Chức vụ
|
Tư lệnh Sư đoàn Nhảy Dù
|
Nhiệm kỳ |
11/1972 – 4/1975 |
Cấp bậc |
-Chuẩn
tướng (8/1972) |
Tiền nhiệm |
-Trung
tướng Dư Quốc
Đống |
Kế nhiệm |
Sau cùng |
Vị trí |
Biệt khu
Thủ đô |
Tư lệnh phó
Tham mưu trưởng |
-Đại tá
Trương Vĩnh Phước
-Đại tá Văn Bá Ninh |
Tư lệnh phó kiêm Xử lý Thường vụ
Tư lệnh Sư đoàn Nhảy dù
|
Nhiệm kỳ |
15/9/1972 – 1/11/1972 |
Cấp bậc |
-Chuẩn
tướng |
Vị trí |
Biệt khu
Thủ đô |
Tư lệnh |
-Trung
tướng Dư Quốc
Đống |
Phụ tá Tư lệnh Sư đoàn Nhảy dù
|
Nhiệm kỳ |
1/9/1972 – 15/9/1972 |
Cấp bậc |
-Đại tá |
Vị trí |
Biệt khu
Thủ đô |
Tư lệnh |
-Trung
tướng Dư Quốc
Đống |
Chiến đoàn trưởng Chiến đoàn 1 Nhảy dù
Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 1 Nhảy dù
|
Nhiệm kỳ |
11/1967 – 11/1972 |
Cấp bậc |
-Thiếu tá
(6/1966)
-Trung tá (11/1968)
-Đại tá (6/1970) |
Tiền nhiệm |
-Trung tá Hồ Trung
Hậu |
Kế nhiệm |
-Đại tá
Lê Văn Ngọc |
Vị trí |
Biệt khu
Thủ đô |
Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2 Nhảy dù
tân lập
|
Nhiệm kỳ |
9/1965 – 11/1967 |
Cấp bậc |
-Đại úy
(11/1963)
-Thiếu tá |
Tiền nhiệm |
Đầu tiên |
Kế nhiệm |
-Thiếu tá
Trần Kim Thạch |
Vị trí |
Biệt khu
Thủ đô |
Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 5 Nhảy dù
|
Nhiệm kỳ |
11/1963 – 9/1965 |
Cấp bậc |
-Đại úy
(11/1963) |
Vị trí |
Biệt khu
Thủ đô |
Thông tin cá nhân
|
Quốc tịch |
Hoa Kỳ
Việt Nam
Cộng hòa |
Sinh |
Tháng 8
năm 1932
Bình Dương, Liên bang
Đông Dương |
Mất |
21 tháng
9 năm 2005 (73 tuổi)
California, Hoa Kỳ |
Nguyên nhân mất |
Tuổi già |
Nơi ở |
California,
Hoa Kỳ |
Nghề nghiệp |
Quân nhân |
Dân tộc |
Kinh |
Vợ |
Võ Thị
Kim |
Họ hàng |
-Em trai:
Lê Quang Minh và Lê Quang Phước
-Em gái: Lê Thị Ngà, Lê Thị Nguyệt và Lê
Thị Kiều |
Con cái |
7 người
con (1 trai, 6 gái)
-Con trai: Lê Quang Đức
-Con gái: Lê Thị Ngọc Mỹ, Lê thị Ngọc
Dung, Lê Thị Ngọc Mai, Lê Thị Ngọc Châu,
Lê Thị Ngọc Ánh và Lê Thị Ngọc Thu |
Học vấn |
Tú tài
bán phần |
Alma mater |
-Trường
Trung học Tư thục Huỳnh Khương Ninh, Sài
Gòn
-Trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức |
Quê quán |
Nam Kỳ |
Phục vụ trong
quân đội
|
Thuộc |
Quân lực
Việt Nam Cộng hòa |
Phục vụ |
Việt Nam
Cộng hòa |
Năm tại ngũ |
1953-1975 |
Cấp bậc |
Chuẩn
tướng |
Đơn vị |
Binh chủng
Nhảy Dù |
Chỉ huy |
Quân đội
Quốc gia
Quân lực
Việt Nam Cộng hòa |
Tham chiến |
Chiến
tranh Việt Nam |
Tặng thưởng |
B.quốc
H.chương IV
B.quốc
H.chương V |
Lê Quang
Lưỡng (1932-2005),
nguyên là một tướng lĩnh Nhảy dù của Quân lực Việt Nam Cộng hòa,
cấp bậc Chuẩn tướng.
Ông xuất thân từ những khóa đầu tiên tại
trường Sĩ quan Trừ bị do Quân đội Pháp và
Chính phủ Quốc gia Việt Nam mở ra ở miền Nam
Việt Nam. Ra trường, ông được tuyển vào đơn vị
Nhảy dù và đã phục vụ Binh chủng này trong
suốt thời gian tại ngũ của mình. Ông cũng là
vị Tư lệnh cuối cùng của Sư đoàn Nhảy dù
(1972-1975).
Ông sinh vào
tháng 8 năm 1932 trong một gia đình khá giả
tại tỉnh Thủ Dầu Một (sau
đổi thành Bình Dương), miền Đông Nam
phần Việt Nam. Thiếu thời, ông học Tiểu học ở
Thủ Dầu Một. Khi lên Trung học, ông được gia
đình gửi về Sài Gòn học ở trường Trung học Tư
thục Huỳnh Khương Ninh, tốt nghiệp với văn
bằng Tú tài bán phần (Part I).
Quân
đội Quốc gia Việt Nam
Tháng 11 năm
1953, thi hành lệnh động viên ông nhập ngũ vào
Quân đội Quốc gia mang số quân: 52/182.618.
Theo học khóa 4 Cương Quyết tại trường Sĩ quan
Trừ bị Thủ Đức, khai giảng ngày 17 tháng 11
năm 1953. Ngày 1 tháng 6 năm 1954 mãn khóa tốt
nghiệp với cấp bậc Thiếu úy. Ra
trường, ông tình nguyện gia nhập vào đơn vị
Nhảy dù. Ngay sau đó, theo học khóa huấn luyện
căn bản Binh chủng tại Trung tâm Huấn luyện
Nhảy dù ở Bà Quẹo, Tân Sơn Nhứt, Gia Định. Đến
ngày 18 tháng 6 năm 1954 mãn khóa. Đầu tháng 7
ra đơn vị làm Trung đội trưởng thuộc Tiểu đoàn
5 Nhảy dù đồn trú tại Bưởi cạnh Hồ tây và Đền
Quán Thánh, Hà Nội. Sau Hiệp định Genève (ký
kết ngày 20 tháng 7 năm 1954), ông theo đơn vị
vào Nam bằng đường không vận từ Hà Nội đến Đà
Nẵng. Tháng 10, từ Đà Nẵng Tiểu đoàn 5 di
chuyển bằng hỏa xa vào đồn trú tại Đồng Đế,
Nha Trang.
Tháng 3 năm
1955, Tiểu đoàn được lệnh từ Nha Trang bằng
hỏa xa chuyển quân về Sài Gòn-Chợ Lớn, hành
quân truy kích Lực lượng Bình Xuyên của Thiếu
tướng Lê Văn Viễn (tự
Bảy Viễn) ra khỏi khu vực Đô thành.
Ngày 1 tháng 6
năm 1956, sáu tháng sau thời điểm Quân đội
Quốc gia đổi tên thành Quân đội Việt Nam Cộng
hòa, ông được thăng cấp Trung úy và
được cử làm Đại đội trưởng Đại đội 1 của Tiểu
đoàn 5 Nhảy dù. Đến cuối năm 1960, ông được
chuyển nhiệm vụ lên Bộ chỉ huy Tiểu đoàn giữ
chức vụ Trưởng ban 3, Đặc trách Kế hoạch Hành
quân.
Đầu tháng 11
năm 1963, sau cuộc đảo chính Tổng thống Ngô
Đình Diệm (ngày 1 tháng 11). Ngày 3 tháng 11
ông được thăng cấp Đại úy và
giữ chức vụ Tiểu đoàn phó. tháng 2 năm 1964,
sau cuộc Chỉnh lý ngày 30 tháng 1,
ông được cử theo học khóa Tiểu đoàn trưởng,
tốt nghiệp Thủ khoa, mãn khóa trở về đơn vị
giữ chức vụ cũ. Đầu tháng 9 năm 1965, ông nhận
lệnh thành lập Tiểu đoàn 2 Nhảy dù,[1] đồng
thời được chỉ định làm Tiểu đoàn trưởng đầu
tiên của đơn vị này.
Ngày Quân lực
19 tháng 6 năm 1966, ông được thăng cấp Thiếu tá và
được cử tháp tùng phái đoàn trong Bộ Tổng tham
mưu đi du hành tham quan Okinawa, Nhật Bản.
Ngày Quốc khánh Đệ Nhị Cộng hòa 1 tháng 11 năm
1967, ông được chỉ định làm Chiến đoàn trưởng
Chiến đoàn 1 Nhảy dù thay thế Trung tá Hồ Trung Hậu.
Đầu tháng 1
năm 1968, Chiến đoàn 1 Nhảy dù được đổi tên
thành Lữ đoàn 1 Nhảy dù, ông là Lữ đoàn
trưởng. Ngày Quốc khánh 1 tháng 11 năm 1968,
ông được thăng cấp Trung tá tại
nhiệm. Ngày Quân lực 19 tháng 6 năm 1970, ông
được thăng cấp Đại tá tại
nhiệm. Trong chiến dịch Lam Sơn 719, ông chỉ
huy Lữ đoàn hành quân sang Hạ Lào từ đầu tháng
2 đến đầu tháng 4 năm 1971.
Sau trận chiến
"Mùa hè đỏ lửa" năm 1972, từ tháng 6 đến tháng
7, ông chỉ huy các đơn vị trực thuộc Lữ đoàn
tái chiếm Quảng trị. Hạ tuần tháng 8 cùng năm,
ông được lệnh bàn giao Lữ đoàn 1 Nhảy dù lại
cho Đại tá Lê Văn Ngọc.[2] Ngay
sau đó ông được thăng cấp Chuẩn tướng.
Đầu tháng 9, ông được cử làm Phụ tá hành quân
cho Tư lệnh Sư đoàn. Đến giữa tháng 9, ông
được chỉ định vào chức vụ Tư lệnh phó Sư đoàn
Nhảy dù, đồng thời nhận trách nhiệm Xử lý
Thường vụ chức vụ Tư lệnh khi đương nhiệm Tư
lệnh Sư đoàn bị lâm bệnh.
Ngày lễ Quốc
khánh 1 tháng 11 năm 1972, ông được bổ nhiệm
chính thức chức vụ Tư lệnh Sư đoàn Nhảy dù
thay thế Trung tướng Dư Quốc Đống.
- Sư đoàn
Nhảy dù vào thời điểm cuối cùng của tháng
3, tháng 4 năm 1975, nhân sự trong Bộ tư
lệnh Sư đoàn và chỉ huy các Lữ đoàn được
phân bổ trách nhiệm như sau:
-Tư lệnh -
Chuẩn tướng Lê Quang Lưỡng
-Tư lệnh phó - Đại tá Trương Vĩnh
Phước[3]
-Tham mưu trưởng - Đại tá Văn Bá Ninh[4]
-Chỉ huy Pháo binh - Đại tá Nguyễn Văn Tường[5]
-Lữ đoàn 1 - Trung tá Nguyễn Văn Đỉnh[6]
-Lữ đoàn 2 - Đại tá Nguyễn Thu Lương[7]
-Lữ đoàn 3 - Trung tá Trần Đăng Khôi[8]
-Lữ đoàn 4 - Trung tá Lê Minh Ngọc[9]
Ngày 25 tháng
6 năm 1973, ông được cử trách nhiệm hướng dẫn
phái đoàn gồm 35 chiến sĩ xuất sắc đi tham
quan tại Trung hoa Quốc gia (Đài Loan).
Tháng 9 năm
1974, ông chỉ huy 2 Lữ đoàn 1 và 3 hành quân
tái chiếm Chi khu (Quận) Thượng Đức thuộc Tiểu
khu (Tỉnh) Quảng Nam, cách Đà Nẵng khoảng 60
cây số về hướng tây nam đã bị đối phương chiếm
vào lúc 8 giờ 30 sáng ngày 7 tháng 8 năm 1974.
- -Tái chiếm lần thứ nhất vào ngày
19 tháng 9
-Tái chiếm lần thứ hai vào ngày 11 tháng 11
sau 3 ngày phản công. Đến cuối năm, ông cùng
đơn vị rút ra khỏi Thượng Đức và chỉ lưu lại
2 Tiểu đoàn 1 và 7 để ngăn chặn địch tái
chiếm.
Những ngày
cuối tháng 4, ông cùng gia đình di tản ra khỏi
Việt Nam. Sau đó định cư tại Bakerfield, Tiểu
bang California, Hoa Kỳ.
Ngày 21 tháng
9 năm 2005, ông từ trần tại nơi định cư. Hưởng
thọ 73 tuổi.
-Bảo quốc Huân
chương đệ tứ và đệ ngũ đẳng (ân thưởng)
-Anh dũng Bội tinh với
nhành Dương liễu
-Chiến thương Bội tinh.
- Bào đệ: Các
ông Lê Quang Minh[10] và
Lê Quang Phước
- Bào muội:
Các bà: Lê Thị Ngà, Lê Thị Nguyệt và Lê Thị
Kiều
- Phu nhân: Bà
Võ Thị Kim (1933-2009)
- Các con: Lê
Thị Ngọc Mỹ, Lê Thị Ngọc Dung, Lê Thị Ngọc
Mai, Lê Quang Đức, Lê Thị Ngọc Châu, Lê Thị
Ngọc Ánh và Lê Thị Ngọc Thu.
- ^ Tiểu đoàn 2 Nhảy
dù được thành lập ngày 1/9/1965 tại Sài
Gòn. Sau 12 tuần thụ huấn bổ túc tại
Trung tâm Huấn luyện Quốc gia Vạn Kiếp
(Phước Tuy), tiểu đoàn đi vào hoạt động
đặt dưới quyền điều động của Lữ đoàn 2
Nhảy dù. Hậu cứ được đặt ở xã Tân Sơn
Nhì, Bà Quẹo, Gia Định.
Từ ngày thành lập đến ngày 30/4/1975,
Tiểu đoàn 2 Nhảy dù trải qua các Chỉ
huy sau đây:
-Đại úy Lê Quang Lưỡng, chỉ huy từ
1/9/1965 đến 20/12/1967.
-Thiếu tá Trần Kim
Thạch (Tốt
nghiệp Võ khoa Thủ Đức, về sau mang
cấp Trung tá), chỉ huy từ
21/12/1967 đến 20/3/1871.
-Thiếu tá Lê Văn
Mạnh (Tốt
nghiệp Võ khoa Thủ Đức, về sau mang
cấp Đại tá), chỉ huy từ 21/3/1971
đến 1/5/1872.
-Trung tá Ngô Lê
Tĩnh (Tốt
nghiệp trường Võ khoa Thủ Đức K4p (tức
khóa 10B Trừ bị Đà lạt), chỉ huy
từ 2/5/1972 đến 19/11/1972.
-Thiếu tá Nguyễn
Đình Ngọc (Tốt
nghiệp trường Võ bị Đà Lat K19. Sau
cùng là Trung tá Lữ đoàn phó Lữ đoàn 4
Nhảy dù), chỉ huy từ 20/11/1972
đến 1/12/1974.
-Thiếu tá Trần Công
Hạnh (Tốt
nghiệp trường Võ bị Đà Lạt K20),
chỉ huy từ 2/12/1974 đến 30/4/1975.
- ^ Đại tá Lê Văn
Ngọc sinh năm 1935 tại Khánh Hòa, tốt
nghiệp khóa 5 Sĩ quan Thủ Đức. Sau cùng
là Tỉnh trưởng Quảng Ngãi
- ^ Đại tá Trương
Vĩnh Phước sinh năm 1928 tại Sài Gòn,
tốt nghiệp khóa 4 Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức
- ^ Đại tá Văn Bá
Ninh sinh năm 1933 tại Cần Thơ, tốt
nghiệp khóa 4 Võ bị Đà Lạt
- ^ Đại tá Nguyễn Văn
Tường sinh năm 1933 tại Thủ Dầu Một, tốt
nghiệp khóa 4 Võ khoa Thủ Đức
- ^ Trung tá Nguyễn
Văn Đỉnh sinh năm 1938 tại Bắc Giang,
tốt nghiệp khóa 15 Võ bị Đà Lạt
- ^ Đại tá Nguyễn Thu
Lương sinh năm 1934 tại Hà Đông, tốt
nghiệp khóa 4 Sĩ quan Thủ Đức
- ^ Trung tá Trần
Đăng Khôi sinh năm 1938 tại Nam Định,
tốt nghiệp khóa 16 Võ bị Đà Lạt
- ^ Trung tá Lê Minh
Ngọc sinh năm 1939, tốt nghiệp khóa 16
Võ bị Đà Lạt
- ^ Ông Lê Quang Minh
sinh năm 1940 tại Thủ Dầu Một, tốt
nghiệp khóa 10 Sĩ quan Thủ Đức. Nguyên
Trung tá Quận trưởng quận Thạnh Phú,
tỉnh Kiến Hòa)
- Trần Ngọc
Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy (2011). Lược
sử Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
- Nguồn:https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%AA_Quang_L%C6%B0%E1%BB%A1ng