Lý
Tòng Bá |
Chức
vụ
|
Tư lệnh Sư đoàn 25 Bộ binh
|
Nhiệm kỳ |
11/1974 – 4/1975 |
Cấp bậc |
-Chuẩn tướng |
Tiền nhiệm |
-Đại tá Nguyễn
Hữu Toán |
Kế nhiệm |
-Sau cùng |
Vị trí |
Quân khu III |
Tư lệnh phó
Tham mưu trưởng |
-Đại tá Trương
Thắng Chức
-Đại tá Bùi Hữu Khiêm |
|
Chỉ huy trưởng Binh chủng Thiết Giáp
|
Nhiệm kỳ |
10/1972 – 11/1974 |
Cấp bậc |
-Chuẩn tướng |
Tiền nhiệm |
-Đại tá Phan Hòa Hiệp |
Kế nhiệm |
-Trung tướng Nguyễn Văn Toàn |
Vị trí |
Biệt khu Thủ đô |
|
Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh
|
Nhiệm kỳ |
1/1972 – 10/1972 |
Cấp bậc |
-Đại tá
-Chuẩn tướng (5/1972) |
Tiền nhiệm |
-Chuẩn tướng Võ Văn Cảnh |
Kế nhiệm |
-Đại tá Trần Văn Cẩm |
Vị trí |
Quân khu II |
|
Tư lệnh phó Quân đoàn II
Đặc trách Bình định và Phát triển
|
Nhiệm kỳ |
1/1971 – 1/1972 |
Cấp bậc |
-Đại tá |
Vị trí |
Vùng 3 chiến
thuật |
|
Chánh sở Thanh tra
thuộc Tổng Thanh tra QLVNCH
tại Bộ Tổng Tham mưu
|
Nhiệm kỳ |
4/1968 – 1/1971 |
Cấp bậc |
-Đại tá |
Vị trí |
Biệt khu Thủ đô |
|
Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng
Tiểu khu Bình Dương
|
Nhiệm kỳ |
10/1965 – 4/1968 |
Cấp bậc |
-Trung tá
-Đại tá (11/1965) |
Kế nhiệm |
-Trung tá
Nguyễn Văn Tư |
Vị trí |
Vùng 3 chiến
thuật |
|
Chỉ huy Trung đoàn 1
Thiết Giáp
|
Nhiệm kỳ |
10/1964 – 4/1968 |
Cấp bậc |
-Trung tá |
Tiền nhiệm |
-Thiếu tá Huỳnh
Ngọc Diệp |
Kế nhiệm |
-Trung tá Huỳnh
Ngọc Diệp |
Vị trí |
Vùng 3 chiến
thuật |
|
Chỉ huy Trung đoàn 2
Thiết Giáp
|
Nhiệm kỳ |
12/1961 – 10/1964 |
Cấp bậc |
-Thiếu tá
(12/1961)
-Trung tá (10/1964) |
Tiền nhiệm |
-Trung tá Lâm Quang Thơ |
Vị trí |
Vùng 4 chiến
thuật |
|
Thông
tin chung
|
Quốc tịch |
Hoa Kỳ
Việt Nam Cộng hòa |
Sinh |
14 tháng 11 năm 1931
Long Xuyên, Việt Nam |
Mất |
22 tháng 2 năm 2015 (84 tuổi)
Nevada, Hoa Kỳ |
Nguyên nhân mất |
Tuổi già |
Nơi ở |
Las Vegas,
Nevada, Hoa Kỳ |
Nghề nghiệp |
Quân nhân |
Dân tộc |
Kinh |
Vợ |
Chung Bạch Vân |
Gia quyến |
Chung Bá Vạng
(ông nội của vợ)
Lý An Phước (anh)
Lý An Hải (anh)
Lý Thị Thọ (chị)
Lý Thị Dương (chị)
Lý An Lợi (em)
Lý An Lộc (em)
Lý Tòng Tâm (em)
Lý Tòng Tôn (em)
Lý Tòng Hiếu (em)
Lý Thị Kim Đính (em) |
Con cái |
3 người con (2
trai, 1 gái)
Lý Tòng Tân
Lý Bạch Phượng
Lý Tòng Châu |
Học vấn |
Tú tài bán phần |
Học sinh trường |
-Trường Thiếu
sinh quân Đông Dương, Vũng Tàu
-Trường Võ bị Liên quân Đà Lạt
-Trường Kỵ binh Saumur, Pháp
-Trường Lục quân Fort Knox, Hoa Kỳ. |
Quê quán |
Nam Kỳ |
Binh
nghiệp
|
Phục vụ |
|
Thuộc |
Quân lực VNCH |
Năm tại ngũ |
1951-1975 |
Cấp bậc |
Chuẩn tướng |
Đơn vị |
Binh chủng Thiết giáp
Sư đoàn 23 Bộ binh
Sư đoàn 25 Bộ binh |
Chỉ huy |
Quân đội Quốc gia
Quân lực VNCH |
Tham chiến |
Chiến tranh Việt
Nam |
Khen thưởng |
B.quốc H.chương IV[1] |
Lý Tòng Bá (1931
– 2015), nguyên là một tướng lĩnh gốc Kỵ
binh của Quân
lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Chuẩn
tướng. Ông xuất thân từ những khóa đầu ở
trường Võ bị Quốc gia do Chính phủ Quốc gia
Việt Nam mở ra tại nam Cao nguyên Trung phần.
Sau khi tốt nghiệp ông được chọn vào đơn vị
Thiết giáp và ông đã phục vụ ở Binh chủng này
lên đến chức vụ Chỉ huy trưởng. Trong thời
gian tại ngũ, ông cũng được chuyển nhiệm vụ
sang lĩnh vực Hành chánh (Tỉnh trưởng) kiêm
Quân sự (Tiểu khu trưởng). Ông là Tư lệnh sau
cùng của Sư đoàn 25 Bộ binh, đơn vị cuối cùng
chiến đấu bảo vệ mặt phía bắc Sài Gòn trước
khi thất thủ.
Tiểu sử &
Binh nghiệp
Ông sinh
ngày 14 tháng 11 năm 1931 trong một gia đình
khá giả ở quê ngoại tại làng Bình Đức, tỉnh
Long Xuyên (nay thuộc tỉnh An Giang), miền Nam
Việt Nam. Quê nội của ông ở quận Kế Sách, tỉnh
Sóc Trăng. Từ năm 1937, ông là học sinh trường
Tiểu học Long Xuyên, rồi trường Trung học
Collège Cần Thơ[2] theo
chương trình Pháp. Năm 1947, ông tốt nghiệp
với văn bằng Thành chung. Tháng 8 năm 1948,
ông trúng tuyển theo học trường Thiếu sinh
quân Đông Dương ở Cap Saint Jacques, Vũng Tàu.
Ngoài chương trình quân sự học đường, ông còn
được học chương trình phổ thông Trung học Đệ
nhị cấp. Năm 1950, ông tốt nghiệp với chứng
chỉ tương đương văn bằng Tú tài bán phần (Part
I).
Quân đội Quốc
gia Việt Nam
Tháng 11
năm 1951, ông nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia,
mang số quân: 51/121.307. Theo học khóa 6 Đinh
Bộ Lĩnh tại trường Võ bị Liên quân Đà Lạt,
khai giảng ngày 1 tháng 12 năm 1951. Ngày 1
tháng 10 năm 1952 mãn khóa tốt nghiệp Thủ khoa
với cấp bậc Thiếu
úy hiện dịch. Ngay sau
khi ra trường, ông được tuyển chọn vào Thiết
giáp và theo học tiếp khóa căn bản Binh chủng
tại Trung tâm Huấn luyện Thiết giáp Viễn Đông
của Quân đội Pháp ở Vũng Tàu kể từ ngày 1
tháng 10 năm 1952 đến ngày 1 tháng 4 năm 1953.[3] Sau
khi mãn khóa căn bản Thiết giáp, ông được cử
giữ chức Trung đội trưởng Trung đội Thám thính
M.8 thuộc Tiểu đoàn 7 Thám thính ở Hà Đông,
Bắc Việt. Đầu năm 1954, ông được chọn làm sĩ
quan Tuỳ viên cho Trung tướng Nguyễn
Văn Hinh, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội
Quốc gia. Tháng 12 cùng năm ông được thăng cấp Trung
úy tại nhiệm.
Quân đội Việt
Nam Cộng hòa
Đầu năm
1955, ông trở lại Binh chủng và được cử làm
Đại đội trưởng Đại đội Thám thính. Sau khi
Quân đội Quốc gia được đổi tên thành Quân
đội Việt Nam Cộng hòa, tháng 10 cùng năm
ông được chọn đi du học khóa cao cấp Thiết
giáp tại trường Kỵ binh Saumur ở Pháp,[4] đến
đầu tháng 1 năm 1956 mãn khóa.
Ngay sau
khi mãn khóa cao cấp Thiết giáp trở về nước,
ông được cử làm Chi đoàn trưởng Chi đoàn chiến
xa M.8 (sau đổi thành Chi đoàn chiến xa M.24)
thuộc Trung đoàn 1 Thiết giáp đồn trú ở Gò
Vấp, Gia Định do Thiếu tá Hoàng
Xuân Lãm làm Trung
đoàn trưởng. Đầu năm 1958, ông được thăng cấp Đại úy tại
nhiệm. Tháng 12 cùng năm nhận lệnh bàn giao
Chi đoàn M.24 lại cho Đại úy Kha Vãng Huy,[5] để đi
du học khóa căn bản và cơ khí Thiết giáp tại
trường Lục quân Fort Knox, Tiểu bang Kentucky,
Hoa Kỳ. Tháng 5 năm 1959, mãn khóa học ông về
nước phục vụ tại ban Tu thư, sau đó được giao
chức vụ sĩ quan Phụ tá Tiếp vận của Bộ chỉ huy
Thiết giáp tại trại Trần Hưng Đạo, Bộ Tổng
tham mưu.
Đầu năm
1960, ông được cử giữ chức Chỉ huy phó trường
Huấn luyện Thiết giáp ở Thủ Đức do Thiếu tá Vĩnh
Lộc làm Chỉ huy
trưởng. Tháng 6 cùng năm, ông được biệt phái
sang lĩnh vực Hành chính giữ chức vụ Phó Tỉnh
trưởng Nội an kiêm Tiểu khu trưởng tỉnh Phước
Long. Cuối năm, Thiếu tá Đỗ Văn Diễn[6] Tỉnh
trưởng Phước Long trả ông trở lại Quân đội vì
bị nghi ngờ ủng hộ cuộc đảo chánh ngày 11
tháng 11 năm 1960 do Đại tá Nguyễn
Chánh Thi cầm đầu.
Ngay sau đó ông được cử đi làm Chỉ huy phó
Trung tâm Huấn luyện Cơ giới Bảo an ở Vũng Tàu
do Thiếu tá Lê Đức
Đạt làm Chỉ huy
trưởng. Đến giữa năm 1961, ông được cử làm Đại
đội trưởng Đại đội 7 Cơ giới M.113 tân lập
thuộc Sư đoàn 7 Bộ binh ở Mỹ Tho (ngày 1 tháng
11 năm 1962, đơn vị này được đổi tên thành Chi
đoàn 4 Thiết vận xa thuộc Trung đoàn 2 Thiết
giáp đặt binh sở tại Mỹ Tho). Tháng 12 cùng
năm, ông được thăng cấp Thiếu
tá và được cử giữ chức
Trung đoàn trưởng Trung đoàn 2 Thiết giáp thay
thế Trung tá Lâm
Quang Thơ.
Đầu tháng
12 năm 1963, một tháng sau cuộc đảo chính Tổng
thống Ngô
Đình Diệm, ông được cử giữ chức vụ Chỉ
huy Chiến đoàn 6 Thiết vận xa tân lập tại Mỹ Tho.
Trung tuần tháng 8 năm 1964, ông được thăng
cấp Trung
tá. Một tháng sau, ngày 13 tháng 9, ông
tham gia cuộc biểu dương Lực lượng (thực ra là
một vụ đảo chính) xuất phát từ Quân khu 4 do
Trung tướng Dương
Văn Đức Tư lệnh Quân
đoàn IV cầm đầu. Đảo chính thất bại, ông bị
bắt và giam giữ tại Quân lao Gò Vấp, sau đó
chuyển sang Đề lao Chí Hòa. Tháng 10 cùng năm
ông bị ra Tòa án binh và Hội đồng Kỷ luật Quân
đội nhưng được tha bổng và phục hồi cấp bậc.
Sau đó ông được cử làm Trung đoàn trưởng Trung
đoàn 1 Thiết giáp thay thế Thiếu tá Huỳnh Ngọc
Diệp.[7] Tháng
10 năm 1965, ông nhận lệnh bàn giao Trung đoàn
1 Thiết giáp lại cho Trung tá Huỳnh Ngọc Diệp[8] để đi
nhận chức vụ Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng
Bình Dương. Ngày Quốc khánh Đệ Nhị Cộng hòa 1
tháng 11 cùng năm, ông được đặc cách thăng cấp Đại tá tại
nhiệm.
Tháng 4
năm 1968, rời khỏi chức vụ Tỉnh trưởng tỉnh
Bình Dương, ông được chuyển về Trung ương giữ
chức vụ Chánh sở Thanh tra thuộc Tổng nha
Thanh tra Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Đầu năm
1971, ông thuyên chuyển ra Quân khu 2 được cử
vào chức vụ Tư lệnh phó Quân đoàn II kiêm Đặc
trách Chương trình Bình định & Phát triển
của Quân khu 2 tại Nha Trang.
Hạ tuần
tháng 1 năm 1972, ông được bổ nhiệm chức vụ Tư
lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh thay thế Chuẩn tướng Võ Văn
Cảnh đi làm Chỉ huy
trưởng Trung tâm Huấn luyện Quốc gia Lam Sơn
kiêm Chỉ huy trưởng Huấn khu Dục Mỹ. Tháng 5
cùng năm, ông được đặc cách thăng cấp Chuẩn
tướng tại nhiệm ở mặt
trận do chiến tích của Sư đoàn 23 đã lập được
tại chiến trường Kontum trong "Mùa hè Đỏ lửa".
Tháng 10 cùng năm, ông được lệnh bàn giao Sư
đoàn 23 lại cho Đại tá Trần
Văn Cẩm (nguyên Tham
mưu trưởng Quân đoàn II). Cùng ngày đi nhận
chức vụ Chỉ huy trưởng Thiết giáp Trung ương
tại Trại Phù Đổng, Gò Vấp thay thế Đại tá Phan
Hòa Hiệp. Giữa năm 1973, ông được cử làm
sĩ quan Tuỳ viên cho Tổng thống Nguyễn
Văn Thiệu trong chuyến
công du thăm viếng các Quốc gia Hoa Kỳ, Ý,
Anh, Trung Hoa Quốc gia và Đại Hàn với thời
gian 2 tuần lễ.
Ngày Quốc
khánh 1 tháng 11 năm 1974, ông được lệnh bàn
giao Bộ chỉ huy Thiết giáp lại cho Trung tướng Nguyễn
Văn Toàn. Sau đó đi đảm nhận chức vụ Tư
lệnh Sư đoàn 25 Bộ binh (bản doanh đặt tại Căn
cứ Đồng Dù, Củ Chi, Hậu Nghĩa), thay thế Đại
tá Nguyễn Hữu Toán[9] được
cử đi làm Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện
Quốc gia Lam Sơn.
- Sư
đoàn 25 Bộ binh vào thời điểm tháng
4/1975, nhân sự của Bộ tư lệnh Sư đoàn
được phân bổ như sau:
-Tư lệnh
- Chuẩn tướng Lý Tòng Bá
-Tư lệnh phó - Đại tá Trương Thắng Chức[10]
-Tham mưu trưởng - Đại tá Bùi Hữu Khiêm[11]
-Chỉ huy Pháo binh - Trung tá Phạm Hữu Nghĩa[12]
Sáng ngày
30 tháng 4 năm 1975, ông bị quân Giải phóng
bắt tại làng Tân Thạnh Đông, quận Củ Chi.[13][14] Sau
đó, bị tù lưu đày từ Nam ra Bắc qua các trại
Quang Trung (Gia Định), Yên Bái (Hoàng Liên
Sơn), Hà Nam (Hà Nam Ninh) cho đến ngày 13
tháng 2 năm 1988 mới được trả tự do.
Đầu năm
1990, ông xuất cảnh sang Mỹ theo chương trình
"Ra đi có Trật tự" diện H.O do Chính phủ Hoa
Kỳ bảo lãnh. Sau đó đoàn tụ với gia đình tại
Las Vegas, Tiểu bang Nevada.
Ngày 22
tháng 3 năm 2015, ông từ trần tại nơi định cư.
Hưởng thọ 84 tuổi.