Tông thư – Tự sắc Porta Fidei WHD |
1.
“Cánh cửa đức Tin” (x. Cv 14, 27) dẫn vào đời sống kết hiệp với
Thiên Chúa, đồng thời mở ra con đường bước vào Giáo hội, vẫn
luôn mở rộng cho chúng ta. Chúng ta có thể bước qua ngưỡng cửa
đó khi Lời Chúa được loan báo và để cho ơn biến đổi uốn nắn tâm
hồn. Bước qua cánh cửa đó là dấn bước vào một cuộc hành trình
kéo dài suốt đời. Hành trình này bắt đầu bằng bí tích Rửa Tội
(x. Rm 6, 4), nhờ đó chúng ta có thể gọi Thiên Chúa là Cha, và
hoàn tất với việc vượt qua cái chết, tiến đến sự sống đời đời,
là hoa quả sự phục sinh của Chúa Giêsu, Đấng đã dùng ơn Chúa
Thánh Thần mà muốn cho tất cả những ai tin nơi Người đều được
thông phần vào vinh quang của Người (x. Ga 17, 22). Tuyên xưng
niềm tin nơi Chúa Ba Ngôi – Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh
Thần – chính là tin vào một Thiên Chúa duy nhất, Đấng là Tình
yêu (x. 1 Ga 4, 8): Chúa Cha, khi đến thời viên mãn, đã sai Con
của Người đến cứu độ chúng ta; Chúa Giêsu Kitô đã chuộc tội trần
gian trong mầu nhiệm sự chết và phục sinh của Người; Chúa Thánh
Thần dẫn dắt Giáo hội qua các thời đại, đang khi mong chờ cuộc
quang lâm vinh hiển của Chúa.
2.
Khi bắt đầu đảm nhận sứ vụ Kế vị Thánh Phêrô, tôi đã nhắc đến
việc cần phải tái khám phá hành trình đức Tin để luôn làm nổi
bật niềm vui và niềm hưng phấn mới của việc gặp gỡ Đức Kitô.
Trong Bài giảng Thánh lễ khai mạc sứ vụ Giáo hoàng, tôi
đã nói: “Toàn thể Giáo hội và các Mục tử trong Giáo hội, cũng
như Đức Kitô, phải lên đường để đưa con người ra khỏi sa mạc,
đến nơi có sự sống, đến việc làm bạn với Con Thiên Chúa, đến với
Đấng ban cho chúng ta sự sống, sự sống dồi dào”
[1].Tuy
nhiên, các Kitô hữu lại thường quan tâm nhiều hơn tới những kết
quả của sự dấn thân về phương diện xã hội, văn hóa và chính trị,
cứ tưởng rằng đức Tin là tiền đề hiển nhiên của đời sống xã hội.
Nhưng thực tế cho thấy tiền đề ấy không chỉ không còn được coi
là hiển nhiên nữa mà thậm chí còn thường bị phủ nhận. [2]. Trong
khi ngày xưa, có thể nhận ra một hệ thống văn hóa thống nhất,
được nhiều người chấp nhận, có tham chiếu nội dung đức Tin và
những giá trị chịu ảnh hưởng của đức Tin, thì ngày nay, trong
các lãnh vực lớn của xã hội có lẽ không còn như vậy nữa,
do cuộc khủng hoảng sâu sắc
về
đức
Tin
đã ảnh hưởng tới nhiều người.
3.
Chúng ta không thể chấp nhận để muối nhạt đi và ánh sáng bị che
khuất (x. Mt 5, 13-16). Con người ngày nay, cũng giống như người
phụ nữ Samaria, có thể cũng lại cảm thấy cần phải đến bên giếng
nước để lắng nghe Chúa Giêsu, Đấng mời gọi hãy tin vào Người và
múc lấy nước hằng sống từ Người trào ra (x. Ga 4, 14). Chúng Giáo hội trung thà
nh truyền lại, và bằng Bánh Hằng Sống, được
ban cho để nâng đỡ tất cả những ai làm môn đệ Chúa (x. Ga 6,
51). Quả thật, giáo huấn của Chúa Giêsu vẫn còn vang dội mạnh mẽ
trong thời đại chúng ta: “Các con hãy làm việc không phải để
được của ăn hay hư nát, nhưng để được lương thực thường tồn” (Ga
6, 27). Câu hỏi đã được mọi người nghe Chúa nói đặt ra,
cũng
là câu hỏi của
chúng ta ngày nay:
“Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?”
(Ga 6, 28). Chúng ta biết Chúa Giêsu trả lời ra sao: “Việc Thiên
Chúa muốn là: Anh em hãy tin vào Đấng mà Người đã sai đến” (Ga
6, 29). Vậy, tin vào Chúa Giêsu Kitô chính là con đường chắc
chắn đạt tới ơn cứu độ.
4.
Từ những điều nói trên, tôi quyết định mở một Năm Đức Tin.
Năm Đức Tin sẽ bắt đầu từ ngày 11 tháng Mười 2012, nhân
kỷ niệm 50 năm khai mạc Công đồng Vatican II, và sẽ kết thúc vào
ngày đại lễ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ, 24 tháng Mười Một 2013. Ngày
11 tháng Mười 2012, cũng sẽ diễn ra lễ kỷ niệm 20 năm xuất bản
Sách Giáo Lý Hội Thánh Công giáo, được vị Tiền nhiệm của
tôi, Đức Chân phước Giáo hoàng Gioan Phaolô II [3] ban hành, với
mục đích trình bày cho mọi tín hữu sức mạnh và vẻ đẹp của đức
Tin. Văn kiện này là thành quả đích thực của Công đồng Vatican
II. Thượng Hội đồng Giám mục khóa họp ngoại thường năm 1985 đã
mong ước văn kiện này được sử dụng trong việc dạy giáo lý [4];
và toàn thể hàng Giám mục của Giáo hội Công giáo đã cộng tác
thực hiện văn kiện này. Chính tôi cũng đã triệu tập Đại hội toàn
thể Thượng Hội đồng Giám mục vào tháng Mười năm 2012 về đề tài
Tân Phúc âm hóa để thông truyền đức Tin Kitô giáo. Đây sẽ
là một cơ hội thuận lợi để đưa toàn Giáo hội bước vào một giai
đoạn suy tư đặc biệt và tái khám phá đức Tin.Đây không phải lần
đầu tiên Giáo hội được kêu gọi cử hành Năm Đức Tin. Vị
Tiền nhiệm đáng kính của tôi, Tôi tớ Chúa Phaolô VI cũng đã ấn
định Năm Đức Tin tương tự vào năm 1967, để kỷ niệm cuộc
tử đạo của hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô, nhân 1900 năm cuộc
làm chứng cao cả của các ngài. Đức cố giáo hoàng đã nghĩ đến
việc kỷ niệm này là một thời điểm long trọng để toàn thể Giáo
hội chính thức và chân thành “tuyên xưng cùng một đức Tin”;
ngoài ra, ngài mong muốn đức Tin được củng cố “về phương diện cá
nhân cũng như tập thể, có tự do và ý thức, nơi nội tâm cũng như
bên ngoài, khiêm tốn và chân thành” [5]. Ngài tin rằng bằng cách
này toàn thể Giáo hội sẽ “ý thức rõ rệt hơn về đức Tin của mình,
để làm tươi mới đức Tin, thanh luyện, củng cố và tuyên xưng đức
Tin” [6]. Những xáo trộn lớn diễn ra trong Năm Đức Tin ấy
càng cho thấy rõ cần phải có một cuộc cử hành như thế.Năm Đức
Tin ấy đã kết thúc với Bản Tuyên xưng Đức Tin của Dân
Chúa [7], cho thấy có biết bao nội dung cốt yếu từ các thế
kỷ qua, vốn là gia sản của mọi tín hữu, cần phải được củng cố,
hiểu biết và ngày càng đào sâu hơn, để đưa ra chứng từ phù hợp
với hoàn cảnh lịch sử đã khác xưa.
5.
Trong một số khía cạnh, vị Tiền nhiệm đáng kính của tôi đã coi
Năm Đức Tin ấy như “một hệ quả và là một yêu cầu của thời
hậu Công đồng” [8], ngài ý thức rõ về những khó khăn nghiêm
trọng của thời đại, nhất là về việc tuyên xưng đức Tin chân thật
và sự giải thích đức Tin đúng đắn. Tôi cho rằng việc khởi sự
Năm Đức Tin trùng với dịp kỷ niệm 50 năm khai mạc Công đồng
Vatican II có thể là một cơ hội thuận lợi để hiểu rằng các văn
kiện Công đồng, được các Nghị phụ để lại như di sản, - theo như
lời Chân phước Gioan Phaolô II - “không hề mất giá trị và vẻ
ngời sáng”. Các văn kiện ấy cần phải được đọc một cách đúng
đắn, được phổ biến rộng rãi và tiếp nhận thấu đáo như những văn
kiện quan trọng và mang tính quy phạm thuộc Huấn quyền, trong
Truyền thống của Giáo hội… Hơn bao giờ hết tôi cảm thấy nghĩa vụ
phải nói rõ Công đồng chính là hồng ân Giáo hội được hưởng
trong thế kỷ XX: Công đồng mang lại cho chúng ta một chiếc
la bàn đáng tin cậyđể định hướng trong cuộc hành trình thế kỷ
đang mở ra” [9]. Tôi cũng muốn mạnh mẽ nhắc lại những gì tôi đã
nói về Công đồng sau vài tháng được bầu lên kế vị Thánh Phêrô:
“Nếu chúng ta đọc và đón nhận Công đồng, với sự giải thích đúng
đắn, thì Công đồng ngày càng sẽ và luôn trở thành một nguồn lực
lớn lao cho việc thực hiện cuộc canh tân vốn luôn cần thiết đối
với Giáo hội” [10].
_(còn tiếp)_________
Chú thích
[1] Bài giảng
Thánh
lễ
Khai mạc
sứ vụ Phêrô của Giám
mục
Rôma (ngày 24 tháng
Tư,
2005): AAS 97 (2005), 710, DC 102 (2005) p.547.
[2]
x.
Bênêđictô XVI, Bài giảng Thánh
lễ
tại
Terreiro
do
Paco,
Lisbon (ngày
11
tháng
Năm
2010): Insegnamenti VI, 1 (2010), 673, DC 107 (2010),
tr.
515.
[3]
x.
Gioan Phaolô
II, XD. Apost. Fidei depositum (ngày
11 tháng
Mười
1992): AAS 86 (1994), 113-118; DC 90 (1993)
tr.
1-3.
[4]
x.
Phúc trình kết thúc
Thượng Hội
đồng
Giám
mục
ngoại
thường lần thứ hai
(ngày
7 tháng
Mười Hai
1985), II, B,
a,
4
inEnchiridion
Vaticanum, vol. 9, n. 1797, DC 83 (1986),
tr.39.
[5] Phaolô VI,
Tông huấn
Petrum
et
Paulum Apostolos,
nhân kỷ niệm 1900 năm cuộc
tử đạo của Thánh Phêrô và
Thánh
Phaolô (ngày22
tháng
Hai
1967): AAS 59 (1967), 196, DC 64 (1967) col.
484-485.
[6] Như trên,
198.
[7] Phaolô
VI,
Long trọng tuyên xưng
Đức Tin,
Bài giảng
Thánh lễ kỷ niệm 1900 năm cuộc
tử đạo của Thánh Phêrô và Phaolô, kết thúc
Năm
Đức Tin
(ngày
30 tháng
Sáu
1968): AAS 60 (1968), 433 - 445, DC 65 (1968) col. 1249-1258.
[8] Phaolô
VI,
Tiếp kiến chung
(ngày 14 tháng
Sáu
1967): Insegnamenti V (1967), 801, DC 64 (1967) col.. 1162.
[9] Gioan Phaolô II, Tông thư Novo Millennio
Ineunte (ngày
6 tháng
Giêng
2001), n. 57: AAS 93 (2001), 308, DC 98 (2001),
tr.
88.
[10]
Huấn từ tại
Giáo Triều Rôma (ngày
22
tháng Mười Hai
2005): AAS 98 (2006), 52, 103 DC (2006),
tr.
63.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
SỐNG LÀ CHUẨN BỊ CHO NGÀY RA ĐI
|
CHÚA NHẬT 33
THƯỜNG NIÊN NĂM B
Theo
truyền thống, thời gian cuối năm phụng vụ, Hội Thánh vừa nhắc
nhở con cái mình về thời cuối cùng của đời người, vừa nhắc nhở
về ngày cánh chung của thế giới.
Đặc
biệt, cánh chung của thế giới, cũng là ngày cùng tận và chấm dứt
lịch sử vũ trụ. Tiếng nói cuối cùng của lịch sử là chính Thiên
Chúa.Người là chủ của lịch sử.Người đưa lịch sử vào triều nguyên
vĩnh cửu.Người làm cho mọi loài, mọi vật quy phục Người. Người
thu về một mối, do chính Người làm chủ tể. Thiên Chúa cho thấy
sự toàn thắng của ơn cứu độ trong ngày mọi sự, mọi loài được thu
phục trong Nước đời đời của Người.
Trong
Tin Mừng Chúa nhật XXXIII thường niên năm B, Chúa Giêsu nói về
ngày ấy, ngày cánh chung, ngày cùng tận của thế giới, ngày mà
mọi sự quy phục Thiên Chúa. Chúa không dùng cung giọng giận dữ
hay đe dọa để gây hoang mang, sợ hãi, nhưng với lời lẽ chân
thành, Chúa dẫn người nghe đến thái độ phải biết chuẩn bị sẵn
sàng để đón nhận ngày cùng tận ấy. Chúa báo trước, con người
phải đối diện với những thử thách và là những thử thách lớn chưa
từng thấy: "Trong những ngày ấy, sau cảnh khốn cực, mặt trời
sẽ ra tối tăm, mặt trăng sẽ mất sáng, các ngôi sao sẽ từ trời
rơi xuống và các sức mạnh trên trời sẽ bị lay chuyển”.
Trước
mọi thử thách lớn lao ấy, con người cần có đức tin kiên cường để
vượt qua. Chính đức tin sẽ giúp con người vững một niềm hy vọng
và cậy trông vào ơn cứu độ của Chúa. Chính sự vững vàng trong
đức tin và trọn một niềm cậy trông, sẽ là bảo chứng cho thấy họ
thực là môn đệ của Chúa Kitô, xứng đáng lãnh nhận ơn cứu độ của
Thiên Chúa.Chính trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu gọi họ là “những
kẻ được tuyển chọn”. Họ sẽ được vinh thăng và sẽ hạnh phúc vì
được quy tụ về cùng Thiên Chúa: “Bấy giờ Người sẽ sai các
thiên thần của Người đi quy tụ những kẻ đã được tuyển chọn từ
khắp bốn phương, từ chân trời cho đến cùng kiệt trái đất”.
Như vậy,
trong ngày cùng tận của thế giới, Chúa Giêsu là tác nhân chính
điều khiển mọi sự.Vì thế, qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã tha thứ
và đã giải thoát nhân loại khỏi ách tội lỗi khốn cùng.Người sẽ
dẫn tất cả chúng ta tiến về vĩnh cửu với Người. Bởi chính trong
đoạn Tin Mừng (Mc 13, 24-32), Chúa Giêsu không hề nói đến bất cứ
một nhân vật nào khác, nhưng Người chỉ khẳng định về chính mình:“Thiên
hạ sẽ thấy Con Người ngự đến trên đám mây với đầy quyền năng và
vinh quang”, hay “Các con hãy biết là Người đã tới gần
ngoài cửa rồi”.
Nhưng ngày
cùng tận của thế giới còn được gọi là “ngày của Chúa”.Vậy “ngày
của Chúa” không là ngày của Thiên Chúa mà chỉ là ngày của Chúa
Giêsu thôi sao? Thật ra, khi nói “Con Người ngự đến trên đám
mây với đầy quyền năng và vinh quang”, thánh Marcô không có
ý tưởng “mây” như là xa giá đưa Con Người đến. Nhưng cùng với
những lời: “quyền năng và vinh quang”, hình ảnh “mây” có ý nhấn
mạnh đến tính cách “hiển linh” của việc Người đến: Con Người sẽ
đến với Thần Tính, đến trong uy quyền của Thần Tính. Người làm
cho ngày thế tận trở thành “ngày của Thiên Chúa đến trong Con
Người và nhờ Con Người”.
Mọi tín hữu
đều tin vững vàng sẽ có một ngày cánh chung để đưa mọi loài, mọi
sự về quy phục một mối trong Thiên Chúa. Niềm tin này chắc chắn,
và sẽ không bao giờ lay chuyển trong chúng ta. Nhưng ngày đó là
ngày nào?Chúng ta không thể biết. Chính Chúa Giêsu khẳng định:
“Còn về ngày đó hay giờ đó, thì không một ai biết được, dù
các thiên thần trên trời, dù Con Người cũng chẳng biết, chỉ có
mình Cha biết thôi”.
Thực ra, tận
thế lúc nào không quan trọng.Quan trọng trên hết mọi thứ quan
trọng là đời sống của ta. Ta chuẩn bị gì cho ngày kết thúc đời
mình? Ta sẽ trình diện với Chúa trong ngày Người gọi. Nhưng ta
sẽ mang theo gì để trình diện? Hãy nhớ, sống là chuẩn bị cho
ngày ra đi.Chúng ta đang sống.Nhưng chúng ta sẽ ra đi. Ai khôn
ngoan, người đó sẽ luôn tâm niệm: Tôi sống, cũng đồng nghĩa với
việc tôi đang chuẩn bị cho ngày tôi ra đi.
Ta không
hoang mang, không lo lắng về ngày tận thế. Ta cũng không thất
vọng, không u sầu về giờ chết. Thay gì hoang mang hay lo sợ,
thất vọng hay u sầu, ta luyện tập nhân đức để sống như Chúa
muốn. Qua từng ngày sống, ta đào tạo lương tâm thật ngay chính
để sống có nhân, có nghĩa với anh chị em. Ta nỗ lực lo mọi bổn
phận đạo đức, thu tích lối sống công bình, chính trực. Ta luôn
phấn đấu để học tập và sống rập khuôn giáo huấn và Lời của Chúa,
giáo lý chân chính của Hội Thánh. Ngày ngày sống giữa anh chị
em, ta thực hành đức bác ái, chu toàn bổn phận mến Chúa yêu
người cách hết sức tốt đẹp.
Để kết thúc,
ta nhắc đến Mẹ Têrêsa Calcutta như một bằng chứng giúp ta sống
thật tốt đời Kitô hữu của mình. Qua đó, ta rút kinh nghiệm cho
việc sống và thực hành đức tin, để chuẩn bị cho ngày cùng tận
của đời mình, khi Chúa gọi ta đến trình diện với Chúa:
Người ta kể,
một lần, một phóng viên thấy Mẹ Têrêsa làm những việc ghê tởm:
cúi mình trước người hấp hối, người phong cùi, người bị lở lói,
hay người bị nhiều căn bệnh khác, ông nói với Mẹ: “Dù có ai cho
tôi một triệu Mỹ kim, tôi cũng không can đảm làm những việc ghê
tởm như vậy”. Mẹ Têrêsa trả lời: “Tôi không làm vì tiền bạc. Tôi
làm vì tôi nhìn thấy khuôn mặt của Chúa đau khổ nơi anh chị em
tôi”.
Ngày 5 tháng
9 năm 1997, cách đây 5 năm (2012), Mẹ Têrêsa Calcutta, sáng lập
dòng Nữ Thừa sai Bác ái, qua đời trong cảnh khó nghèo giữa các
người nghèo nhất của Calcutta, thành phố đã được liên kết với
tên Mẹ và với sứ mệnh tông đồ của Mẹ.
Gia tài Mẹ để
lại làm một ảnh Thánh giá và một tràng hạt đã bị mòn đi nhiều;
đây là tràng hạt mà Mẹ luôn luôn cầm trong tay, để cầu nguyện,
bất cứ ở nơi nào, bất cứ lúc nào, cả lúc Mẹ gặp các vị lãnh đạo
các quốc gia hay cộng đồng quốc tế, cả lúc Mẹ lãnh giải thưởng
Nobel Hòa Bình năm 1979 tại Stockolm, thủ đô Thụy điển.
Trước khi qua
đời, Mẹ còn xin tháo bỏ đôi dép (sandales) đơn sơ cũ kỹ, để Mẹ
có thể đến trước mặt Chúa không giày, không dép, trong sự khiêm
tốn của một trong các người nghèo khó nhất trên thế giới này.
Mẹ qua đi
trong khó nghèo, nhưng để lại một gia tài thiêng liêng vô giá.
Các người thừa kế gia tài này không phải chỉ là những ai sống
bên cạnh Mẹ và thi hành cũng một sứ mệnh của Mẹ. Các người thừa
kế gia tài của Mẹ có thể nói được là tất cả mọi người, không
phân biệt có tín ngưỡng hay không tín ngưỡng, bởi tất cả chúng
ta, không trừ ai, đều được mời gọi nhìn nhận khuôn mặt Chúa Kitô
nơi dung mạo của tất cả những ai bị đau khổ. Nhân loại đau khổ
kêu cứu và chất vấn lương tâm từng người trong chúng ta…
Nếu sống là
để chuẩn bị cho ngày ra đi, thì ngay từ hôm nay, chúng ta phải
biết chuẩn bị như các thánh đã chuẩn bị bằng cả cuộc đời của họ!
Lm. JB
NGUYỄN MINH HÙNG
|
VỀ MỤC LỤC |
|
ĐỨC GIÊ-SU, NHÀ
CHÚ GIẢI KINH THÁNH |
Chuyển ngữ: Thérèse Trần Thiết + Fr. Marie Bảo Tịnh O.Cist
Lời Mời gọi của HĐGMVN:
Giáo Hội tại Việt Nam phải “phát động chương trình mỗi gia đình
một cuốn Kinh Thánh được đặt nơi xứng hợp, cổ võ đọc và cầu
nguyện với Lời Chúa”, khuyến khích học thuộc lòng những đoạn
Kinh Thánh cốt yếu. Mọi thành phần Dân Chúa, giáo dân, chủng
sinh, tu sĩ và các mục tử, cần tập thói quen đọc và suy niệm Lời
Chúa hằng ngày, đặc biệt theo phương thức
Lectio divina. (Thư Chung của HĐGMVN, ngày
1.5.2011, số 11)
Xin giới thiệu cho nhiều người thân tham gia Gia Đình Lectio
Divina
Lecdiv@gmail.comđể
có thể hiệp thông với nhau trong đời sống cầu nguyện và cùng
giúp nhau thực hành "điều cần thiết nhất trong mọi điều cần
thiết".Đan
viện Xitô Thánh Mẫu Tâm Mỹ Ca, Nha Trang, sẽ cầu nguyện lâu dài
cho tất cả những ai trung thành thực hành và cố võ việc thực
hành Lectio divina.
Mọi thắc mắc về Lectio divina, xin gởi email cho cha Bảo Tịnh,
O.Cist
fr.baotinh@yahoo.fr
*****
Tác
Phẩm: MỘT VỊ THIÊN CHÚA NGỎ LỜI!
Thiên Chúa tỏ mình cho con người thế nào?
Chuyển ngữ:
Thérèse Trần Thiết
Fr.
Marie Bảo Tịnh O.Cist
Nguyên tác:
Michel HUBAUT
UN
DIEU QUI PARLE!
Comment Dieu se révèle-t-il à l’homme?
Chương 8 -
ĐỨC
GIÊ-SU, NHÀ CHÚ GIẢI
KINH THÁNH
Các môn đệ
làng Em-mau (Lc
24, 13-35)
Trên những con
đường thất vọng của chúng ta
Trình thuật
này không phải
là một
câu chuyện
hấp
dẫn,
cũng không phải
là một
phóng sự
của
nhà báo, nhưng dựa
vào một
nhân chứng
đặc
biệt,
chứng
tá khiêm tốn
của
Cơ-lê-ô-pát, thánh Lu-ca đã
viết
thành một
bài giáo lý để
giúp các tín hữu,
những
người
“không được
chứng
kiến
Đức
Ki-tô phục
sinh”, thẩm
định
sự
hiện
diện
mới
mẻ
của
Thầy.
Câu 13 -
“Cùng ngày hôm
ấy,
có hai
người
trong nhóm môn đệ
đi đến
một
làng kia tên là Em-mau, cách Giê-ru-sa-lem sáu mươi dặm”.
Chỉ
cần
một
vài từ,
thánh Lu-ca đã mô tả
cho chúng ta cách chính xác, về
khung cảnh,
về
các nhân vật,
về
nơi chốn
và những
tình huống
của
trình thuật
này.“Hai người
trong họ”,
đủ
cho ta biếthọ
thuộc
về
một
nhóm môn đệ
nới
rộng
(xem câu 9: “Nhóm Mười
Một
và tất
cả
những
người
khác”).
Rất
có thể
hai môn đệ
này đang trên đường
về
làng để
tiếp
tục
công việc
trước
kia của
họ.
Sự
khó khăn trong việc
xác định
vị
trí làng Em-mau ngày nay, khiến
ta nghĩ rằng
có thể
đây chỉ
là một
ngôi làng tượng
trưng.Vì
đối
với
thánh Lu-ca, hành trình của
hai môn đệ
này chủ
yếu
là một
hành trình tâm linh.
Câu 14-15- “Họ trò chuyện với
nhau về tất cả những sự việc mới xảy ra.Ðang lúc họ trò chuyện
và bàn tán, thì chính Ðức Giê-su tiến đến gần và cùng đi với họ”.
Trên đường
đi, hai môn đệ
đang say sưa bình
luận
về
những
sự
việc
vừa
xảy
ra cho cuộc
vượt
qua của
Thầy
Giê-su.Động
từ
“đến
gần”
rất
quen thuộc
với
Lu-ca (18 lần
trong Tin Mừng
và 6 lần
trong sách Công Vụ).Đối
với
thánh Lu-ca, qua Thầy
Giê-su, chính là Vương Triều
của
Thiên Chúa đang “đến
gần”
các môn đệ
và toàn thể
nhân loại.Trên
đường
Em-mau này, Thầy
Giê-su đã
đi bước
trước,
Thầy
“tiến
đến
gần”.
Nhưng Thầy
đã chỉ
được
xem như một
ngoại
kiều,
một
khách hành hương đến
cử
hành lễ
Vượt
Qua
ở
Giê-ru-sa-lem.“Thầy
đồng
hành với
họ”.
Chủ
đề
“đường
đi” rất
thân thương với
Lu-ca: Hài Nhi Giê-su đã
hạ
sinh trên đường
đến
Be-lem. Một
con đường
quen thuộc
đã từng
được
nghe những
cuộc
đàm đạo
của
Thầy
và các môn đệ
xuyên suốt
Tin Mừng,
cách riêng con đường
“lên Giê-ru-sa-lem”.
Sứ
vụ
của
các Tông Đồ
cũng sẽ
là một
“lộ
trình” khởi
đi từ
Giê-ru-sa-lem cho đến
tận
cùng trái đất.Đến
nỗi
“Đường
Đi” đã trở
thành tên được
đặt
cho một
trong số
các cộng
đoàn mới
được
khai sinh thời
đó.Đối
với
Lu-ca, Đức
Ki-tô trước
hết
là một
“người
bạn
đường”.Đường
đi của
các môn đệ,
thật
ra là một
“lộ
trình tâm linh”, là suốt
thời
gian đàm đạo
với
Thầy
Giê-su. Đúng là tất
cả
những
gì Đức
Giê-su nói với
họ
“trên đường
đi” đều
sẽ
được
sáng tỏ
lúc Thầy
bẻ
bánh.
Câu 16 - “Nhưng
mắt
họ
còn bị
ngăn cản,
không nhận
ra Người”.
Dùng động
từ
ở
thể
bị
động
mang một
âm hưởng
thần
học.Có
nghĩa là Đức
Giê-su nay đã
bước
vào trạng
huống
mới
của
Đấng
Phục
Sinh.
Đức
Ki-tô Giê-su Phục
Sinh bây giờ
không thể
nhận
diện
chỉ
bằng
con mắt
xác thịt.
Các thánh viết Phúc Âm đều
nhấn
mạnh
thực
tại
thân xác của
Thầy
Giê-su Phục
Sinh và sự
đứt
đoạn
với
trạng
huống
thế
trần
của
Thầy
trước
kia. Chúng không tách biệt
chiều
kích “lịch
sử”
và chiều
kích “xuyên lịch
sử”.
Đức
Giê-su đã
hiện
ra, có nghĩa là sự
hiện
diện
mới
mẻ
của
Thầy
là một
sự
kiện
được
ghi nhận
trong lịch
sử
nhân loại
chúng ta, và đồng thời
nó cũng đi vào cái “Hôm Nay” của
Thiên Chúa, để
được
hiện
diện
với
con
người
thuộc
mọi
thế
hệ.
Các môn đệ
“thấy”
Thầy
bằng
con mắt
xác thịt
của
họ,
nhưng cái nhìn
tâm linh, hay con mắt
đức
tin của
họ
chưa được
thức
tỉnh,
nên họ
đã không nhận
ra Thầy
Giê-su ngay. Con đường
Em-mau còn là con
đường
sư phạm,
giáo dục
cho “cái nhìn đức
tin”, nó phải
học
cho biết
vượt
qua sự
vắng
mặt
thể
lý, để
đến
với
một
sự
hiện
diện
mới
mẻ
kín đáo của
Đức
Giê-su Ki-tô trên mọi
nẻo
đường
đời
của
chúng ta. Những
dấu
chỉ,
những
dấu
vết
của
sự
hiện
diện
mới
mẻ
của
Đức
Ki-tô rất
nhiều,
nhưng chỉ
vì ta
chưa “nhận
ra” thôi.
Câu 17 - “Người
hỏi
họ:
"Các anh vừa
đi vừa
trao đổi
với
nhau về
chuyện
gì vậy?"
Họ
dừng
lại,
vẻ
mặt
buồn
rầu”.
“Họ
vừa
đi vừa
nói”.Cũng
như hai môn đệ
làng Em-mau, trên bước
đường
đời
biết
bao lần
chúng ta đã bình luận,
bàn tán một
cách buồn
chán, về
những
biến
cố
làm ta thất
vọng,
nản
lòng. Xưa
kia Thầy
Giê-su đã
đến
với
họ
thế
nào, thì nay Thầy
cũng vẫn
đến
với
chúng ta, trong những
thất
vọng
tột
cùng, những
nghi nan đau đớn
của
ta. Cử
chỉ
đầu
tiên của
Chúa Giê-su Phục
Sinh, khi đến
với
chúng ta là đồng
hành
bên cạnh,
để
nghe ta than vãn những
nỗi
lòng ê chề,
tuyệt
vọng.
Thầy
hiểu
rằng
đôi khi chúng ta cần
“trút bầu
tâm sự”
và ngay cả
chất
vấn
trời
đất.
Sau đó Thầy
mới
mở
đầu
cuộc
đàm đạo:
“Các anh đang bàn cãi
chuyện
gì vậy?”Thầy
mời
họ
nói, và khi nói, “họ
dừng
bước”.
Cả
chúng ta nữa,
ta phải
biết
dừng
bước
để
nghe Thầy
đàm đạo,
hỏi
han ta.
Câu 18-19 -
“Một
trong hai người
tên là Cơ-lê-ô-pát trả
lời:
"Chắc
ông là người
duy nhất
trú ngụ
tại
Giê-ru-sa-lem mà không hay biết
những
chuyện
đã xảy
ra trong thành mấy
bữa
nay”.
Một
trong hai người
tên là Cơ-lê-ô-pát lên tiếng
trả
lời
người
khách lạ.Chắc
chắn
ông là người
được
các tín hữu
tiên khởi
biết
đến.Khi
kể
tên ông, Lu-ca đã
cho chúng ta một
chứng
cứ
lịch
sử
có thể
kiểm
chứng
được
cho trình thuật
của
mình. Người
môn đệ
thứ
hai là một
“kẻ
vô danh”: có lẽ
chủ
ý này là một
lời
mời
gọi
tế
nhị
cho mỗi
người
chúng ta, tự
đặt
mình vào chỗ
của
người
vô danh kia! Cũng vẫn
là Giê-su, người
khởi
đầu
cuộc
trò chuyện.
Câu 19-20 - “Ðức Giê-su hỏi:
"Chuyện gì vậy?" Họ thưa: "Chuyện ông Giê-su Nadarét. Người là
một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt
Thiên Chúa và toàn dân. Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của
chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình, và đã đóng đinh
Người vào thập giá”.
Hai môn đệ
thuật
lại
những
giai đoạn
chính yếu
trong cuộc
đời
Thầy
mình, với
niềm
hy vọng
tan tành mây khói của
họ.Vì
rõ ràng Thầy
Giê-su thành Na-da-rét này đã
biểu
lộ
đặc
tính của
Sứ
Vụ
Đấng
Messia bằng
chính những
việc
làm của
Thầy.
Tất
cả
các ngôn sứ
đều
nói về
Đấng
Messia như người
giải
thoát dân Ít-ra-en. Và nếu
các môn đệ
thất
vọng
não nề
đến
thế,
chính vì họ
đã xác quyết
rằng
Giê-su, Thầy
kính yêu của
họ
đúng là Đấng
Messia hằng
được
trông đợi,
vị
cứu
tinh của
dân tộc
Ít-ra-en.
Họ
còn nói về
thái độ
của
giáo quyền
đối
với
Thầy.
Ta thấy
ngay rằng
các môn đệ
làng Em-mau này chưa thấu
đáo được
hai thực
tại:
Giê-su ngôn sứ,
người
có phép thần
thông, người
được
Thiên Chúa ủy nhiệm
bằng
chính việc
làm của
mình, và người
chịu
khổ
hình thập
giá! Điều
mà Lu-ca muốn
chúng ta hiểu
là ơn gọi
cứu
thế
của
Đức
Giê-su nhất
thiết
gồm
cả
hai mặt.Thầy
cũng đã loan báo cho các môn đệ
mối
giây liên hệ
giữa
những
hành động
đầy
quyền
năng và sự
đau khổ,
nhưng dường
như các môn đệ
đã không muốn
nghe.Thế
mà
đó lại
chính là chìa khoá của
ơn gọi
cứu
thế
mà Đức
Giê-su đã
sống
và đã
chú giải.
Mục
đích của
cuộc
đàm đạo
này cũng là để
giúp các môn đệ
thấu
hiểu
rõ căn tính đích thực
ấy
của
Thầy
mình.
Lòng trí anh em thật kém hiểu và
chậm tin!
Câu 21 - “Phần
chúng
tôi, trước
đây vẫn
hy vọng
rằng
chính Người
là Ðấng
cứu
chuộc
Ít-ra-en. Hơn nữa,
những
việc
ấy
xảy
ra đến
nay là ngày thứ
ba rồi”.
Người
ta trông chờ
một
đấng
cứu
thế
giải
phóng, toàn thắng
vẻ
vang, rất
có thể
về
mặt
chính trị.Nhưng
với
cái chết
của
Thầy,
tất
cả
đều
sụp
đổ.
Và Thiên Chúa đã
không can thiệp
để
bênh vực
vị
ngôn sứ
này! Mà mọi
việc
đã xảy
ra từ
ba ngày nay rồi!
Câu 22-23 - “Thật ra, cũng có mấy
người đàn bà trong nhóm chúng tôi đã làm chúng tôi kinh ngạc.
Các bà ấy ra mộ hồi sáng sớm, không thấy xác Người đâu cả, về
còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng Người vẫn sống”.
Dù tuyệt
vọng
vô cùng, các môn đệ
cũng không quên kể
những
sự
kiện
lạ
lùng đã
xảy
ra sáng nay: có mấy
chị
em phụ
nữ
trong nhóm chúng tôi đã chứng
kiến
ngôi mộ
trống,
họ
còn thấy
“hai thanh niên”(Lc
24, 4)
mà Lu-ca cho đó là các thiên thần.
Điều
các chị
em phụ
nữ
thuật
lại
làm họ
“kinh hoàng”, nhưng vẫn
không thuyết
phục
được
họ.
Câu 24 - “Vài
người
trong nhóm chúng tôi đã ra mộ,
và thấy
sự
việc
y như các bà
ấy
nói; còn
chính Người
thì họ
không thấy”.
Cái khó khăn
của
họ
là không ai thấy
xác, cũng chẳng
thấy
Thầy
đâu. Tuy nhiên Tin Mừng
Phục
Sinh là rất
hiển
nhiên, nó nằm
ngay
ở
trọng
tâm của
đoạn
văn và cũng
ẩn
hiện
trong khắp
bài trình thuật
này, như một
con suối
ngầm
sẵn
sàng khơi nguồn.
Tin Mừng
lớn
lao này chính là điều
mà các “sứ
thần”
loan báo: “Người còn
sống!”
Lu-ca thích diễn
tả
sự
kiện
Phục
Sinh bằng
kiểu
nói này. Ta cũng phải
tin vào lời
các chị
em phụ
nữ
tiếp
nối
lời
các sứ
thần.
Thế
nhưng khi có quá nhiều
“trung gian” cũng có thể
làm ta nghi ngại.Các
môn đệ
có đầy
đủ
thông tin về
biến
cố
Phục
Sinh, nhưng vẫn
chưa đủ
để
thức
tỉnh
niềm
tin của
các ông. Cái hố
ngăn cách giữa
những
thông tin kia và niềm
xác tín cá nhân vẫn
còn đó. Lu-ca đã chuẩn
bị
cho bài chú giải
Kinh Thánh
của
Đức
Ki-tô Giê-su như thế.
Câu 25-26 - “Bấy giờ Ðức Giê-su
nói với hai ông rằng: "Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các
anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ!
Nào Ðấng
Ki-tô lại
chẳng
phải
chịu
khổ
hình như
thế,
rồi
mới
vào trong vinh quang của
Người
sao?”.
Chúng ta
đang đứng
trước
trục
lộ
chuyển
tiếp
của
trình thuật.Thầy
Giê-su không còn là người
khách lạ
đến
xen vào giữa
câu chuyện
trao đổi
của
hai môn đệ
một
cách kín đáo, tế
nhị,
mà đã
trở
thành người
hướng
dẫn
cuộc
đàm đạo.Lời
khiển
trách của
Thầy
rất
thẳng
thắn
và nghiêm nghị.Thầy
trách họ
yếu
lòng tin, kém hiểu
biết
về
mặt
tâm linh.Hai môn đệ
ngạc
nhiên vì Thầy
không biết
việc
gì xảy
ra
ở
Giê-ru-sa-lem.Còn Thầy
Giê-su thì ngạc
nhiên vì các ông không hiểu
biết
Kinh Thánh.
Mặc
dù
các môn đệ
quy chiếu
vào Sách Thánh để
chờ
mong một
đấng
Messia như một
lãnh đạo
giải
phóng dân tộc.
Nhưng họ
đã bỏ
sót một
khía cạnh
khác của
Đấng
Thiên Sai: “Đấng
Cứu
Thế
khổ
đau” của
ngôn sứ
I-sai-a
(Is 53),
đã bị
chủ
thuyết
messia thiên về
chính trị
của
thời
bấy
giờ
làm lu mờ.
Ở
vào thời
đại
của
Thầy
Giê-su đã
chẳng
có ai nhắc
nhớ
đến
một
Đấng
“Messia đau khổ”
nữa.
Các môn đệ
đang dần
dần
đi từ
bóng tối
đến
ánh sáng đức
tin. Thầy
đã không vén mở
tất
cả
ngay một
lúc. Nhưng bắt
đầu
soi sáng cho khổ
hình Thập
Giá, nó đã làm tâm trí các môn đệ
ra tối
tăm, mặc
dù nó đã
được
ghi khắc
trong kế
hoạch
yêu thương của
Thiên Chúa, và đã
được
loan báo trong Sách Thánh: “Đức
Ki-tô chẳng
phải
chịu
khổ
hình như
thế,
rồi
mới
vào trong vinh quang của
Người
sao?”
Thầy
đã thấy
rõ nỗi
khó khăn của
các môn đệ,
cũng là những
khó khăn của
các tín hữu
ở
mọi
thời
đại:
Họ
không thể
tưởng
được
rằng
thất
bại
và thành công; đau khổ
và vinh quang lại
có thể
sát cánh, kề
vai bên nhau như thế.
Thật
ra, nếu
Sách Thánh đã loan báo mầu
nhiệm
Giê-su Ki-tô từ
ngàn xưa, thì
cũng phải
nhờ
ánh sáng huyền
nhiệm
của
cuộc
khổ
hình và Phục
Sinh của
Thầy
mà các ki-tô hữu
tiên khởi,
và cả
chúng ta ngày nay mới
khám phá và hiểu
biết
được
những
ý nghĩa sâu sắc
của
Kinh Thánh. Những
gì Giê-su Na-da-rét
đã sống
và trải
nghiệm
trong cuộc
đời
ngắn
ngủi
của
Thầy
bắt
buộc
các tín hữu
Do-thái-Ki-tô giáo tìm hiểu
ý nghĩa của
biến
cố
phi thường
kia. Làm sao Thiên Chúa có thể
để
cho Con Một
của
mình phải
chịu
một
khổ
hình như
thế?
“Đức
Ki-tô chẳng
phải
chịu
khổ
hình như
thế
sao?”Điều
này không có nghĩa là Thầy
Giê-su đã
là nạn
nhân của
định
mệnh.
Cụm
từ
“Người phải
chịu…”
được
lặp
lại
nhiều
lần
trong những
đoạn
tiên báo cuộc
khổ
nạn của
Thầy,
là kết
quả
của
một
suy nghĩ lâu dài trong cộng
đoàn non trẻ
các tín hữu,
trong ánh sáng mầu
nhiệm
Vượt
Qua, để
thấy
được
ý nghĩa đích thực
của
khổ
hình của
Đức
Ki-tô Cứu
Thế,
để
hiểu
được
làm sao cái “lộ
trình phi thường”
này lại
được
đặt
vào trong kế
hoạch
hài hòa của
tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại.
Để
giải
thoát
con người
khỏi
đau khổ
và sự
chết,
Người
Con Thiên Chúa đã
đồng
hoá với
con người
tội
lỗi,
bằng
cách đảm
nhận
mọi
hậu
quả
của
tội
lỗi,
là tất
cả
nỗi
thống
khổ
và sự
chết
của
nhân loại.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
SỐNG ĐỨC
TIN |
Chúng ta vừa
khởi sự Năm Đức Tin. Năm Đức Tin được chuẩn bị khá chu đáo,
riêng đối với Hội Thánh Việt Nam chúng ta còn được hưởng sự chu
đáo đó nhiều hơn nữa, từ các tài liệu hướng dẫn đến các thực
hiện việc cử hành, các chủ đề học tập, suy niệm và sống hàng
tháng, tất cả được biên soạn công phu, ấn hành và phổ biến. Hệ
thống phổ biến thì không đâu bằng, từ Giáo Phận về đến Giáo Hạt,
Giáo Xứ, Giáo Họ hay các Xóm Giáo, rồi đến tận tay từng người
tín hữu. Một hệ thống phân phối mạch lạc, chắc chắn, hiệu quả và
nhanh nhất.
Về mặt lễ nghi hẳn khó có tổ chức nào “qua mặt”
được Giáo Hội Công Giáo, các nghi lễ khai mạc được long trọng tổ
chức từ cấp lớn đến cấp nhỏ, thứ tự lớp lang đáng nể phục, các
lời dạy bảo xuyến suốt, những chỉ dẫn được thi hành cẩn thận,
các biểu ngữ cũng như logo được thực hiện nghiêm chỉnh. Năm Đức
Tin đã khởi sự !
Chúng ta hài
lòng và tự hào về tổ chức, nhưng điều chúng ta băn khoăn là sống
Năm Đức Tin ra sao. Chúng ta rất nhiệt tình hưởng ứng mọi sự
kiện do Giáo Hội đưa ra, nhưng hình như chúng ta thiếu đào sâu,
tìm tòi và sống điều Giáo Hội muốn.
Xin có một
thí dụ. Năm xưa chúng ta hưởng ứng Tông Huấn “Giáo Hội tại Á
Châu” ( Ecclesia in Asia ) của Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
( ban hành tại New Delhi, Ấn Độ ngày 6.11.1999 ). Tông Huấn này
là kết quả của Hội Nghị đặc biệt Thượng Hội Đồng Giám Mục Châu Á
họp tại Vatican từ ngày 18.4 đến 14.5, chuẩn bị cho Giáo Hội
Châu Á bước vào thiên niên kỷ mới. Sau khi Tông Huấn được ban
hành, chúng ta tổ chức học tập khắp nơi, nơi nào cũng rộn ràng
đề tài này. Thế rồi thời gian trôi qua, hầu hết không còn ai
nhắc lại những gì Tông Huấn đề cập, những chỉ đạo mang tính
chiến lược cho Châu Á vào thiên niên kỷ thứ ba hình như đi vào…
quên lãng !
Có những nỗ
lực của nhiều người, của nhiều nhóm, không chỉ học nhưng cố gắng
ứng dụng và tìm kiếm thể hiện, nhưng nói chung, đẩy lên để thực
hiện một cuộc biến đổi thì… không thấy, chỉ thấy lẻ loi những
ngôi sao mờ nhạt cô đơn trên bầu trời. Các Dòng Tu sau khi tổ
chức học hỏi hăng hái, Tông Huấn được xếp vào góc tủ thư viện,
có lẽ đã đóng bụi từ lâu.
Những đề tài
nóng bỏng trong Tông Huấn như: người nghèo, môi trường, nợ nước
ngoài, phẩm giá con người, giáo dục, chia sẻ những hy vọng và
đau khổ v.v… đối với phần đông chúng ta lạ lùng như những lãnh
vực chưa bao giờ được nghe nói đến, hoặc có nói đến thì nho nhỏ
thôi vì… nhạy cảm. Có những lãnh vưc vì hoàn cảnh đất nước chúng
ta vừa tiếp cận như: Tin Mừng Sự Sống, Học Thuyết Xã Hội của
Giáo Hội, Truyền Thông Xã Hội v.v… mới chỉ là tiếp cận vấn đề,
cho dù thực tại xã hội đã rất băn khoăn trăn trở từ lâu…
Tuy nhiên,
sau Tông Huấn Giáo Hội tại Á Châu, phải công nhận rằng Giáo Hội
Hàn Quốc lại đã thay đổi một cách lạ lùng, từ con số 5% dân số
là tín đồ Công Giáo, năm 2011 đã là 11,5%, và họ đã dám đặt chỉ
tiêu 20 – 20, nghĩa là đến năm 2020 số tín đồ Công Giáo sẽ là
20% ! Điều gì làm nên sự kỳ diệu này ? Điều gì làm nên sự tự tin
này ?
Làm sao có
thể chuyển đổi để thực hiện một cuộc vươn mình như Giáo Hội anh
em Hàn Quốc ? Hiện tượng Hàn Quốc đang ảnh hưởng mạnh mẽ vào
sinh hoạt của giới trẻ, vậy cuộc lớn lên của Giáo Hội Hàn Quốc
có ảnh hưởng gì đến Giáo Hội Việt Nam chúng ta hay không ? Cần
phải có những cuộc nghiên cứu nghiêm túc về sự phát triển của
Giáo Hội anh em, một Giáo Hội “hàng xóm”, đồng cảnh ngộ với
chúng ta ở phía Đông của lục địa rộng lớn và bí hiểm này.
Những cái chúng ta có: lễ nghi rầm rộ, phát động
học tập cùng khắp, cờ xí rợp trời, trống chiêng inh ỏi, biểu
ngữ, biểu tượng v.v… là những ưu điểm cần phải tiếp tục duy trì
và phát triển, nhưng quá khứ đã chứng minh hiệu quả chỉ có thế,
và chỉ đến thế mà thôi. Vậy phải cùng với cái đang có, ta cần
phải có một cái gì khác để làm mới chính chúng ta, để tạo sự
vươn mình như anh em chúng ta đã vươn mình.
Mong lắm
thay, Năm Đức Tin là cơ hội để chúng ta chuyển động và nhập cuộc
!
Lm. VĨNH SANG, DCCT, 11.11.2012 (Ephata 535)
|
VỀ MỤC LỤC |
|
LINH ĐẠO HIỆP HỘI THÁNH MẪU - CON ĐƯỜNG NÊN THÁNH CỦA HỘI VIÊN HHTM
|
I. LỜI CHÚA:
-“Anh em hãy
nên hòan thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hòan thiện” (Mt
5,48).
-“Anh em hãy
yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34)
-“Ánh sáng
của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những
công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anhe em Đấng
ngự trên trời” (Mt 5,16).
-“Vâng, tôi
đây là nữ tỳ của Chúa.Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần
nói” (Lc 138).
-Riêng Mẹ
Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng (Lc
2,51b).
-Vậy nếu
Thầy là Chúa , là Thầy , mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em
cũng phải rửa chân cho nhau” (Ga 13,14).
-Con Người
đến không phải để đượic người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và
hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10,45).
2.SUY NIỆM:
1) Giáo dân
là ai ?
Công đồng
Vatican II trong Hiến chế về Hội thánh số 31 đã định nghĩa người
giáo dân “là các tín hữu sống giữa xã hội trần thế. Họ là thành
phần chính thức của Hội Thánh, được tháp nhập vào thân thể Chúa
Ki-tô nhờ phép rửa tội, trở nên Dân Chúa và được tham dự vào các
chức tư tế, ngôn sứ và vương giả của Đức Ki-tô theo một cách
thức riêng phù hợp với nhiệm vụ riêng”. Đến năm 1988, Đức Gioan
Phaolô II trong Tông huấn “Kitô hữu giáo dân”, đã diễn tả vai
trò của Giáo dân về ba phương diện là mầu nhiệm, hiệp thông và
sứ vụ.
- Phương
diện mầu nhiệm : Người giáo dân là con cái của Thiên Chúa, thân
thể của Đức Kitô và đền thờ của Chúa Thánh Thần. Họ được tham
phần vào ba chức vụ là Tư tế, Ngôn sứ và Vương đế của Đức Kitô.
Vì là đền thờ của Chúa Thánh Thần, nên người giáo dân được mời
gọi nên thánh bằng cách phát triển những hoa trái của Thần Khí
nơi bản thân mình.
- Phương
diện hiệp thông : người giáo dân được lãnh những đặc sủng khác
nhau, nhằm mưu ích cho cộng đoàn, xây dựng, duy trì những mối
dây liên kết với những phần tử khác trong các giáo họ, giáo xứ,
giáo phận và Giáo hội hoàn vũ.
- Phương
diện sứ vụ : người giáo dân được mời tham gia vào sứ vụ truyền
giáo của Hội Thánh cho thế giới, đặc biệt tại những vùng đất
lương dân hay đang đối kháng với niềm tin Kitô.
Như vậy có
thể nói rằng: Người giáo dân chính là Giáo hội, là Dân Thiên
Chúa, là thân thể mầu nhiệm của Chúa Kitô, bình đẳng với mọi
thành phần khác như linh mục, tu sĩ… về vị trí và giá trị trong
Thân Thể Mầu Nhiệm Hội Thánh.
2)Linh đạo
giáo dân
a.Con đường
nên thánh dành riêng cho giáo dân:
Con đường
này dựa trên nền tảng là bí tích Rửa Tội tương ứng với ba vai
trò của Đức Ki-tô là Tư tế, Ngôn sứ và Vương đế như sau.
-Vai trò tư
tế: Người giáo dân được mời gọi chia sẻ chức tư tế cộng đồng của
Đức Ki-tô, qua các sinh hoạt trần thế, các chức vụ xã hội và các
thử thách trong cuộc sống, liên kết với hiến tế duy nhất của Đức
Kitô dâng lên Chúa Cha, để mang lại ơn cứu độ cho mọi người.
-Vai trò
ngôn sứ: Người giáo dân tham gia vào chức vụ ngôn sứ của Đức
Giê-su bằng cách sống đức tin và đức ái, tìm kiếm thánh ý Thiên
Chúa qua các biến cố thời đại hay các điều may rủi gặp phải
trong cuộc sống hằng ngày.
-Vai trò
vương đế: Khi tham phần chức vụ vương đế của Đức Ki-tô, người
giáo dân sẽ không còn làm nô lệ cho tà thần, và nhận được sức
mạnh của Thánh Thần để chiến thắng tội lỗi và thói hư cùa mình.
Vai trò vương đế này cũng thúc bách người giáo dân hăng say đưa
nhiều người gia nhập vào Hội Thánh.
b. Sứ vụ
thánh hóa trần thế
Sứ vụ của
người giáo dân là góp phần thánh hoá trần thế, do lời mời gọi
của Đức Giê-su: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như cha anh em trên
trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5, 48). Đời sống thánh thiện cần
được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và các bí tích, bằng sự cầu
nguyện, hy sinh, bác ái … và các sinh hoạt hằng ngày trong gia
đình, trường học, khu xóm, phố chợ, công sở … để “Tin mừng hoá”
thế giới. Đặc điểm sự thánh thiện của người giáo dân là nên
thánh gữa đời. Họ phải là “men Tin mừng” (x Mt 13,33), là “muối
cho đời và ánh sáng cho trần gian” (x Mt 5,13-16) để xây dựng
Nước trời ngày một viên mãn.
3)Linh đạo
Hiệp Hội Thánh Mẫu:
Trong linh
đạo chung cho giáo dân, có linh đạo riêng của các Hội Đòan để
giúp hội viên nên hòan thiện, trong đó có linh đạo của Hiệp Hội
Thánh Mẫu như sau:
a.Ba yếu tố
nên thánh của hội viên Hiệp Hội Thánh Mẫu:
Hiệp Hội
Thánh Mẫu hay Hiệp Sống Ki-tô là một hội đòan tông đồ giáo dân
nhằm “làm vinh danh Thiên Chúa và cứu rỗi các linh hồn”. Để đạt
được mục đích truyền giáo này, Hiệp Hội Thánh Mẫu đã xác định
con đường nên thánh của mình như sau: “Chúng tôi hội hiệp
nhau tập sống xin vâng để hiến thân phụng sự
Thiên Chúa và tha nhân theo Tin Mừng của Chúa Giê-su như Thánh
Mẫu Ma-ri-a”. Như vậy linh đạo của Hiệp Hội Thánh Mẫu tóm lại
trong ba yếu tố là Hiệp Sống, Xin Vâng và Phục Vụ noi gương Đức
Giê-su như Thánh Mẫu Ma-ri-a:
- Hiệp Sống:
Noi gương
Đức Giê-su đã lập Nhóm 72 môn đệ và 12 tông đồ, Hiệp Hội Thánh
Mẫu cũng liên kết hội viên cùng lứa tuổi và môi trường sinh họat
thành những cộng đòan nhóm nhỏ, để tập sống yêu thương hiệp nhất
với nhau theo lời dạy của Đức Giê-su: “Ở đâu có hai ba người họp
lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ” (Mt 18,19-20),
và: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”
(Ga 13,34).
-Xin vâng:
Noi gương
Đức Giê-su trước cuộc khổ nạn: “Cha ơi, nếu được, xin cho chén
này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha”
(Mt 26,39) và Đức Ma-ri-a trong trong biến cố Truyền Tin: “Vâng,
tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ
thần nói” (Lc 1,38), hội viên HHTM quyết tâm vâng phục cấp trên
trong đao ngòai đời.
-Phục vụ :
Noi gương
Đức Giê-su “hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,29),
thể hiện qua việc phục vụ: “Vì Con Người đến không phải để được
người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến dâng mạng sống
làm giá chuộc muôn người” (Mc 10,45), hội viên HHTM sẽ luôn quan
tâm đến tha nhân và chu tòan công tác thăm viếng để chia sẻ và
phục vụ người nghèo khổ bất hạnh (x Mt 25,35-36).
b.Luật Sống
Hiệp hội Thánh Mẫu Việt Nam canh tân :
Nam 1968 Quy
Luật Chung của Hiệp hội Thánh Mẫu Việt Nam đã được Hội đồng Giám
mục Việt Nam thông qua. Tuy nhiên sau hơn 40 năm thi hành, đến
nay Quy Luật Chung của HHTM đã được cập nhất cho phù hợp với tâm
lý và hòan cảnh sống đã thay đổi, gọi là Luật sống Hiệp hội
Thánh Mẫu Việt Nam 2011 như sau :
-Xây dựng
các cộng đoàn cơ bản hay nhóm nhỏ từ 7 đến 12 người, gọi là
Gia Đình Sống Đời Ki-tô Hiệp Hội Thánh Mẫu.
-Đổi mới
phương pháp huấn luyện huynh trưởng và hội viên HHTM nhờ việc
Thực Tập nếp sống Nhân Bản và Học sống Lời Chúa “dưới
ơn soi gọi của Thánh Thần” (Kinh Tự Hiến).
-Đổi mới
nghi thức Nhận Hội, giờ thánh “Cùng Mẹ Thờ Chúa”,
canh tân giờ kinh tối gia đìnhtheo chiều hướng suy niệm
Lời Chúa và cầu nguyện sống theo Lời Chúa.
-Đổi mới các
sinh họat hội họp và công tác, chú trọng công tác thăm
viếng bác ái.
LM Giám Huấn Hiệp hội Thánh Mẫu
Đaminh ĐINH VĂN VÃNG
www.hiephoithanhmau.com |
VỀ MỤC LỤC |
|
NĂM
ĐỨC TIN: Ý NGHĨA VÀ GIÁ TRỊ CỦA SỰ ĐAU KHỔ |
Đau khổ
là một thực tế hiển nhiên trong đời sống của con người, dù có
niềm tin hay không .
Đây là một thực
trạng mà không ai có thể phủ nhận hay tránh được trong cuộc sống
trên trần gian này. Nào đau khổ vì bệnh tật, vì nghèo đói, vì
bất công xã hội, vì thiên tai, động đất, bão lụt. Nào đau khổ vì
bị tù đầy, tra tấn, bị kỳ thị, khinh chê và cô lập (dân
Untouchable bên Ấn Độ). Sau hết, đau khổ lớn lao nhất là chết
chóc đau thương.
Vì đâu có đau khổ ?
Thực khó tìm được
câu trả lời thỏa đáng theo suy nghĩ của con người cho câu hỏi
này..
Tuy nhiên, có
điều nghịch lý đáng nói ở đây là ở khắp nơi, và ở mọi thời đại,
luôn có những kẻ gian ác, làm những sự dữ, sự tội, như giết
người, trộm cắp, hiếp dâm, đặc biệt là cai trị độc ác và gây ra
chiến tranh khiến hàng triệu người vô tội bị giết … nhưng những
kẻ đó vẫn sống phây phây với địa vị và tiền bạc dư thừa của
chúng, trong khi biết bao người lành, lương thiện, đạo đức lại
nghèo khó, bệnh tật nan y hay gặp tai nạn xe cộ, tầu bè. Cụ thể,
năm 2008, một xe buýt chở giáo dân ở Houston, Texas đị dự Đại
Hội Thánh Mẫu ở Carthage , Missouri đã gặp tai nạn khiến hàng
chục người chết hoặc bị thương nặng ! trong khi những xe và phi
cơ chở người đi đánh bạc ở Las Vegas, lake charles (Louisiana)..
hoặc du hí ở các nơi tội lỗi như Cancun (Mexico) Thai lan,
Kampuchia... thì chưa hề gặp tai nạn tương tự !! Lại nữa, những
người nghiện rượu và thuốc lá thường dễ bị ung thư phổi, nhưng
biết bao người không uống rượu và hút thuốc lá mà vẫn bị ung thư
phổi , thi sao ? Lại nữa, phụ nữ sinh con thì dễ bị ung thư
ngực, nhưng có nữ tu không hề sinh đẻ mà vẫn bị ung thư ngực !
Vậy không lẽ Chúa
phạt những người bị tai nạn hay bệnh tật kia???
Chắc chắn là
không. Nhưng phải giải thích thế nào cho hợp lý và tìm ra ý
nghĩa của sự đau khổ với con mắt đức tin của người tín hữu Chúa
Kitô trong năm Đức Tin này.
Thật vậy, đau khổ
là một thực trạng không thể tránh được trong trần gian này như
Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ xưa :’
“ Trong thế gian
Anh em sẽ phải gian nan khốn khó
Nhưng hãy can đảm lên
Thầy đã thắng thế gian.
(Ga 16: 33)
Nhưng trước khi
Chúa đến trần gian để chia sẻ thân phận con người với nhân loại,
sự đau khổ , sự dữ đã đầy rẫy trong trần gian như Kinh Thánh Cựu
Ước đã ghi lại. Cụ thể ông Gióp (Job) là người
“ vẹn toàn, ngay thẳng, kính sợ
Thiên Chúa và tránh xa điều ác.”( G 1: 1). Vậy mà ông
đã gặp hoạn nạn, đau khổ lớn lao bất ngờ, không thể tưởng tượng
được : nào con cái (bảy con trai ba con gái) bỗng chốc lăn ra
chết hết trong một trận cuồng phong từ sa mạc thổi đến. Nào đàn
gia xúc của ông gồm bảy ngàn chiên dê, ba ngàn lạc đà, năm trăm
đôi bò, năm trăm lừa cái và một số đông tôi tớ cũng bỗng chốc bị
giết và cướp mất khỏi tay ông ! Nhưng trước tai ương khủng khiếp
này , ông Gióp chỉ biết quỳ xuống than thở với Chúa như sau :
“ Thân trần truồng
Sinh ra từ lòng mẹ
Tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng
ĐỨC CHÚA đã ban cho
ĐỨC CHÚA lại lấy đi
Xin chức tụng danh ĐỨC CHÚA ! (G1 : 21)
Chính vì lòng
trung kiên yêu mến, kính sợ Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh, như
khi được mọi điều sung sướng và nhất là khi phải đau khổ vì tai
ương bất ngờ, ông Gióp đã được Thiên Chúa khen lao và ban lại
cho ông gấp đôi những gì ông đã mất: ông lại sinh được bảy con
trai và ba con gái xinh đẹp nhất trong xứ sở và sống thọ thêm
một trăm bốn mươi năm nữa . (cf.G 42: 12-17)
Như thế , sự đau
khổ, tai ương là phương tiện hữu hiệu Thiên Chúa đã dùng để thử
thách các tôi tớ trung kiên của Người như các ông Mô- sê,
Ap-bra-ham Gióp và Tô-bia.
Ngươc lai, đôi
khi Thiên Chúa cũng dùng tai ương, đau khổ để trừng phạt con
người vì tội lỗi và ngoan cố không muốn ăn năn sám hối để được
tha thứ. Đó là hinh phạt Đại hồng thủy trong thời Cựu Ước, đã
cuốn đi vào lòng đai dương tất cả mọi người, mọi sinh vật trên
mặt đất, trừ gia đình ông Nô-e và các sinh vật được ông đem vào
tàu trước khi mưa tuôn đổ xuống địa cầu. ( St 6: & 7)
Lại nữa, Thiên
Chúa đã dùng lửa và mưa sinh diêm từ trời xuống để hủy diệt
thành Xô-đôm , vì ông Ap-bra-ham không tìm được người ngay lành
nào trong thành tội lỗi đó, để xin Chúa tha chết cho thành ấy. (
Sđd : 19)
Nhưng khi dân
thành Ni-ni-vê nghe theo lời kêu gọi của ngôn sứ Giô-na ăn chay
, cầu nguyện và xám hối thì Thiên Chúa đã tha không đánh phạt họ
như Người đã ngăm đe. (. Gn 3: 1-10)
Như vậy , trong
thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã dùng đau khổ , gian nan khốn khó để
thử thách các tôi tớ trung thành và cũng để đánh phạt những kẻ
làm những sự dữ , tội lỗi mà không chiu xám hối và từ bỏ con
đường gian ác.
Dân Do Thái, cho
đến thời Chúa Giêsu xuống trần và đi rao giảng Tin Mừng Cứu Độ,
vẫn quen nghĩ rằng sự khó, sự đau khổ và tai ương xảy ra cho ai
thì tại tội lỗi của người đó hay của cha mẹ nạn nhân. Cho nên
khi thấy một người mù từ bé, các môn đệ của Chúa Giêsu đã hỏi
Người như sau :
“
Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến
người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?(
Ga 9 : 2). Chúa Giêsu đã trả lời họ như sau : “không
phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng
chuyện đó xảy ra là để các việc của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi
anh.”( Sđd 9; 3)
Việc của Thiên
Chúa được tỏ hiện là Chúa Giêsu đã chữa cho anh mù được xem thấy
để minh chứng Người là quả thực là Đấng Thiên Sai ( Mê-si-a ) đã
đến trong trần gian để “ cho
người mù được thấy. kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc
được nghe, người chết trỗi dậy, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng..”(
Lc 7 : 22 ) .
Nhưng cũng trong
Tin Mừng Thánh Gioan, Chúa Giêsu cũng nói với một người đã đau
ốm lâu năm và Chúa đã chữa lành cho anh ta. Nhưng khi gặp lại
anh này trong Đền Thờ sau đó, Chúa đã nói với anh điều đáng chú
ý như sau :
“
Này, anh đã được khỏi bệnh. Đừng
phạm tội nữa, kẻo lại phải khốn hơn trước.”( Ga 5:
14)
Như thế có nghĩa
là tội lỗi cũng có thể là nguyên nhân gây ra đau khổ cho con
người như Chúa đã nói trên đây. Kinh nghiệm thực tế ngày nay
cũng chứng minh điều này. Kẻ trộm cắp cứ quen sống bất lương như
vậy, sẽ có ngày gặp tai họa khi vào nhà ai để ăn trộm và có thể
bị chủ nhà bắn chết. (ở Mỹ rất nhiều người dân có súng trong nhà
để tự vệ). Người ngoai tình cũng có thể bị tình địch giết chết
vì đã gian díu với vợ hay chồng của người khác. Lái xe ẩu, vượt
đèn đỏ có thể gây ra án mạng cho người khác và cho chính người
lái xe ẩu. Đúng là tội đâu vạ đấy như người Việt Nam chúng ta
thường nói.
Tuy nhiên, là
người tín hữu, chúng ta được dạy dỗ để tin rằng sự đau khổ về
thể lý hay tâm hồn cũng là phương tiện mà Thiên Chúa dùng để cho
chúng ta được thông phần sự thương khó đau khổ với Chúa Kitô,
Đấng đã vui lòng chịu mọi sự khốn khó cho đến chết đau thương
trên thập giá để cho chúng ta được cứu độ và có hy vọng được
hưởng hạnh phúc Nước Trời với Chúa sau hành trình đức tin trên
trần thế này.
Thật vậy, Chúa
Giê-su Kitô là Đấng Thiên Sai (Messaih) đã đến trần gian làm Con
Người, đã chiu khốn khó ngay từ khi sinh ra trong cảnh cực kỳ
khó nghèo nơi hang lừa máng cỏ, bị đe dọa giết chết bởi Hêrôđê
khiến Đức Mẹ và Thánh Giuse phải mang chậy trốn sang Ai Cập lúc
đêm khuya.. Lớn lên, Người đi rao giảng Tin Mừng trong điều kiện
rất khó nghèo, lang thang đó đây như kẻ vô gia cư đúng như Chúa
đã nói với các môn đệ :“ con chồn
có hang, chim trời có tổ , nhưng Con Người không có chỗ tựa
đầu.”
( Mt 8 : 20)
Là Đấng Thiên
Sai, Chúa Kitô sẽ “phải chịu
nhiều đau khổ do các kỳ mục , các thượng tế và kinh sư gây ra,
rồi bị giết chết và ngày thứ ba sẽ sống lại.” ( Sđd
16: 21)
Phêrô, môn đệ
được Chúa khen ngợi vì đã tuyên xưng đúng Người là “
Đấng Kitô, con Thiên Chúahằng
sống.”. Nhưng khi nghe Chúa nói đến những đau khổ mà
Người sắp phải chịu trước khi chết, sống lại và lên trời vinh
hiển, Phêrô đã tìm cách can ngăn Chúa như sau : “
Xin Thiên Chúathương
đừng để cho Thầy gặp chuyên đó.”.( Sđd 16: 22)
Để trả lời cho
Phêrô và cũng để dạy cho chúng ta biết giá trị của đau khổ, Chúa
đã quở trách ông như sau: “Xa tan
, hãy lui lại đàng sau Thầy ! anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của
anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài
người.” .( Sđd 16: 23)
Phêrô can ngăn
Chúa vì đã hành động đúng với suy tư của mọi người trần thế là
không ai muốn chiu sự gì khốn khó, đau khổ. Ai cũng muốn được
luôn khỏe mạnh, sung sướng , an nhàn, có nhiều tiền của và danh
vọng ở đời. Không ai muốn bệnh tật, nghèo đói và bị khinh chê,
tù đầy hay bắt bớ . Ước vọng được khỏe mạnh cũng rất chính đáng
và đẹp lòng Chúa, như tác giả Sách Huấn Ca đã viết:
“ Người đã chết thì hết xưng tụng vì nó không còn
nữa
Chỉ người đang sống và khỏe mạnh mới ca ngợi Đức
Chúa.”(
Hc 17 : 28)
Vì thế, người đau
ốm cầu xin Chúa cho được lành bệnh tật của thân xác:
“Lậy
Chúa, xin đoái thương, này con đang kiệt sức
Chữa lành cho vì gân cốt rã rời
Toàn thân con rã rời quá đỗi
Mà lậy Chúa, Chúa còn trì hoãn đến bao giờ
? “. ( Tv 6 : 3-4)
Cầu xin cho được
khỏe mạnh và bình an trong cuộc sống là điều tốt phải xin Chúa
và không có gì đáng chê trách. Nhưng bệnh tật và rủi ro thì
không ai tránh được trong cuộc sống ở đời này. Người đạo đức,
lương thiện và kẻ bất lương gian ác đều không ít thì nhiều phải
đau khổ như bệnh tật, tai nạn bất ngờ, tang chế trong gia đình
vì người thân mất đi.... Tuy nhiên, cứ xem gương Chúa Giêsu ,
Đức Mẹ và các Thánh thì người có đức tin phải hiểu rằng đau khổ
có giá trị cứu rỗi và là phương thế hiệu nghiệm mà Thiên Chúa
dùng để thánh hóa và cải hóa con người, cũng như để thử thách
lòng tin yêu của các tôi tớ trung kiên như trường hợp các ngôn
sứ Mô-Sê, Abraham, Gióp và Tôbia đã nói ở trên.
Vì đau khổ có giá
trị xin tha tội, nên ông Mô-sê đã xin hiến mạng sống mình làm
của lễ để xin Thiên Chúa tha tội cho dân Do Thái xưa:
“ Ông Mô-sê trở
lại với ĐỨC CHÚA và thưa : “than
ôi dân này đã phạm một tội lớn. Họ đã làm cho mình một tượng
thần bằng vàng.Nhưng giờ đây ước gì Ngài miễn chấp tội họ.Bằng
không, thì xin Ngài xóa tên con khỏi cuốn Sách Ngài đã viết.”(
Xh 32 : 31-32)
Chính vì giá trị
cứu chuộc của đau khổ mà Chúa Kitô, Đấng Thiên Sai, Người Tôi tớ
đau khổ của Thiên Chúa, đã vui lòng “uống chén đắng” là vác thập
giá, chịu mọi cực hình cho đến khi chết đau thương trên thập giá
để đền tội cho nhân loại và cho chúng ta hy vọng được sống hạnh
phúc đời đời với Chúa trên Nước Trời mai sau. Phải nói là có hy
vọng thôi chứ không phải là bảo đảm chắc chắn ngay từ bây giờ,
không phải vì sự đau khổ của Chúa Kitô chưa đủ cho con người
được cứu rỗi, mà vì con người còn có tự do để cộng tác
với ơn Chúa để được cứu chuộc hay bị loại vì đã tự ý khước từ ơn
cứu rỗi đó để sống buông thả theo tính hư nết xấu của xác thịt
và chậy theo những quyến rũ của thế gian đang tràn ngập với “văn
hóa của sự chết” mà những kẻ không có niềm tin đang ngụp lặn
trong đó.
Nếu con người
không có thiện chí muốn cộng tác với ơn Chúa để sông theo đường
lối của Chúa, thì Chúa không thể cứu ai được , mặc dù công
nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô là vô giá và đủ cho con người
được cứu rỗi.
Tóm lại, không ai
có thể tránh được đau khổ trong cuộc sống trên trần gian này.
Tuy nhiên, như đã nói ở trên, với người có niềm tin nơi Chúa thì
đau khổ là phương thế tốt nhất cho ta được trở nên giống Chúa
Kitô , Người đã đi vào vinh quang phục sinh qua khổ hình thập
giá để dẫn đưa chúng ta vào hưởng hạnh phúc Nước Trời, nếu chúng
ta cũng vui lòng vác thập giá theo Người. Nghĩa là chúng ta phải
vui lòng chấp nhận những sự khó, sự đau khổ mà chúng ta không
kiêu căng đi tìm kiếm nhưng không hậm hực kêu trách Chúa khi gặp
phải trong cuộc sống trên trần gian này. Đó là cách chấp nhận
đau khổ đẹp lòng Chúa, đúng theo lời dạy của chính Chúa Kitô, là
“ ai muốn
theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.”
(Mt 16: 24).
Vác thập giá theo Chúa có nghĩa là vui lòng chịu
mọi sự khó Chúa gửi đến trong cuộc đời của mỗi người chúng ta.
Vậy chúng ta hãy
can đảm và bằng lòng chịu những sự khó, sự đau khổ mà chúng ta
không ai muốn kiếm tìm nhưng không tránh được, vì Chúa đã tha
phép cho xảy ra để cho ta được thông phần sự thương khó của Chúa
Kitô để đền tội mình và tội của người khác, cũng như để cầu xin
cho nhiều người chưa biết Chúa được nhân biết và tin yêu Chúa để
cùng hưởng nhờ công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô.
Đó là điều quan
trọng chúng ta cần suy tư và sống trong Năm Đức Tin này.
LM Phanxicô Xaviê
Ngô Tôn Huấn |
VỀ MỤC LỤC |
|
GIÚP CON TRẺ THÍCH NGHI VÀO CUỘC SỐNG XÃ HỘI
|
THIÊN CHỨC LÀM CHA MẸ (6)
Khuất phục tinh
thần cạnh tranh trong gia đình và đặc biệt giữa con cái là một
trong những bổn phận khó khăn và cấp bách nhất đối với bố mẹ có
lương tâm. Vì sự cạnh tranh nầy làm con cái mất đi sự thích thú
nhau, nên bất cứ kinh nghiệm thích thú hỗ tương nào cũng đều làm
giảm sự cạnh tranh. Điều mà gia đình cần là sinh hoạt chung và
sở thích chung. Hai yếu tố nầy làm tăng cường cảm giác thuộc về
và là liều thuốc chống lại sự phân chia qua sự cạnh tranh. Trò
chơi cho mọi người cơ hội cùng nhau sinh hoạt, những cuộc đi ra
ngoài lôi cuốn những sở thích chung, những cuộc hội thảo mời gọi
mọi người diễn tả ý kiến, tất cả những sinh hoạt đó đều mang lại
hiệu quả tuyệt đối nhất là nếu có cả bố mẹ cùng tham dự. Nhưng
nếu không có sự cố gắng, sinh hoạt của nhóm sẽ ít phát
triển.Những trò chơi có thể vẫn còn có sự cạnh tranh bỡi nó cho
phép đứa nầy cái ưu thế thắng vượt trong khi đứa khác phải bị
phục tùng.Vì thế, mỗi đứa trẻ nên được huấn luyện cho sự lãnh
đạo và cho sự phục tùng.Những cách thế dân chủ phải được phát
triển trong gia đình để rồi từ đó nối dài đến những sinh hoạt xã
hội rộng lớn hơn.
Đối với vấn đề
xã hội, chúng ta có nên cứu những con trẻ chúng ta khỏi những
ảnh hưởng xấu của thế giới bên ngoài không? Người ta nghe tiếng
kêu la: “Hãy bảo vệ con trẻ chúng ta!” Đòi hỏi nầy có ý hướng
tốt nhưng nguy hiểm. Con trẻ chúng ta đã được bảo vệ thái quá.
Quá chú ý đến việc bảo vệ chúng, chúng ta quên chuẩn bị cho
chúng đối diện với cuộc đời trắc trở tương lai.Điều chúng cần
không phải là bảo vệ, nhưng là khích lệ.Hãy để chúng đối diện
với những biến cố của cuộc đời.Người ta không thể che dấu chúng
mãi. Nhưng bố mẹ có thể giúp con cái phát triển thái độ đứng đắn
đối với cuộc đời: can đảm và đồng cảm, cảm thông và giúp đỡ.
Thay vì cấm chúng nghe những câu chuyện dễ sợ của đài thông tin,
bố mẹ có thể giúp chúng đánh giá những câu chuyện đó một cách
chính xác. Bố mẹ không thể cấm chúng chơi với súng trong khi các
bạn chúng được phép chơi, nhưng bố mẹ có thể dạy chúng ý nghĩa
thật của việc chơi súng. Có được sự giúp đỡ nầy, đứa trẻ sẽ trở
thành một tia sáng cho nhóm trẻ của nó. Nó sẽ gieo rắc giá trị
luân lý mà nó học được từ bố mẹ nó. Chúng ta không thể ngăn cản
sự học hỏi của con trẻ về những điều khủng khiếp của chiến
tranh, nhưng chúng ta có thể bàn thảo với chúng những lý tưởng
về dân chủ và tự do. Chúng ta có thể cắt nghĩa cho chúng hiểu
rằng đánh nhau không là cách thế hữu hiệu cho sự thiết lập thế
cai trị nhưng là một phương tiện cần thiết để tự bảo vệ. Đứa trẻ
có thể tìm thấy những cách thế thích hợp để giải quyết sự đụng
độ và tự tin đủ để chống lại sự tấn công.
Sự can thiệp của
bố mẹ vào những xung khắc mà trẻ con có với nhau là rất nguy
hại. Nếu xung đột ở trong gia đình, sự can thiệp của bố mẹ làm
tăng sự cạnh tranh và chỉ khuyến khích thêm sự đánh nhau mà
thôi.Nếu đánh nhau ở ngoài gia đình, ảnh hưởng của bố mẹ không
giúp được nhiều để làm giảm bớt sự căng thẳng và chỉ làm hao mòn
khả năng tự lo của đứa trẻ. Trong trường hợp nguy cấp, dĩ nhiên
những quan tâm về giáo dục phải được dẹp sang một bên để nhường
chỗ cho vấn đề an toàn. Tuy nhiên, những tình trạng như thế thì
ít thường xảy ra hơn là bố mẹ vì nhút nhát mà trở nên bối
rối.Nếu anh chị em cãi nhau, đừng nghĩ rằng chúng sẽ giết
nhau.Tôi thích đặt hai đứa trẻ đang đánh nhau vào trong một
phòng mà chỉ có chúng nó mà thôi để xem thử đứa nào trở ra còn
sống sót.Phương cách đó có ích lợi lắm.Chỉ sau một lúc, mỗi đứa
ngồi ở mỗi góc hoặc cả hai cùng chơi với nhau cách hài hoà.
Vâng, nuôi dưỡng
con trẻ lớn lên là công việc rất khó.Chúng ta biết rằng chúng ta
phải đồng cảm với chúng. Nếu là đứa con một, nó khó sống giữa
những người lớn. Nếu là hai, sự cạnh tranh mạnh mẽ phát triển
khiến chúng hay cãi cọ và đánh nhau.Nếu là ba, đứa giữa luôn so
sánh vị thế của nó với những đặc quyền của đứa lớn và đứa trẻ
hơn, nó có khuynh hướng cảm nghĩ mình bị bỏ rơi.Nếu là bốn,
chúng ta thường thấy hai cặp thù địch của đứa nhất và nhì, nhưng
như một qui luật, với bốn đứa tình thế thăng tiến cách đáng kể,
nhưng ai có thể chờ cho tới khi có bốn đứa con.
Vậy chúng ta
phải tỏ thiện cảm đối với những bố mẹ nghèo hoặc ít là các bà mẹ
nghèo vì những ông bố có khuynh hướng rút lui khỏi công việc xem
ra khó khăn hơn công việc thường ngày của họ. Bố mẹ là một vấn
đề đáng lưu tâm chứ không phải là con cái. Chúng ta phải giúp họ
để họ có thể hưởng được cái thú vị sâu xa nhất mà con người có
thể có được – là có những đứa con.
Ai thích có con
thì sung sướng để trả giá cho sự đòi hỏi – những đêm không ngủ
bên cạnh giường của đứa con đau, sợ sệt và ngỡ ngàng ở những lúc
con nguy hiểm, thất vọng và quan tâm khi con mình thất bại.
Nhưng nhìn đứa con lớn lên là một thích thú lạ lùng tuy không
đồng đều. Nó đảo lộn ý nghĩ của thời gian.Mỗi năm mất mát cho
chúng ta thì lại được cho đứa trẻ. Cái bước sang một bên của
chúng ta được đền bù nhiều hơn bỡi sự bắt đầu của đứa trẻ ngay
chỗ mà chúng ta rời bỏ, không cho danh tiếng của chúng ta nhưng
cho sự bảo tồn những lý tưởng chúng ta, của niềm tin chúng ta,
và tất cả những gì chúng ta xem là đáng giá. Qua con trẻ, chúng
ta xây tương lai, và chỉ có tương lai mới có thể thẩm định giá
trị điều chúng ta làm hôm nay.
Lm
Lê Văn Quảng Psy.D. |
VỀ MỤC LỤC |
|
TÔI ĐÃ ĐƯỢC LOAN BÁO TIN MỪNG |
Tôi
sinh ra trong một gia đình đông con không Công giáo. Hơn 30 năm
trước, mỗi buổi chiều, tôi thường vừa nhảy lò cò vừa hát: “Đức
Chúa Cha mua 3 múi mít, Đức Chúa Mẹ chê ít không ăn...”
Lớn
lên chút nữa, tôi tò mò theo đám bạn học Công giáo vào nhà thờ
hôn chân Chúa. Hôn vào lỗ đinh, tôi sợ rợn người, nhưng trong
lòng trộm hỏi: sao người ta yêu Chúa thế! Sao Chúa Giêsu tội
nghiệp lại để cho người ta đánh tả tơi!...
Nhà
tôi gần xóm núi, mùa đông sương phủ trắng con đường dốc. Thế mà
từ 5 giờ sáng, tôi đã thấy các cụ già lọm khọm đi nhà thờ. Không
sót buổi nào! Dẫu có mưa phùn hay gió thổi lạnh buốt. Quá nể
phục! Tôi bắt đầu suy tư... Hẳn phải có một sức hút tâm linh rất
mạnh mẽ nơi cái nhà thờ ấy…
Quê
tôi rất nghèo. Những năm 80 đói xác xơ! Nhà tranh vách lá xiêu
vẹo. Một gia đình Công giáo vừa mới chuyển về mua lại căn nhà
rách nát cạnh nhà tôi. Nhưng điều lạ lùng là chỉ một tuần lễ
sau, có một nhóm thanh thiếu niên độ mười mấy hai chục người kéo
đến, kẻ vác cột, người kéo tranh..., chỉ trong một ngày là ngôi
nhà đã được sửa chữa tươm tất! Hỏi ra tôi mới biết cha nhà thờ
cho người đến giúp. À thì ra thế! hèn gì xóm đạo phía khu B nhà
nào cung vững chải khang trang, đâu có nhếch nhác như xóm kinh
tế mới của tôi! Hay thật! Tôi ngưỡng mộ thèm muốn...
Nhưng chạnh lòng nhất là vào những dịp lễ, tết, Trung Thu hay
vào cuối năm học, thiếu nhi nhà thờ luôn được tặng quà thêm,
nhìn bọn nó xúng xính quà cáp trên tay, gương mặt rạng rỡ, đôi
lúc còn được tổ chức cho vui chơi, bọn trẻ không Công giáo chúng
tôi đứa nào cũng thèm thuồng và buồn thiu buồn thỉu… Có đạo
sướng quá, vui quá, và được thương nhiều quá!
Năm
nào cũng vậy, gần đến Giáng sinh thì trời càng trở lạnh. Người
ta kháo nhau: Đêm noel lạnh lắm! Lạnh nhất đấy! Mà đúng là đêm
Noel trời lạnh thật! Có cái gì đó nhiệm màu, thánh thiêng được
thắp lên trong lòng tôi...
Tôi
lên mười sáu. Một anh thanh niên hay ghé nhà tôi chơi. Anh thao
thao nói cho tôi nghe về Chúa. Tôi ngưỡng mộ sự hiểu biết của
anh lắm! (Sau này tôi mới biết là lúc ấy anh đang học giáo lý dự
tòng, hôm trước nghe cha dạy gì thì hôm sau đem truyền đạt lại
cho tôi thôi!). Có lần tôi nài nỉ anh hôm nào rảnh thì dắt tôi
đi nhà thờ với, anh trả lời tôi rằng: “Ừ, để khi nào tiện anh
dắt đi. Cha nói nếu như được ơn Chúa gọi mời thì trước sau gì
cũng theo Chúa thôi!”... Từ ngày ấy, tôi ước mơ “được Chúa gọi
mời”...
Thời gian trôi qua… anh đi đâu mà chẳng hề giả biệt tôi.Lời hứa
bỏ lơ lửng đó.Tôi vùi đầu vào sách vở.Hai năm sau tôi lên thành
phố vào đại học. Tất bật với cuộc sống, mơ ước của tôi cũng dần
lãng quên… Bất ngờ tôi gặp lại anh ấy! Rất tình cờ nhưng tôi xác
tín rằng đó là định mệnh Chúa dành cho tôi. Anh dắt tôi đi nhà
thờ thật! Ước mơ ngày ấy lại trỗi dậy trong tôi. Tôi còn nhớ như
in lần đầu anh dắt tôi đến nhà thờ Chúa Hiển Linh ở Phú Lâm, tôi
đã rụt rè cầu nguyện chỉ có môt câu: “Chúa ơi! Con chẳng biết gì
về Ngài, nếu quả thật Ngài là Đấng quyền năng thì xin cho con
biết Ngài và yêu Ngài với! ”...
Rồi
cứ thế, anh ấy đèo tôi trên xe đạp chiều chiều đi lễ... Rất
nghèo nhưng rất vui... Anh đưa tôi đi học giáo lý dự tòng rồi
sau đó cùng nhau học giáo lý hôn nhân.Tôi rửa tội tại nhà thờ
Tân Thái Sơn. Cha mẹ tôi tôn trọng quyết định của tôi. Ngày rửa
tội, tôi không muốn khóc nhưng nước mắt cứ rơi ra! Tôi đã mong
đợi ngày ấy lâu biết bao nhiêu – cái ngày mà tôi được đón nhận
mình Thánh Chúa! Tôi cảm nhận một niềm thương chan chứa trong
tâm hồn... Chúa thương tôi nhiều quá!! Lúc ấy và cho đến tận bây
giờ, mỗi khi nghe một bài thánh ca xúc động vang lên, lòng tôi
lại thổn thức... Chúa ơi!, “Chúa ghi vào hồn con dấu ấn của
ngài…”
Tốt
nghiệp đại học, chúng tôi cưới nhau. Tôi mang trong mình một
tham vọng lớn lắm! Tôi sẽ dùng hết tài ăn nói khéo léo của mình
để thuyết phục cha mẹ và anh em nhập đạo! Hết lần này đến lần
khác, tôi cố gắng kiên trì. Cuối cùng thì tôi đón nhận được một
ánh mắt nghiêm nghị của Ba tôi: “Từ nay con đừng bao giờ đem
chuyện tôn giáo ra nói với Ba nữa, Ba không muốn nghe đâu!”.Anh
em tôi thì chế nhạo “mở miệng ra là nghe sặc mùi Chúa!”
Tôi
buồn. Lòng nghe tái tê... Tôi thương cha mẹ anh em nhiều lắm!
Tôi tin mình tìm thấy Chúa là tìm thấy bến bờ yêu thương. Dẫu
trong khó nghèo, chúng tôi vẫn có một niềm bình an sâu lắng. Bởi
chúng tôi tin vào sự quan phòng của Chúa.Lời Ngài đã dạy chúng
tôi sống nhường nhịn, tha thứ, yêu thương. Nhìn mẹ cha anh em
sống tất bật trong cơm áo gạo tiền và bao nỗi lo toan cho xác
thịt, không có một phút lo liệu cho phần hồn, tôi ái ngại cho
đời sau! Thương quá! Nhưng không biết làm sao!..
Chúa đã dạy tôi qua miệng lưỡi một ai đó: đừng nói gì, hãy cầu
nguyện đi! Không có gì là Chúa không làm được! Thế là từ đó tôi
cầu nguyện. Lúc sốt ruột, lúc ỉ ôi, lúc than thở...Cha ơi! Sao
lại để con đến với Cha quá muộn màng! Và sao Cha ôm con vào lòng
mà còn để mẹ cha anh em con tăm tối!...Năm năm, rồi sáu năm trôi
qua, vẫn không có gì thay đổi.Lòng tôi vẫn da diết nặng trĩu. Có
một lần tôi chợt nhận ra, nếu Chúa không để tôi đợi chờ mong
mỏi, chắc lòng tôi chẳng có nỗi khát khao! Biết đâu nếu gia đình
tôi đạo gốc, tôi chẳng còn có nỗi niềm để thưa gởi, gắn bó với
Chúa nữa thì sao?!Thật đáng sợ nếu một ngày nào đó lòng tôi lạnh
nhạt, không có gì để nói với Cha, không còn ríu rít “Cha ơi! Con
đây, con dâng ngày của con trong tay Cha!” Nhận ra điều này, tôi
cảm tạ Cha...
Rồi
đến năm thứ bảy. Một lần về thăm quê, ba gọi tôi lại bảo: “Ba
muốn theo đạo, con đi găp cha nhà thờ đi!”. Tôi nghe lùng bùng
trong tai, không tin được. Cảm tạ Chúa!..
Thế
là ba, mẹ và bà nội tôi được rửa tội (Ông tôi đã mất). Bảy anh
chị em của tôi không theo đạo nhưng cũng đến nhà thờ dự lễ. Tôi
lại khóc thút thít trong nhà thờ.
Một
năm sau, em trai kế và chị gái kế của tôi cùng con cái cũng lần
lượt được rửa tội tại nhà thờ Tân Thái Sơn luôn. (Đây là hai
người trước đây hay chế giễu tôi nhất!..)
Còn
đến năm gia đình anh chị em của con nữa Cha ơi! Con xin đặt
trong trái tim nhân hậu vô biên của Cha!
Con
đường tôi đến với Chúa như thế đó!
Có
bước chân lọm khọm của cụ già.
Có
sự hăng hái vô tư của anh chị thanh niên.
Có
sự tận tuỵ của vị chủ chăn và sự chăm lo của ban hành giáo.
Có
tình yêu nâng đỡ của chồng tôi.
Và
trên tất cả, là Cha yêu thương trên trời, là Giêsu chết treo
trên thập giá, là Chúa Thánh Thần luôn ở giữa đời tôi..
Tôi
tin Chúa ban tặng mỗi người một con đường riêng. Con đường ấy
mỗi ngày thêm một điều mới lạ, thêm một cụm cỏ, nhánh hoa từ
lòng mến của nhau. Tôi cảm tạ tất cả những người đã đi trên con
đường cuộc đời tôi- tuy không dành cho tôi, nhưng đã để lại ấn
tượng trong lòng tôi rất đẹp. Những điều rất đời thường, tưởng
chừng như sẽ rơi hút vào không gian. Nhưng không, trong ơn
Thiêng, nó sẽ được trau chuốt và đọng lại, rồi một ngày, đúng
thời đúng lúc sẽ nở hoa...
Mẩu Bút Chì
www.ghxhcg.com |
VỀ MỤC LỤC |
|
Đọc Cuộc Đời
Chúa Giêsu |
Nguyên tác: Taking Flight - Bay Lên Đi
Tác giả: Anthony de Mello, S.J.
Chuyển
ngữ: Lm. Minh Anh (Gp. Huế)
Chỉ
dẫn:
Tốt nhất, các câu chuyện sẽ được đọc theo thứ tự
như đã sắp xếp. Mỗi lần đọc không quá một hoặc hai mẩu chuyện
nếu bạn ước ao có được một cái gì đó hơn là chỉ giải trí.
Lưu
ý:
Các chuyện kể trong tập sách này đến từ nhiều đất
nước, nhiều nền văn hoá và tôn giáo khác nhau; chúng thuộc về
những di sản thiêng liêng, những câu chuyện hài hước được ưa
chuộng của dòng đời nhân loại.
Những gì tác giả làm là xâu kết chúng lại với
nhau theo một ý hướng đặc thù. Công việc của tác giả là công
việc của người thợ dệt và thợ nhuộm, tác giả chẳng có công trạng
gì về những tấm vải và những sợi chỉ.
LTS.Chỉ
dẫn và lưu ý trên đây là của tác giả. Tuy nhiên, vì Đặc San GSVN
chỉ phát hành 2 tuần một lần nên mỗi số báo BBT xin giới thiệu
trung bình từ 5 đến 7 mẫu chuyện. Bạn đọc có thể lưu lại để
nghiền ngẫm suy tư.
Chủ
đề : TÔN GIÁO
(tiếp theo)
86.
Đọc Cuộc Đời Chúa Giêsu
Một
nhà khôn ngoan Hindu đang lắng nghe người ta đọc
Cuộc Đời Chúa Giêsu.
Khi
biết Đức Giêsu bị đồng hương khước từ ở Nazareth, ông tuyên bố,
“Một giáo sĩ Do Thái mà cộng đoàn mình không muốn đuổi ra khỏi
thành thì không phải là một giáo sĩ”.
Khi
nghe chính các tư tế kết án tử Đức Giêsu, ông thở dài “Dẫn cả
thế gian đi lầm đường lạc lối thì thật khó cho Satan, vì thế nó
chỉ định các giáo sĩ ở những vùng khác nhau trên địa cầu”.
Lời
ai oán của một Giám mục: “Nơi nào Đức Giêsu đến, nơi đó có cách
mạng; nơi nào tôi đến, nơi đó người ta mời trà!”.
Khi
một triệu người theo bạn, thì bạn hãy tự hỏi mình đã sai ở chỗ
nào?
ڰ
87.
Chân lý khác sự bảo đảm
Một
tác giả Do Thái giải thích rằng, người Do Thái không phải là
những người theo đảng phái. Người ta đòi hỏi các giáo sĩ phải
thực hiện ba nỗ lực khác nhau để ngăn chặn những người có khả
năng gia nhập đảng phái!
Linh
đạo thì dành cho giới thượng lưu. Nó không thỏa hiệp để có thể
chấp nhận, vì thế nó sẽ không hùa với đám đông những người muốn
nước ngọt chứ không muốn uống thuốc. Khi đám đông theo Đức
Giêsu, Người bảo họ:
“Ai
trong các người muốn xây một cái tháp mà trước tiên không ngồi
xuống và tính xem mình có đủ sức để hoàn thành nó hay không?
Hoặc có vị vua nào dẫn quân đi đánh vua khác mà trước tiên không
ngồi xuống để xem liệu với mười ngàn lính mình có thể đánh thắng
hai mươi ngàn quân địch không? Nếu không thể, thì trước khi kẻ
thù đến gần, ông sai sứ giả đến cầu hòa. Cũng thế, không ai
trong các ông có thể làm môn đệ của tôi mà không sẵn sàng từ bỏ
tất cả mọi của cải”.
Người ta không muốn chân lý. Người ta muốn sự bảo đảm.
ڰ
88.
Thuyết giảng
Một
mục sư nọ khoe với đồng nghiệp của mình
-
Chúng tôi vừa trải qua một cuộc canh tân lớn mà từ nhiều năm nay
giáo xứ chúng tôi chưa có được.
Ông
bạn vui mừng hỏi,
- Thế
cụ có thêm được bao nhiêu tín hữu mới?
-
Chẳng thêm mống nào nhưng còn mất đi năm trăm linh hồn nữa chứ.
Chắc Đức Giêsu vỗ tay hoan nghênh!
Than ôi, kinh nghiệm tôn giáo cho thấy, niềm tin tôn giáo gắn
liền với sự thánh thiện cá nhân của chúng ta như chiếc áo dạ hội
với bộ phận tiêu hóa của con người.
ڰ
89.
Khai sinh các trường phái
Một
triết gia cổ đã khuất nhiều thế kỷ được báo rằng, những người
đại diện trình bày sai triết thuyết của ông. Là một người đầy
lòng trắc ẩn và yêu mến chân lý, sau nhiều nỗ lực, ông tìm cách
để làm sao được ân huệ trở lại thế gian trong vài ngày.
Sau
một vài ngày thuyết phục những người kế tục về căn tính của
mình. Khi biết rõ ông, lập tức, họ không quan tâm đến những gì
ông ta nói nhưng xin ông tiết lộ bí quyết làm sao ông có thể trở
lại cuộc sống từ huyệt mộ.
Sau
nhiều nỗ lực, cuối cùng, ông cho biết không có cách nào tiết lộ
bí quyết này cho họ và bảo họ, việc họ trả lại tính tinh tuyền
ban đầu cho triết lý của ông thì quan trọng cho thiện ích của
nhân loại nhiều.
Một
nhiệm vụ vô ích! Họ bảo ông, “Ông không thấy rằng, quan trọng
không phải là những gì ông dạy nhưng là việc họ giải thích những
điều ông dạy? Rốt cuộc, ông chỉ là con chim qua đường, trong khi
chúng tôi ở đây vĩnh viễn”.
Khi
Phật chết, các trường phái được khai sinh.
ڰ
90.
Cái gì làm nên chất thể?
Tất cả
các triết gia, thần học gia và tiến sĩ luật đều tập trung ở toà
án để tham dự phiên toà xử giáo sĩ Nasruddin. Bị cáo phạm tội
nghiêm trọng; ông đã đi từ thành này đến thành khác, công bố,
“những người tự cho là những nhà lãnh đạo tôn giáo thì ngu ngốc
và lúng túng”. Vì thế, ông ta bị buộc tội dị giáo và bị kết án
tử hình.
“Ông
có thể nói trước”, vua Hồi bảo. Vị giáo sĩ hoàn toàn bình tĩnh,
“Xin mang cho tôi giấy và bút”, ông thưa, “và đưa chúng cho mười
người khôn ngoan nhất trong hội đồng đáng kính này”.
Trước
sự thích thú của Nasruddin, một cuộc cãi cọ ầm ĩ nổ ra giữa
những người thánh thiện để xem ai trong họ là người khôn ngoan
nhất.
Khi
cuộc tranh chấp lắng xuống và tất cả mười người được chọn đều đã
trang bị giấy bút, giáo sĩ Nasruddin nói, “Xin nhờ mỗi vị viết
câu trả lời cho câu hỏi sau: Cái gì làm nên chất thể?”.
Các
câu trả lời được viết ra và tấu lên vua, người đọc chúng ra. Một
người nói rằng, “Nó được làm từ hư vô”. Người khác bảo, “Phân
tử”. Người khác, “Năng lượng”. Những người khác, “Ánh sáng”,
“Tôi không biết”, “Hữu thể siêu hình” vân vân và vân vân.
Nasruddin thưa với vua, “Khi họ đồng ý với nhau về chất thể là
gì, họ sẽ thích hợp cho việc phán quyết những vấn đề tinh thần.
Việc họ không thể đồng ý về một cái gì đó mà từ đó họ được tạo
thành nhưng lại đồng thuận trong lời phán quyết rằng tôi là một
kẻ dị giáo thì không lạ sao?”.
Không phải chính sự phong phú của các học thuyết gây ra tai hoạ
nhưng chính là chủ nghĩa giáo điều. Vì thế, nếu mỗi người trong
chúng ta làm những gì mình chắc chắn và cho đó là thánh ý Thiên
Chúa thì kết quả sẽ hoàn toàn là một mớ hỗn độn.
Chính cái được cho là chắc chắn lại là thủ phạm. Người sống đời
sống thiêng liêng biết điều không chắc chắn - một trạng thái
tinh thần mà người đạo đức cuồng tín không biết.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
CÁC KHỦNG HOẢNG CÓ THỂ XẢY RA TRONG ĐỜI SỐNG VÀ SỨ VỤ LINH MỤC
GIÁO PHẬN |
BẢN
THẢO
ỨNG
SINH LINH MỤC HỌC & SỐNG LINH ĐẠO LINH MỤC GIÁO PHẬN
GIÁO TRÌNH TU ĐỨC LỚP THẦN II & III
ĐẠI
CHỦNG VIỆN THÁNH GIUSE HÀ NỘI
2011-2012
CHƯƠNG HAI
ỨNG
SINH LINH MỤC GIÁO PHẬN
HỌC VƯỢT LÊN KHỦNG HOẢNG VÀ TÁI ĐỊNH HƯỚNG ĐỜI
SỐNG VÀ SỨ VỤ ƠN GỌI LINH MỤC
C.
CÁC KHỦNG HOẢNG CÓ THỂ XẢY RA TRONG ĐỜI SỐNG VÀ SỨ VỤ LINH MỤC
GIÁO PHẬN(tiếp
theo)
Tình
Bằng Hữu chân thật, hoàn hảo và vĩnh viễn
(trích
khảo luận của chân phước Enrêđi)
Trong
các thanh niên, Gionathan trổi vượt hơn cả. Chàng không ham
vương tước, cũng chẳng mong quyền bính, nhưng đã kết ước cùng
Đavít, và vì tình bạn đã coi bề tôi ngang hàng với chủ. Một kẻ
bề tôi đang phải trốn tránh vua cha, đang ẩn náu trong hoang
địa, một kẻ đã bị án tử chỉ còn chờ chết, mà chàng lại quí hơn
mình. Chàng hạ mình xuống, nâng bạn mình lên, khi chàng nói:
chính anh sẽ làm vua, còn tôi sẽ làm phó cho anh.
Ôi tấm gương sáng ngời về tình bằng hữu chân
thật! Chuyện lạ biết bao: Vua cha thì nổi cơn thịnh nộ với một
kẻ bề tôi, khích động cả nước chống lại hắn như chống lại kẻ
muốn tranh ngai vàng; rồi ông buộc cho các tư tế tội phản loạn
và tàn sát họ chỉ vì một mối nghi ngờ (do tên Doerg mách lẻo);
ông lục soát rừng rậm, tảo thanh thung lũng, đem quân vây hãm
núi đồi; người người quyết chí trả thù cho vua được hả giận. Chỉ
có Gionathan, người có lý duy nhất đển ghen thì lại nghĩ là mình
phải làm ngược ý vua cha, tìm cách giúp bạn trốn đi, góp ý kiến
với bạn trong hoàn cảnh éo le như thế. Coi tình bằng hữu trọng
hơn cả ngai vàng khi chàng nói “chính anh sẽ làm vua, còn tôi sẽ
làm phó cho anh.” Hãy để ý xem vua cha khích cho chàng thanh
niên ghen ghét bạn mình làm sao: ông nguyền rủa, nạt nộ, dọa
tước quyền nối ngôi, nhắc cho biết là sẽ mất hết danh dự.
Nhưng
dầu vua cha đã tuyên án tử cho Đavít, Gioanathan vẫn không bỏ
bạn. Chàng nói: Tại sao Đavít lại phải chết? Anh ấy có tội
tình chi? Anh ấy đã làm gì? Chính anh ấy đã liều mạng đánh bọn
Philitinh và phụ vương đã mừng rỡ. Vậy thì tại sao Đavít lại
phải chết? Nghe Gionathan nói thế, vua giận điên lên, lấy
sức phóng lao định ghim cho Gioanathan dính vào tường, rồi
nguyền rủa dọa nạt thêm: Thằng con của người đàn bà hư thân
mất nết kia, tao biết là mày thương nó để mày mang nhục và người
đàn bà nhơ nhuốc đẻ ra mày cũng phải mang nhục. Và những lời
độc địa nhất có thể trút lên người thanh niên, ông mửa ra hết.
Ông còn thêm những lời kích thích tham vọng, khơi dậy lòng ghen
ghét, thổi bừng lửa ghen tương và gia tăng nỗi cay đắng: Bao
lâu thằng con trai lão Giessê còn sống thì vương quyền của mày
sẽ không vững đâu! Nghe những lời trên, ai lại không động
lòng, ai chẳng phát ghen lên? Tình nghĩa nào, tình bạn nào lại
không tàn phai, không tan vỡ? Thế mà chàng thanh niên dạt dào
tình thương mến kia vẫn giữ trọn lời thề kết nghĩa, vẫn mạnh mẽ
trước những tiếng dọa nạt, vẫn nhẫn nhục trước những lời nguyền
rủa. Vì tình bằng hữu, chàng coi rẻ ngai vàng, chỉ nhớ đến tình
thân mà không màng danh lợi.
Thế
mới là tình bằng hữu chân thật, hoàn hảo, vững bền và vĩnh viễn:
ghen tương không thể hủy hoại, nghi ngờ không làm suy giảm, tham
vọng không hề phá tan. Bị thử thách đến vậy mà vẫn không nao
núng, bị xô đẩy đến thế mà vẫn không ngã quỵ, bị nguyền rủa thế
nào cũng không lay, bị lăng mạ ra sao cũng không chuyển.
Vậy bạn hãy đi và cũng làm như vậy.
Bầu ơi,
thương lấy bí cùng,
Tuy rằng khác giống nhưng chung một
giàn.
Trong
cơn khủng hoảng của tình huynh đệ, điều ước mong lớn hơn là mối
tương quan thân tình giữa linh mục với Giám mục của mình. “Một
cách bí tích, linh mục đi vào hiệp thông với Giám mục và các
linh mục khác để phục vụ Dân Chúa.”
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã khuyên các Giám Mục Việt Nam
hãy luôn gần gũi hơn với các linh mục,
quan tâm tới đời sống hàng ngày của họ để nâng đỡ họ và đồng
hành cùng họ, nhất là khi họ gặp thử thách vì thi hành sứ vụ;
cung cấp cho họ một sự đào tạo thiêng liêng thích nghi với những
thách đố trong việc truyền giáo mà họ phải đối diện.
Chương trình đào tạo linh mục của Philippines năm 1972 đưa ra đề
nghị rằng các Giám mục nên đi bước trước trong cuộc đối thoại
thân hữu và thường xuyên với các linh mục trẻ, để họ có thể cởi
mở và chân thành bàn cải cách riêng tư, với sự hướng dẫn từ phụ
của Giám Mục, về công việc, thành công và thất bại, kế hoạch và
vấn đề, cũng như về đời sống thiêng liêng của họ nữa.
Với sự
hiểu biết đầy yêu thương và sự trợ giúp từ phụ của Giám mục,
linh mục sẽ đứng vững trong mọi hoàn cảnh, bởi vì mọi cuộc khủng
hoảng đều đến từ cuộc khủng hoảng quyền bính. Thái độ của các
linh mục đối với Giám Mục phải là hợp tác, vâng lời, tình bạn,
và nhìn thấy nơi ngài một người cha thực sự và vâng phục ngài
với tất cả kính trọng. Sự vâng lời càng đến từ con tim (không
phải bởi quyền lực hay lý lẽ), thì mối tương quan giữa Giám mục
và linh mục càng trở nên gần gũi và rồi mọi sự đều tốt đẹp.
Một
điều tôi rất ấn tượng khi còn là tiểu chủng sinh phục vụ các cha
tĩnh tâm năm là việc Giám mục Bản quyền tuần tự gặp riêng từng
linh mục thuộc quyền. Không biết nội dung cuộc gặp gỡ là gì,
nhưng thấy thái độ và nét mặt của các cha trước và sau khi gặp
Đức Cha, nhất là đời sống, công việc và các mối tương quan của
các cha có cái gì thay đổi khác trước kia, và thường sau những
cuộc gặp gỡ kỳ tĩnh tâm năm như thế lại có một số cha chuyển xứ,
thậm chí có cha còn được đi nghỉ một thời gian ở một Dòng chiêm
niệm và khi trở về được đi coi sóc một giáo xứ mới, thì tôi nghĩ
là có cái gì nghiêm trọng và ích lợi, không chỉ cho đời sống và
sứ vụ linh mục của các cha, mà còn cho giáo xứ, giáo phận và
Giáo Hội.
Tôi áp dụng sự gặp gỡ cá nhân đó khi được mời
giảng tĩnh tâm. Ban đầu. tôi chỉ được gặp riêng những ai muốn
gặp. Tôi và những người đến gặp đều cảm thấy rất ích lợi, sốt
sắng, tâm hồn bình an và có những chuyển biến tích cực. Tuy
nhiên có một số người muốn gặp nhưng ngại người khác, nên những
đợt tĩnh tâm sau, tôi yêu cầu có chương trình và thời giờ gặp
riêng từng tham dự viên, để có thể đi vào và đụng chạm những vấn
đề riêng tư của mỗi người mới hy vọng giúp được cái gì, chứ
không chỉ bằng lòng nói chung chung.
Được
sống gần gũi và tham dự nhiều lần cuộc tĩnh tâm năm linh mục ở
nhiều nơi, tôi thấy thường chỉ có những cuộc huấn đức chung hoặc
họp chung bàn bạc một số công việc, chứ không thấy các Đức Cha
gặp riêng các cha trong bối cảnh hồi tâm thuận lợi như thế, để
các cha phúc trình về giáo xứ, tình hình giáo xứ và giáo dân, về
đời sống riêng tư của cha (thiêng liêng, tình cảm...), kể cả Đức
Cha có thể chất vấn và đòi cha giải thích, điều chỉnh một số vấn
đề trăn trở mà giáo dân đang xì xèo bán tán hoặc công khai kiện
cáo. Thiếu sự gặp gỡ riêng tư thân tình, thành thật và tín
nhiệm, kể cả đụng chạm chất vấn, định bệnh và chữa bệnh ấy thì
mọi sự đâu vẫn đấy, chẳng có gì thay đổi, tiến triển. Dĩ nhiên
cũng có một số ít cha gặp riêng Đức Cha, nhưng cũng chỉ vì công
việc và vỏn vẹn trong vài ba phút ngắn ngủi (mời ban phép Thêm
sức, khánh thành, xin chuẩn Hôn phối khác đạo, xin đi phép,
v.v.). Tôi ước mong truyền thống tốt đẹp trên lại được tiếp tục,
hoặc các Đức Cha hoặc các cha chủ động đi bước trước.
C.
2. Các dấu hiệu khủng hoảng trong đời sống và sứ vụ của linh mục
giáo phận
· Trốn chạy trong rượu, những hoạt động gây ấn tượng và
cảm giác mạnh, thích “xuất hiện” và khẳng định mình…
· Chuyện phiếm, tán gẫu không dứt, tâm sự, bàn tán phê
bình đủ thứ chuyện về Giám Mục mà không dám nói trực tiếp…
· Thiếu khả năng sống trầm tĩnh, cô tịch, thinh lặng.
· Ham mê giải trí thái quá: suốt ngày lướt mạng xem phim,
chơi games… hay đầu tư quá nhiều thời giờ và tiền bạc vào chim,
cá, kiểng…
· Ham hoạt động quá (quá lao lực sẽ kiệt lực)
· Nhu cầu khẳng định mình thái quá (phá bỏ công trình của
người trước, nhằm xây dựng những ‘công trình thế kỷ’ để đời mang
dấu ấn của mình…)
· Nhìn đời và nhìn người cách tiêu cực, yếm thế, hay chỉ
trích phê bình…
· Khó ngủ (nhất dạ sinh bá kế, gửi và nhận tin nhắn liên
hệ đến tình cảm…)
· Thiếu tự chủ và làm chủ bản thân, có những bất bình
thường về giới tính…
· Khả năng hoạt động bị tê liệt (ở nhưng là cội rễ mọi sự
dữ)
· Chỉ thường xuyên liên hệ với một số người nào đó thôi…
C.3.
Phản ứng cần thiết để vượt lên cơn khủng hoảng
· Cần có thời gian cầu nguyện hằng ngày để chia sẻ bản
thân với Chúa, hầu sống căn tính linh mục thực sự của mình.
· Tìm một đối tác biện phân, như vị linh hướng, có thể là
một người bạn thân lâu dài, dẫn tới một căn tính trưởng thành.
Các cân nhắc tâm lý về cá tính cũng rất hữu ích.
· Sự sống mật thiết với Chúa
Giêsu là phương dược chữa lành vạn năng, vì việc không ngừng
tìm kiếm kết hợp với Chúa Giêsu khiến linh mục tìm được sự thống
nhất đời sống của mình.
· Quả thế, trong đời sống độc thân của mình, linh mục cảm
nhận sự cô đơn và lắm khi cô đơn thực sự, và đôi khi sự “cô đơn
giữa đông người” đè nặng trên con người của ngài.
· Sự nghi ngờ, đố kỵ, ghen ghét hay thiếu thông cảm từ
phía anh em linh mục đồng nghiệp của ngài (kể cả từ Giám Mục) có
thể làm gia trọng nỗi thất vọng và cô đơn.
· Chúng ta phải nhìn nhận dữ kiện tâm lý thực tế là sự
thiện cảm hay ác cảm tự nhiên. Nhưng là người trưởng thành, và
là linh mục, chúng ta phải nỗ lực vượt lên thực tế đó để xây
dựng một tình huynh đệ đích thực.
· Nhưng cô đơn của
linh mục không phải là sự trống rỗng và ngài cũng không thực sự
cô độc vì Đấng Cứu Thế luôn ở với ngài. Chúa Giêsu cũng
vậy, trong những giờ phút bi thảm nhất của cuộc thương khó, Ngài
đã cảm nhận cô đơn và bị bỏ rơi, vì Ngài vừa liên đới với thân
phận tội nhân phản nghịch, lại vừa luôn sống hiệp thông mật
thiết với Chúa Cha và luôn tìm theo ý Chúa Cha.
· Liên kết với Chúa, chúng ta tìm được sức mạnh để vượt
quá những giằng co đó.
Nơi
nào có oán ghét hận thù
Xin
giúp con xây dựng tình thương.
Nơi
nào có khinh khi nhục mạ,
Xin
giúp con mang lại thứ tha.
Nới
nào có mâu thuẫn bất đồng,
Xin
giúp con nên người hòa giải.
Nơi
nào có giả dối sai lầm,
Xin
giúp con rao truyền chân lý.
Nơi
nào có hoài nghi ngờ vực,
Xin
giúp con củng cố đức tin.
Nơi
nào có nản chí sờn lòng,
Xin
giúp con gieo niềm hy vọng.
Nơi
nào có bóng tối mây mù,
Xin
giúp con khai nguồn ánh sáng.
Nơi
nào có u sầu buồn bã,
Xin
giúp con đem lại an vui.
Lời
cầu Kinh Sáng thứ bảy Tuần II.
__________
Chu
thich
|
VỀ MỤC LỤC |
|
NGƯỜI CAO TUỔI VỚI ĂN CHAY |
Tại Việt Nam cũng
như tại nhiều quốc gia khác trên thế giới, rất nhiều người cao
tuổi có khuynh hướng là chuyển sang chế độ dinh dưỡng gọi là ăn
chay . Các bác lý luận rằng bây giờ tuổi cao, lao động chân tay
giảm đâu có cần thức ăn béo bổ như trước đây. Hơn nữa, theo báo
đài, các bác thấy nói tới việc ăn nhiều thịt cá lại gây ra nhiều
bệnh nan giải tim mạch, béo phì, ung thư ruột già…cho nên quyết
định ăn chay lại càng mặn mà hơn.
Theo đa số ý
kiến, ăn chay được hiểu là “không ăn thịt, cá hoặc bất cứ
thức ăn nào có nguồn gốc động vật”. Như vậy người ăn chay
chỉ ăn rau, trái, các loại hạt, củ... Tuy nhiên cũng có người ăn
chay chấp nhận dùng thêm trứng, sữa và các thực phẩm chế biến từ
sữa như yaourt, fromage...
Ăn chay đã được
thực hiện từ nhiều ngàn năm. Những năm gần đây phong trào không
ăn thịt, chỉ ăn rau trái được nhiều người để tâm tới, ngay cả
các nhà nghiên cứu khoa học và giới y học. Và do có nhiều kết
quả tích cực mang lại sức khỏe của ăn chay đã được chứng minh,
cho nên việc ăn chay hiện đang được rất nhiều ngưới áp dụng.
Bác sĩ Collin
Campbell của trường Đại học Cornell nhận xét:“Nói
về nguồn gốc, con người thuộc loại ăn rau trái. Do đó ta nên ăn
nhiều loại thực phẩm rau trái, thực vật và giới hạn thực phẩm từ
động vật để có sức khỏe tốt”.
Chuyên gia dinh
dưỡng Johana Dwyer của Đại học Y khoa
Tufts ở Boston tóm tắt như sau :“ Có nhiều dữ kiện cho thấy
ăn rau trái rất tốt để làm giảm nguy cơ mập phì, táo bón, ung
thư phổi và ghiền rượu. Cũng có bằng chứng là nguy cơ về cao
huyết áp, bệnh động mạch vành, tiểu đường loại II, sạn túi mật
cũng giảm thiểu.Một số bằng
chứng khác cũng cho là rau trái có thể giảm nguy cơ ung thư vú,
bệnh nang chi ruột, ung thư ruột già, sạn thận, loãng xương, hư
răng”.
Thành ra quyết
định ăn chay của các bác cũng hữu lý.
Tuy nhiên, xin
các bác lưu ý rằng thực phẩm từ thực vật cũng có hầu hết các
chất dinh dưỡng mà động vật có nhưng với tỷ lệ khác nhau
và có nhiều chất dinh dưỡng mà thức ăn chay không có và ta phải
bổ sung.
Chẳng hạn chất
đạm thực vật thường có tỷ lệ hấp thụ thấp hơn chất đạm động vật,
cho nên người ăn chay cần tiêu thụ một số lượng nhiều hơn. Thí
dụ, một người nặng 70 kí cần 54g chất đạm mỗi ngày. Để đáp ứng
nhu cầu này, người ăn chay cần ăn thêm 25%, tức là khoảng 68 g
chất đạm từ thực vật. Chất đạm này có rất nhiều trong các loại
ngũ cốc, đặc biệt các loại đậu như đậu nành.
Người ăn chay
thuần túy cần ăn nhiều loại rau có lá mầu xanh đậm và các loại
thực phẩm có bổ sung calci, vì calci có nhiều trong sữa đã tăng
cường, cá.
Người ăn chay cần
ăn thực phẩm có pha thêm sinh tố D hoặc tiếp xúc với tia nắng
nhiều hơn một chút để có sinh tố D ở da.
Sinh tố B12 cần
thiết cho sự cấu tạo hồng cầu và cho việc hoàn tất các chức năng
của hệ thần kinh. Sinh tố này có nhiều trong thịt động vật, sữa,
bơ, pho mát, trứng, thủy sản. Thực vật không có sinh tố B 12,
cho nên người ăn chay cần ăn thực phẩm có bổ sung sinh tố này
hoặc dùng thêm thuốc có B 12, dạng tiêm chích hoặc viên uống
cũng được.
Ăn chay cũng hay
bị thiếu khoáng chất sắt. Thực phẩm thực vật có nhiều sắt là đậu
phụ, các loại hạt, lá rau có mầu xanh đậm, nước trái mận khô
(prune), vỏ khoai tây...
Kẽm cần thiết
trong các men để chuyển hóa chất đạm, cho cơ quan sinh dục, cho
sự miễn dịch. Kẽm có nhiều trong rau trái như các loại hạt,
khoai tây, gạo đỏ, hạt hướng dương, pecan, đậu phọng...
Người mình nhiều
khi ăn chay chỉ với tương chao, dưa cà muối ..Các món ăn này
thường thường có nhiều muối mặn, cho nên chỉ nên dùng giới hạn,
nhất là với quý bác đang bị cao huyết áp, bệnh tim. Thêm vào đó,
tương chao cần được cất giữ an toàn để tránh ngộ độc thực phẩm.
Nước cốt dừa ăn
vào thấy rất béo hấp dẫn nhưng có nhiều chất béo no lắm đấy. Ăn
nhiều cũng gây tắc nghẽn động mạch.
Thực ra, không có
một chế độ dinh dưỡng nào có thể áp dụng chung cho mọi người mà
mỗi người phải có chế độ riêng, tùy theo nhu cầu và sức khỏe của
mình.
Theo ý kiến các
nhà chuyên môn, trừ trường hợp sức khỏe tốt, người cao tuổi có
sẵn vài bệnh mãn tính không nên ăn chay trường mà chỉ nên ăn vài
ngày mỗi tuần lễ cho nhẹ nhàng. Lý do là họ cần một số chất dinh
dưỡng từ động vật để duy trì sức khỏe. Quý bác cũng nên uống
thêm sữa bò vì sữa có nhiều chất đạm, calci cần thiết cho cơ
thể.Như chính trị gia Mahandas Gandhi đã tâm sự “I could not,
after a serious illness, regain my strength, unless I went back
to milk”. Ông phải thêm sữa dê vào chế độ ăn chay của mình để có
sức khỏe tranh đấu độc lập cho Ấn Độ.
Bác sĩ Nguyễn Ý
Đức
www.bsnguyenyduc.com |
VỀ MỤC LỤC |
Thập
đại bịnh. |
Muốn thành công trước hết phải chữa trị tận gốc mười (10)
chứng bịnh làm băng hoại xã hội ngày nay.
Cuộc sống cộng đồng và Giáo hội, không những ở Việt Nam mà ngay
cả ở hải ngoại, hiện đang có những bất ổn.Không hoặc chưa phát
huy được nét tích cực của mình. Do đâu ?
Có rất nhiều căn nguyên. Những căn nguyên này là những chứng
bịnh vừa nguy hiểm vừa truyền nhiễm đang hoành hành trong xã
hội, và có cơ nguy làm cho cuộc sống xã hội băng rã. Tôi qui
chúng lại thành mười bệnh lớn: Thập đại bịnh.
2. Bệnh tiêu cực bi quan
Những người mang bệnh này cứ chỉ trích kinh niên.Khi nào cũng có
chuyện để chỉ trích.Một người làm cả đám phá.Một chính đảng lên
thì các đảng khác xúm nhau phá. Phải đạp nó xuống thì mình mới
lên được chứ !
Bệnh chỉ trích phát sinh từ lòng ích kỷ hoặc kiêu căng. Một biểu
hiện song hành của bệnh này là người chỉ trích thường hay thiếu
tự tin.
Người tiêu cực cái gì cũng chỉ trích. Nhưng khi được yêu cầu đưa
đề nghị thì "để xem đã", hoặc có ai đưa ra đề nghị gì thì lại
lắc đầu "không làm nổi đâu" !
Người tiêu cực thì bất cứ một cơ hội nào cũng là một tai họa cho
mình (for the pessimists every opportunity is a calamity).
Trái lại, người lạc quan thì bất cứ tai họa nào cũng là một cơ
hội cho mình
(for the optimists every calamity is an opportunity).
Người ta kể câu chuyện: Một công ty lớn gởi hai đại diện sang
một nước Phi châu để nghiên cứu thị trường tiêu thụ giày dép.
Trở về điều trần, một vị lắc đầu: Thưa quý vị, không có cách gì
tiêu thụ được; người dân ở đó chỉ đi chân đất, có ai đi giày dép
đâu ! Trong khi đó vị kia lại hớn hở: Thưa quý vị, chuyến này
chúng ta thắng lớn; cả một lục địa mênh mông chưa có ai có giày
dép để đi cả !
Người tích cực thì lạc quan.Kẻ tiêu cực bi quan. Tùy theo cách
nhìn mà vấn đề nẩy sinh. Người Pháp nói: Đừng trách rằng tối;
tối là vì mình không chịu thắp đèn lên thôi ! Đức Gioan Phaolô
II kêu gọi: "Đừng sợ", vì ta tin vào Thiên Chúa quyền
năng và yêu thương, ta tin con người có thiện chí, ta tin vào
mình có Chúa giúp.
Hồng Y PX.
Nguyễn Văn Thuận
Con tiep nhieu
ky
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|