Doãn Quốc Sỹ lấy tên thật làm bút hiệu. Ông
sinh ngày 17/02/1923 (nhằm ngày Mùng Hai Tết Quí
Hợi) tại xã Hạ Yên Quyết, Hà Đông, ngoại thành
Hà Nội.
Thuở còn là thanh niên, ông
từng tham gia Việt Minh kháng chiến chống Pháp.
Sau đó, khi phong trào này để lộ bộ mặt cộng
sản, ông đã rời bỏ kháng chiến. Vào năm 1946,
ông lập gia đình với bà Hồ Thị Thảo, là ái nữ
của nhà thơ trào phúng Tú Mỡ, Hồ
Trọng Hiếu.
Năm 1954, khi hiệp ước Geneva
chia đôi đất nước, ông theo làn sóng di cư đem
vợ con vào miền Nam sinh sống.
Doãn Quốc Sỹ có hai sự nghiệp
song song, một của nhà văn và một của nhà giáo.
Ông vẫn thường nói rằng: “nhà giáo là nghề, nhà
văn là nghiệp”. Trong cương vị nhà giáo, ông đã
dạy tại các trường: Trung
Học Công Lập Nguyễn Khuyến (Nam Định 1951-1952),
Chu Văn An (Hà Nội), Hồ Ngọc Cẩn (Sài Gòn
1961-1962), Trường Quốc Gia Sư Phạm Sài Gòn, Đại
Học Văn Khoa Sài Gòn, Đại Học Vạn Hạnh Sài Gòn.
Ông cũng từng là hiệu trưởng trường Trung Học
Công Lập Hà Tiên (1960-1961) và từng đi tu
nghiệp về sư phạm tại Hoa Kỳ (1966-1968).
Vào năm 1956, với cương vị nhà
văn, ông đồng sáng lập nhà xuất bản Sáng Tạo, và
tạp chí văn nghệ cùng tên với Mai Thảo, Nguyễn
Sỹ Tế, Thanh Tâm Tuyền, Trần Thanh Hiệp, Duy
Thanh và Ngọc Dũng. Ông vẫn ưu ái gọi nhóm văn
nghệ của mình là “Thất Tinh”. Ông cũng có những
bài viết được đăng trên các tạp chí văn nghệ như
Sáng Tạo, Văn Nghệ, Bách Khoa, Văn Học, Nghệ
Thuật …
Gần một năm sau ngày miền Nam
thất thủ (30/04/1975), hầu hết các nhà văn miền
Nam bị bắt đi học tập cải tạo. Doãn Quốc Sỹ cùng
các văn nghệ sĩ như Trần Dạ Từ, Thanh Thương
Hoàng, Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh, Nguyễn
Sỹ Tế, Chóe… bị giam tại trại Gia Trung,
cách thành phố Pleiku 25 cây số, Đến năm 1980,
ông được thả tự do nhờ sự can thiệp của nhiều tổ
chức quốc tế. Trong thời gian chờ đợi được con
gái là Doãn thị Ngọc Thanh bảo lãnh đi
Úc, ông tiếp tục viết thêm nhiều tác phẩm
nữa, trong đó có quyển Đi, được ký với bút hiệu
Hồ Khanh. Ông đã gửi tác phẩm này sang Pháp để
xuất bản tại hải ngoại. Cũng vì lý do này, ông
đã bị bắt lần thứ hai vào tháng 5 năm 1984, chỉ
vài tháng trước ngày đi Úc. Cùng bị giam với ông
trong đợt này có ca sĩ Duy Trác, nhà báo Dương
Hùng Cường, hai nhà văn Hoàng Hải Thủy và Lý
Thụy Ý… Ông bị kết án mười năm tù và mãn
hạn tù lần thứ hai vào tháng 11 năm 1991.