Tiểu
sử
Dương Thu Hương sinh ra ở Thái
Bình, sống nhiều năm ở Hà
Nội. Lúc 8 tuổi trong thời kỳ Cải
cách Ruộng đất, bà đã phải đi theo các đoàn
học sinh để chứng kiến các cuộc đấu tố địa chủ.
Năm 1967,
bà tình nguyện tham gia Thanh
niên xung phong, phong trào Tiếng
hát át tiếng bom, phục vụ trong một đoàn văn
công tại một trong những khu vực chiến tranh ác
liệt nhất lúc đó: Bình
Trị Thiên. Bà là một trong bốn người trong
đoàn sống sót trở về. Sau chiến tranh, trở ra Bắc,
bà cầm bút viết văn và công tác trong ngành điện
ảnh. Bà tham dự khóa đầu tiên Trường viết văn
Nguyễn Du (1980). Các tác phẩm của bà nhanh chóng
nổi tiếng và nằm trong số những tác phẩm được
nhiều người đọc nhất lúc đó trong phong trào Cởi
Mở. Bà từng là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam nhưng
đã bị khai trừ khỏi Đảng vào năm 1989 do
"đấu tranh cho tự do dân chủ" và phê phán thể chế
hiện hành. Bà viết nhiều tác phẩm nổi tiếng như Bên
kia bờ ảo vọng, Những
thiên đường mù… nói lên sự vỡ mộng của mình
đối với chế độ cộng sản, và được Bộ trưởng Văn hóa Pháp,
ông Jacques
Toubon, trao tặng Huân chương Văn hóa Nghệ
thuật Chevalier
des Arts et des Lettres năm 1994 [1][2]
Các tác phẩm của bà hiện nay
không được phép lưu hành tại Việt Nam vì lý do chính
trị. Bà đã từng phải vào tù do viết sách và
phát biểu phê phán việc áp dụng chủ nghĩa Marx-Lenin vào
Việt Nam, phản đối độc quyền của Đảng Cộng sản.[cần dẫn nguồn] Có 6
tác phẩm (truyện) của bà được dịch ra tiếng
Anh, tiếng
Pháp và tiếng
Đức nhưng
bản tiếng Việt thì khó tìm thấy.[3] Đặc
biệt, với cuốn Chốn vắng,
bà đã lêntruyền
hình Pháp TF1. Đây được
xem là cuốn tiểu thuyết xuất sắc nhất của bà, nằm
trong danh sách đề cử giải Femina và
nhận Giải thưởng lớn Đọc giả
của tạp chí Elle (Grand
prix des lectrices de Elle) 2007. [cần dẫn nguồn]
Trong tháng
4 năm 2006,
bà được mời sang Paris (Pháp) và sau đó sang New York (Mỹ)
dự một hội nghị Văn bút
Quốc tế, chuẩn bị viết thêm tác phẩm mới, và
cũng để ra mắt bạn đọc khắp nơi. Kết thúc chuyến
đi này, bà trở lại Pháp xin lưu trú, nói là để
tiếp tục sáng tác và không can dự vào chính trị
nữa.[cần dẫn nguồn]
Giữa năm 2008, bốn tác phẩm
của bà đã được đưa vào bộ sách Bouquins ở Pháp: Bên
kia bờ ảo vọng, Những
thiên đường mù, Tiểu
thuyết vô đề và Chốn
vắng.[4]
Đề cử
Nobel
Năm 2009, Dương Thu Hương
được GS.TS. Joseph Pivato, dạy môn văn chương Anh
ngữ tại đại học Athabasca ở Alberta, Canada đề cử
vào danh sách cứu xét cho giải Nobel văn chương của
năm.[5]
Tác
phẩm
Tiểu thuyết
- Hành trình
ngày thơ ấu (bản tiếng Pháp được
in với tựa Itinéraire
d'enfance), 1985
- Bên kia bờ ảo
vọng (bản tiếng Pháp: Au-delà
des illusions), 1987
- Những thiên
đường mù (bản
tiếng Pháp: Paradis
aveugles), 1988
- Quãng đời
đánh mất, 1989
- Tiểu thuyết
vô đề (còn
có tên là Khải
hoàn môn; bản tiếng Anh: Novel
Without a Name)
- Lưu ly (bản tiếng Anh: Memories
of a Pure Spring, 1996;
bản tiếng Pháp: Myosotis,
1998)
- Chốn vắng (bản
tiếng Anh: No
Man's Land; bản tiếng Pháp: Terre
des oublis), 2002
- Đỉnh cao chói
lọi (được
dịch sang tiếng Pháp với tựa Au Zénith), 2009[6]
- Hậu cung của
con tim (tên
tiếng Pháp Sanctuaire
du cœur) (2011)[7]
- Đồi bạch đàn (tên
tiếng Pháp Les
Collines d'Eucalyptus) (2013)[7]
Tập truyện
- Những bông
bần ly, 1980
- Một bờ cây đỏ
thắm, 1980
- Ban mai yên ả, 1985
- Đối thoại sau
bức tường, 1985
- Chân dung
người hàng xóm, 1985
- Chuyện tình
kể trước lúc rạng đông, 1986
- Các vĩ nhân
tỉnh lẻ, 1988
Truyện
dài, truyện ngắn khác
- Truyện dài Hoa
tầm xuân của mùa thu
- Truyện ngắn Loài
hoa biến sắc
- Truyện ngắn Miền
cỏ tơ
Phim tài liệu
- Đền đài của
những niềm thất vọng
Nguồn:https://vi.wikipedia.org/wiki/D%C6%B0%C6%A1ng_Thu_H%C6%B0%C6%A1ng