Khái Hưng
Khái Hưng (1896 - 1947)
là một nhà văn Việt
Nam nổi tiếng. Cùng với Nhất Linh,
ông là cây bút chính của Tự Lực Văn Đoàn.
Tiểu sử
Khái Hưng tên
thật là Trần
Khánh Giư. Bút danh Khái Hưng của ông
được ghép từ các chữ cái của tên Khánh Giư.
Ông sinh năm 1896,
xuất thân trong một gia đình quan lại ở xã Cổ
Am, huyện Vĩnh Bảo, Hải Dương, nay thuộc Hải
Phòng. Một số tài liệu ghi ông sinh năm 1897.[1]. Cha ông
giữ chức Tuần phủ. Cha vợ ông là Lê Văn Đinh
cũng giữ chức Tổng đốc Bắc Ninh. Em ruột ông
là nhà văn Trần
Tiêu.
Khái Hưng đi học ở trường Albert
Sarraut. Sau khi đỗ tú tài I,
vì không muốn làm công chức, ông về Ninh Giang mở
đại lý bán dầu hỏa. Được một thời gian Khái
Hưng lên Hà Nội dạy
ở trường Tư thục Thăng Long. Trong khoảng thời
gian 1930 đến 1932,
Nhất Linh từ Pháp về
nước và cũng dạy tại trường này. Khái Hưng đã
quen Nhất Linh ở đó và họ trở thành một cặp
tác giả nổi tiếng. Tuy Khái Hưng hơn Nhất Linh
9 tuổi nhưng là người bước vào văn đàn sau nên
được gọi Nhị
Linh.
Khái Hưng tham gia Tự Lực Văn Đoàn do
Nhất Linh thành lập. Văn đoàn này bắt đầu xuất
hiện công khai từ 1932,
và đến đầu năm 1933 thì
tuyên bố chính thức thành lập với ba thành
viên trụ cột là Nhất Linh, Khái Hưng và Hoàng Đạo.
Cùng thời gian đó, Tự Lực Văn Đoàn
ra tờ báo Phong
Hóa. Về sau khi Phong Hóa bị đóng
cửa thì tờ Ngày Nay thay
thế. Cùng với báo, Tự Lực Văn Đoàn còn có nhà
xuất bản Đời Nay. Toàn bộ tác phẩm của Khái
Hưng đều do Ngày Nay và Đời Nay công bố.
Là một trong những cây bút chính của
nhóm, tiểu thuyết đầu tay của Khái Hưng Hồn
bướm mơ tiên (1933)
là tiểu thuyết đầu tiên của Tự Lực Văn Đoàn.
Tiểu thuyết cuối cùng của ông làThanh Đức (1943)
và cũng là tiểu thuyết cuối cùng của nhóm.
Khái Hưng cũng viết chung với Nhất Linh hai
tiểu thuyết là Gánh
hàng hoa và Đời
mưa gió và
ra đời chung tập truyện ngắnAnh phải sống cùng
năm 1934.
Giống như các tiểu thuyết Tự Lực Văn
Đoàn khác, tác phẩm của Khái Hưng thường đề
cao tình yêu tự do, chống lại các lễ giáo phong
kiến, ít nhiều mang tính cải cách xã
hội. Khái Hưng cũng có viết một số vở kịch,
thường chỉ một hồi, nhưng ít được công diễn.
Trong những năm 1935 đến 1940,
Khái Hưng là nhà văn được nhiều thanh niên
thành thị ưa chuộng. Khái Hưng cùng là một
dịch giả. Bài Tình
tuyệt vọng ông
dịch từ thơ của Félix
Arvers rất
nổi tiếng.
- Lòng
ta chôn một khối tình
- Tình
trong giây phút mà thành thiên thu
- Tình
tuyệt vọng, nỗi thảm sầu
- Mà
người gieo thảm như hầu không hay
Trong thời gian Đệ nhị thế chiến,
giống như Nhất Linh, Khái Hưng cũng tham gia
hoạt động chính trị. Do tham gia Đại
Việt dân chính Đảng thân
Nhật nên Khái Hưng từng bị chính quyền thực
dân Pháp bắt giam. Sau ngày Nhật đảo chính
Pháp tháng 3 năm 1945,
Khái Hưng được trả tự do. Ông cùng Hoàng Đạo, Nguyễn Tường Bách cho
ra tờ Ngày
Nay Kỷ Nguyên Mới.
Sau Cách mạng tháng
Tám, Khái Hưng có viết một loạt bài báo,
truyện ngắn, kịch ngắn trên các báo của Việt Nam Quốc
dân Đảng.
Khái Hưng mất năm 1947.
Một số tài liệu cho rằng Khái Hưng bị Việt Minh bắt
giam tại Liên Khu 3 (Lạc
Quần, Trực Ninh)
rồi đem xử tử hình ở bến đò Cựa Gà, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định.[2] Theo
ông Nguyễn Tường Triệu, con nuôi Khái Hưng,
tiết lộ Khái Hưng mất tích sau Tết Ðinh Hợi
(22/1/1947).[2]
Tác phẩm
Tiểu thuyết
- Hồn
bướm mơ tiên (1933).
- Đời
mưa gió (cùng Nhất Linh, 1933).
- Nửa
chừng xuân (1934)
- Gánh
hàng hoa (cùng Nhất Linh, 1934).
- Trống
mái (1936).
- Gia
đình (1936).
|
- Tiêu
sơn tráng sĩ (1937).
- Thoát
ly (1938).
- Hạnh
(1938).
- Đẹp
(1940).
- Thanh
Đức (1942).
- Băn
khoăn
|
Tập
truyện ngắn
- Anh phải
sống (cùng Nhất Linh, 1934).
- Tiếng suối
reo (1935).
- Đợi chờ
(1940).
- Cái ve
(1944).
Cuốn tiểu thuyết quen thuộc nhất của
Khái Hưng là cuốn Nửa chừng xuân. Theo quan
điểm mácxít trên Từ điển văn học:
“ |
Là một tiểu
thuyết luận đề tuyên truyền với lễ
giáo phong kiến đòi quyền tự do yêu
đương và hạnh phúc cá nhân, Nửa chừng
xuân có ý nghĩa tiến bộ nhất
định...Mặc dù vậy, đặt trong hoàn cảnh
xã hội Việt Nam hết sức đen tối đương
thời, Nửa chừng xuân cũng như tiểu
thuyết Tự lực văn đoàn nói chung có
ảnh hưởng tiêu cực nặng nề: đưa ra con
đường đấu tranh cho tình yêu hạnh phúc
cá nhân, chống lễ giáo phong kiến,
song lẩn tránh nhiệm vụ đấu tranh
chống thực dân thống trị giải phóng
dân tộc. Do đó, muốn hay không Khái
Hưng và nhóm Tự
lực văn đoàn đã
làm lạc hướng đấu tranh của thanh
niên. Dường như cũng cảm thấy điều đó,
Khái Hưng đã thêm chương cuối cùng khi
in thành sách, để cho nhân vật Lộc nói
đến "xã hội, nhân loại" và tuyên bố
"dấn thân vào cuộc đời gió bụi". Những
lời lẽ trống rỗng đó không chút phù
hợp với bản chất tính cách nhân vật
tầm thường này, có chẳng chỉ để xoa
dịu lương tâm chàng thanh niên tiểu tư
sản mà thôi. Cái "tôi" cá nhân chủ
nghĩa tư sản lúc này chưa dám buông
tuồng trắng trợn, cũng như cuộc đấu
tranh chống lễ giáo phong kiến của nó
tuy gay gắt song chưa dám đi tới
cùng...[3] |