Đông
Hồ |
|
Sinh |
10
tháng 3 năm 1906
Hà
Tiên, tỉnh Kiên
Giang |
Mất |
25 tháng
3, 1969 (63 tuổi)
Sài
Gòn |
Công việc |
Nhà giáo, Nhà thơ |
Giai đoạn sáng tác |
1922-1969 |
Thể loại |
thơ tiền
chiến, thơ mới |
Trào lưu |
Thư pháp |
Tác phẩm nổi bật |
Thơ Đông
Hồ, Linh Phượng, Cô Gái Xuân ... |
Vợ/chồng |
Linh
Phượng, Nhàn Liên,Mộng
Tuyết [1] |
Đông Hồ (10 tháng 3 năm 1906 - 25 tháng 3 năm 1969),
tên thật Lâm
Tấn Phác, tự Trác
Chi, hiệu Đông
Hồ và Hòa
Bích; các bút hiệu khác:Thủy Cổ
Nguyệt, Đại Ẩn Am, Nhị Liễu Tiên Sinh.
Ông được đánh giá là một nhà giáo, nhà thơ,
chuyên gia nghiên cứu tiếng Việt và
là một người nhiệt tình với văn hóa dân tộc Việt Nam.[2]
Ông là thành viên của nhóm "Hà
Tiên tứ tuyệt" gồm: Đông Hồ, Mộng Tuyết (cũng
là vợ của ông), Lư Khê và Trúc Hà.
Thân
thế và sự nghiệp
Đông Hồ sinh
tại làng Mỹ Đức, tỉnh Hà Tiên,
nay thuộc tỉnh Kiên Giang.
Thuở nhỏ ông vốn tên là Kỳ
Phác, sớm mồ côi cha mẹ, nhờ bác ruột là
Lâm Hữu Lân nuôi dạy và đặt tiểu tự cho ông là Quốc
Tỉ, tự là Trác
Chi.
Nhà ông, tổ tiên truyền mấy đời, đều
ở ven Đông Hồ ấn
nguyệt, là một thắng cảnh trong Hà Tiên Thập
Cảnh, nên khi bắt đầu biết làm thơ ông
đã lấy hiệu Đông Hồ[3].
Theo tâm sự của Đông Hồ, chính Nam
Phong tạp chí đã
đánh thức nơi ông niềm say mê với quốc văn,
quốc ngữ:
- Nằm
nhà buồn buồn, tôi lấy mấy quyển sách ra
xem thì là mấy tập Nam Phong cũ. Tôi giở
từng số, xem qua một lượt. Tôi gặp bài thơ
Le Lac của Lamartine dịch ra quốc ngữ của
cô Lê Cẩm Nhung và của ông Nguyễn Văn
Bông. Tôi để ý đọc, chỉ đọc bài quốc ngữ
thôi, vì bài chữ Tây thì tôi đã thuộc lòng
(…) Thì ra quốc văn có thể diễn nổi những
cảnh sắc sảo sáng sủa của thơ Tây, và cũng
có thể diễn nổi những ý tứ thâm trầm,
những tư tưởng cao thượng của thơ Tàu. Tôi
tỉnh ngộ. Tôi thấy rằng nước ta còn có
chữ, giống ta còn có tiếng nói. Quốc văn
ta có nghèo hèn kém cỏi gì đâu. Tôi bỏ
Pháp văn, quay ra chuyên tâm học quốc ngữ.
Cái duyên của tôi với báo Nam Phong cũng
bắt đầu từ đó, mà cái cảm tình của tôi đối
với tiếng nước nhà đằm thắm mặn mà cũng
bắt đầu từ đó [4]
Lượt kê những hoạt động chính của
ông:
- Năm 1926 - 1934:
lập Trí
Đức học xá trên
bờ Đông hồ, chủ trương chuyên dạy toàn tiếng
Việt, cổ động người Việt tin tưởng ở tương
lai Việt ngữ. Thời kỳ này ông cộng
tác với Nam
Phong tạp chí do Phạm Quỳnh chủ
trương đến khi báo đình bản (1935). Thời kỳ
này, ông nổi tiếng với bài ký Linh
Phượng tức Trác
Chi lệ ký tập và
bài phú Đông
Hồ.
- Năm 1935:
xuất bản tuần báo Sống ở Sài
Gòn nhưng
chỉ ra được vài chục số thì ngưng vì không
tự túc nổi, ông phải về lại Hà Tiên sinh
sống và chuyên nghiên cứu văn học miền Nam.
- Năm 1945:
tham gia kháng chiến chống Pháp một
thời gian, nhưng sức yếu, ông rời Hà Tiên
trở lên Sài Gòn.
- Năm 1950:
sáng lập nhà xuất bản Bốn Phương và nhà sách Yiễm
Yiễm thư trang.
- Năm 1953:
xuất bản tập san Nhân
Loại để
yểm trợ cho nhà xuất bản và nhà sách nêu
trên cho đến giữa năm 1964, tất cả mới ngưng
hoạt động.
- Năm 1964:
ở ẩn tại Quỳnh
Lâm thư thất thuộc
ngoại ô Sài Gòn. Những năm về sau, ông vừa
làm văn vừa làm thơ, thường viết về văn học,
về lịch sử đăng ở các tạp chí xuất bản ở Sài
Gòn như Văn
Hóa nguyệt san, Bách Khoa, Văn,...
Ông mất ngày 25 tháng 3 năm 1969 (tức
8 tháng 2 năm Kỷ Dậu)
lúc đang đứng trên bục giảng cho sinh viên bài
thơ "Trưng Nữ Vương" của nữ sĩ Ngân Giang[5].
Tác phẩm
Ngoài thơ, Đông Hồ còn viết văn, ký,
khảo cứu, văn học sử. Về văn, ông viết từ văn
xuôi biền ngẫu đến văn xuôi hiện đại. Ông có
tiếng khi viết cho báo Nam
Phong do
Phạm Quỳnh chủ trương và nổi tiếng nhất với
bài ký Linh
Phượng, tức Trác
Chi Lệ Ký tập và
bài Phú
Đông Hồ.
Các tác phẩm đã in thành sách:
- Thơ Đông
Hồ (Văn
Học Tùng Thư, Nam Ký Thư Quán, Hà Nội xuất
bản, 1932): sáng tác trong khoảng 1922 -
1932
- Lời Hoa (Trí
Đức Học Xá, Hà Tiên xb, 1934): các bài Việt
văn của học sinh Trí Đức Học Xá đã nhuận sắc
- Linh
Phượng (Nam
Ký Thư Quán, Hà Nội xb, 1934): tập lệ ký
khóc vợ, vừa thơ vừa văn xuôi, đăng ở Nam
Phong tập
XXII, số 128
- Cô Gái
Xuân (Vị
Giang Văn Khố Nam Định xb, 1935): thơ sáng
tác trong khoảng 1932 - 1935
- Những lỗi
thường lầm trong sự học Quốc văn (Trí
Đức Học Xá xb, 1936): soạn chung với Trúc Hà
- Hà Tiên
thập cảnh (Bốn
Phương xb, 1960): in chung với Đường
Vào Hà Tiên của Mộng Tuyết thất
tiểu muội
- Trinh
Trắng (Bốn
Phương xb, 1961): thi tuyển
- Truyện
Song tinh (Bốn
Phương xb, 1962): sao lục, khảo cứu truyện Song
Tinh Bất Dạ
- Chi lan
đào lý (1965):
tùy bút
- Năm ba
điều nghĩ về Truyện
Kiều (1965):
thuyết trình nhân dịp kỷ niệm 200 năm sinh Nguyễn
Du
- Bội lan
hành (1969)
- Úc Viên
thi thoại (1969)
- Đăng đàn (1969)
- Dòng Cổ
Nguyệt (1969)
- Văn học
miền Nam: văn học Hà Tiên (1970):
tập họp những bài giảng ở Đại học Văn khoa
Sài Gòn.
Đã hoàn thành các biên khảo:
- Thăm đảo
Phú Quốc (Nam
Phong, t. XXI, số 124, 1927)
- Hà Tiên
Mạc thị sử (Nam
Phong, t. XXV, số 143, 1929)
- Chuyện
cầu tiên ở Phương thành (1932)
Ngoài ra, Đông Hồ là một người có
bàn tay tài hoa, vốn yêu thích viết chữ đẹp và
nghệ thuật thư pháp, và lại yêu tiếng Việt nên
ông là người đầu tiên có ý tưởng dùng cọ lông
và mực Tàu viết chữ quốc ngữ. Vì thế ông được
tôn là tổ sư của bộ môn Việt
thư (thư pháp chữ
Việt).
Đánh giá
Nhà
kỷ niệm Đông Hồ, cũng là nơi ở cuối cùng
của
Mộng
Tuyết tại
Hà Tiên.
Đông Hồ viết nhiều loại văn, thơ,
ký, khảo cứu và văn học sử. Ông viết từ thập niên 1920 cho
đến thập niên 1960,
đã đi từ thơ cũ đến thơ mới, từ văn xuôi biền
ngẫu đến văn xuôi hiện đại. Ông cùng với vợ là
nữ sĩ Mộng Tuyết (1914-2007),
đã từng làm rạng rỡ văn học đất Phương Thành
(Hà Tiên) bởi các tác phẩm của mình.
Trích một vài nhận xét:
- ...Yêu
quốc văn mà đến như Đông Hồ kể cũng ít... Và
với thi phẩm Cô
gái xuân ông
là "người thứ nhất đưa vào thi ca Việt Nam
cái vị bát ngát của tình yêu dưới trăng
thanh, trong tiếng sóng [6].
- Nguyễn Tấn
Long-Nguyễn Hữu Trọng:
- Từ
tập "Thơ Đông Hồ" cũ kỹ đến tập "Cô gái
xuân" mới mẻ, người ta nhận thấy thoát lốt,
một con người thi sĩ đang ở trong thời đại
của mình, bỗng nhiên làm một cuộc biến
hình..." [7]
- Người
ta còn nhớ ông là tác giả của Linh
Phượng, tập lệ ký khóc vợ, vừa thơ vừa
văn xuôi, với những hình ảnh, vần điệu cũ
kỹ, song lại nói lên được cái buồn có tính
chất thời đại lúc ấy...Về mặt sưu tầm, khảo
cứu văn liệu: tập Hà
Tiên Mạc thị sử nói
về nhóm Tao
đàn Chiêu Anh Các do
ông biên soạn; cuốn Truyện
Song Tinh, tức Song
Tinh Bất Dạ, là một truyện thơ nôm của Nguyễn
Hữu Hào do
ông tìm được; là những "cống hiến đáng kể [8].
Bài
thơ nổi tiếng
- Mua áo
- Chiếc
áo năm xưa đã cũ rồi,
- Em
đâu còn áo mặc đi chơi.
- Bán
thơ nhân dịp anh ra chợ,
- Đành
gởi anh mua chiếc mới thôi!
- Hàng
bông mai biếc màu em thích,
- Màu
với hàng, em đã dặn rồi.
- Còn
thước tấc, quên! Em chửa bảo:
- Kích
tùng bao rộng, vạt bao dài?
- Ô
hay! Nghe hỏi mà yêu nhỉ!
- Thước
tấc anh còn lựa hỏi ai
- Rộng
hẹp, tay anh bồng ẵm đó,
- Ngắn
dài, người mới tựa bên vai!
- Đông
Hồ
- Cô gái Xuân
- …
Cũng xóm làng trên, cô gái thơ,
- Tuổi
xuân hơn hớn vẻ đào tơ.
- Gió
đông mơn trớn bông hoa nở,
- Lòng
gái xuân kia náo nức chờ.
- Tưng
bừng hoa nở bóng ngày xuân,
- Rực
rỡ lòng cô hoa ái ân.
- Như
đợi, như chờ, như nhớ tưởng,
- Đợi,
chờ, tưởng, nhớ bóng tình quân....
Nguồn:https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%B4ng_H%E1%BB%93_(nh%C3%A0_th%C6%A1)