc chê đúng lúc, đúng hoàn cảnh với ý hướng xây dựng.
Nên thông cảm và tha thứ những thiếu sót hay lỗi lầm của họ.
· Tôn
trọng giá trị phục vụ của họ và hãy trả tiền công cho họ cách
xứng đáng và sòng phẳng. Còn họ giúp không thì cũng phải tìm
cách bù đắp cho họ một cách tương xứng. Nên tặng cho họ những
món quà vật chất nhân dịp lễ tết và thăm hỏi gia đình nhân dịp
này. Cũng nên khôn khéo và tế nhị quan tâm đến nhu cầu và ước
vọng của họ, giúp đỡ đời sống của họ và bố mẹ họ để họ nhiệt tâm
giúp việc.
17.b Những gì không nên cư xử, nói và làm
· Không
để người giúp việc đem chuyện thiên hạ vào nhà xứ hoặc chuyện
nhà xứ ra cho thiên hạ. Ngày nào bà trở thành tờ báo sống, nó sẽ
làm người ta khó chịu và có trăm ngàn phản ứng sai lạc. Nếu vì
cô bếp mà phải bị ngờ vực tai tiếng thì hãy để cho về ngay.
· Không
làm cho cô bếp phải khóc lóc: nước mắt đàn bà là vũ khí lợi hại
của họ, nhưng là thuốc độc và cạm bẫy khó lường cho đàn ông.
Người ta bảo rằng có người biển sâu sông rộng không chết đuối mà
lại chết đuối ở hố trâu nằm!
· Tự
làm lấy những công việc vệ sinh, dọn dẹp trong phòng riêng,
không nên để cô bếp suốt ngày lục sục trong phòng cha, dễ khiến
người ngoài nghi ngờ, khó chịu.
· Không
nên để cô bếp vào phòng riêng của cha quét dọn và nói chuyện lâu
giờ. Không kêu cô bếp vào phòng ban đêm để giúp đỡ việc này việc
nọ hay vào phòng riêng của họ. Những khi đau yếu bệnh tật, nên
nhờ thêm người giúp đỡ chứ không phải chỉ mình cô bếp lo lắng
cơm cháo, xức dầu, xức thuốc... “Tối trời, nhà tranh cũng như
nhà ngói!”
· Không
quan tâm quá mức đến họ và việc nội trợ của họ. Không nên quá
pha mình vào việc nội trợ, nên để cho người giúp việc một phần
tự do trong nhiệm vụ của họ. Không nên quá gần gũi. Phải có giới
hạn và khoảng cách cần thiết. Không quá thân mật, đùa cợt, dễ
gây hiểu lầm tổn thương uy tín và danh dự.
· Không
nên để họ can thiệp vào công việc mục vụ của mình. Không tâm sự
với họ về bất cứ điều gì, nhất là những nỗi đau buồn hay chuyện
riêng của mình: sự thông cảm, chia sẻ đó sẽ là một bẫy ngầm.
· Không
được khinh dể và thiếu bác ái đối với họ, nhiều khi bác ái đối
với người ngoài nhưng lại không bác ái với người trong nhà.
· Không
để cô bếp ăn chung, nhất là khi có khách; khách sẽ rất khó chịu
vì khó nói chuyện. Khi ăn cơm, cha có thể tiếp và trao đổi với
giáo dân.
18. Tương
quan với Chính Quyền
18.a Những gì nên cư xử, nói và làm
· Tính
nhã nhặn là hoa thơm của phép lịch sự, nó bắt nguồn từ đức khiêm
nhượng và bác ái. Linh mục nhã nhặn hấp dẫn và xây dựng kẻ khác,
đồng thời được thêm uy tín và tín nhiệm.
· Chấp
hành những nghĩa vụ chính đáng của một người công dân. Tôn trọng
các cấp chính quyền, bằng thái độ cởi mở và thân thiện, bình
tĩnh cùng nhau trao đổi, đối thoại và nghiên cứu giải quyết các
vấn đề liên quan giữa hai bên. Cộng tác trong vấn đề thực hiện
công ích như an sinh xã hội, phục vụ người nghèo, thăng tiến con
người, đẩy lui những tệ nạn xã hội…
· Giữ
liên lạc thiện chí với chính quyền. Thỉnh thoảng nên viếng thăm
xã giao để tỏ lòng kính trọng họ, nhất là những dịp lễ lớn của
Đất Nước và truyền thống Dân tộc. Cũng nên mời họ tới dự những
dịp lễ lớn của mình để cảm thông và hiểu biết nhau hơn.
· Sống
giản dị và ân cần tiếp đón mọi người, sẵn sàng lắng nghe và đừng
bao giờ để ai đến gặp mình phải bất mãn ra về. Nên tiếp xúc đối
thoại để thông cảm với nhau hơn về những vấn đề xã hội và cuộc
sống của dân chúng, hầu cộng tác lành mạnh lo cho những người
nghèo trong lãnh địa mình phục vụ, theo đường hướng của Giáo
Hội.
· Cố
gắng tỏ cử chỉ yêu thương thật lòng, cảm thông, lắng nghe, trao
đổi, thảo luận và giúp họ chu toàn bổn phận lo cho dân giàu nước
mạnh, cổ vũ và phát huy những sáng kiến mới.
· Khi
có dịp, có thể cùng làm việc với họ trong các vấn đề xây dựng
cuộc sống của người dân, đặc biệt trong lãnh vực giáo dục, đạo
đức và luân lý, bác ái và từ thiện.
· Tôn
trọng họ và coi họ như những người anh em của mình mà Chúa muốn
cứu độ.
18.b Những gì không nên cư xử, nói và làm
· Không
cộng tác trong vấn đề chính trị, nhất là chính trị đảng phái
hoặc tổ chức chính trị nghịch lại ý muốn của Hội Thánh. Không
nên gieo mình vào chính trị, nếu không muốn người ta động đến
việc tôn giáo của mình.
· Không
nóng nảy kiêu căng, cãi cọ khi vừa bị phản đối, nhưng tìm thông
cảm với chính quyền để loại bỏ những điều nghi kỵ; khi cần nên
hy sinh và chịu đựng đôi tí để giữ bình an và hòa khí; xử sự có
tư cách và tha thứ các lỗi lầm của họ.
· Đừng
tránh gặp chính quyền hay có gặp là chỉ để tấn công với những
lời chê trách chua chát. Trong các buổi họp, cũng như trên toà
giảng, không nói gần nói xa với hậu ý, nói ám chỉ để đả kích,
bêu xấu… nhà chức trách.
· Không
nhượng bộ những quyền lợi chính đáng và thiêng liêng của Giáo
Hội, của cộng đoàn, của giáo dân, của con người đúng với sự
thật, công bằng và công lý. Không nôn nóng cho được việc mà hối
lộ tiêu cực hay manh động đấu tranh.
· Phải
tránh thái độ đối kháng hay khép kín, nhưng hãy mở lòng ra để
đối thoại. Và khi giao tiếp, phải tránh những cử chỉ và lời nói
thiếu tôn trọng người đối thoại và thiếu tư cách về phía mình.
· Khi
Chính quyền cần gặp gỡ và trao đổi với giáo dân, hãy liệu có nơi
thuận tiện, chứ tuyệt đối không đưa vào nhà thờ để chính quyền
gặp gỡ bà con giáo dân, nhất là khi nội dung đi ngược lại giáo
huấn của Hội Thánh.
· Không
chống lại các chính sách hợp lý của Nhà Nước; không cản trở giáo
dân trong những bổn phận dân sự họ phải đóng góp; không cản trở
chính quyền trong việc bài trừ các tệ nạn, các tội phạm.
· Tránh
độc thoại, phê phán và giảng chửi chính quyền trước mặt giáo dân
trong thánh lễ. Như thế sẽ làm cho họ gặp khó khăn trong việc
lãnh đạo và công tác, dẫn tới nghi kỵ và đối kháng lẫn nhau.
· Không
được cộng tác với họ trong các vấn đề gây tổn thương đức tin,
phong hóa và luân lý. Không để họ gợi ý và ép buộc, điều khiển
mình theo ý hướng và mục đích của họ.
· Nỗ
lực sống đúng thiên chức linh mục, chiến đấu để tránh rơi vào
tình cảnh mà con người yếu đuối thường mắc phải là vấn đề nhục
dục giới tính nam nữ; cảnh giác kể cả trường hợp có thể bị gài
bẫy. Nếu có lỡ mắc phải, hãy khiêm tốn chân thành trình bày xin
thẩm quyền tìm cách giải gỡ, luôn đứng về phía Chúa và Giáo Hội;
càng chấp nhận điều kiện để che đậy hầu bảo vệ thanh danh cá
nhân càng sa lầy, và cuối cùng khi hết giá trị lợi dụng họ cũng
bạch hóa ra thôi. |
VỀ MỤC LỤC |
|
CHOLESTEROL CÓ
XẤU KHÔNG NHỈ? |
Bác sĩ
Nguyễn Ý-ĐỨC
Sau tiệc
tùng trong dịp lễ Tết thì cũng không ít bà con mình sẽ để ý tới
vấn đề sức khỏe liên quan tới việc ăn uống. Một trong các ưu tư
đó là liệu có cần đi bác sĩ để coi xem mỡ cholesterol trong máu
của mình có lên cao sau những linh đình liên hoan với thịt mỡ,
dưa hành, heo vịt quay béo ngậy. Vì cholesterol vốn đã được gán
cho là gây ra nhiều bệnh cho trái tim thân yêu của con người.
Cholesterol có thật sự “xấu” như vậy không?
Xin cùng tìm
hiểu.
1. Cholesterol là gì?
Cholesterol
là một chất béo được bao bọc bởi một lớp đạm hiện diện trong cơ
thể của các loại động vật kể cả con người. Mặc dù bị mang tiếng
là không tốt, nhưng cholesterol là một phần cần thiết của màng
các tế bào, được dùng để sản xuất một số kích thích tố, tạo ra
sinh tố D trên da bằng tia nắng cũng như tạo ra acit mật để
tiêu hóa chất béo. Cholesterol chiếm 70% các chất cấu tạo tế bào
của não bộ.
2. Có mấy loại cholesterol?
Có 2 loại
cholesterol:
a.
Cholesterol trong máu:
Thử máu
cho ta biết số lượng cholesterol lưu hành trong máu.
85%
cholesterol trong máu là do gan sản xuất, 15% còn lại là do thức
ăn có cholesterol mà ta tiêu thụ như trứng, chất béo từ gà, vịt,
heo, bò. Vì gan sản xuất nhiều cholesterol cho nên một số người
dù ăn thực phẩm có nhiều cholesterol mà cholesterol trong máu
vẫn thấp. Ngược lại một số người khác ăn ít cholesterol mà
cholesterol vẫn cao.
Vì là chất
hòa tan trong dầu mỡ, cho nên cholesterol không tự lưu hành
trong máu. Để luân lưu, cholesterol được một loại chất đạm là
lipoprotein mang đi. Có 2 loại lipoprotein: LDL (Low density
lipoprotein) mang 2/3 tổng số cholesterol và HDL (high density
lipoprotein) chuyên chở 1/3 cholesterol còn lại. Về kích thước
LDL lớn hơn HDL.
Có giải
thích nói HDL được coi như phần tử hiền lành tốt
bụng vì y ta vừa không cho cholesterol bám vào thành động mạch
mà còn đưa cholesterol ở máu vào gan để rồi được loại ra khỏi cơ
thể qua ruột. Nhờ đó bớt mỡ lưu thông trong máu, làm giảm nguy
cơ đóng mỡ ở thành động mạch, giảm nguy cơ bệnh vữa xơ động
mạch.
Ngược lại cô
em song sinh LDL thì láo lếu hơn vì đương sự để
cholesterol bám vào thành động mạch, gây ra vữa xơ tắc nghẽn và
tăng rủi ro bệnh tim.
Ngoài ra còn
một loại thứ ba gọi là VLDL, very low density lipoprotein,
chuyên trở một lượng rất ít cholesterol và một chất béo khác gọi
là triglyceride.
b.
Cholesterol do thực phẩm có nguồn gốc động vật cung cấp.
Xin nhớ là
thực phẩm Thực vật không có cholesterol nhưng vẫn có chất
béo.
3. Cholesterol trong cơ thể từ đâu mà ra?
Như đã nói ở
trên, trong cơ thể, 85% cholesterol là do gan sản suất,
khoảng 1000 mg/ ngày, vừa đủ để thỏa mãn nhu cầu của cơ thể, vì
thế đúng ra ta cũng không cần tiêu thụ thêm cholesterol từ thực
phẩm. Ngoài ra, khi ta tiêu thụ nhiều cholesterol thì gan tự
động giảm sản xuất.
4. Làm sao biết có cholesterol trong máu?
Đo
cholesterol trong máu cho biết số lượng cholesterol toàn phần,
HDL, LDL và VDRL.
Cholesterol
các loại được đo bằng đơn vị phần ngàn của gram ( milligram) mg
trên phần mười lít (decilitre) dl máu. Viện Sức khỏe Quốc Gia
Hoa Kỳ đã đưa các chỉ số sau đây để dùng làm tiêu chuẩn:
Lý
tưởng Tạm được Không tốt
Tổng số
Cholesterol:
Dưới 200 mg/dl 200-240 mg/dl Trên 240mg/dl
HDL
cholesterol:
Trên 45mg/dl 35- 45 mg/dl Dưới 35mg/dl
LDL
cholesterol:
Dưới 130 mg/dl 130-160 mg/dl Trên 160mg/dl
Sau 20 tuổi,
nên đo cholesterol mỗi 5 năm một lần; đo thường hơn khi
cholesterol lên cao.
c- Ngoài ra
chất Triglyceride và VLDL cũng cần được theo dõi.
Mặc dù vai trò của chúng trong nguy cơ gây bệnh tim chưa được
xác định, nhưng nhiều chứng minh cho là khi chất này lên cao thì
đều không tốt cho tim.
Lượng
Triglyceride dưới 200mg/ dl được coi như bình thường. Nó thường
lên cao trong bệnh tiểu đường, bệnh thận.
5. Cholesterol có gây nguy hại cho sức khỏe không?
Chất béo
cũng như cholesterol không phải là chất có hại đối với cơ thể mà
là chất sinh tử cho mọi tế bào động vật. Cho nên thực là không
công bằng khi gán cho mỡ béo danh vị thực phẩm “xấu”. Nhưng một
chế độ dinh dưỡng không cân bằng, kém đa dạng, quá nhiều chất
béo có thể đưa tới hậu quả bệnh tật cho con người.
Xin nhắc lại
là để hoạt động hữu hiệu, các mạch máu, cũng như các bắp thịt,
cần được tốt mạnh, uyển chuyển và giữ đàn tính. Lòng mạch máu
cần trơn tru để máu dễ dàng lưu thông.
Trong bệnh
vữa xơ động mạch, thành động mạch có những bựa gồm có
cholesterol và tế bào máu đóng vào, khiến nó trở nên thu hẹp gây
trở ngại cho sự vận chuyển của máu.
Máu huyết
tới tim giảm, tim kém được nuôi dưỡng, giảm hoạt động rồi một
lúc nào đó đưa đến cơn kích tim.
Những miếng
bựa có thể bứt rời thành mạch máu, ngao du khắp cơ thể theo hệ
tuần hoàn rồi gây ra nghẽn mạch. Lên đến não nó tạo ra tai biến
mạch máu não, tới tim nó gây ra nhồi máu cơ tim.
Ngoài ra
cholesterol trong máu lên cao theo số tuổi; khi cân quá nặng
nhất là béo mập ở vùng bụng; khi có các bệnh tiểu đường, cao
huyết áp; di truyền cao cholesterol từ bố mẹ; khi có nếp sống
không lành mạnh như lạm dụng rượu, thuốc lá, có đời sống quá
tĩnh tại hoặc có nhiều mối lo âu, bất mãn.
6. Làm sao giảm cholesterol?
- Điểm cần
để ý trước hết là giảm tiêu thụ cholesterol không ảnh hưởng
nhiều tới lượng cholesterol trong máu bằng khi ta bớt tiêu thụ
thực phẩm có chất béo bão hòa.
- Thứ hai là
trong thực phẩm, tất cả cholesterol đều giống nhau, không có
loại xấu loại tốt. Nhưng trong máu thì cholesterol trở nên tốt
hay xấu là tùy theo loại lipoprotein chuyên chở nó.
- Thứ ba là
chất béo bất bão hòa đơn hoặc đa dạng từ thực vật không
gây ra sự vữa như cháo của chất mỡ trong lòng động mạch.
Sau đây là một số gợi ý để chúng ta cùng nhau hạ thấp
cholesterol trong máu:
1- Giảm tiêu
thụ thực phẩm có nhiều mỡ béo như kem, bơ, sữa nguyên chất,
cheese, da gà, mỡ trên thịt nạc, mỡ heo.
2- Giảm
thiểu thực phẩm có nhiều cholesterol như lòng đỏ trứng, gan.
Lòng trắng trứng không có cholesterol. Một lòng đỏ trứng có tới
250mg cholesterol.
3- Giảm dầu
dừa, dầu hạt cọ (palm), vì có nhiều béo bão hòa. Dầu này thường
có trong kẹo súc cù là, bánh bích quy.
4- Dùng
nhiều hơn dầu bắp, safflower. dầu olive, dầu canola, trái bơ
avocado, vừng, dầu đậu phọng, vài loại cá vì chúng có tác dụng
làm hạ cholesterol.
5- Giảm
trans fatty acid như margarine thỏi vì tác dụng làm gia tăng
cholesterol trong máu. Margarine mềm ít hại hơn.
6- Tăng tiêu
thụ omega 3 fatty acid, có nhiều trong cá thu (mackerel), cá
chình americain eel, cá ngừ (tuna), cá trích (atlantic
herring), cá sardines, cá hồi (trout).
7- Tăng
lượng chất xơ có trong ngũ cốc, rau trái, mì ống mì sợi vì các
chất này có rất ít béo bão hòa, cholesterol và cho ít năng
lượng.
8- Giữ sức
nặng cơ thể ở mức trung bình, tránh bị mập phì nhất là mập ở
vùng bụng.
9- Tập luyện
cơ thể đều đặn để làm tăng cholesterol hiền lành HDL,
làm giảm cholesterol lếu láo LDL, giảm kí, hạ huyết áp
cao.
10- Đôi khi
với tất cả các đề phòng kể trên, cholesterol trong máu vẫn còn
cao vì ảnh hưởng của gene, vì vui miệng ăn nhiều mỡ béo thì phải
cầu cứu tới dược phẩm.
Việc dùng
các dược phẩm này cần được bác sĩ cân nhắc kỹ càng tùy theo từng
trường hợp, vì khi đã uống thì phải uống trong nhiều năm, có khi
suốt cuộc đời. Thuốc lại rất đắt tiền và vài loại thuốc có những
tác dung phụ mạnh, chẳng hạn là làm hại tới lá gan.
Kết luận.
Các tài liệu
về chất béo-cholesterol có quá nhiều, đôi khi làm ta bối rối.
Sau hơn 50 năm, khoa học đã làm sáng tỏ một phần nào vai trò của
cholesterol cao trong máu đối với bệnh vữa xơ động mạch, một
nguyên nhân đưa tới tử vong và bệnh hoạn vì nhồi máu cơ tim, tai
biến mạch máu não. Nhưng nguyên lý sinh bệnh của vữa xơ này còn
nhiều điều cần được khai sáng tiếp. Khi đó, việc điều trị và
ngừa bệnh này hy vọng sẽ dễ dàng và công hiệu hơn
Hơn nữa, ta
không thể gạt bỏ chất béo khỏi khẩu phần dinh dưỡng vì cơ thể
cần năng lượng từ chất béo, cần sinh tố tan trong mỡ, cần chất
béo để cấu tạo màng tế bào, mô thần kinh, tim...
Cho nên giản
dị hơn cả là khi muốn tránh bệnh tim mạch do các chất béo này
gây ra, ta chỉ việc bớt tiêu thụ thực phẩm do động vật gia súc
như thịt, sữa và phó sản; tăng thực phẩm từ thực vật và vận động
cơ thể.
Để bảo toàn
trái tim thân thương cũng như sức khỏe tổng quát.
Bác sĩ
Nguyễn Ý-ĐỨC
www.bsnguyenyduc.com |
VỀ MỤC LỤC |
Những
điều
mới
lạ
vừa
xảy
ra trong Hội
Thánh |
Giáo sư
Đỗ Mạnh Tri Trong vòng
30 ngày, từ
11.02.2013
đến
13.03.2013, hai biến cố làm rúng động Giáo hội Công giáo, ảnh
hưởng tới toàn cõi
Thiên Chúa giáo và có lẽ
toàn thế
giới.
Biển
Đức
16 từ nhiệm. Phan Xi Cô được bầu làm Giám mục Rôma. Thêm vào đó,
một biến cố tuy mang tính địa phương nhưng không kém phần quan
trọng cho Việt Nam: Bản góp
ý của
Hội
đồng
Giám mục
Việt
Nam cho dự
thảo
sửa
đổi
Hiến
Pháp 1992.
Cả ba biến cố này như quyện vào nhau mang lại vui mừng và hy
vọng
Biển
Đức
16 từ
nhiệm.
Ngày 11.02.2013, trước Công
nghị
Hồng
y,
Biển
Đức 16 tuyên bố:
"Tôi đã triệu
tập
Công Nghị
này, không
chỉ để bàn về ba án phong thánh nhưng còn
là
để
thông báo với anh em một quyết định rất quan trọng cho đời sống
của Giáo Hội. Sau nhiều lần tự vấn lương tâm trước mặt Chúa, tôi
đã đi
đến
sự
xác tín rằng
năng lực
của
tôi, do tuổi
cao, không còn phù hợp
để
cáng đáng đầy đủ sứ vụ Giáo chủ. Tôi biết rằng sứ vụ này, do bản
tính siêu nhiên của nó, phải được thực hiện không chỉ bằng lời
nói và việc
làm, mà còn và không kém, bằng
lời
cầu
nguyện
và đau khổ. Tuy nhiên, trước một thế giới với quá nhiều những
thay đổi nhanh chóng và đang rúng động bởi những vấn nạn liên
quan sâu sắc đến đời sống đức tin; để có thể lèo lái con thuyền
của Thánh Phêrô và rao giảng Tin Mừng, cả năng lực của trí óc
lẫn thể xác đều là cần thiết. Năng lực của tôi trong vài tháng
qua, đã
xấu
đi đến
mức
tôi phải
thừa
nhận
sự
bất
lực
của
tôi không thể
đáp
ứng đầy đủ sứ vụ được giao phó.
Vì thế,
ý thức
rõ ràng mức
độ
nghiêm trọng của hành động này, và một cách hoàn toàn tự do, tôi
tuyên bố thoái vị khỏi sứ vụ của Giám Mục Rôma, Người kế vị
Thánh Phêrô, mà các Hồng Y đã
giao phó cho tôi ngày 19 Tháng Tư
năm 2005. Như vậy, kể từ 20 giờ ngày 28 Tháng Hai năm 2013, Ngai
Tòa
Phêrô
sẽ được bỏ trống và một Mật Nghị Hồng Y sẽ được triệu tập để bầu
vị Giáo Hoàng bởi những vị có thẩm quyền."
Trong suốt
thời
gian dài cộng
tác với
Gioan Phaolô 2, Hồng
y Ratzingerquá
biết thế nào là thực hiện sứ vụ giáo chủ "bằng lời cầu nguyện và
đau khổ". Gương hy sinh của cố giáo chủ thật đáng thán phục. Tuy
nhiên, trong một thế giới u ám, đặt "những vấn nạn liên quan sâu
sắc đến đời sống đức tin", người kế vị Thánh Phêrô cần cả năng
lực của trí óc lẫn thể xác. Và ngài từ nhiệm hoàn toàn vì
vấn
đề
sức
khỏe
(chứ
không vì một
lý do nào khác như
các phương
tiện
truyền
thông diễn
giải).
Theo giáo luật, giáo hoàng có quyền từ nhiệm, và trong lịch sử
Giáo hội, cũng đã
có những
giáo hoàng từ
nhiệm.
Chính Biển
Đức
16 đã không ngần
ngại
bàn tới
trường
hợp ngài có thể thoái vị trong tập
Ánh sáng Trần
gian
(2005).Dĩ
nhiên, "Khi có đại biến, không được trốn chạy." Nhưng: "Mình
có thể
rút lui trong lúc yên hàn hoặc
đơn
giản khi thấy mình
không
đảm
đang được nữa (…). Khi một giáo hoàng thấy rõ
rằng
trên bình diện
thể
lý, tâm lý và tâm linh mình không
đảm
nhiệm được gánh
nặng
của
sứ
vụ
mình
được
trao phó nữa, thì
mình có quyền
và, tùy theo hoàn cảnh,
có bổn
phận
phải
rút lui."
Có quyền,
và tùy theo hoàn cảnh,
có bổn
phận…
Rõ ràng, dứt
khoát.
Nhưng dù biết thế, chúng ta vẫn bị sốc khi Biển Đức 16 thực sự
từ nhiệm. Đối với riêng tôi, đây là cử chỉ quan trọng nhất của
vị giáo chủ đầy bất ngờ này. Ai cũng biết ngài là một nhà thần
học lớn, một trí thức thượng thặng. Với tư cách giáo chủ, 3 bức
thông điệp và những lời giảng dạy sẽ để lại dấu ấn lâu dài trong
Giáo hội. Nhưng hành vi từ nhiệm là tiếng gồng rung động toàn
Giáo hội và vang dội ra ngoài Giáo hội.
Người ta có quyền thắc mắc, thậm chí bất bình
với
Biển
Đức
16 vì bản
diễn
văn tại
Ratisbonne, vì cách ngài giải
quyết
vụ
mấy
giám mục
của
nhóm Lefebvre hoặc
chê ngài bảo
thủ v.v..nhưng khi ngài từ nhiệm, không ai có thể không công
nhận sự dũng cảm
thánh thiện
và lòng khiêm tốn
của
ngài. Riêng
đối
với người công giáo, việc từ nhiệm này mang tính thiêng liêng,
siêu việt. Vì
đó
là một việc làm
ý thức,
sáng suốt
và hoàn toàn
tự do, sau khi tự vấn lương tâm trước mặt Chúa.
Ý nghĩa quan
trọng
nhất
của
việc
từ
nhiếm
này, theo tôi nghĩ, là sự
phân
biệt giữa sứ vụ và con người
của
giáo
hoàng. Giáo hoàng là người nối tiếp Phê rô, đó là trách vụ linh
thiêng, nặng nề. Với tư cách Giáo hoàng, Biển Đức 16 từ nhiệm vì,
với tư cách làcon người, ngài không còn
đủ năng lực thi hành sứ vụ.
Từ
nhiệm,
ngài cho ta vài bài học
và mở
lối
cho những
vị
kế
nhiệm:
1) Giáo hoàng cũng là một con người như bất cứ ai. Cũng sinh lão
bệnh
tử,
cũng tham sân si.
Biển Đức 16 thày dậy đức tin, là tấm gương trong sáng của lòng
tin. Nhưng
trong
lịch
sử
Giáo hội,
thiếu
gì
giáo hoàng bạo ngược, vô luân. Thời kỳ Phục Hưng chẳng hạn, ngôi
tòa
Phêrô thành
đối
tượng tranh chấp đẫm máu của đám quý
tộc
Rôma. Những
Borgia, Colonna, thay nhau, tranh giành nhau, chém giết
nhau hòng
đem
người phe mình
lên chiếm
hoặc
giữ
ngôi giáo hoàng. Có giáo hoàng bố,
rồi
giáo hoàng con, bầu
đoàn
thê tử, ăn chơi trác táng.Kính trọng sứ vụ giáo hoàng, nhưng chớ
thần thánh hóa giáo triều và con người của giáo hoàng. Ít khi Tòa
Thánh tốt
lành như
thời nay, thế mà Giáo triều hãy
còn nhiều
vấn
đề.
2) Khi không
còn
đủ
khả năng thi hành sứ vụ được trao phó, thì
chẳng
những
nên mà có khi còn phải
rút lui.
Giáo
hoàng mà như thế, thì
hồng
y, giám mục,
linh mục
khi không còn
đủ
khả năng thi hành sứ vụ được trao phó, cũng phải như thế thôi. Còn
những
kẻ
chẳng
những
không đặt
trọng
tâm đời
mình vào sứ
vụ
mà còn
phản lại sứ vụ bằng cách vin vào 'chức thánh' để
kiếm
chác bổng
lộc,
đòi hỏi
những
quyền
lợi
hoàn toàn trần
tục,
thì lỗi
tại
bề
trên, tại
giáo dân không bắt
họ
phải
rút lui.
3) Thực
tế, từ đây, giáo hoàng từ nhiệm không còn
là chuyện
lạ
nữa.
Trong tương
lai, tùy hoàn cảnh, các giáo hoàng cũng có quyền hay có bổn phận
từ nhiệm, về hưu như một
cha sở.
4)
Đương nhiên, Biển Đức 16 từ nhiệm, mở lối cho:
Phan xi cô.
Chuyện
từ
nhiệm
của
Biển
Đức
16 đã
bất ngờ. Việc Hồng y Jorge Mario Bergoglio được bầu Giáo hoàng còn
bất
ngờ
gấp
bội.
Các thông tấn
xã, báo,
đài,
công giáo,
không công giáo đưa ra nhiều tên. Nhưng
không ai nhắc tới Hồng y giáo chủ của Buenos Aires. Để làm ra vẻ
mình
có chân
trong nên mới đầy đủ tin tức,
các medias đã soạn
sẵn
vô số
tiểu
sử
của
những
vị
papabile (có khả
năng làm giáo hoàng), chỉ chờ có giáo hoàng
mới là tung ra. Đâu
ngờ,
tất
cả
phải vội vàng lên Net, lượm lặt vài mẩu tin về
con người này.
Bất
ngờ,
bất
ngờ,
bất
ngờ
!
Bất ngờ đầu tiên:
têngiáo hoàng của
ngài là Phan Xi Cô. Thánh Phan Xi Cô Assisi rất
quen thuộc,
nhưng chưa có giáo hoàng nào lấy tên đó.
Tại cuộc gặp gỡ giới truyền thông ngày 16.03, Đức Thánh Cha kể:
"Trong khi bầu cử, ngồi cạnh tôi là người bạn rất thân, Hồng
y Claudio Hummes, tổng giám mục Sao Paolo, cựu Bộ trưởng Bộ Giáo
sĩ. Khi diễn tiến có vẻ nguy hiểm, ngài khuyến khích tôi. Rồi
khi đạt hai phần ba số phiếu và các hồng y vỗ tay vì
đã bầu
được
giáo hoàng, ngài ôm hôn tôi và nói:
"Chớ
quên những người nghèo!"Lời nói trọng đại: những người
nghèo
!
Khiến
tôi nghĩ tới
(ngài chỉ
ngón tay vào đầu)
Phanxicô Assisi. Sau đó, trong khi tiếp
tục
kiểm
hết
các phiếu,
tôi nghĩ tới
những
cuộc
chiến tranh, mà Phanxicô là người của hòa
bình. Và tên người
đã nhập
vào tim
tôi : Phanxicô, người của nghèo khó, của hòa
bình; người
yêu thương và bảo vệ toàn cõi
Tạo
vật.
Hiện
nay, quan hệ
của
chúng ta với
tạo
vật không mấy thiết tha và người đem lại cho chúng ta tinh thần
hòa
bình này là một
người
nghèo. Tôi mong muốn lắm thay một Giáo hội nghèo, và cho người
nghèo !"
Chọn
danh hiệu
Phanxicô, tân giáo hoàng không làm gì khác là tiếp
tục
cuộc
sống
đơn sơ, nghèo khó của ngài từ trước tới nay. Nhưng tại sao danh
hiệu Phan Xi Cô lại làm giới truyền thông bỡ ngỡ?
Phan Xi Cô, một
danh hiệu
ít phù hợp
với
ngôi giáo hoàng?
Giới
truyền
thông
công giáo cũng như không công giáo
đã không ngớt
loan báo những
điều
mới
lạ:
đây
là lần đầu
tiên có một
giáo hoàng ngoài Âu
châu, lần đầu tiên một tu sĩ dòng
tên lên ngôi giáo hoàng, lần
đầu
tiên một giáo hoàng lấy tên Phan Xi Cô. Nói tới một giáo hoàng
ngoài Âu châu, người ta vẫn còn
nghĩ tới
tương
quan lực lượng, tranh giành ảnh hưởng, vẫn còn
mặc
cảm
tự
tôn hay tự
ty của
thời
đã qua. Làm như
phải có giáo hoàng phi châu thì
người
da đen mới bằng người da trắng, phải có giáo hoàng á châu thì
người
á châu mới xóa bỏ được cái nhục bị đô hộ thời thuộc địa. Một tu
sĩ dòng
tên làm giáo
hoàng cũng khiến báo chí phanh phui quan hệ phức tạp, đôi khi
gay go giữa giáo hoàng đen (Bề trên Dòng
Tên) và giáo hoàng trắng.
Vẫn
là chuyện
tương
quan lực lượng. Và "lần đầu tiên", ám chỉ một lực lượng mới đang
chiếm ưu thế ? Giống như Trung Quốc hay Ấn Độ đang vươn mình
lấn
át Âu châu cũ kỹ
trong mặt
trận
toàn cầu
hóa? Giáo hội
và Giáo hoàng cũng trong thế
giới
này thôi. Nhưng
nhìn
vấn
đề
như vậy, liệu có quên bản chất của Giáo hội và Giáo hoàng không?
Hội thánh Chúa ở giữa thế gian nhưng không thuộc về
thế
gian.
Lần đầu tiên một giáo hoàng lấy tên Phan Xi Cô, đáng lưu
ý hơn.
Nhưng
đáng
lưu ý
không bởi
vì là lần
đầu
tiên, mà vì
tại sao các giáo hoàng trước, không vị nào chọn tên
Phan Xi Cô?
Phan Xi Cô Assisi (1182-1226), vị
thánh 'bình dân' nhất
trong giới
công giáo cũng như
ngoài công giáo, vị thánh có lẽ Phật giáo nhất trong các vị
thánh công giáo; Phan Xi Cô người nghèo khó (Povorello); từ bỏ
giàu sang, quyền lực, sống trơ trụi và làm bạn với thiên nhiên,
với tạo vật muôn loài; giảng cho chim muông, ca tụng Chúa với
anh mặt trời, chị mặt trăng và cả hiền thê sự chết. Được Giáo
hội phong hiển thánh ngay 2 năm sau khi qua đời. Một tên như vậy
đáng chọn lắm chứ, thay vì
lấy
đi lấy lại, như Biển
Đức,
đã
16 lần, Piô 12 lần và Gioan tới 23 lần ? Nếu chưa có giáo hoàng
nào lấy danh hiệu Phan Xi Cô, thì,
theo thiển
ý, lý tưởng
Phan Sinhkhông
phù hợp
với
ý tưởng
thông thường của Giáo hội, Giáo triều và người công giáo về ngôi
vị giáo hoàng.Ý
tưởng
có vẻ
khích bác này dựa
vào lịch
sử.
Thực
tiễn
lịch
sử
cho ta thấy
mô
hình hoàng đế
của
đế
quốc
La Mã (một César, một Néron) và chế độ bàn giấy (bureaucratie), chế độ
vị luật của đế quốc này đã
dần
dần
xâm nhập
ngai tòa Phêrô.
Grégoire VII, với
sắc
lệnh
"Dictatus
Papae", năm 1075, biến giáo hoàng thành một nhà độc tài. Tượng
và ảnh Phêrô sừng sững, cầm chìa
khóa Nước
Trời, thành biểu tượng của uy quyền. Vatican kín cổng cao tường
với vị giáo chủ 'bất khả ngộ' và một giáo triều uy nghi, cách
biệt, đã
thành một
trung tâm quyền lực có toàn quyền trên hơn một tỉ tín đồ vàcách
ly với
thế
giới
bên ngoài.
ChínhBiển Đức 16, trong
Ánh
Sáng Thế
Gian,
cũng nhận xét: "Sự kiện những Giáo hoàng tiên khởi đều tử đạo có
ý
nghĩa. Giáo hoàng
không được đưa mình
ra như
một ông
hoàng cao sang."
Ngài nói thế
vì lịch
sử
giáo triều
đã
từng
diễn
ra như
thế.Mặc dầu, như ngài nói:"giáo
hoàng
có đấyđể làm chứng cho Đấng đã
bị
đóng đanh, và chính ông phải sẵn sàng thi hành sứ vụ của mình
dưới
hình
thức
đó, trong sự liên kết với Người".
Trong suốt
nhiệm
kỳcủa
mình, Biển
Đức
khiêm tốn
thi hành sứ
vụ,
nhưng
ngài cũng không thoát ra khỏi
khung cảnh
và nghi thức
của
Vatican.Cho
tới khi về hưu.
Mở
cửa.
Không phải ngẫu nhiên mà người ta so sánh Phan Xi Cô với Gioan
23, người đã
triệu
tập
Vatican 2.
Khi
được hỏi tại sao triệu tập Công đồng, cố giáo hoàng đã
trả
lời
bằng
cách mở
cửa
sổ.
Mở
để đi tới và đi ra tận cùng thế giới. Sứ điệp Tin Mừng không
dành riêng cho Giáo hội Công giáo và các Giáo hội Kitô giáo. Tin
Mừng không có biên giới. Chúa đến cho toàn thể nhân loại hôm
qua, hôm nay và ngày mai. Thập giá kéo lên tất cả. Mở cửa, cũng
là để thế giới tràn vào Giáo hội. Thế giới này đầy đen tối nhưng
cũng không thiếu ánh sáng. Ánh sáng của mọi Giáo hội Kitô giáo
nhưng không Công giáo. Ánh sáng của những tôn giáo ngoài Kitô
giáo, của những đoàn người bị vùi dập muốn đứng dậy, và của cả
những người vô thần.
Giám mục
Rôma.
Phan Xi Cô trước quảng trường thánh Phêrô, đối diện với mấy trăm
ngàn người của đủ mọi quốc gia và qua biển người này, đối diện
với thế giới,
cử
chỉ đầu tiên củangài
là
từ khước choàng giây giáo hoàng. Ngài xưng mình
là Giám mục
Rôma, thân chào anh
chị em giáo phận Rôma như người quen chào hỏi nhau thường ngày.
Và
nói
tiếp với một chút hài hước: "Anh chị em biết nghĩa vụ của Mật
nghị Hồng y là cung cấp một giám mục cho Rôma.
Xem ra các anh em Hồng
y của
tôi
đã
đi đến gần như tận cùng thế giới để tìm
người
đó, nhưng bây giờ chúng ta đang ở đây. Tôi cám ơn anh chị em vì
sự
tiếp
đón
của Cộng đồng giáo phận Rôma dành cho giám mục của mình.
Cám
ơn Anh chị em."
Sau lời chào hỏi và cám ơn, ngài xin cầu nguyện: "Trước tiên tôi
muốn cầu nguyện cho Đức nguyên Giám mục Rôma Biển Đức 16. Tất cả
chúng ta cùng nhau cầu nguyện cho ngài, xin Chúa chúc lành cho
ngài và xin Mẹ Maria gìn
giữ
ngài." Mọi
người
cùng với ngài đọc kinh Lạy Cha, Kính Mừng và Sáng Danh.
Rồi
ngài
nói
tiếp: ”Và giờ đây chúng ta, giám mục và dân chúng, bắt đầu hành
trình
này, hành trình của
Giáo Hội
Rôma, là Giáo Hội
chủ
trì toàn thể
các Giáo Hội
khác trong
đức
bác ái, một hành trình
huynh
đệ
và yêu thương, tín nhiệm giữa chúng ta. Chúng ta hãy
luôn cầu
nguyện
cho chúng ta, cầu
cho nhau. Chúng ta hãy cầu
nguyện
cho toàn thế
giới
để
có một tình
huynh
đệ
đậm đà hơn. Tôi cầu mong cho anh chị em sao cho hành trình
này của
Giáo Hội
mà hôm nay chúng ta bắt
đầu,
và cho người giúp đỡ tôi là Đức Hồng y
Giám quản
hiện diện ở đây, được nhiều thành quả cho công cuộc rao giảng
Tin Mừng tại thành phố đẹp đẽ này."
”Và giờ đây tôi muốn ban phép lành cho anh chị em. Nhưng trước
tiên tôi xin anh chị em một ân huệ. Trước khi giám mục chúc lành
cho dân, tôi xin anh chị em
cầu
xin Chúa chúc lành cho tôi. Kinh nguyện
của
dân, cầu
xin Chúa ban phép lành cho GM của
mình. Chúng ta hãy cầu
nguyện
trong thinh lặng,
anh chị
em cầu
nguyện
cho tôi."
Đức Thánh Cha cúi mình.
Cả quảng trường im lặng
!
Chào hỏi,
nói chuyện,
cầu
nguyện,
cám ơn anh chị em Giáo phận Rôma, trong khi trước mặt mình
có nhiều
người
Ý
không thuộc
giáo phận
này, người
của nhiều nước khác đứng chờ từ lâu và bao nhiêu người qua báo,
qua đài, lúc ấy đang hướng về Vatican, đang nghe, đang nhìn…
Phan Xi Cô biết
thế,
nên sự
kiện
ngài chỉ
biết
có anh chi em Giáo phận
Rôma càng ý nghĩa.
Điều Phan Xi Cô không làm, quan trọng không kém điều ngài làm.
Đứt quãng
?
Những giây phút đầu tiên của Phan Xi Cô, Giám mục Rôma, như quay
lưng lại Vatican
với
ngai tòa giáo hoàng và bắt
đầu
một hành trình
của
Giáo hội
giáo phận
Rôma. Tiếp
nối,
đương nhiên. Vì
điểm
quy chiếu
luôn luôn
là Thiên Chúa. Nhưng có đứt đoạn
trong cách hiểu
sứ
vụ
của
mình, vì Phan Xi Cô cũng như
Biển Đức 16 là Giám mục Rôma và chỉ là Giám mục Rôma. Thật là
một bước đột phá, đối với hàng Giám mục và các Giáo hội công
giáo địa phương. Nhất là đối với phong trào Đại kết mà cản trở
chính cho tới nay là yêu sách mang tính chuyên chế của Rôma.
Vẫn
biết,
"Giáo Hội
Rôma là Giáo hội
chủ
trì toàn
thể
các Giáo Hội khác trong đức bác ái" và Phêrô là người cầm chìa
khóa. Như
Lời Chúa Giêsu khi chọn tông đồ Phêrô: “Thầy sẽ trao cho anh chìa
khóa Nước
Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì,
trên trời
cũng sẽ
cầm
buộc
như
vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì,
trên trời
cũng sẽ
tháo cởi
như
vậy” (Mt 16, 19). Nhưng đâu là quyền hành của Phêrô và người kế
vị Phêrô? Phan Xi Cô cho ta câu trả lời hôm 19.3.2013 trong bài
giảng lễ thường được gọi là lễ đăng quang của Giáo hoàng, nhưng
với ngài là lễ chính thức khởi đầu sứ vụ
của
tân Giám mục
Rôma.
Trích:
"Hôm
nay, cùng với việc mừng kính Thánh Giuse, chúng ta cùng nhau cử
hành việc khai mạc sứ vụ của tân Giám mục Rôma, người kế vị
Thánh Phêrô, cũng có liên quan nhất định đến quyền hành. Đúng
thế, Chúa Giêsu Kitô đã
ban quyền
cho Phêrô, nhưng
đó là loại quyền gì?
Tiếp
theo ba câu Chúa Giêsu hỏi
Phêrô về
lòng yêu mến,
là ba lệnh
truyền:
hãy chăn
các chiên con của Thầy, hãy
chăn
các chiên mẹ của Thầy. Chúng ta đừng bao giờ quên quyền hành
đích thực chính là phục vụ,
và để thực thi quyền hành, Giáo hoàng phải luôn tiến sâu hơn nữa
vào chính sự phục vụ mà đỉnh điểm sang chói là Thập giá. Ngài
phải được thôi thúc bởi sự phục vụ trung thành, cụ thể và khiêm
hạ mang dấu ấn của Thánh Giuse, và giống như Thánh Giuse, giáo
hoàng cũng phải dang rộng đôi tay bảo vệ dân Chúa và
dịu
dàng trìu mến
đón lấy toàn thể nhân loại, nhất là những người cùng khổ, yếu
đuối nhất, những người thấp cổ bé miệng,
những người đã
được Thánh Matthêu nêu ra trong ngày chung thẩm xét xử dựa trên
tình
yêu: người đói khát, khách lạ, trần trụi, đau ốm và chịu lao tù
(x. Mt 25, 31-46). Chỉ những ai đem lòng
thương
yêu mới có thể biết che chở!"
Trung tâm
và điểm quy chiếu
là Thập
Giá, không phải
Giáo hoàng, cũng không phải
Giáo hội.
Hay trở
về
nguồn
?
Trình diện
với
thế
giới
như
Giám mục Rôma, chứ không như giáo hoàng, Phan Xi Cô trở lại vị
trí cội nguồn và căn bản của bộ mặt Giáo chủ Rôma. Trong Tân Ước
và suốt những thế kỷ đầu của Giáo hội, Giáo chủ Rôma không phải
là một ông vua độc tài hay một thứ hoàng đế mà mọi giám mục phải
thần phục. Giám mục Rôma được coi như "primus inter pares" /
"người thứ nhất giữa những người bằng nhau", những người có cùng
một phẩm trật và thẩm quyền.
Một
viễn
ảnh
mới
mở
ra cho Giáo hội.
Để Giáo hội giang tay rộng mở ra toàn thế giới, kể cả thế giới
của những người không tin, và đặc biệt, ưu tiên, của nhưng người
nghèo.
Gặp
gỡ
giới
truyền
thông hôm 16.03, Phan Xi Cô nói:
"Tôi mong muốn lắm thay môt Giáo hội nghèo và cho người nghèo".
Nghèo vật
chất,
nghèo tinh thần.
Về
lâu về dài, mong muốn đó sẽ đạt được tới đâu? Sẽ gặp những phản
ứng nào? Phan Xi Cô đã
bắt
đầu, từ giây phút đầu.
Và
thiển
nghĩ không cần
chờ
lâu.
Các Giám mục
Việt
Nam lên tiếng.
Ngày 01.03.2013, Ban Thường vụ Hội đồng Giám mục Việt Nam đã
gửi
đến
Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến Pháp 1992 và nhân dân cả nướcmột
số nhận định và góp
ý.
Đọc
kỹ
góp ý của
các Giám mục
Việt
Nam, điều
hiển
nhiên là cái hiến
pháp 1992 này không thể
sửa.
Về
lý luận,
nó mâu thuẫn.
Trên thực
tế,
nó tồi
tệ.
Hiến
pháp gì mà như
người vừa nói vừa tự vả miệng mình.
Này nhá:
"Bản
Dự thảo đã
dành cả
chương
II (điều 15-52) để nói về quyền con người. Quyền con người đã
được
chính thức nhìn
nhận
trong Tuyên ngôn quốc
tế
về
quyền
con người
(10.12.1948), và Việt Nam cũng đã
ký kết.
Bản
Dự
thảo
đã
liệt
kê khá
đầy đủ những quyền căn bản của con người."
Vậy quyền con người là quyền gì?
Thưa:
"Quyền con người là những quyền gắn liền với phẩm giá con người,
do đó là những quyền phổ quát, bất khả xâm phạm và bất khả
nhượng. Phổ quát vì
tất
cả
mọi
người,
thuộc mọi thời và mọi nơi, đều được hưởng những quyền đó. Bất
khả xâm phạm vì
xâm phạm
là tước
đoạt phẩm giá làm người. Bất khả nhượng vì
không ai
được
phép tước đoạt những quyền đó của người khác. Và không ai có
quyền nhượng những quyền đó cho kẻ khác! Mỗi người
có bổn
phận
bảo
vệ
những quyền đó cho chính mình."
Quá
tốt đẹp. Nhưng:
"Dự
thảo lại khẳng định đảng cầm quyền là "lực lượng lãnh
đạo
Nhà nước và xã
hội",
lấy
chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng" (điều 4). Như thế, phải
hiểu thế nào và làm sao thực thi quyền tự do ngôn luận và sáng
tạo văn học, nghệ thuật, bởi lẽ tư tưởng đã
bị
đóng
khung trong một chủ thuyết rồi? Tương tự như thế, phải hiểu thế
nào và làm sao thực thi quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, bởi lẽ
chủ nghĩa Mác-Lênin tự thân là chủ nghĩa
vô thần?"
Chính vì mâu thuẫn
như
thế mà:
"Trong thực tế, sự trói buộc tư tưởng vào một hệ
ý thức
duy nhất
đã kìm hãm tư
duy sáng tạo
của
người dân Việt Nam. Đây là một trong những lý
do lớn,
dẫn
đến
tình trạng
trì trệ
và chậm
tiến
của
Việt
Nam về
nhiều
mặt: giáo dục, khoa học và công nghệ, văn hóa và nghệ thuật.".
Khỏi
cần
dài dòng về
những
đòi hỏi
của
các Giám mục:
lấy
văn
hóa dân tộc làm nền cộng thêm những tinh hoa mới của nhân loại
để thực sự có một Hiến
pháp của
dân, do dân, vì dân.
Đa
đảng, tam quyền phân lập, tự do tư tưởng v.v…
Toàn là những điều sơ đẳng của một xã
hội
văn
minh.
Các Giám mục nói điều mà mọi người có chút hiểu biết, lương tri
và tự trọng, trong cũng như ngoài nước, từng nói. Điều mà người
dân không nói ra, vì
sợ,
vì chán ngán nhưng
cảm nghiệm sâu sắc trong cảnh đọa đầy, chèn ép, áp bức. Điều mà
những đứa con ưu tú của Đất Mẹ đã
anh dũng nói lên, bất
chấp
vu oan, tù
đày, đánh đập, ám hại.
Là người công giáo, tôi cám ơn các Giám mục, tuy đây mới chỉ là
Ban Thường vụ và hy vọng rằng
tất
cả
các giám mục
chẳng
những
đồng
ý mà còn hiệp
ý và xúc tiến.
Là
công dân, tôi hoan hô các Giám mục đang nói lên tiếng nói của
toàn dân; các ngài đang đứng trong hàng ngũ của dân.
Chút xíu lịch
sử
Muốn đánh giá đúng mức việc lên tiếng của các Giám mục, tưởng
nên nhắc lại
cho các bạn
trẻmột
chút quá khứ.
Bức
thơ thời danh năm 1980 của HĐGM Việt Nam mà đảng CSVN cũng như
các Giám mục thường quy chiếu như một thứ tiêu chuẩn khi nói
chuyện với nhau, mở đầu như sau:
"Anh chị
em thân mến,
Anh chị
em hãy cùng
chúng tôi dâng lời tạ ơn Thiên Chúa về Hội nghị các giám mục
toàn quốc, tổ chức tại Hà Nội, thủ đô Nước Cộng Hoà Xã
Hội
Chủ
Nghĩa Việt
Nam chúng ta, từ
24-4 đến
1-5-1980.
Kể từ lúc thành lập Hàng Giáo phẩm Việt Nam vào năm 1960, và
nhất là từ ngày nước nhà được thống nhất, chúng ta đều ước mong
có cuộc họp này. Toà Thánh và riêng Đức Thánh Cha Gioan Phaolô
II mỗi khi có dịp cũng luôn bày tỏ một tâm tình
như
vậy, diễn tả ý
muốn
của
chính Công đồng
Vatican II.
Vì thế
chúng ta
thành thật
biết ơn Chính Phủ
đã giúp
đỡ và tạo điều
kiện thuận lợi cho Đại hội này.
Chúng tôi cũng cám ơn anh chị em đã
cầu
nguyện
nhiều
cho
Đại hội này
được thành công tốt đẹp.
[…] chúng tôi đã cầu
nguyện
và suy nghĩ nhiều
về
nhiệm
vụ
của
Giáo Hội
chúng ta trong giai
đoạn lịch sử
này.
[...]
Trước khi bế mạc Đại hội, chúng tôi đã
vào lăng
kính viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh, và đã
đến yết kiến
Thủ tướng Chính phủ."
Hồi
đó, các giám mục
họp,
phải
xin phép.
Khi có phép, không phải mọi giám mục đều được tới họp. Và phải
họp ở Hà Nội. Mà Hà Nội, Thủ đô nước CHXHCN chưa đủ, nhất thiết
phải thêm "chúng ta", cũng như khi nói Đảng, phải nói "Đảng ta".
Viếng lăng Hồ Chí Minh, yết kiến Thủ tưóng Chính phủ: hẳn là được
"Chính phủ
giúp đỡ"
các giám mục
mới
có "sáng kiến"
quý hóa như
vậy. Trong những
phiên họp
lại
có sự
"giúp đỡ"
của ông Trưởng Ban tôn giáo chính phủ. Ông
xem xét
Thư chung và "cố
vấn"
những
quyết
định
của
HĐGM.
Các giám mục
bị cột chân cột tay như người dân, nhưng xiết chặt hơn nhiều. Có
một thứ dây
thòng lọng
đảng dành riêng để xiết cổ Giáo hội Công giáo.
Dĩ nhiên, từ
đó đến
nay đã thay đổi
nhiều.
Phần
vì trên bình diện
kinh tế
không thể
tiếp
tục
với
chế
độ
bo bo, phải
mở
cửa.
Phần
khác, vì dân chống
đối
ngấm ngầm hoặc công khai. Tất nhiên, với chính sách "kinh tế thị
trường theo định hướng xã
hội
chủ
nghĩa", tức
mở
cửa
kinh tế
nhưng
đảng và chân tay đảng nắm hết, nắm được chỗ nào hay chỗ đó. Dây
thòng lọng
đảng
buộc cổ người dân, nhất là người công giáo
và các giám mục,
vì thế,
phải
nới
lỏng,
càng ngày càng lỏng,
và lỏng
hay chặt
tùy
nơi, tùy lúc, tùy đối tượng.
Điều thực sự mới và mang tính đột phá trong bản lên tiếng của
HĐGM Việt
Nam lần
này là các ngài bình thản
và công khai cắt
đứt
dây thòng lọng.
Nới ra bao nhiêu cũng không đủ. Phải hủy nó đi thôi. Tức phải
phủ định chính người cầm dây thòng
lọng.
Nói khác đi: không có đối thoại với người cầm dây thòng
lọng,
vì
đối thoại
trong trường hợp này là công nhận dây thòng
lọng.
Vậy
từ
đây, các Giám mục
sẽ
làm gì trước
đàn áp bất công đang tràn lan trên đất nước, dù nạn nhân là
người công giáo hay không công giáo, vì
thư
các ngài cũng gửi cho nhân dân cả nước ?
Chẳng
hạn,
đc Nguyễn
Thái Hợp,
chủ
tịch
Ủy
ban Công lý và Hòa bình và đc Vũ Văn
Thiên, giám mục Giáo phận Tp Hải Phòng
đã gửi
thư
cho Tòa án Nhân
dân Tp Hải
Phòng
để bênh vực
gia đình ông
Đoàn Văn Vươn.
Một việc làm phù hợp với bản lên tiếng của các giám mục, rất
đáng hoan nghênh. Từ đây, người
dân, công giáo hay không công giáo có
quyền chờ đợi Ủy ban và các giám mục lên tiếng trong những vụ
việc tương tự. Và lên tiếng không chỉ với một Tòa
án nhân dân tỉnh
lẻ.
Khi nhà giột
từ
nóc,
lẽ nào chỉ ngồi hấng nước ở một góc nhà !
Thay lời kết.
Đền thờ và quảng trường Thánh Phêrô
về
kiến
trúc cũng như
trên bình diện
tinh thần
và tâm linh,
là một sân khấu vĩ đại. Trên sân khấu ấy, Gioan Phao Lô 2,
ngay từ
khi lên ngôi giáo hoàng, đã hiện
diện
như
một diễn viên xuất sắc của Tin Mừng. Ngài hăng say như một lực
sĩ, đóng vai chính, với câu nói
bất
hủ:
Đừng
Sợ
!
Hai từ thôi,
nhưng vang lên như một lời hiệu triệu, quyết định như một tuyên
ngôn, báo trước và báo hiệu sự sụp đổ
của
khối
cộng
sản
Đông âu.
Nhưng trong
nhiệm kỳ dài của ngài (chỉ kém Piô 9 là giáo hoàng có nhiệm kỳ
dài nhất: hơn 31 năm rưỡi),
Gioan Phao Lô 2 đã có những
thiếu
sót về
tổ
chức
và cơ
cấu của Giáo hội: vấnđề
ấu
dâm trong giới
giáo sĩ bị
giữ kín hay ít nhất cũng không được lưu
ý đúng mức.
Cũng trong Ánh Sáng Thế
Gian, Biển
Đức
16 nhận
rằng
khi còn là Bộ
trưởng
Bộ Giáo lý Đức
tin, ngài đã
biết
tới
một
số
trường
hợp như bên Hoa Kỳ, bên Ái Nhĩ Lan, "nhưng tới mức đó, thật là
một cú sốc chưa từng có": "Đột nhiên, nhìn
thấy
chức
tư
tế bị bôi bẩn dường ấy, mà thủ phạm lại chính là Giáo hội Công
giáo, trong sâu thẳm của lòng
mình".
Nếu
báo chí không điều tra và phanh phui
sự
việc,
Tòa Thánh cũng chẳng
để
ý. Động
cơ
của nhà báo, có thể là tìm
cách tấn
công Giáo hội,
nhưng
Đức Thánh Cha nói:"Mặc
dù thế, chúng ta phải minh bạch điều này: trong chừng mực đó là
sự thật, thì
chúng ta phải
biết
ơn báo chí về
những
khám phá của
họ…
Chính vì tội
ác hiện
diện
trong Giáo hội,
mà nhiều
kẻ
vin vào nó để
chống
Giáo Hội".
Thêm vào đó, thời Gioan Phao Lô 2 còn
Đạo
binh Chúa Cứu
Thế
của
Marcial
Maciel Degollado được trọng
dụng
tại
Vatican. Một
vụ
bê bối
quá lớn.
Biển Đức 16, ngược lại với vị tiền nhiệm, e dè, kín đáo. Ngại
đám đông. Trong cuốn
Ánh sáng Thế
gian, so sánh với
vị
tiền
nhiệm,
ngài tự
cho mình là "một
giáo hoàng nhỏ".
Tuy nhiên, ngài đã
đóng vai diễn
viên chính cách khiêm tốn. Chính sự khiêm tốn này lại thu phục
nhân tâm khi mà những lời giảng dạy đơn sơ nhưng hết sức sâu sắc
của ngài nuôi dưỡng và thúc đẩy niềm tin. Có điều giáo hoàng
kiêm thần học gia tiếp tục viết sách. Trên một bình
diên nào
đó, ngài thần
học gia hơn là giáo hoàng. Phải chăng vì
thế
mà ngài không mấy
lo tới
việc
cai quản
Giáo hội
? Cơ
cấu giáo triều vẫn lai rai như thời Gioan Phao Lô 2. Khi có vụ
Vatileaks, những chuyện lăng nhăng trong Giáo triều về tiền bạc,
phe nhóm vỡ lở trầm trọng. Ban tra cứu gồm ba Hồng y do ngài chỉ
định đã nộp
một
hồ
sơ
dày cộm, khi ngài sắp từ nhiệm.
Phan Xi Cô từ khước sân khấu.
Cứ
xem cách ngài
đứng trên
xe đi vòng
quanh quảng
trường
thánh Phêrô cũng đủ thấy. Giơ tay ban phép lành, cũng giơ tay
cháo đón, vẫy gọi, kể cả giơ tay với ngón cái. Và bắt ngừng xe,
xuống ôm hôn những người tàng tật, những trẻ nhỏ, bắt tay người
nọ, chào hỏi người kia. Như đang đi ngoài đường
chứ
không phải
đang trịnh
trọng
ngồi Papamobile. Nghi thức sang trọng truyền thống, với Phan Xi
Cô, biến thành gặp gỡ giữa người với người, đặc biệt với người
tàng tật ốm yếu, với trẻ thơ. Ở chính giữa sân khấu, Phan Xi Cô
quay lưng lại sân khấu. Nhưng quay lưng lại sân khấu, là một
cách biểu lộ chiều kích thuần túy siêu nhiên của sân khấu: lòng
thương
xót của Chúa.
Mỗi
giáo hoàng có mặt
tích cực
và tiêu cực.
Rồi
đâu sẽ là điểm
tiêu cực của vị giáo hoàng tránh dùng từ giáo hoàng này? Tương
lai sẽ
cho câu trả
lời.
Lúc này chúng ta hãy vui mừng
với
những
điểm tích cực
của tân Giám mục Giáo phận Rôma và hy vọng với bản Lên tiếng dõng
dạc
của
hàng Giám mục
Việt
Nam.
Đỗ
Mạnh
Tri 2.4.2013.
Tờ
La Vie, một
tuần
báo công giáo Pháp, trong một
trả
lời
bạn
đọc
phải
thú nhận:
"Quand la fumée blanche est apparue, nous avions
retardé notre bouclage de 24 heures. Et soudain, nos
pages prêtes pour l'impression selon plusieurs scénarios
sont devenues obsolètes. Tous les médias, et nous les
premiers, ont reconnu leur surprise. En deux heures, il
a fallu écrire une biographie de François, rechercher
des photos, livrer une analyse et envoyer le tout à
l'imprimerie, à une heure où le pape portait encore pour
le monde le nom d'un roi de France avant de devenir
tout simplement François" / Khi khói trắng
bốc
lên, chúng tôi đã phải
hoãn lên khuôn báo 24 tiếng.
Và,
đột
nhiên, tất cả những trang viết dọn sẵn cho nhà in theo
nhiều kịch bản, trở thành vô dụng. Tất cả mọi phương
tiện truyền thông, chúng tôi đầu tiên, nhận ra mình
không ngờ.
Trong vòng hai tiếng
đồng
hồ,
chúng tôi đã phải
viết
tiểu
sử
Phan Xi Cô, tìm hình ảnh,
phân tách, bình luận
và gửi
đi nhà
in, lúc mà trước mặt thế giới, giáo hoàng còn
mang tên một
ông vua
nước Pháp trước khi chỉ còn
là Phan Xi Cô".
Tuần
báo công giáo La Vie
cũng
đi lượm lặt trên Net thôi, in ở trang bìa
bức
ảnh
Hồng
y Bergoglio khá cũ với
tên François 1er. Tiểu
sử
tàm tạm
và bình luận
cũng sơ
sơ.
Những chữ tô đậm trong bài là do chúng tôi.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|