Hồ Biểu Chánh (胡
表政,1884–1958),
tên thật là Hồ Văn Trung (胡
文中), tự Biểu Chánh (表
政), hiệu Thứ Tiên (次
仙); là một nhà văn tiên
phong của miền Nam Việt
Nam ở đầu thế kỷ 20.
Tiểu sử
Ông sinh năm 1884
(trong giấy khai sinh ghi ngày 1 tháng 10 năm 1885)
tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công (nay thuộc
ấp Thành Nhất, xã Bình Xuân, thị xã Gò Công,
tỉnh Tiền Giang).
Ông xuất thân
trong một gia đình nông dân, thuở nhỏ học chữ Nho,
sau đó chuyển qua học quốc ngữ, rồi vào trường
trung học ở Mỹ
Tho và Sài Gòn.
Năm 1905,
sau khi đậu Thành chung, ông thi vào ngạch ký
lục của Soái phủ Nam Kỳ; làm ký lục, thông
ngôn, thăng dần đến đốc phủ sứ (1936),
từng giữ chức chủ quận (quận trưởng) ở nhiều
nơi. Ông vốn có tiếng thanh liêm, yêu dân,
thương người nghèo khổ.
Tháng 8 năm 1941,
sau khi ông về hưu, được Pháp mời làm cố vấn
với danh hiệu Nghị viện Hội đồng Liên bang
Đông Dương và Phó Đốc lý thành phố Sài Gòn,
đồng thời làm giám đốc những tờ báo tuyên
truyền cho chủ nghĩa Pháp-Việt.
Sau khi tái chiếm
Nam Bộ năm 1946, Cộng hòa tự trị
Nam Kỳ được thành lập,
ông được mời làm cố vấn cho chính phủ Nguyễn Văn
Thinh. Nhưng chỉ được mấy tháng, khi
chính phủ Nguyễn Văn Thinh sụp đổ, ông lui về
quê ở ẩn và giành trọn những năm tháng còn lại
cho sự nghiệp văn chương.
Ông mất ngày 4 tháng 9 năm 1958 tại
Phú Nhuận, Gia Định; thọ 73 tuổi.
Lăng mộ ông hiện
nay được đặt ở đường Thống Nhất, phường 11
quận Gò Vấp.
Sự nghiệp văn
chương
Khi viết văn, ông
lấy tên tự ghép với họ là Hồ Biểu Chánh, trở
thành một bút danh bất hủ, được nhiều người
biết đến và quý mến hơn tên thật Hồ Văn Trung
của ông.
Ông sáng tác văn
học rất nhiều và để lại hơn 100 tác phẩm gồm
tiểu thuyết và các thể loại khác, như: nghiên
cứu, phê bình văn học, sáng tác tuồng hát cùng
các bản dịch văn học cổ điển Trung Quốc như Tình
sử, Kim cổ kỳ quan...
đóng góp rất nhiều cho sự phát triển của nền văn học Việt
Nam hiện đại.
Tiểu thuyết của
ông thuộc về thời kỳ đầu của văn học chữ quốc ngữ,
cốt truyện đơn giản, triết lý chủ đạo là thiện
thắng ác, ở hiền gặp lành, điểm đặc biệt là
rất Nam Kỳ, từ giọng văn đến miêu tả con
người. Ông có phóng tác một số tiểu thuyết
Pháp.
Hồ Biểu Chánh sở
trường về viết văn xuôi tự sự. Đề tài phần lớn
là cuộc sống Nam Kỳ từ nông thôn đến thành thị
những năm đầu thế kỷ 20 với những xáo trộn xã
hội do cuộc đấu tranh giữa mới và cũ. Cách
diễn đạt của ông nôm na, bình dị. Ông đã có
những đóng góp to lớn vào sự hình thành thể
loại tiểu thuyết trên chặng đường phôi thai.
Ông để lại một khối lượng sáng tác không nhỏ:
64 tiểu thuyết, 12 tập truyện ngắn và truyện
kể, 12 vở hài kịch và ca kịch, 5 tập thơ và
truyện thơ, 8 tập ký, 28 tập khảo cứu-phê
bình. Ngoài ra, còn có các bài diễn thuyết và
2 tác phẩm dịch.
Các
tác phẩm
- Dịch
thuật:
- Tân soạn
cổ tích (cổ văn Trung Quốc, Sài
Gòn-1910)
- Lửa ngún
thình lình (dịch tiếng Pháp, SG, 1922)
- Thơ:
- U tình
lục (Sài Gòn – 1910)
- Vậy mới
phải (Long Xuyên – 1913)
- Biểu
Chánh thi văn (Tập i, ii, iii bản thảo)
- Tùy bút
phê bình:
- Chưởng
Hậu quân Võ Tánh (Sài Gòn – 1926)
- Chánh
trị giáo dục (Gò Công – 1948)
- Tùy bút
thời đàm (Gò Công – 1948)
- Hồi ký:
- Ký ức
cuộc đi Bắc Kỳ (1941)
- Mấy ngày
ở Bến Súc (1944)
- Đời của
tôi: 1. Về quan trường, 2. Về Văn nghệ,
3. Về phong trào cách mạng
- Một
thiên ký ức: Nam Kỳ cộng hòa tự trị (Gò
Công – 1948)
- Tâm hồn
tôi (Gò Công – 1949)
- Nhàn
trung tạp kỷ (tập i, ii, iii Gò Công –
1949)
- Hài kịch:
- Tình anh
em (Sài Gòn – 1922)
- Toại chí
bình sinh (Sài Gòn – 1922)
- Đại
nghĩa diệt thân (Bến Súc – 1945)
- Hát bội:
- Thanh Lệ
kỳ duyên (Sài Gòn 1926 – 1941)
- Công
chúa kén chồng (Bình Xuân – 1945)
- Xả sanh
thủ nghĩa (Bình Xuân – 1945)
- Trương
Công Định qui thần (Bình Xuân – 1945)
- Cải
lương:
- Hai khối
tình (Sài Gòn – 1943)
- Nguyệt
Nga cống Hồ (Sài Gòn – 1943)
- Vì nước
vì dân (Gò Công - 1947)
- Đoản
thiên:
- Chị Hai
tôi (Vĩnh Hội – 1944)
- Thầy
chùa trúng số (Vĩnh Hội – 1944)
- Ngập
ngừng (Vĩnh Hội)
- Một đóa
hoa rừng (Vĩnh Hội – 1944)
- Hai Thà
cưới vợ (Vĩnh Hội)
- Lòng dạ
đàn bà (Sài Gòn – 1935)
- Truyện
ngắn:
- Chuyện
trào phúng, tập I, II (Sài Gòn – 1935)
- Chuyện
lạ trên rừng (Bến Súc – 1945)
- Truyền
kỳ lục (Gò Công – 1948)
- Biên
khảo:
- Pétain
cách ngôn Á đông triết lý hiệp giải (Sài
Gòn – 1942)
- Gia Long
khai quốc văn thần (Sài Gòn – 1944)
- Gia Định
Tổng trấn (Sài Gòn)
- Chấn
hưng văn học Việt Nam (Sài Gòn – 1944)
- Trung
Hoa tiểu thuyết lược khảo (Sài Gòn –
1944)
- Đông
Châu liệt quốc chí bình nghị (Bến Súc –
1945)
- Tu dưỡng
chỉ nam (Bến Súc – 1945)
- Pháp
quốc tiểu thuyết lược khảo (Bình Xuân –
1945)
- Một lằn
chánh khí: Văn Thiên Tường (BX 1945)
- Nhơn
quần tấn hóa sử lược (Gò Công – 1947)
- Âu Mỹ
cách mạng sử (Gò Công – 1948)
- Việt ngữ
bổn nguyên (Gò Công – 1948)
- Thành
ngữ tạp lục (Gò Công – 1948)
- Phật tử
tu tri (Gò Công)
- Nho học
danh thơ (Gò Công)
- Thiền
môn chư Phật (Gò Công – 1949)
- Địa dư
đại cương (Gò Công)
- Hoàng
cầu thông chí (Gò Công)
- Phật
giáo cảm hóa Trung Hoa (1950)
- Phật
giáo Việt Nam (1950)
- Trung
Hoa cao sĩ, ẩn sĩ, xứ sĩ (1951)
- Nho giáo
tinh thần (1951)
- Tiểu
thuyết:
- Ai làm
được (Cà Mau 1912, phỏng theo André
Cornelis của
Paul Bourget)
- Ái tình
miếu (Vĩnh Hội – 1941)
- Bỏ chồng
(Vĩnh Hội – 1938)
- Bỏ vợ
(Vĩnh Hội – 1938)
- Bức thơ
hối hận (Gò Công – 1953)
- Cay đắng
mùi đời (Sài Gòn - 1923, phỏng theo Không
gia đình của Hector
Malot)
- Cha con
nghĩa nặng (Càn Long- 1929)
- Chị Đào,
Chị Lý (Phú Nhuận – 1957)
- Chúa tàu
Kim Qui (Sài Gòn - 1923, phỏng theo Bá
tước Monte Cristo của Alexandre Dumas)
- Chút
phận linh đinh (Càn Long –1928, phỏng
theo Trong
gia đình của Hector
Malot)
- Con nhà
giàu (Càn Long – 1931)
- Con nhà
nghèo (Càn Long – 1930)
- Cư Kỉnh
(Vĩnh Hội – 1941)
- Cười
gượng (Sài Gòn – 1935)
- Đại
nghĩa diệt thân (Sài Gòn – 1955)
- Dây oan
(Sài Gòn –1935)
- Đỗ Nương
Nương báo oán (Sài Gòn - 1954)
- Đóa hoa
tàn (Vĩnh Hội – 1936)
- Đoạn
tình (Vĩnh Hội –1940)
- Đón gió
mới, nhắc chuyện xưa (Phú Nhuận – 1957)
- Hai
chồng (Sài Gòn – 1955)
- Hai khối
tình (Vĩnh Hội – 1939)
- Hai vợ
(Sài Gòn – 1955)
- Hạnh
phúc lối nào (Phú Nhuận – 1957)
- Kẻ làm
người chịu (Càn Long – 1928)
- Khóc
thầm (Càn Long – 1929)
- Lá rụng
hoa rơi (Sài Gòn – 1955)
- Lạc
đường (Vĩnh Hội – 1937)
- Lẫy lừng
hào khí (Phú Nhuận – 1958)
- Lời thề
trước miễu (Vĩnh Hội – 1938)
- Mẹ ghẻ
con ghẻ (Vĩnh Hội – 1943)
- Một chữ
tình (Sài Gòn – 1923)
- Một đời
tài sắc (Sài Gòn – 1935)
- Một
duyên hai nợ(Sài Gòn – 1956)
- Nam cực
tinh huy (Sài Gòn – 1924)
- Nặng bầu
ân oán (Gò Công – 1954)
- Nặng
gánh cang thường (Càn Long-1930)
- Ngọn cỏ
gió đùa (Sài Gòn – 1926, phỏng theo Những
người khốn khổ của Victor
Hugo)
- Người
thất chí (Vĩnh Hội –1938, phỏng theo Tội
ác và hình phạt của Fyodor
Mikhailovich Dostoevsky)
- Nhơn
tình ấm lạnh (Sài Gòn – 1925)
- Những
điều nghe thấy (Sài Gòn – 1956)
- Nợ đời
(Vĩnh Hội – 1936)
- Nợ tình
(Phú Nhuận – 1957)
- Nợ trái
oan (Phú Nhuận – 1957)
- Ở theo
thời (Sài Gòn – 1935)
- Ông Cả
Bình Lạc (Sài Gòn – 1956)
- Ông Cử
(Sài Gòn – 1935)
- Sống
thác với tình (Phú Nhuận – 1957)
- Tại tôi
(Vĩnh Hội – 1938)
- Tân
Phong nữ sĩ (Vĩnh Hội – 1937)
- Tắt lửa
lòng (Phú Nhuận – 1957)
- Thầy
Thông ngôn (Sài Gòn – 1926)
- Thiệt
giả, giả thiệt (Sài Gòn – 1935)
- Tiền
bạc, bạc tiền (Sài Gòn – 1925)
- Tìm
đường (Vĩnh Hội – 1939)
- Tình
mộng (Sài Gòn – 1923)
- Tơ hồng
vương vấn (1955)
- Trả nợ
cho cha (Sài Gòn – 1956)
- Trọn
nghĩa vẹn tình (Gò Công – 1953)
- Trong
đám cỏ hoang (Phú Nhuận – 1957)
- Từ hôn
(Vĩnh Hội – 1937)
- Vì nghĩa
vì tình (Càn Long – 1929)
- Vợ già
chồng trẻ (Phú Nhuận – 1957)
- Ý và
tình (Vĩnh Hội – 1938 – 1942)
- Người vợ
hiền (?)*
Phim
Chuyển thể từ các
tác phẩm của Hồ Biểu Chánh, có:
- Con nhà
nghèo (1998)
- Ân oán nợ
đời (2002)
- Nợ đời
(2002)
- Chúa tàu Kim
Quy (2002)
- Cay đắng mùi
đời (2007)
- Tại tôi
(2009)
- Tân Phong nữ
sĩ (2009)
- Tình án
(2009)
- Khóc thầm
(2010)
- Lòng dạ đàn
bà (2011)
- Ngọn cỏ gió
đùa (2013)
- Hai khối
tình (2015)
- Con nhà giàu
(2015)
- Thế thái
nhân tình (2017)
- Tơ hồng
vương vấn (2017)
- Oan trái
nghĩa tình (2019)
Liên
kết ngoài