Tiểu sử Nhà bác học Lê Quý Đôn
Lê Quý Đôn nguyên
là Lê Danh Phương, tự Doãn Hậu, hiệu Quế Đường, sinh
ngày 2-8-1726
Ngay từ nhỏ ông đã nổi tiếng thông minh, chăm học.
Năm 14 tuổi, Lê Quý Đôn theo cha lên học ở kinh đô
Thăng Long. Lúc ấy cậu bé 14 tuổi đã học xong toàn
bộ sách kinh, sử của Nho gia. 18 tuổi, Lê Quý Đôn
thi Hương đỗ Giải nguyên. 27 tuổi đỗ Hội nguyên, rồi
đỗ Đình Nguyên Bảng nhãn.
Sau
khi đã đỗ đạt, Lê Quý Đôn được bổ làm quan và từng
giữ nhiều chức vụ quan trọng của triều Lê - Trịnh,
như: Hàn lâm thừa chỉ sung Toản tu quốc sử quán (năm
1754), Hàn lâm viện thị giảng (năm 1757), Đốc đồng
xứ Kinh Bắc (năm 1764), Thị thư kiêm Tư nghiệp Quốc
tử Giám (năm 1767), Tán lý quân vụ, Thị phó đô ngự
sử (năm 1768), Công bộ hữu thị lang (năm 1769), Bồi
tụng (Phó thủ tướng) (năm 1773), Lại bộ tả thị lang
kiêm Tổng tài quốc sử quán (năm 1775), Hiệp trấn
tham tán quân cơ Trấn phủ Thuận Hóa (năm 1776), Hiệp
trấn Nghệ An (năm 1783), Công bộ thượng thư (năm
1784)...
Lê Quý Đôn mất
ngày 1-5-1784 tại quê mẹ, làng Nguyên Xá, huyện Duy
Tiên (nay thuộc Hà Nam). Thi hài ông được đưa về mai
táng ở quê nhà.Trong cuộc đời làm quan của Lê Quý
Đôn, có mấy sự kiện sau có ảnh hưởng lớn đối với sự
nghiệp trước, văn chương của ông.
Đó là
chuyện đi sứ Trung Quốc năm 1760 - 1762. Tại Yên
Kinh (Bắc Kinh), Lê Quý Đôn gặp gỡ các sứ thần Triều
Tiên, tiếp xúc với nhiều trí thức nổi tiếng của nhà
Thanh, bàn luận với họ những vấn đề sử học, triết
học...
Học vấn sâu rộng của ông được các học giả Trung
Quốc, Triều Tiên rất khâm phục. Lê Quý Đôn có dịp
đọc nhiều sách mới lạ, kể cả sách của người phương
Tây nói về địa lý thế giới, về ngôn ngữ học, thủy
văn học... Đó là các đợt Lê Quý Đôn đi công cán ở
các vùng Sơn Nam, Tuyên Quang, Lạng Sơn những năm
1772, 1774, làm nhiệm vụ điều tra nỗi khổ của nhân
dân cùng tệ tham nhũng, ăn hối lộ của quan lại, khám
đạc ruộng đất các vùng ven biển bị địa chủ, cường
hào địa phương man khai, trốn thuế...
Chính nhờ quá trình đi nhiều, thấy nhiều, nghe
nhiều, biết nhiều việc đời như vậy mà kiến thức Lê
Quý Đôn trở nên phong phú vô cùng. Ông viết trong
lời tựa sách Kiến văn tiểu lục: "Tôi vốn là người
nông cạn, lúc còn bé thích chứa sách, lúc trưởng
thành ra làm quan, xem lại sách đã chứa trong tủ,
vâng theo lời dạy của cha, lại được giao du nhiều
với các bậc hiền sĩ đại phu. Thêm vào đấy phụng mệnh
làm việc công, bốn phương rong ruổi: mặt bắc sang sứ
Trung Quốc, mặt tây bình định Trấn Ninh, mặt nam
trấn thủ Thuận Quảng (Thuận Hóa, Quảng Nam). Đi tới
đâu cũng để ý tìm tòi, làm việc gì mắt thấy tai nghe
đều dùng bút ghi chép, lại phụ thêm lời bình luận sơ
qua, giao cho tiểu đồng đựng vào túi sách".
Ngoài đầu
óc thông tuệ đặc biệt cộng với vốn sống lịch lãm và
một nghị lực làm việc phi thường, phải kể đến thời
đại mà Lê Quý Đôn sống. Và ông là đứa con đẻ, là sản
phẩm của thời đại ấy kết tinh lại.
Lê Quý
Đôn sống ở thế kỷ thứ 18 thời kỳ xã hội Việt Nam có
nhiều biến động lớn. Trong lòng xã hội Việt Nam đầy
mâu thuẫn khi ấy đang nảy sinh những mầm mống mới
của thời kỳ kinh tế hàng hóa, thị trường trong nước
mở rộng, thủ công nghiệp và thương nghiệp có cơ hội
phát triển... Tình hình đó đã tác động mạnh mẽ tới
đời sống văn hóa, tư tưởng, khoa học.
Ở thế kỷ 18, xuất hiện nhiều tên tuổi rực rỡ như
Đoàn Thị Điểm, Ngô Thì Sĩ, Nguyễn Gia Thiều, Đặng
Trần Côn, Lê Hữu Trác... Đồng thời các tri thức văn
hóa, khoa học của dân tộc được tích lũy hàng ngàn
năm tới nay đã ở vào giai đoạn súc tích, tiến đến
trình độ phải hệ thống, phân loại. Thực tế khách
quan này đòi hỏi phải có những bộ óc bách khoa và Lê
Quý Đôn với học vấn uyên bác của mình đã trở thành
người "tập đại hành" mọi tri thức của thời đại. Có
thể nói, toàn bộ những tri thức cao nhất ở thế kỷ
thứ 18 đều được bao quát vào trong các tác phẩm của
Lê Quý Đôn. Tác phẩm của ông như cái mốc lớn đánh
dấu thành tựu văn hóa của cả một thời đại với tất cả
những ưu điểm cùng nhược điểm của nó.
Tác phẩm của Lê
Quý Đôn thống kê có tới 40 bộ, bao gồm hàng trăm
quyển, nhưng một số bị thất lạc. Những tác phẩm tiêu
biểu của Lê Quý Đôn còn giữ được có thể kể ra như
sau:
- Quần thư khảo biện,
tác phẩm chứa đựng nhiều quan điểm triết học, lịch
sử, chính trị được viết trước năm ông 30 tuổi.
- Vân đài loại ngữ,
Lê Quý Đôn làm xong lúc ông 30 tuổi. Đây là một loại
"bách khoa thư", trong đó tập hợp các tri thức về
triết học, khoa học, văn học... sắp xếp theo thứ tự:
Vũ trụ luận, địa lý, điển lệ, chế độ, văn nghệ, ngôn
ngữ, văn tự, sản vật tự nhiên, xã hội... Vân đài
loại ngữ là bộ sách đạt tới trình độ phân loại, hệ
thống hóa, khái quát hóa khá cao, đánh dấu một bước
tiến bộ vượt bậc đối với nền khoa học Việt Nam thời
phong kiến.
- Đại Việt thông sử,
còn gọi Lê triều thông sử, là bộ sử được viết theo
thể ký truyện, chép sự việc theo từng loại, từng
điều một cách hệ thống, bắt đầu từ Lê Thái Tổ đến
Cung Hoàng, bao quát một thời gian hơn 100 năm của
triều Lê, trong đó chứa đựng nhiều tài liệu mới mà
các bộ sử khác không có, đặc biệt là về cuộc kháng
chiến chống Minh.
- Kiến văn tiểu lục,
là tập bút ký nói về lịch sử và văn hóa Việt Nam từ
đời Trần đến đời Lê. Ông còn đề cập tới nhiều lĩnh
vực thuộc chế độ các vương triều Lý, Trần, từ thành
quách núi sông, đường xá, thuế má, phong tục tập
quán, sản vật, mỏ đồng, mỏ bạc và cách khai thác cho
tới các lĩnh vực thơ văn, sách vở...
- Phủ biên tạp lục,
được viết trong thời gian Lê Quý Đôn làm Hiệp trấn
Thuận Hóa. Nội dung ghi chép về tình hình xã hội.
Đàng Trong từ thế kỷ thứ 18 trở về trước.
Công trình biên soạn lớn nhất của Lê Quý Đôn là bộ Toàn
Việt thi lục 6 quyển,
tuyển chọn 897 bài thơ của 73 tác giả từ thời Lý đến
đời Lê Tương Dực (1509 - 1516). Lê Quý Đôn hoàn
thành Toàn Việt thi lục năm 1768, dâng lên vua, được
thưởng 20 lạng bạc.
Về sáng tác văn xuôi, theo Phan Huy Chú, Lê Quý Đôn
có Quế Đường văn
tập 4 quyển, nhưng sách này đã mất. Về sáng tác thơ,
Lê Quý Đôn để lại có Quế Đường thi tập khoảng vài
trăm bài làm ở trong nước và trong thời gian đi sứ
Trung Quốc.
Nhận xét tổng quát về thơ Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú
viết: "Ông là người học vấn rộng, đặt bút thành văn.
Cốt cách thơ trong sáng. Lời văn hồn nhiên..., không
cần suy nghĩ mà trôi chảy dồi dào như sông dài biển
cả, không chỗ nào không đạt tới, thật là phong cách
đại gia".
Quan niệm về thơ của Lê Quý Đôn được tổng hợp lại
như sau: "Làm thơ có 3 điểm chính: một là tình, hai
là cảnh, ba là việc. Tiếng sáo thiên nhiên kêu ở
trong lòng mà động vào máy tình; thị giác tiếp xúc
với ngoài, cảnh động vào ý, dựa cổ mà chứng kim,
chép việc thuật chuyện, thu lãm lấy tinh thần... đại
để không ngoài ba điểm ấy".
Nguồn:
http://www.thpt-lequydon-hcm.edu.vn/gioi-thieu/23/Nha-Bac-Hoc-Le-Quy-Don.html