Đỗ
Mậu |
Tiểu sử |
Sinh |
1-7-1917
Quảng Bình, VN |
Mất |
11-4-2002 (85
tuổi)
Hoa Kỳ |
Binh nghiệp |
Thuộc |
Quân
lực Việt Nam Cộng hòa |
Năm tại ngũ |
1936–1965 |
Cấp bậc |
Thiếu
tướng |
Đơn vị |
Nha An
ninh Quân đội |
Chỉ huy |
Quân đội
Pháp
Quân đội Liên hiệp Pháp & Quân đội
Quốc gia
Quân lực Việt Nam Cộng hòa |
Tham chiến |
Chiến
tranh Việt Nam |
Công việc khác |
Tổng
trưởng Bộ thông tin
Đệ tam Phó Thủ tướng |
Đỗ Mậu (1917-2002),
còn có bút hiệu là Hoành
Linh Đỗ Mậu, là một cựu tướng lĩnh và
chính khách Việt Nam Cộng
hòa. Xuất thân từ Quân đội thuộc địa
Pháp. Ông là một trong những nhân vật đóng vai
trò quan trọng trong cuộc đảo chính ngày 1
tháng 11 năm 1963 và chính trường Việt Nam
Cộng hòa từ năm 1963 đến 1965.
Tiểu
sử & Binh nghiệp
Ông sinh ngày 1 tháng 7 năm
1917 tại làng Thổ Ngọa, thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình. trong một gia đình
nhà Nho nghèo. Trong hồi ký của mình, ông cho
biết ông nội mình là một nhà Nho, bỏ việc đèn
sách để trở thành tướng lĩnh trong phong trào Cần Vương dưới
quyền lãnh đạo của Lê Trực,
về sau bị quân Pháp giết chết.[1] Tuy
nhiên, một tài liệu khác dẫn lời một nhân
chứng cho rằng ông xuất thân trong gia đình
địa chủ.[2]
Cũng theo hồi ký của ông, mẹ ông mất
sớm khi ông mới 4 tuổi. Tuy nhiên, do ảnh
hưởng truyền thống gia đình, ông vẫn được cho
đi học hết bậc tiểu học ờ quê nhà, sau đó được
người cô họ giúp đỡ để học tiếp trung học ở
Huế. Tuy nhiên, ông phải bỏ dở việc học khi
sắp bước vào năm học thứ 4 do hoàn cảnh gia
đình.[1] Do
việc học hành dở dang này, về sau ông thường
tự nhận mình là "kẻ thất học quê mùa".[3]
Quân
đội thuộc địa
Ông trở về Đồng Hới, xin được một chân giáo
viên sơ học làng để sinh kế. Sau khi dạy học 1
năm, giữa năm 1936, ông nhập ngũ vào đơn vị lính khố xanh (Garde
Indigène) tại
cơ Bảo anHà Tĩnh. Trong hồi ký của mình,
ông giải thích lý do quan trọng nhất là để có
tiền nuôi thân lại vừa có tiền giúp đỡ cha
già.[1]
Do có trình độ trung học, ông được
bố trí công việc nhẹ nhàng ở văn phòng. Đến
đầu năm 1939, ông được phục vụ tại Tòa Khâm sứ
Pháp ở Huế. Đầu năm
1942, ông được cử đi học khóa Hạ sĩ quan tại
Trung tâm Huấn luyện Hạ sĩ quan An Cựu, Huế.
Tốt nghiệp với cấp bậc Chuẩn úy,
được giữ ở lại trường để làm huấn luyện viên.
Hoạt
động chống Pháp
Thời gian làm huận luyện viên tại
Trung tâm Huấn luyện Hạ sĩ quan, ông có nhiều
va chạm với những quân nhân Pháp trong công
tác, sự kỳ thị, cũng như những áp bức và bất
công của họ đối với người bản xứ. Từ đó, cộng
với yếu tố lịch sử gia đình, ông bắt đầu có
những tư tưởng chống Pháp. Tháng 6 năm 1942,
dưới sự vận động của ông Trần Văn Dĩnh, sau đó
được anh vợ là ông Nguyễn Bá Mưu và ông Tráng
Liệt[4] giới
thiệu, ông tham gia Đại Việt Phục
hưng Hội, một tổ chức chính trị ủng hộ
Hoàng thân Cường Để, do 3 anh em Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu lãnh
đạo, chủ trương liên kết với Đế quốc Nhật Bản để
gạt ảnh hưởng của Pháp tại Đông Dương.
Cuối năm 1942, ông đã có cuộc tiếp xúc đầu
tiên với cựu thượng thư Ngô Đình Diệm,
một lãnh đạo của Đại Việt Phục hưng Hội. Trong
hồi ký của mình, ông đã dành hẳn một phần dài
để kể về cuộc gặp gỡ ban đầu cũng như những
lần hoạt động chung với vị lãnh đạo này.[5]
Những hoạt động của Đại Việt Phục
hưng Hội dù rất bí mật nhưng vẫn bị mật thám
Pháp phát hiện. Đầu năm 1944, Sở Mật thám
Trung Kỳ tổ chức vây bắt các yếu nhân trong
Đại Việt Phục hưng Hội. Trừ Ngô Đình Diệm và
một số ít thành viên trốn thoát, hầu hết các
thành viên của Đại Việt Phục hưng Hội đều bị
bắt. Ông cũng mật thám Pháp bắt tại Huế, bị
giam ở lao
Thừa Phủ gần
2 tháng trước khi bị đày lên Di Linh, Lâm
Viên.[5]
Mãi đến khi Nhật đảo chính
Pháp ngày 9 tháng 3 năm
1945 ông mới được phóng thích. Ông trở về quê
cũ thăm gia đình trở lại Huế, sinh hoạt lại
với các đồng chí cũ trong Đại Việt Phục hưng
Hội dưới sự điều hành của ông Ngô Đình Khôi.
Sau đó, ông được cử vào Sài Gòn đón
ông Diệm vào cư trú ở Đà Lạt một
thời gian dưới sự bảo trợ của ông Trần Văn Lý, cựu Tuần vũ Hà Tĩnh,
một thành viên cũ trong Đại Việt Phục hưng
Hội, bấy giờ là Tổng đốc Lâm-Đồng-Bình-Ninh
trong chính phủ Trần Trọng Kim. Sau đó,
cũng nhờ sự bảo lãnh của ông Lý, ông được bổ
nhiệm làm Trưởng ty Võ phòng kiêm tư lệnh Bảo
an dưới quyền Tổng đốc Lâm-Đồng-Bình-Ninh.[5]
Tháng 8 năm 1945, Việt Minh giành
được chính quyền. Ông bị bắt giữ một thời gian
ngắn rồi được thả do từng hoạt động chống
Pháp. Khi quân Pháp nổ súng tái chiếm Đông
Dương, chính quyền Việt Minh tại Đà Lạt tổ
chức ra 2 Tiểu đoàn Vệ
Quốc Quân để
chống quân Pháp. Ông được giao chỉ huy một
Tiểu đoàn. Một Tiểu đoàn kia được giao cho
Nguyễn Lương, ngườiQuảng Ngãi, nguyên là thư ký Toà
sứ Đà Lạt. Một sĩ quan trẻ gốc hoàng tộc là Tôn Thất Đính cũng
phục vụ cùng với ông trong lực lượng Vệ Quốc
Quân Đà Lạt với vai trò chính trị viên Trung
đội, người về sau có vai trò quan trọng trong
sự nghiệp của ông. Trong hồi ký của mình ông
cũng mô tả những ấn tượng của mình khi lần đầu
được tiếp xúc với nhà cách mạng trẻ Võ Nguyên Giáp khi
ông Giáp dẫn đầu một phái đoàn quân chính lên
Đà Lạt để tham quan tình hình và cho những chỉ
thị cần thiết nhằm chuẩn bị chống lại cuộc tấn
công của quân Pháp lan rộng đến vùng Cao
Nguyên Trung phần.[6]
Năm 1946, ông chuyển sang phục Việt
binh đoàn Trung Việt, được thăng hàm Thiếu úy.
Tuy nhiên, với trang bị kém và thiếu
huấn luyện cũng như kinh nghiệm tác chiến, đơn
vị ông không thể ngăn cản sức tấn công của
liên quân Anh-Pháp-Nhật, dần phải triệt thoái
về Ninh
Thuận. Một thời gian sau, ông bỏ ngũ và
tìm cách trở về quê nhà.[7]
Ở quê nhà một thời gian, ông bị bắt
giam vì cho rằng có liên quan đến hoạt động
của người anh rể Nguyễn Bá Mưu chống lại chính
quyền Việt Minh. Tháng 6 năm 1947, ông cùng
một số tù nhân trốn thoát được. Ông tìm cách
bí mật về thăm nhà, sau đó vào Đồng Hới, bấy giờ đã nằm trong
quyền kiểm soát của quân Pháp.[8] Tuy
nhiên, một tài liệu khác lại cho rằng khi thời
gian trở về quê nhà, ông là Huyện đội trưởng
dân quân huyện Quảng Trạch, do thâm lạm của
Huyện đội nên bị giáng chức và chuyển sang làm
trưởng một trại giam ở huyện Tuyên Hóa. Năm
1947, một dịp về thăm nhà, ông bị ông Nguyễn
Rạng, người cùng làng, khi ấy là Bang tá huyện
Quảng Trạch, bắt giải về Đồng Hới.[2]
Tại Đồng Hới, ông được một đồng chí
cũ là ông Hoàng Văn Toản giới thiệu ra Huế gặp
ông Trần Văn Lý, thành viên cũ của
Đại Việt Phục hưng Hội, bấy giờ là Chủ tịch Hội
đồng chấp chánh lâm thời Trung phần. Ông
được ông Lý cử làm phụ trách một lớp huấn
luỵện quân sự và chính trị nhằm xây dựng một
đơn vị quân chính tương lai trong lực lượng Bảo
vệ Quân. Ngoài ra, ông còn cùng với một
số đồng chí ra tuần báo Tiếng Gọi, với lập
trường chống Cộng, chống thực dân đế quốc, ủng
hộ đường lối và cá nhân ông Ngô Đình Diệm. Do
những hoạt động này, ông 2 lần bị mật thám
Pháp bắt giam nhưng nhờ có sự can thiệp của
ông Lý nên đều được trả tự do.[9]
Việt
binh đoàn - Quân đội Quốc gia
Tháng 5 năm 1948, Chính
phủ Trung ương lâm thời Việt Nam do
tướng Nguyễn
Văn Xuân làm
Thủ tướng được thành lập. Ông Phan
Văn Giáo được
cử làm Quốc vụ khanh Trung Kỳ và ngay lập tức
tiến hành việc tổ chức và xây dựng lực lượng
quân đội người bản xứ tại miền Trung lấy tên
là Việt binh đoàn, với Thiếu tá Nguyễn Ngọc Lễ làm
Tư lệnh. Ông được thăng cấpTrung úy và
được cử làm Trưởng phòng 3 Việt binh đoàn ở
Huế, đặc trách tổ chức hành quân, huấn luyện
kiêm Chủ nhiệm tuần báo Tiếng Kèn. Cuối năm
đó, ông được thăng cấp Đại úy,
giữ chức Tham mưu phó Việt binh đoàn.
Tháng 2 năm 1951, ông được cử làm
Chỉ huy trưởng Việt binh đoàn Quảng Bình, đồn
trú tại tỉnh lỵ Đồng Hới. Thời gian này ông đã có
cuộc tiếp xúc đầu tiên với nhà sư Thích Trí Quang,
người về sau trở thành một trong những lãnh tụ
Phật giáo năm 1963, đã làm "rung động nước Mỹ"[10] Không
lâu sau, ông được cử đi học lớp chỉ huy chiến
thuật tại Trung tâm Huấn luyện chiến thuật Hà
Nội. Khi ông Trần Văn Lý được bổ nhiệm làm Thủ
hiến Trung phần, ông được cử làm Tham mưu
trưởng lực lượng Việt binh đoàn.[11] Khi
lực lượng Việt binh đoàn được sát nhập vào Quân đội Quốc
gia Việt Nam. Tháng 8 năm 1952, ông được
cử theo học lớp Tiểu đoàn trưởng và Liên đoàn
trưởng tại Trung tâm chiến thuật Hà Nội. Một
Trung úy trẻ học cùng lớp với ông tên là Nguyễn Văn Thiệu.
Sau khi mãn khoá, ông cùng với Trung úy Thiệu
và một Trung úy trẻ khác tên Cao
Văn Viên cùng
được cử về công tác tại Khu chiến Hưng Yên.
Ông được bổ nhiệm làm Tham mưu trưởng, Trung
úy Viên làm trưởng phòng Nhì và Trung úy Thiệu
làm trưởng phòng Ba. Cả 3 người được cấp phát
chung một căn phòng nhỏ để ở. Hồi ký của ông
kể: "Buổi
tối, lúc trở lại phòng để chuẩn bị đi ngủ,
Thiệu và tôi thường phân tích và luận bàn về
tình hình chính trị và chiến sự đến khuya.
Riêng Viên vốn tính ít nói nên chỉ thỉnh
thoảng góp ý kiến mà thôi."[12]
Giữa năm 1953, ông bị thuyên chuyển
về phục vụ tại Liên đoàn Lưu động số 3 do
Thiếu tá Phạm Văn Đỗng làm
Chỉ huy trưởng, đồn trú tại Nam Định.
Thời gian ở đây, ông thường viết bài hay sáng
tác thơ gởi về Sài Gòn, nhờ 2 đồng chí cũ là cho
ông Ngô Đình Nhu hoặc
ông Đỗ La Lam đăng vào báo Xã Hội. Theo hồi ký
của ông, chính ông Nhu đã vận động với Đại tá Trần Văn Đôn (Chỉ
huy An ninh Quân đội) và Đại tá Trần Văn Minh (Lục
quân), Tham mưu trưởng của tướng Nguyễn Văn Hinh để
ông được thuyên chuyển về Nha Trang với
tư cách là Đại diện Đặc biệt của Bộ Tư lệnh Đệ
Nhị Quân khu, dưới quyền Trung tá Nguyễn Ngọc
Lễ.[13] Cuối
năm đó, ông được thăng cấp Thiếu tá và
được cử giữ chức Chỉ huy trưởng Khu chiến Phan Rang.
Đầu năm 1954, ông được thuyên chuyển ra Hà Nội
học lớp Trung đoàn trưởng. Tại đây, ông làm
quen với 2 người bạn đồng khóa là Thiếu tá Lam Sơn và
Đại úy Nguyễn Chánh Thi.
Người thay thế ông tại Phan Rang chính là
Thiếu tá Nguyễn Văn Thiệu.[14]
Ủy
viên Quân ủy Trung ương Cần Lao
Ngày 16 tháng 6 năm
1954, Quốc trưởng Bảo Đại ký
sắc lệnh 38/QT bổ nhiệm cựu thượng thư Ngô
Đình Diệm làm Thủ tướng Quốc gia Việt Nam.
Ngày 20 tháng 7 năm
1954, Hiệp định Genève được ký kết, phân chia
2 vùng tập kết. Ngay trong cuối tháng 7, dù
chưa mãn khoá, ông cùng với các bạn đồng khoá
được di chuyển xuống Hải
Phòng sau
đó lên tàu di tản vào Sài Gòn để học tiếp cho
đến khi mãn khoá vào tháng 9. Sau đó ông được
thăng cấp Thiếu tá giữ
chức Chỉ huy trưởng Khu chiến Phan Rang Tháng
12 cùng năm, bàn giao Khu chiến Phan Rang lại
cho Thiếu tá Nguyễn Văn Thiệu. Qua đầu năm
1955, ông được thăng lên Trung tá và
được bổ nhiệm làm phó Tư lệnh phó Phân khu
Duyên Hải, dưới quyền Tư Đại tá Nguyễn Ngọc Lễ
làm Tư lệnh.
Từng hoạt động chống Pháp trong tổ
chức Đại Việt Phục
hưng Hội, ông nhiệt thành ủng hộ Thủ
tướng Ngô Đình Diệm nắm
quyền lãnh đạo quốc gia thay cho Quốc trưởng Bảo Đại. Do những vận động ủng hộ
Thủ tướng Diệm của ông trong các sĩ quan, ông
và Đại tá Lễ bị tướng Nguyễn Văn Hinh, Tổng
tham mưu trưởng Quốc gia Việt Nam ra lệnh cách
chức, phải trốn chạy vào trú ẩn trong phủ Thủ
tướng.[15]. Tuy
nhiên không lâu sau đó, dưới áp lực của người
Mỹ, tướng Hinh bị Quốc trưởng Bảo Đại triệu
hồi sang Pháp.
Giữa năm 1955, ông gia nhập đảng Cần Lao và
là Ủy viên Quân ủy Trung ương đảng.
Bị
thất sủng
Mặc dù vậy, những mâu thuẫn đầu tiên
giữa ông và lãnh tụ của mình bắt đầu xuất
hiện. Tháng 7 năm 1956, ông được lệnh bàn giao
Phân khu Duyên Hải lại cho Trung tá Nguyễn Văn
Vĩnh và thuyên chuyển về Sài Gòn đợi lệnh mới.
Tuy nhiên, đến mãi tháng 10 năm 1956, ông mới
được cử làm Tùy viên Quân sự cạnh Tòa Đại sứ
Việt Nam Cộng hòa tại Pháp. Ông rời Sài Gòn
ngày 25 tháng
10 năm
1956, chỉ 1 ngày trước lễ thành lập chính thể
Việt Nam Cộng hòa.[16] Và
không như nhiều sĩ quan Quân đội Quốc
gia Việt Nam ở
lại phục vụ cho Quân đội Việt Nam Cộng hòa được
thăng một cấp, ông vẫn giữ nguyên cấp bậc
Trung tá.
Tại Pháp, do quá khứ chống Pháp, ông
không được chính phủ Pháp công nhận tư cách
Tùy viên Quân sự. Tình huống trớ trêu này kéo
dài mãi đến giữa tháng 10 năm 1957, ông mới
được triệu hồi về nước. Đầu năm 1958, ông được
bổ nhiệm vào giữ chức Giám đốc Nha An ninh
Quân đội[17] Qua
năm 1959, ông được thăng cấp Đại tá nhiệm
chức. Giữ vai trò chỉ huy ngành An ninh Quân
đội, với nhiệm vụ theo dõi tinh thần và hoạt
động các sĩ quan quân đội, ông thường xuyên
gặp phải sự dè dặt của các tướng lãnh, nhất là
khi ông từng được biết như là một cán bộ tín
cẩn của Tổng thống Diệm, thường xuyên làm việc
trực tiếp với Bộ trưởng Quốc phòng, thậm chí,
trình báo trực tiếp với Tổng thống.[3] Tuy
nhiên, trong hồi ký của mình, ông nhiều lần đề
cập vị trí tế nhị của mình, khi thường xuyên
bị cố vấn Ngô Đình Nhu lợi dụng[18] hoặc
bị các bộ phận khác qua mặt, điển hình là vụ Đoàn
công tác đặc biệt miền Trung bắt
giữ một thuộc cấp thân tín dưới quyền ông là
Chuẩn úy Lê Hữu Thúy,[19] người
về sau ông mới biết đấy là một tình báo viên
cao cấp của đối phương.
Khi cuộc đảo chính Việt
Nam Cộng hòa 1960 nổ
ra, ông bị bắt giữ bởi lực lượng đảo chính do
Đại tá Nguyễn Chánh Thi cầm
đầu, cho tới trưa ngày hôm sau được toán cảm
tử của Nha An ninh Quân đội giải thoát.[20] Sau
khi cuộc đảo chính thất bại, ông được giao
điều tra vụ "phản loạn Nhảy Dù". Năm 1961, ông
là thành viên phái đoàn công du Đài Loan do
tướng Nguyễn Khánh cầm đầu. Đầu tháng 4 năm
1963, ông dẫn đầu phái đoàn công du Mỹ quốc
theo lời mời của phái bộ quân sự Hoa Kỳ tại
Sài Gòn.[3]
Hết
đảo chính lại long đong
Ngày 1 tháng 11 năm 1963, ông nằm
trong nhóm sĩ quan cầm đầu cuộc cuộc đảo chính
Chính quyền Tổng thống Diệm. Cuộc đảo chính
thành công, ngày 2 tháng 11 ông được vinh
thăngThiếu tướng và
được giữ chức Ủy viên Chiến tranh Chính trị
trong Hội đồng Quân nhân Cách mạng do Trung
tướng Dương Văn Minh làm
Chủ tịch.
Đầu năm 1964, ông được cử làm Tổng
trưởng Thông tin trong nội các Thủ tướng lâm
thời Nguyễn Ngọc Thơ.
Ngày 30 tháng 1, tham gia cuộc chỉnh lý nội bộ
do Trung tướng Nguyễn Khánhcầm đầu. Ngày 8
tháng, ông được cử làm Đệ tam phó Thủ tướng
đặc trách Văn hóa Xã hội. Thời gian này ông
làm Trưởng đoàn hướng dẫn các phái đoàn đi
công du các nước Hàn Quốc, Thái Lan và Mã lai.
Cuối năm, ông bị tướng Khánh ra lệnh bắt giữ
và quản thúc tại Pleiku 3 tháng, cùng đợt với
các Trung tướng: Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính,
Mai Hữu Xuân, Lê Văn Kim và Nguyễn Văn Vỹ.
Hạ tuần tháng 3 năm 1965, ông bị
buộc phải giải ngũ với lý do đã phục vụ quân
đội trên 20 năm.
Hoạt
động chính trị và lưu vong
Sau 2 năm an dưỡng không quan tâm
đến chính trường, năm 1967, ông nhận lời ông Nguyễn Xuân Chữ tham
gia và được bầu là Đệ nhất Phó chủ tịch Lực
lượng Dân tộc Việt, một tổ chức chính trị đối
lập hoạt động trong chính trường Việt Nam Cộng
hòa.[19] Tuy
nhiên, các động chính trị không để lại tác
động đáng kể.
Ngày 29 tháng 4, ông cùng gia đình
di tản sang Thái Lan,
sau đó định cư tại California, Hoa Kỳ. Năm
1986, ông cho xuất bản lần đầu tiên tập hồi ký
"Việt Nam máu lửa quê hương tôi" gây nhiều
tranh cãi. Bản in ở Việt Nam có tựa đề "Tâm sự
tướng lưu vong" bị cắt xén khá nhiều.
Ông có về thăm quê hương vào năm
2000.
Ngày 11 tháng 4 năm 2002, ông từ
trần tại nơi định cư. Thọ 85 tuổi.
Gia
đình
Ông lập gia đình với bà Nguyễn Thị
Hải thời gian ông phục vụ tại Tòa Khâm sứ Pháp
ở Huế. Ông bà
có 10 người con gồm 6 trai, 4 gái.
Bà Hải là em ruột ông Nguyễn Bá Mưu,
cựu Phán sự ở Tòa Khâm sứ Huế, thân phụ của Chuẩn tướng Thủy
quân Lục chiến Nguyễn Bá Liên.
Chị cả của bà Hải và ông Mưu là mẹ ruột của
các thi sĩ Lưu
Kỳ Linh và Lưu Trọng Lư.
Một người cháu khác của ông là Đại
úy Đỗ Thọ, sĩ quan tùy viên của Tổng thống Ngô
Đình Diệm.
Tác phẩm
- Việt Nam
máu lửa quê hương tôi, Nhà Xuất bản
Hương Quê ấn hành lần đầu tiên vào mùa thu
năm 1986 tại miền Nam California, Hoa Kỳ.
Bản in ở Việt Nam có tựa đề Tâm
sự tướng lưu vong bị
cắt xén khá nhiều.
- Nguồn:
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%97_M%E1%BA%AD