Tác Giả
ĐẠT LAI LẠT MA
Đức Đạt Lai Lạt Ma 14
Đăng-châu Gia-mục-thố (tiếng Tạng: Tenzin Gyatso,
བསྟན་འཛིན་རྒྱ་མཚོ་; sinh ngày 6 tháng 7 năm
1935) là tên của Đạt-lại
Lạt-ma thứ
14, là nhà lãnh đạo thế quyền và giáo
quyền của nhân dân Tây
Tạng. Theo công trình nghiên
cứu cá nhân vừa qua của giáo sư Eric Sharp thuộc Đại học Sydney, Úc thì
trong số những thánh nhân của thế kỷ thứ 20 này,
có ba thánh nhân người châu Á, đó là cố thi hào Ấn ĐộRabindranath
Tagore (1861-1941), Mahātma Gandhi (1869-1948)
và chính vị Đạt-lại Lạt-ma thứ 14 này
Sư chào đời tại
làng Taktser, vùng Đông Bắc Tây Tạng vào
ngày 6 tháng 7 năm 1935 trong một gia đình nông
dân.[2] Tên
trước khi được thừa nhận trở thành vị Đạt-Lại
Lạt ma thứ 14 là "Lhamo Dhondup". Sư được thừa
nhận là Đạt-lại Lạt-ma vào năm 2 tuổi theo
truyền thống Tây Tạng như là Hóa
thân của
Đạt-lại Lạt-ma thứ 13, cũng là hiện thân của Bồ Tát Quán Thế Âm, hiện thân của
lòng từ bi.
Theo truyền
thống của người Tây Tạng, Đạt-lại Lạt-ma là hiện
thân lòng từ của chư Phật và Bồ Tát, người chọn
con đường tái sinh trở lại kiếp người để cứu
giúp chúng sanh. Danh hiệu Đạt-lại Lạt-ma cũng
được hiểu là Hộ
Tín, "Người bảo vệ đức tin", Huệ
Hải, "Biển lớn của trí tuệ", Pháp
vương, "Vua của Chánh Pháp", Như
ý châu, "Viên bảo châu như ý"...
Đạt-lại Lạt-ma
được tấn phong tước vị vào ngày 22 tháng 2 năm
1940 tại Lhasa, thủ đô của Tây Tạng, chính
thức là người lãnh đạo chính trị và tôn giáo cho
6 triệu người
Đạt-lại Lạt-ma
bắt đầu sự nghiệp học vấn của mình vào năm 6
tuổi và hoàn tất học vị cao nhất của Phật
giáo Tây Tạng là
Geshe Lharampa, tương đương với Tiến sĩ triết
học Phật giáo (Doctorate of Buddhist
Philosophy) ở tuổi 25 vào năm 1959. Năm 24
tuổi, Sư đã tham dự kỳ thi đầu tiên tại các đại
học Phật giáo Drepung, Sera và Ganden. Kỳ thi
cuối cùng được tổ chức tại Jokhang, thủ đô Lhasa
trong thời gian lễ hội Monlam, tháng giêng theo
lịch Tây Tạng.
Trước đó Sư phải
học tất cả các môn học chính như Luận lý (logic)
văn hóa và nghệ thuật Tây Tạng (Culture &
Tibetan Art), Phạn ngữ (sanskrit), Y học (medicine),Triết học Phật giáo (Buddhist
philosophy). Riêng môn Phật học này
là khó nhất, được chia ra làm năm phần là Bát-nhã-ba-la-mật-đa (sa. prajñāpāramitā),
Trung quán (sa. mādhyamika),
Giới luật (sa. vinaya), A-tì-đạt-ma và
Lượng học (sa. pramāṇa)
. Và các môn học phụ khác là: biện luận (dialetics),
thi ca (poetry), âm nhạc(music) và kịch
nghệ (drama),
thiên văn (astrology), văn phạm (metre
and phrasing).
Vào ngày 17
tháng 11 năm 1950, Đạt-lại Lạt-ma 14 đảm nhận
trọng trách là người lãnh đạo thế quyền của
người dân Tây Tạng (head of the State and
Government) sau khi có khoảng 80.000 quân
lính của Trung Quốc tấn
công vào Tây Tạng.
Năm 1954, Sư đã
đến Bắc
Kinh để
thương thuyết hòa bình với chủ tịch Mao Trạch Đông và
những nhà lãnh đạo Trung Hoa khác, gồm Chu Ân
Lai và Đặng Tiểu Bình. Tuy nhiên,
các cuộc đàm phán trong chuyến đi này không mang
lại kết quả.
Cuối thập niên
50, tại miền Đông Tây Tạng, dân chúng đã đứng
lên kháng cự mạnh mẽ chống đối chính quyền Trung
Quốc. Sự kháng cự này đã lan ra trên nhiều tỉnh
thành của Tây Tạng. Vào ngày 10 tháng 3 năm
1959, một cuộc biểu tình lớn nhất trong lịch sử
của Tây Tạng tại thủ đô Lhasa để kêu gọi binh
lính Trung Quốc phải rút khỏi Tây Tạng và tái
xác định rằng Tây Tạng là một quốc gia độc lập.
Cuộc biểu tình ôn hòa này đã bị quân đội Trung
Quốc trấn áp quyết liệt. Trong thời kìĐại nhảy vọt, đã có khoảng
200.000 đến 1 triệu người Tây Tạng chết và
khoảng 6 nghìn chùa chiền bị phá hủy tại vùng
đất này.
Để tránh sự đàn áp của chính
quyền Trung Quốc, 80.000 người dân Tây Tạng cùng
với Đạt-lại Lạt-ma 14 vượt qua dãy Hy Mã Lạp Sơn đến
tị nạn tại miền bắc Ấn Độ vào năm 1959. Thời
điểm đó trên thế giới ít người biết và để ý đến
tình hình xảy ra ở Tây Tạng và Dalai Lama. Ấn Độ
có tranh chấp với Trung Quốc về vấn đề biên
giới, vì vậy họ không muốn làm tình hình căng
thẳng thêm, nên cũng chẳng tha thiết giúp đỡ
đoàn người tỵ nạn đến từ Tây Tạng.
Giải
thưởng Nobel Hòa Bình năm 1989
Ủy
ban Hòa bình Na Uy quyết định trao tặng Giải
thưởng Nobel Hòa bình cho Sư vào năm 1989 sau
khi được cả thế giới tán dương và tán thành,
ngoại trừ Trung Hoa. Trong quyết định ấy có
đoạn viết:
- "Ủy ban muốn nhấn mạnh rằng
Đức Đạt-lại Lạt-ma với sự đấu tranh cho tự
do cho Tây Tạng vẫn kiên quyết không sử dụng
bạo lực. Sư đã ủng hộ giải pháp hòa bình dựa
trên tinh thần khoan dung và tôn trọng lẫn
nhau để bảo vệ lịch sử và tài sản văn hóa
của con người.
Vào
ngày 10 tháng 12 năm 1989, Đạt-lại Lạt-ma đã
tiếp nhận giải thưởng hòa bình trên tinh thần
nhân danh những người bị đàn áp ở khắp mọi
nơi, tất cả những ai đấu tranh cho tự do và
hòa bình thế giới và đặc biệt là nhân dân Tây
Tạng. Trong lời phát biểu tại buổi lễ nhận
giải, Sư đã nói:
- Giải thưởng đã tái xác
nhận một lần nữa lòng quyết tâm của chúng
tôi rằng chân lý, lòng dũng cảm và quyết
tâm của chúng tôi như là những vũ khí, Tây
Tạng sẽ được tự do. Cuộc đấu tranh của
chúng tôi vẫn phải theo đuổi đường hướng
bất bạo động và loại bỏ hận thù (The
prize reaffirms our conviction that with
truth, courage and determination as our
weapons, Tibet will be liberated. Our
struggle must remain nonviolent and free of
hatred)
Trước
tác (tóm
lược)
Mặc
dù bận rộn với nhiều công tác của chính phủ và
hoằng Pháp, nhưng Đức Đạt-lại Lạt-ma cũng dành
những thời gian nhất định để viết những tác
phẩm Phật học, lịch sử, tự truyện... để phổ
biến những tinh túy trong giáo lý của Phật Đà.
Khởi viết cuốn Đất
nước tôi và Nhân dân tôi (My
Land and My People) vào năm 1964 sau khi Sư
đến tị nạn tại Ấn Độ, tính đến nay đã có trên
50 tác phẩm các loại, do chính ngài tự tay
viết hoặc do đệ tử ghi chép những bài giảng
của Sư hoặc họ viết về ngài. Đáng chú ý trong
số tác phẩm này là:
- Mở Huệ Nhãn (The opening
of the Wisdom eye, xuất bản năm 1972);
- Phật giáo Tây Tạng (The
Buddhism of Tibet, xb năm 1975);
- Biển của Trí Huệ (Ocean
of Wisdom, xb tháng 2 năm 1990);
- Dalai Lama: Chính sách của
Lòng Từ (The Dalai Lama: A Policy of
Kindness, xb năm 1990);
- Tự do nơi lưu đày (Free
in Exile, xb năm 1991);
- Ý nghĩa của cuộc sống (The
meaning of Life, xb năm 1992);
- Tia sáng trong bóng đêm (Flash
of Lightning in the Dark of Night, xb
năm 1994);
- Cuộc đối thoại về trách
nhiệm chung và giáo dục (Dialogues on
Universal Responsibility and Education,
xb năm 1995);
- Sức mạnh của lòng từ bi (The
power of compassion, xb năm 1995);
- Con đường giác ngộ (The
Path of Enlightenment, xb năm 1995);
- Bạo lực và Lòng từ bi-Sức
mạnh của Phật giáo (Violence and
Compassion/ Power of Buddhism, xb năm
1995);
- Chữa lành cơn thịnh nộ: Sức
mạnh của sự kiên nhẫn từ cách nhìn của Phật
tử (Healing Anger: The Power of Patience
from a Buddhist Perspective, xb tháng
3 năm 1997);
- Tứ Diệu Đế (The Four
Noble Truths, xb năm 1998);
- Nghệ thuật hạnh phúc (The
art of Happiness, xb năm 1998);
- Thời
luân Đát-đặc-la (KALACHAKRA
TANTRA, Xb 1999);
- Ý Nghĩa cuộc cuộc sống (THE
MEANING OF LIFE, Xb 1999);
- Khoa học Tâm Linh, Cuộc đối
thoại Đông-Tây (MIND SCIENCE, An
East-West Dialogue, xb 1999);
- Ngủ, mơ và chết, một cuộc
khám phá của Tâm thức (SLEEPING,
DREAMING, AND DYING, An Exploration of
Consciousness, Xb 1999);
- Thế giới Phật giáo Tây Tạng,
khái quát về triết lý và thực hành (THE
WORLD OF TIBETAN BUDDHISM, An Overview of
Its Philosophy and Practice, Xb 1999);
- Đạo Đức Thiên Niên Ki Mới (Ethics
for the new millennium, xb tháng 8 năm
1999);
- Nghệ Thuật của Hạnh Phúc: Sổ
tay cho cuộc sống (The Art of Happiness:
A Handbook for Living, xb tháng 9 năm
1999);
- Trí Huệ Luận (The Dalai
Lama's Book of Wisdom, xb tháng 4 năm
2000);
- Biến đổi Tâm (Transforming
the Mind, xb tháng 5 năm 2000);
- Các Giai Đoạn
của Thiền Định (Stages of Meditation,
xb tháng 3 năm 2001);
- Con Đường dẫn tới cuộc sống
đầy ý nghiã (How to Practice: The Way to
a Meaningful Life, xb tháng 5 năm
2001)
- Tâm hồn rộng mở: Thực Hành
Từ bi trong cuộc sống hàng ngày (An Open
Heart: Practicing Compassion in Everyday
Life, xb tháng 9 năm 2001);
- Luận về Từ Bi và Bác Ái (The
Dalai Lama's Book of Love and Compassion,
xb tháng 10 năm 2001);
- Những lời Khuyên của
Thích-Ca-Mâu-Ni (Advice from Buddha
Shakyamuni, xb tháng 7 năm 2002);
- Cốt Tủy của Hạnh Phúc: Sách
Hướng Dẫn cho Cách Sống (The Essence of
Happiness: A Guidebook for Living xb
tháng 7 năm 2002);
- Đường Dẫn tới sư Yên Tĩnh:
Trí huệ hàng ngày (The Path to
Tranquility: Daily Wisdom ,
xb tháng 8 năm 2002);
- Tỉnh Thức Luận (The Dalai
Lama's Book of Awakening, xb tháng 2
năm 2003);
- Nghệ Thuật của Hạnh Phúc
trong Công Việc (The Art of Happiness at
Work, xb tháng 8 năm 2005);
- Vũ Trụ Trong Một Nguyên Tử:
Sự Hội Tụ của Khoa Học và Tâm Linh (The
Universe in a Single Atom: The Convergence
of Science and Spirituality, xb tháng
9 năm 2005);
- Để Thấy được Thực Sự Chính Mình (How to See Yourself
As You Really Are, xb tháng 12 năm
2006);
Kết luận
Như
sự miêu tả của giáo sư Eric Sharpe thánh nhân
là người suốt đời chú trọng đến việc mang lại
an lạc cho con người và cuộc đời. Trong khi
theo đuổi lý tưởng ấy, họ thường phải hứng
chịu những trở ngại, đau đớn hoặc nguy hiểm
đến sinh mạng. Đạt-lại Lạt-ma thứ 14 đã hiện
thân cho những gì đã được miêu tả ấy. Tuy
nhiên, theo các nhà phân tích, sự xuất hiện
của ngài như là một định mệnh, đã thừa kế tước
vị Đạt-lại Lạt-ma ở trong một giai đoạn bấp
bênh nhất trong toàn bộ lịch sử cao quý này.
Hiện nay, vẫn trong thân phận người tị nạn lưu
vong, tuy nhiên, Sư rất lạc quan và hy vọng
cho tương lai độc lập và tự do cho thế giới và
xứ sở của Sư như lời Sư đã nhắc tới trong bức
Thông Điệp 2000:
- "Thế kỷ 20 đầy xung đột và
chiến tranh. Từng bước, chúng ta bảo đảm thế
kỷ tới sẽ có đặc tính bất bạo động và đối
thoại, là điều kiện tiên quyết để cùng hiện
hữu bên nhau trong hòa bình".
- "Xã hội nào cũng có những
khác biệt và xung đột. Tuy vậy, chúng ta cần
phát triển niềm tin tưởng rằng: đối thoại và
tình bạn là một đường lối chính chắn để
tránh bạo động. Trước thiên kỷ mới, điều mọi
người cần thực hiện là tăng cường tinh thần
trách nhiệm đối với quốc tế".
Nguồn:https://vi.wikipedia.org/wiki/Tenzin_Gyatso
|