1.
Nước mắt trên hoa là lối cũ,
Mùi hương trong nệm cả đêm thâu.
Câu
thơ của một nữ thi sĩ thế kỷ 20, 21
chăng ? Không đó là thơ Hồ
Xuân Hương viết vào cuối thế kỷ 18.
viết cho người tình Mai Sơn Phủ. Lần
đầu tiên trong lịch sử thi ca Việt
Nam, một phụ nữ đã để lại một tập
thơ tình, kể lại chuyện tình của
mình, trang tình sử nào cũng đầy đau
thương và nước mắt cho những mối
tình dang dỡ. Phải đặt vào hoàn cảnh
xã hội ngày xưa, phụ nữ biết đọc chữ
Hán, chữ Nôm có thể đếm trên đầu
ngón tay, văn chương chỉ để chở đạo
lý Khổng Mạnh. Thế mà có một Xuân
Hương làu thông kinh sách chẳng kém
gì nam giới, làm thơ đi ba bước đã
nên câu. Ấy thế mà còn chép lại
những bài thơ tình nồng nàn thắm
thiết của mình thành nguyên tập thơ
thì quả thật có một không hai. Làu
thông nhuần nhuyễn cả hai ngôn ngữ
Việt - Hán . Ngày nay có thi sĩ nào
làm thơ giỏi cả hai ngôn ngữ Việt -
Pháp hay Việt - Anh không nhỉ.
? Hồng nhan đa truân, không
đợi Nguyễn Du trong một nàng Kiều
của Thanh Tâm Tài Nhân mà bắt đầu
bằng người yêu mối tình đầu tiên:
Xuân Hương Hồ Phi Mai. Cái chết trẻ,
bất ngờ của Thầy Lang xóm Tây làng
Nghi Tàm, tưởng nàng đã thoát, nào
ngờ đâu: Ma dẫn lối quỷ đưa đường,
cứ tìm những chốn đoạn trường mà đi.
Xuân
Hương quen biết Mai Sơn Phủ trong
những năm 1799 -1801., lúc ấy Xuân
Hương 27, 29 tuổi, mối tình đã để
lại những bài thơ tình nồng nàn thắm
thiết. Mai họ Mai lấy hiệu là Mai
Sơn, Phủ theo Đào Duy Anh trong Tự
điển Hán Việt là tiếng sang trọng để
xưng người đàn ông. Nguyễn Án người
đời xưng là Nguyễn Kính Phủ. Phạm
Đình Hổ hiệu là Tùng Niên nên còn có
tên là Tùng Niên Phủ. Qua thơ Lưu
Hương Ký ta đoán biết quê chàng ở
Hoan Châu vùng Nghệ An, Hà Tĩnh ngày
nay.. Mai Sơn Phủ có lẽ chỉ là một
thư sinh chưa đỗ đạt gì, nên không
thấy tên tuổi đỗ đạt trong các khoa
thi. Trong thơ chữ Hán của Phạm Đình
Hổ, tôi tìm ra bài: Tống Liên Cừ Mai
Công phó Vị Hoàng.Tôi cho đó
là Mai Sơn Phủ. Bài thơ có câu Hoàng
giang mưa điểm hương mai nở.
Cuộc tiễn đưa vào mùa hè: Gậy trúc
ngày hè xa cố đô.. Mùa hè làm gì có
mai nở, tôi cho rằng : chỉ có giọt
nước mắt của Phi Mai tiễn đưa người
tình trên sông Hoàng Giang. Phạm
Đình Hổ tiễn đưa một người bạn, và
Xuân Hương Hồ Phi Mai tiễn đưa một
người tình.. Do đó Mai Sơn Phủ và
Mai Công chỉ là một.. Mai Sơn Phủ,
người làng Liên Cừ ở Vinh, làng
Sen, Ngày xưa gọi là Vịnh Phố.
Sau
mối tình Hồ Xuân Hương với Nguyễn Du
để lại mối hận một đời. Không thấy
trong Lưu Hương Ký nhắc đến anh thầy
Lang xóm Tây làng Nghi Tàm dù trong
thơ truyền khẩu có bài Bà Lang khóc
chồng. Anh Lang mất sớm, mẹ và mai
mối ép gả, có lẽ Xuân Hương không
xem đó là một mối tình, nên đù bởn: thương
chàng nên khóc tỉ tì ti.
Mai Sơn Phủ yêu nàng, ngõ ý cưới
nàng, hai người cắt tóc, trích máu
ngón tay hòa vào rượu thề nguyền.,
thề nếu phụ tình nhau sẽ bị thần
linh trừng phạt: dao
búa nguyền xin lụy đến mình.
Hồ Xuân Hương đã trao cả tâm hồn lẫn
thể xác cho Mai Sơn Phủ. Năm 1801
Mai Sơn Phủ rời Thăng Long về quê để
xin cha mẹ cưới nàng. Cuộc chia tay
thắm thiết nơi bến sông Vị Hoàng,
nhưng rồi Mai không về Thăng Long
nữa. Chàng đã mất trong chiến tranh,
vì một cơn bạo bệnh, hay mối tình
cha mẹ chàng không đồng ý ? Mai Sơn
Phủ chỉ còn để lại dấu vết trên đời
qua những vần thơ yêu đương nồng nàn
thắm thiết của Xuân Hương.. Tôi dịch
các thơ chữ Hán và sắp xếp thứ tự
theo diễn biến tình tiết.
-
Thuật ý khiêm trình hữu nhân Mai Sơn
Phủ.
- Xuân
ca Đình Lan điệu,
- Thu
nguyệt hữu ức Mai Sơn Phủ
- Thệ
viết hữu cảm
- Thu
tứ ca
- Hoạ
sơn phủ chi tac.
-
Nguyệt dạ ca,
- Tự
Thán I, II
2. Bài
Thuật ý khiêm trình hữu nhân Mai Sơn
Phủ , viết theo điệu Giang Nam, Hồ
Xuân Hương viết trong đêm xuân 1799,
nàng nhớ lại buổi hẹn cùng Mai Sơn
trên bờ sông Hồng, sông bát ngát
nước chảy xiết, chàng và nàng khăng
khít, nàng cảm động lệ rơi ướt áo,
nàng yêu thương thắm thiết và mong
người yêu cùng viết thành thơ để
trao nhau những nỗi lòng yêu đương,
mà lời không nói được hết ý.
Đêm trăng thanh, gió mát nhớ thương
chàng đứt ruột, đâu là gác Đằng
Vương, nhìn mây xanh xanh, nước trôi
một hướng, mang bao niềm thương nhớ.
Hẹn chàng lần gặp mặt tới, chàng ơi
đừng quên ngày hẹn, sao em thấy ngày
qua thật chậm. Đêm cũng qua thật
chậm ri rì., từ sáng đến tối em nhớ
chàng lòng buồn lắm.
Trong mưa bay, gió bay, em cất bút
viết thơ gửi đến chàng. Đôi ta cùng
ngâm thơ, cùng uống rượu dưới trăng,
từ lúc chàng về nửa lòng chàng có ấm
gối, chăn. Nếu chàng có đem đàn ra
gảy, chớ gảy bài buồn xa nhau oán
người tri âm, non cao nước chảy biết
đâu tìm, đừng đàn bài hận chuyện xưa
nay. Chàng ơi, đôi ta hò hẹn, ước mơ
nhiều, nhưng sao gặp nhau quên tuốt
luốt, không biết nói nắng câu gì ?
Trà thường pha, bút vẫn viết, em và
chàng cùng giống nhau, cùng uống trà
, cùng ngâm thơ, mà chàng đâu có ở
xa em lắm đâu, chàng đã hiểu lòng
em, hãy về thưa cha mẹ cậy mai mối
cưới em, cho tình ta không phụ lời
hẹn hò.
Kể ý mình trình
bạn
Mai Sơn
Phủ
Hoa bay
bay,
Cây thầm
thì,
Vắng lặng hồn ta
mộng tình si,
Đêm xuân nhớ lắm
khi.
Nai xôn
xao,
Nhạn lao
chao,
Vui sướng hẹn
nhau một sáng nào,
Tả hết được tình
sao ?
Sông bát
ngát,
Nước chảy
xiết
Lòng em cùng
lòng chàng khắn khít
Lệ rơi trên áo
thấm ướt !
Thơ tha
thiết,
Lòng da
diết,
Nồng nhạt lòng
em, chàng đã biết.
Chàng ơi cất bút
viết !
Gió thênh
thang,
Trăng mênh
mang,
Trăng gió xui ai
luống đoạn trường,
Nào đâu gác Đằng
Vương. ?
Mây thương
thương,
Nước vương
vương,
Mây nước trôi
đâu chỉ một đường,
Một đường xa
khuất vọng hoài
thương.
Ngày rì
rì,
Đêm trì
trì,
Sáng tối chạnh
buồn lữ khách si,
Nhớ thương đừng
lỡ hẹn sai kỳ.
Gió bay
bay
Mưa bay
bay,
Mưa gió dục lòng
cất bút say,
Bút say gửi đến
khách tình nhi.
Chàng có
lòng,
Thiếp có
lòng,
Mộng hồn lưu
luyến bóng hoa lồng.
Thơ cùng
ngâm,
Rượu cùng
châm
Tự lúc buồn ly
biệt,
Nửa lòng ai ấm
chăn.
Chớ đàn ly khúc
oán tri âm
Đành xem như hết
tiếng dao cầm.
Cao sơn lưu thủy
biết đâu tìm
Chớ có buồn than
hận cổ kim.
Chàng hẹn
chi,
Thiếp hẹn
chi
Đôi ta sao
nỡ nói năng gì ,?
Trà thường
pha,
Bút nở
hoa.
Đâu chẳng ngâm
chẳng uống,
Mà chàng ở đâu
xa ?
Nay chi chàng
vẫn biết tình ta.?
Thì trao chỉ
thắm cậy trăng già,
Lòng thơm không
phụ hẹn hò xưa.
|
Thuật ý khiêm
trình hữu nhân
Mai Sơn
Phủ
Hoa phiêu phiêu,
Mộc tiêu tiêu
Ngã mộng hương
tình các tịch liêu,
Khả cảm thị xuân
tiêu.
Lộc ao ao,
Nhạn ngao ngao,
Hoan hảo tương
kỳ tài nhất triêu.
Bất tận ngã tâm
miêu. ?
Giang bát bát,
Thủy hoạt hoạt,
Ngã tương quân
hoài tương khế khoát.
Lệ ngân chiêm hạ
sát !
Thi tiết tiết,
Tâm thiết thiết,
Nồng đạm thốn
tình tư lưỡng đạt.
Dã ưng quân bút
phát !
Phong ngang
ngang,
Nguyệt mang mang
,
Phong nguyệt
phong linh khách đoạn
trường.
Hà xứ thị Đằng
Vương ?
Vân thương
thương,
Thủy ương ương.
Vân thủy na kham
vọng nhất trường,
Nhất trường dao
vọng xúc hoài mang.
Nhật kì kì,
Dạ trì trì
Nhật dạ thiên
hoài lữ tứ bi.
Tứ bi ưng mạc
ngộ giai kỳ..
Phong phi phi
Vũ phi phi,
Phong vũ tần
thôi thái bút huy,
Bút huy đô thị
phó tình nhi.
Quân hữu tâm,
Ngã hữu tâm,
Mộng hồn lưu
luyến liễu hoa âm.
Thi đồng ngâm,
Tửu đồng châm,
Nhất tự sầu phân
duệ,
Hà nhân noãn bán
khâm.
Mạc đàn ly khúc
oán tri âm.
Trực tu khí tri
dao cầm
Cao sơn lưu thủy
vãn tương tầm,
Ưng bất hận ngâm
thán cổ kim
Quân hà kỳ,
Ngã hà kỳ.
Lữ đình lai đắc
lưỡng lai tri. ?
Minh tần phi,
Bút tần huy
Nhất trường đô
bút thiệt,
Hà xứ thị tình
nhi ?
Hảo bằng tâm
thượng khách tương tri. ?
Dã ưng giao thac
thử duyên đề.
Phương tâm thệ
bất phụ giai kỳ..
|
Giang
Nam điệu
Thơ chữ
Hán Lưu Hương ký, Hồ Xuân Hưong ,Nhất
Uyên dịch thơ,
Điển
tích:
Đằng
Vưong Các: Vương Bột sang thăm cha làm
Thứ sử Giao Châu. Đến Mã Dương, trong
bữa tiệc do Đô đóc Diêm Bá Dư trấn
nhiệm Hồng Châu khoản đãi tân khách và
mở hội thơ thử tài nhân sĩ bốn phương.
Vưong Bột viết bài Đằng Vương Các,
chiếm giải quán quân vượt hẳn bài của
Ngô Tử Chương con rễ Diêm Đô đốc, bài
phú có hai câu tuyệt bút:Lạc hà dữ cô
vụ tề phi, thu thủy cộng trường thiên
nhất sắc. Dịch; Rán chiều cò lẽ bay
cùng. Nước thu nối với trời xanh một
màu.Vương Bột thăm cha trở về thì bị
đắm thuyền trên biển Nam Hải chết năm
21 tuổi.
Dao cầm:
đàn quý;
Cao sơn
lưu thủy: khúc nhạc diễn tả núi cao
nước chảy trên sông Lý Giang vùng Quế
Lâm,tỉnh Quảng Tây, tranh thủy mặc non
nước vẽ vùng này: Quế lâm cảnh đẹp
nhất trần gian, theo người Trung Quốc,
tôi có đi qua vùng này năm 2009 nhưng
thấy non núi không đẹp bằng Chùa
Hương, hay Hoa Lư, Bích Động, Hạ Long.
3. Bài
Xuân Đình Lan điệu viết: Trăng tà in
bóng người lặng lẽ trên lầu canh
thành Thăng Long. Nằm lắng nghe
tiếng chuông đồng chùa Trấn Quốc vào
khuya. Dậy sớm lắng nghe tiếng
chuông đồng công phu buổi sớm. Nửa
đêm ai hát bên kia sông Tô Lịch.
Chàng và em hợp nhau quá,
thanh khí tương đồng, em tương tư
nhớ chàng suốt năm canh. Hồn
và tâm em mơ cùng chàng cuộc
ân ái như Vua Sở Tương Vương cùng
Thần nữ núi Vu Sơn. Gặp nhau ta sẽ
cùng ân ái nhàn như gió đông, mỏi
như gió đông, niềm hạnh phúc như một
vườn hồng hạnh (cây mận) xanh biếc.
Giấc
mơ hoa đêm qua đã tàn, sáng nay còn
thấy, mấy nụ hoa hồng vừa nở. Chim
hoàng oanh ơi, đừng rũ xuân đi nhé!
Ta sợ hoa đào không đủ sức cười với
gió đông! Gió trong đêm trăng sáng
hãy đem hương tới gửi thi nhân.
Điệu ca Xuân
Đình Lan
Trăng tà người
lặng lẽ lầu không !
Nằm lắng chuông
đồng,
Dậy lắng chuông
đồng
Nửa đêm ai hát
nửa kia sông ?
Tiếng đã tương
đồng,
Khí đã tương
đồng.
Tương tư không
dứt suốt năm canh.
Tâm ở Vu
Phong
Hồn ở Vu
phong?
Ân ái cuộc tao
phùng
Nhàn tựa gió
đông
Mỏi tựa gió
đông,
Một vườn hồng
hạnh biếc xanh xanh,
Mơ hoa tỉnh giấc
nồng,
Sáng nay cành nở
mấy hoa hồng.
Oanh ơi đừng rủ
xuân đi nhé !
Ta sợ đào hoa
không đủ sức cười với gió
đông!
Gió trong trăng
sáng
Hãy đem hương
tới gửi thi nhân.
|
Xuân đình lan
điệu.
Nguyệt tà nhân
tỉnh thú lâu trung!
Ngoạ thỉnh đồng
long,
Khởi thỉnh đồng
long,
Dạ bán ai giang
hưởng bán không ?
Thanh đã tương
đồng,
Khí đã tương
đồng.
Tương tư vô tận
ngũ canh cùng.
Tâm tại Vu phong
Hồn tại Vu phong
.
Ân ái thử tao
phùng,
Nhàn ỷ đông
phong,
Quyện ỷ đông
phong,
Nhất viên hồng
hạnh bích thanh song,
Phồn hoa tích dĩ
không,
Kim trêu hựu
kiến sổ chi hồng.
Oanh nhi mạc đái
xuân phong khứ !
Chỉ khủng đào
yêu vô lực tiếu đông
phong.!
Phong thanh
nguyệt,
Bạch bả kỳ hương
nhập khách ngâm trung.
|
Thơ chữ
Hán Hồ Xuân Hương trong Lưu Hương Ký.
Nhất Uyên dịch thơ.
4. Và
đêm trăng thu Hồ Xuân Hương nhớ Mai
Sơn Phủ viết bài thơ nôm:
Thu
nguyệt hữu ức Mai Sơn Phủ- Đêm trăng
thu nhớ Mai Sơn Phủ. Bài thơ viết
năm 1799 trong đêm thu trăng sáng
nhớ lại buổi chiều cùng đi dạo với
Mai Sơn Phủ, trong lá bay. Đêm nay
chùa Một Cột vẫn còn đấy, lòng Xuân
Hương vẫn mênh mang như ba con sông
Nghĩa Trụ, Kim Ngưu và Đại Bi hợp
thành sông Nhĩ Hà chảy lại đâu ? Em
gặp chàng rồi sẽ đi về đâu ? Phận
gái mừng thầm duyên nợ với chàng,
đừng như bèo mây hợp rồi tan mà tủi
phận về sau. Trăm năm dù là vợ cả
hay thứ thiếp của chàng, ông tơ bà
nguyệt cũng xe đỏ tay tơ cho đến khi
đầu bạc. Người Lào, người Mường khi
chia tay nhau có phong tục cột chỉ
màu đỏ vào tay nhau, nước ta thời
Xuân Hương còn phong tục ấy chằng ?
Đêm
trăng thu nhớ Mai Sơn Phủ
Lá
ngọc chiều thu giận hẵn du,
Tuần
trăng sẽ nhớ bữa đêm thu.
Bên am
Nhất Trụ trông còn đấy,
Ngọn
nước Tam Kỳ chảy lại đâu ?
Son
phấn trộm mừng duyên để lại,
Bèo
mây thêm tủi phận về sau,
Trăm
năm biết có duyên thừa nữa,
Cũng
đỏ tay tơ cũng trắng đầu.
Thơ
chữ nôm Hồ Xuân Hương trong Lưu
Hương Ký
5. Rồi
một đêm trăng Hồ Phi Mai và Mai Sơn
Phủ đã cắt tóc, mỗi người một mãnh
gọp lại và chia làm hai, trích máu
nhỏ vào hai chén chung rượu, chén tử
và chén sinh cùng uống thề trọn đời
yêu nhau. Bài Thệ viết hữu cảm. Xuân
Hương ghi lại cảm nghĩ khi thề: Mười
mấy năm trời một chữ tình, kể từ khi
gặp Nguyễn Du mùa hạ năm 1790, mười
năm sau 1800 mới gặp được người ngỏ
ý yêu mình, muốn kết duyên với mình
hẵn là duyên nợ ông tơ bà nguyệt đã
dành. Cùng cắt tóc mây góp lại, (xưa
các chàng cũng để tóc dài búi lên
cột dây, nên tha hồ mà cắt) dao vàng
cắt chia làm hai, mỗi người giữ một
bó làm kỷ niệm..Lấy kim trích máu
nhỏ đầy hai chén rượu, chén tử và
chén sinh. Thề sống và chết trọn
kiếp với nhau, thề không phản bội
nhau từ đầu xanh đến bạc tóc. Nếu
mai sau, ai chẳng giữ lời thì chết
dữ vì dao búa.( Trước với Nguyễn Du
không có thề nguyền với Xuân Hương,
nên chàng lừng khừng: tròn
trặn gương tình cũng có khi,
nên ở biệt mãi Hồng Lĩnh)
Cảm
nghĩ khi thề
Mười
mấy năm trời một chữ tình;
Duyên
tơ này đã sẵn đâu dành.
Mái
mây cắt nửa nguyền phu phát,
Giọt
máu đầy hai chén tử sinh,
Một
kiếp đã thề cùng dạ thắm,
Trăm
năm đừng phụ với đầu xanh,
Mai
sau lòng chẳng như lời nữa,
Dao
búa nguyền xin lụy đến mình.
Thơ Hồ
Xuân Hương trong Lưu Hương Ký
Trong
văn học Việt Nam, chúng ta biết đến
việc cắt tóc, trích máu thề nguyền
qua Thúy Kiều và Kim Trọng. Tóc mây
một mái dao vàng chia hai.
Trong
nguyên tác Kim Vân Kiều của Thanh
Tâm Tài Nhân do ông Tô Nam Nguyễn
Đình Diệm dịch. Ông Phạm Đan, Quế có
in lại trong Truyện Kiều đối chiếu
nxb Hà Nội 1991 tr 100, có ghi bài
văn thề của Kim Trọng Thúy Kiều.(
Tôi xin trích sẵn sau đây để các bạn
trẻ ngày nay chỉ việc couper,
imprimer và điền tên họ vào, nhớ
phải sắm sẵn thuốc sát trùng và xài
kim mới, người viết không chịu trách
nhiệm về vấn đề y tế. và về thẩm mỹ
đầu tóc)
THỀ
RẰNG
Chúng
tôi hai kẻ đồng tâm là Kim Trọng và
Vương Thúy Kiều
Trọng
sinh năm......
tháng......ngày......giờ
Kiều
sinh
năm.........tháng......ngày......giờ.
Nay
xin kính cẩn đốt nén hương lòng,
dâng ly rượu tịnh, thề trước hoàng
thiên hậu thổ linh thiêng.
Chúng
tôi trộm nghĩ:
Vợ
chồng trọng nghĩa, nghĩa phải thủy
chung không rời. Nhi nữ đa tình,
tình dẫu tử sinh không phụ.
Trước
đây : Kiều muốn lấy chồng, Trọng
mong có vợ, thương mộ tài sắc đã
nguyền đôi chữ đồng tâm.
Ngày
nay: Trọng lo buổi mới, Kiều sợ về
sau, tạc dạ ghi lòng, cùng thề đến
khi mãn kiếp.
Sau
giờ minh thệ, ví thử chẳng may, gặp
cảnh bất thường, quyết không thay
đổi.
Ai mà
phản bội lời ước. Cứu xin thần thánh
xét soi.
Ký tên
(hai bản)
Kim
Trọng và Thúy Kiều
(bảnThúy
Kiều trao lại cho Thúy Vân, thay thế
chị tiếp nối lời thề, tình chị duyên
em, quy luật bất thành văn, vì trong
lời thề không có khoản nào thay thế.
Thúy Vân chỉ ung dung ngồi yên cho
chị lạy, rồi hưởng hạnh phúc, mặc
chị mười lăm năm phong trần gió bụi)
Chàng
Kim viết và đọc xong văn tế, hai
người quỳ lạy thiên địa, đoạn quay
vào chén thù chén tạc.
Nghi
lễ thường cử hành lúc canh khuya có
ba sao Tam Tinh (Sam Sung, của Đại
Hàn lấy từ tích này đây) chứng giám,
lấy tích trong Kinh Thi thuộc Đường
Phong có câu Tam Tinh tại thiên, ba
sao giữa trời, ý nói vợ chồng gặp
nhau lúc canh khuya. Thời Hồ Xuân
Hương sống trong chiến tranh Tây Sơn
và chúa Nguyễn Ánh đang hồi quyết
liệt, lời thề chết vì dao búa trong
chiến tranh là lời thề kiếp sợ nhất.
6. Rồi
một ngày Mai Sơn Phủ, từ giả Hồ Phi
Mai để về Hoan Châu, nhờ cậy cha mẹ
mai mối hỏi cưới nàng. Cũng có thể
nhờ vợ cả cưới thứ thiếp giùm cho
chồng. Câu « trăm năm biết có duyên
thừa nữa » bài Đêm trăng nhớ Mai Sơn
Phủ, chứng tỏ rằng Hồ Xuân Hương
đang hồi họp không biết số phận mình
là vợ cả hay thứ thiếp. Ngày xưa
thanh niên lấy vợ rất sớm, để vợ
phụng dưỡng cha mẹ già, bán mấy sào
đất ra kinh đô Thăng Long du học, đã
là con nhà khá giả, nay cưới thêm
thứ thiếp để nâng khăn sửa túi nơi
du học hẳn phải là con nhà đại điền
chủ .
Từ
biệt Hồ Xuân Hương, Mai Sơn Phủ bắt
đầu bằng bốn câu thơ cổ Trung
Quốc để lấy đà. Tương truyền rằng
bốn câu thơ này của vua Hán Vũ Đế:
Gió thu nổi chừ mây trắng bay, Cây
cỏ vàng rơi chừ nhạn nam quy. Lan có
đẹp chừ cúc có hương. Nhớ giai nhân
chừ lòng không quên. Mai Sơn Phủ ca
tiếp theo: Ta có rượu chừ không bạn
uống, Ta có đàn chừ chẳng tri âm Vì
thế xa nàng ta sẽ không uống rượu
cũng không gảy đàn, chỉ uống trà
xanh thôi để nhớ nàng, đã mượn
bốn câu ăn gian để đẩy hứng thơ thế
mà không lên nổi, cũng chỉ thốt lên
được những lời thơ tầm thường chẳng
có gì xuất sắc, Mai Sơn Phủ chẳng
phải là tay đối thủ xướng họa với
Phi Mai..
Khúc hát mùa
thu
Gió thu nổi chừ
mây trắng bay,
Cây cỏ vàng rơi
chừ nhạn nam quy,
Lan có đẹp chừ
cúc có hương,
Nhớ giai nhân
chừ lòng không quên.
Ta có rượu chừ
không bạn uống,
Ta có đàn chừ
chẳng tri âm,
Không chuốc rượu
chừ không gảy đàn,
Mấy chén trà
xanh chừ lòng cố
nhân.
|
Thu tứ ca
Thu phong khởi
hề bạch vân phi;
Thảo mộc hoàng
lạc hề nhạn nam quy.
Lan hữu tú hề
cúc hữu phương,
Hoài giai nhân
hề bất năng vương.
Ngã hữu tửu hề
vô đối ẩm.
Ngã hữu cầm hề
vô tri âm.
Bất chước tửu hề
bất minh cầm,
Sổ bôi thanh
đính hề cố nhân tâm
|
Thơ
Mai Sơn Phủ trong Lưu Hương ký; Nhất
Uyên dịch thơ
7. Hồ
Xuân Hương đáp lời Mai Sơn Phủ bằng
bài Họa Sơn Phủ chi tác.. Gọi là họa
chứ không thấy bài thơ nôm của Mai
Sơn Phủ đâu cả. Xuân Hương tiếp ý
bài Khúc hát mùa thu chăng ? Tôi cho
rằng đây là bài thơ tình hay nhất
của Văn chương Việt Nam thế kỷ 18,
19.
Bài
thơ này, Xuân Hương giữ ý tứ, chỉ có
đôi ta tình chung biết với nhau.
Lòng nàng cảm xúc lai láng, bước đi
ba bước đã nên câu thơ. Nàng tưởng
tượng cảnh cô đơn sau đó sẽ vắng tin
chàng. Thời gian sẽ qua nhanh như
bóng câu qua cửa sổ. Ban ngày đi
trên lối cùng nhau bước đi ngày
trước nước mắt ướt cả hoa. Ban đêm
nằm một mình trằn trọc trên nệm nhớ
mùi hương ngày nọ . Có xa nhau mới
biết yêu nhau nhiều. Hỡi người tình
chung chỉ đôi ta biết với nhau.
Biệt
ly Mai Sơn Phủ
Này
đoạn chung tình biết với nhau,
Tiễn
đưa ba bước cũng nên câu.
Trên
tay khép mở tanh chiều nhạn,
Trước
mắt đi về gấp bóng câu.
Nước
mắt trên hoa là lối cũ,
Mùi
hương trong nệm cả đêm thâu.
Vắng
nhau mới biết tình nhau lắm,
Này
đoạn chung tình biết với nhau.
Thơ
chữ Nôm Hồ Xuân Huơng trong Lưu
Hương Ký
Chú
thích:
Đoạn:
chữ nôm cổ nghĩa là bạn.
Tanh
chiều nhạn: vắng tanh không thấy
bóng chim nhạn. Sách Hán Thư chép
chuyện Tô Vũ đời Hán đi sứ Hung Nô,
bị chúa Hung Nô bắt giữ đày lên vùng
Bắc Hải chăn dê. Sau Hung Nô hoà
thân với nhà Hán, nhà Hán đòi trả Tô
Vũ, nhưng Hung Nô không trả. Sứ Hán
bịa chuyện Vua nhà Hán bắn được ở
vườn Thượng Lâm có một chim nhạn,
buộc ở chân lá thư Tô Vũ bằng lụa.
Chúa Hung Nô tưởng chuyện thật mới
thả Tô Vũ. Do tích này chim nhạn,
hay hồng nhạn (ngỗng trời) được xem
như việc chuyễn tin tức.Ngày xưa Hồ
Tây nổi tiếng rất nhiều chim sâm
cầm, hồng nhạn. Được xem là một
trong 8 cảnh đẹp Tây Hồ.
Gấp
bóng câu: Câu là con ngựa non sung
sức. Sách Trang Tử có câu: Con người
sống giữa trời đất giống như bóng
ngựa bạch câu, lướt qua khe cừa..
Chỉ thời gian đi nhanh.
8..
Trong thơ chữ Hán của Phạm Đình Hổ,
trong Tuyển tập thơ văn. NxbKHXH
1998 có bài Tống Liên Cừ Mai
Công phó Vị Hoàng. Tiễn ông Mai
người Liên Cừ từ Vị Hoàng. Tôi cho
rằng đó là bài thơ Phạm Đình Hổ cùng
Hồ Xuân Hương tiễn Mai Sơn Phủ từ
bến sông Vị Hoàng đi về Vịnh Phố
(Vinh ngày nay). Đó là thời kỳ Phạm
Đình Hổ và Xuân Hương thân tình. Mai
Sơn Phủ là bạn của cả hai người. Câu
Sơ mai hương đậu Hoàng giang vũ.
Hoàng giang mưa điểm hương mai nở,
có ý trêu Hồ Xuân Hương đang khóc vì
xa người tình vì câu đầu Hạ nhật huề
cùng xuất cố đô. Gậy trúc mùa hè xa
cố đô. Mùa hè đi ra khỏi Thăng Long
làm gì có hoa mai nở, chỉ có nước
mắt Hồ Phi Mai long lanh khóc tiễn
đưa người tình, trong mưa bụi bay
phơ phất. Bài thơ viết: Ngày
hè chống gậy trúc cùng rời cố đô
Thăng Long, đưa người bạn về quê
hương từ phía Nam (thành Thăng Long)
Mưa
phùn trên sông Hoàng Giang (Nam
Định) lất phất đậu trên cánh hoa
mai.. Về đến Vịnh phố sắp đến mùa
lúa thơm rực vàng cánh đồng mùa thu.
Vời ngóng trên non núi Hồng Sơn cây
cao lớp lớp. Thi hứng về trên biển
thẳm cánh buồm mơ bạn ra đi. Thôi
bạn đi, hẹn bạn ngày quay trở lại,
cùng rong chơi, hứng gió mát hồ Hoàn
Kiếm trên tay áo rộng.
Tiễn ông họ Mai
người Liên Cừ từ Vị Hoàng
Gậy trúc ngày hè
xa cố đô,
Giang Nam thương
nhớ bóng xa mờ.
Hoàng giang mưa
điểm hương mai nở,
Vịnh phố rục
vàng thơ lúa thu.
Vời ngóng non
cao cây lớp lớp,
Hứng về biển
thẳm cánh buồm mơ,
Người đi hẹn ước
ngày quay lại,
Tay áo thung
thăng gió Kiếm Hồ.
|
Tống Liên Cừ Mai
Công phó Vị Hoàng
Hạ nhật huề cùng
xuất cố đô,
Giang Nam nam hạ
tứ du du.
Sơ mai hương đậu
Hoàng giang vũ,
Dã mạch tình
thâm Vịnh phố thu.
Vọng nhập tiền
sơn khan võng thu,
Hứng tùy thương
hải phiềm hư chu.
Lâm ký ước lược
quy lai nhật;
Mãn thụ thanh
phong phản Kiếm Hồ.
|
Thơ chữ
Hán Phạm Đình Hổ. Nhất Uyên dịch thơ.
Giang
Nam: do bài Giang Nam Ai Phú của Dữu
Tín người Nam Bắc Triều, tỏ lòng nhớ
quê, làm quan xa nhà lâu ngày không
về quê hương. Từ đó chữ Giang Nam có
nghỉa là lòng nhớ quê hương.
Thung
thăng: Tôi dùng lại chữ cổ của Phạm
Thái: Thung thăng phấn bướm dồi mai.
9..
Mai Sơn Phủ đi xa, trên đường đi gửi
về bài thơ Nguyệt Dạ Ca I , Bài Ca
Đêm Trăng.I
Trên
đường đi nhìn sương móc trắng xóa,
trăng sáng chiếu lấp lánh như hạt
châu. Sáng lấp lánh chiếu lại hồn ai
, Người yêu dịu dàng ơi, giờ nơi
phương trời, yêu nhau chẳng gặp lòng
bồi hồi. Miếu Thần Nữ Vu Sơn rêu
phủ, Đài Sở Vương mây trôi. Anh nhớ
những giây phút ân ái nồng nàn như
Thần Nữ Vu Sơn và Sở Tương Vương,
giờ không còn nữa, rêu phủ, mây
trôi.. Đêm trăng thu sáng như thế,
như những ngày ta gặp nhau dưới
trăng nơi Hồ Tây, nơi Cổ Nguyệt
Đường, Người yêu anh ơi, giờ em ở xa
xôi. (ngày xưa thích nói chuyện Thần
Nữ Vu Sơn với Sở Tương Vương, trong
thơ văn, tương tự như ngày nay thích
coi phim X)
Ca đêm
trăng I
Sương như châu,
kìa trăng sáng ngời,
Sáng lấp lánh
kìa chiếu hồn ai,
Người yêu
ơi! giờ nơi phương
trời !
Yêu chẳng gặp
lòng bồi hồi.!
Miếu Thần Nữ rêu
phủ,
Đài Sở Vương mây
trôi.
Trang trong sáng
như thế !
Người ta mơ
tưởng giờ nơi đâu
rồi.
|
Nguyệt dạ ca I
Lộ như châu hề
nguyệt như sai,
Thúc vãng lai hề
chiếu dư hoài.
Uyển cố nhân hề
thiên nhai !
Ai bất kiến hề
tâm bồi hồi !
Đài hoang Thần
Nữ miếu,
Vân tán Sở Vương
đài.
Minh nguyệt
quang như thử
Ngã tư chi nhân
hề, yên tại tai.
|
Thơ Mai Sơn Phủ, trong Lưu Hương Ký,
Nhất Uyên dịch thơ
Chú
thích:
Thần
Nữ miếu: Thần nữ núi Vu Sơn
Đài Sở
Vương: nơi Sở Tương Vương nằm mộng
thấy giao hoan cùng thần
nữ núi Vu Sơn.
9.
Nhận được thơ, Hồ Phi Mai họa ngay.
Hoa là chữ, nhụy là thơ. Ráng hồng
buổi hoàng hôn là xiêm, mây là áo.
Nơi nào cùng có hoa có nhụy, có ráng
chiều, có mây là nơi ta gặp nhau,
cùng gặp nhau lòng ta phơi phới.
Nhưng giờ đây thư chàng sao chậm
tới. Lòng em, lòng chàng như kẻ đầu
sông Tương, cuối sông Tương không
gặp nhau nhưng cùng uống nước sông
Tương.. Nỗi buồn em chất ngất như Lý
Bạch đứng dưới chân núi Thục. Đường
qua Ba Thục khó hơn lên trời xanh.
Vách núi dựng đá tai mèo lởm
chởm..Ngày tháng này lòng em như
không gốc rễ, lênh đênh như ngọn cỏ
bồng. Mình sẽ gặp lại nhau nơi nào,
bao giờ ?
Ca đêm trăng
II.
Hoa là chữ, này
nhụy là thơ,
Ráng là xiêm,
này mây làm áo,
Cùng gặp nhau,
chừ lòng ta phơi phới.
Lời thư sao chậm
tới,
Nghe sầu trôi
sông Tương,
Nỗi buồn chân
núi Thục.
Ngày tháng bật
rễ lòng,
Nơi nào gặp lại,
?
Biết hẹn khi nào
?
|
Nguyệt dạ ca II
Hoa kỳ tự hề ba
kỳ thi,
Hà vi thường, hề
vân vi y,
Diệc ký câu chỉ,
hề ngã tâm tắc di.
Ngữ hạt ký hề
thê trì.
Sầu lưu Tương
thủy thích,
Muộn áp Thục Sơn
đê,
Nhật nguyệt vô
căn hề,
Tình chi sở
chung ?
Bất tri kỳ kỳ.?
|
Thơ Hồ
Xuân Hương trong Lưu Hương Ký, Nhất
Uyên dịch thơ.
Chú
thích:
Tương
Giang: bắt nguồn từ núi Duyên, huyện
Hưng Yên tỉnh Quảng Tây. Kinh thi có
bài thơ: Chảng ở đầu sông Tương, Thiếp
ở cuối sông Tương. Cùng sông không gâp
mặt, Cùng uiống nước sông Tương.
Núi
Thục. Thục Sơn ở phía Đông Nam huyện
Tuyên Hưng Tỉnh Giang Tô.. Nhưng trong
bài này Xuân Hương nói đến núi Thục
trên đường đi qua Ba Thục của Lý Bạch.
10.
Nhưng rồi thời gian chờ đợi Mai Sơn
Phủ ngày càng dài, Xuân Hương sót
ruột viết lên hai bài Tự Thán.
Bài I.
Chàng mới đi chưa bao lâu, xa chàng
mới thấy rằng chữ duyên, những lời
thề hẹn chưa chắc sẽ thành như nắm
chắc trong tay. Tình hình thế sự
lòng dạ như lửa đốt: Tình hình chiến
tranh đang tiếp diễn, tháng ba năm
1801 Nguyễn Ánh đánh chiếm toàn
doanh Quãng Nam. Sau đó thừa thắng
tiến đánh Đà Nẵng. Đến tháng 5,
Nguyễn Ánh cho thủy quân tiến đánh
cửa bể Tư Dung, rồi thừa thắng kéo
vào Phú Xuân. Vua Quang Toản bỏ kinh
thành chạy ra Bắc, trận chiến tiếp
diễn tại Nghệ An, Quận Công Nguyễn
Văn Thận, Trấn thủ Tây Sơn tại Hà
Tĩnh thua chạy vào Thanh Hóa và bị
bắt giết. Tháng 5 năm Nhâm Tuất 1802
Nguyễn Ánh lập đàn ở đồng An Ninh,
Phú Xuân tế trời đất, lên ngôi đặt
niên hiệu Gia Long và tiến quân ra
Bắc. Thăng Long sẽ là nơi trận đánh
cuối cùng của Triều Tây Sơn trước
khi suy tàn, hứa hẹn một cuộc giao
tranh khốc liệt..Làng Nghi Tàm có
thể là nơi đóng quân, sẽ là một phen
lửa khói tơi bời. Tình hình thế sự
như thế, như lửa đốt mà tiếng đồn
đại, người đời lòng dạ đổi thay,
Xuân Hương muốn say để quên đi..
Tình duyên có được trọn vẹn chăng
trong muôn kiếp. Một đời nàng chịu
đựng quá nhiều tiếng chua cay của
miệng đời.Nỗi mình như thế, nỗi bạn
Mai Sơn Phủ ra sao ? Vì sao vắng bặt
tin, biết hỏi han cùng ai ?
Tự
thán I
Con
bóng đi về chốc bấy nay,
Chữ
duyên nào đã chắc trong tay.
Nghĩ
cùng thế sự lòng như đốt,
Trông
suốt nhân tình dạ muốn say.
Muôn
kiếp biết là duyên trọn vẹn,
Một
đời riêng mấy tiếng chua cay,
Nỗi
mình nỗi bạn dường bao nả,
Dám
hỏi han đâu những cớ này.
Thơ
chữ Nôm Hồ Xuân Hương trong Lưu
Hương Ký.
11.
Bài Tự Thán II cho thấy tâm trạng
buồn thảm của nàng: Mấy độ nay, Hồ
Xuân Hương như cái xác không hồn, đi
về lẩn thẩn. Vì đâu ta phải đeo đẳng
ở cái làng Nghi Tàm này. Uống chén
trà, nàng cứ nghe khát hoài, nàng cứ
uống để còn nghe giọng mình có còn
không, vì chẳng nói chuyện được với
ai.. Uống chén rượu mừng xuân năm
Nhâm Tuất, lòng dạ muốn say.. Nơi
quán trà quán sách của nàng, khách
xưa đến nồng ấm nay lạnh nhạt
! Tình người như nước mùa thu,
đã đầy rồi vơi đi.. Càng thương
chàng, càng thương thân phận mình.
Vì đâu mà duyên nợ phải ra thế này.
?
Tự
thán II.
Lẩn
thẩn đi về độ mấy nay,
Vì đâu
đeo dẳng với nơi này,
Ấm trà
tiêu khát còn nghe giọng,
Chén
rượu mừng xuân dạ thấy say,
Điếm
lữ trông chừng mây đậm nhạt,
Dòng
thu xem cở nước vơi đầy,
Thương
ai hẳn lại thương lòng lắm,
Này nợ
này duyên những thế này.
Thơ
chữ Nôm Hồ Xuân Hương trong Lưu
Hương ký.
Mối
tình Mai Sơn Phủ chấm dứt nơi đây.
Ta không biết Mai Sơn Phủ ra sao ?
Có ai lục trong gia phả họ Mai làng
Liên Cừ ở Vinh, để biết cuộc đời
chàng Mai chấm dứt ra sao ? Hoặc
phản bội lời thề với Xuân Hương Hồ
Phi Mai nên bị chết vì dao búa trong
chiến tranh. Hoặc bị cha mẹ hay vợ
cả thấy suốt ngày chỉ ngồi uống trà
xanh không và nhớ nàng nên cấm cửa,
bắt ra đồng cày ruộng nên không thể
nào trở lại Thăng Long học tiếp.
? Hoặc chết vì một cơn bạo
bệnh, một trận dịch ?
Có lẽ
một tin gì, làm Hồ Xuân Hương đau
điếng, không thể viết tiếp trang
tình sử với Mai Sơn Phủ.
Lúc
này, bỗng đâu có người học trò cũ
của cha đến thăm: Tổng Cóc Nguyễn
Công Hoà ở Vĩnh Phú, có thể rước
nàng về dạy học cho con. Trong cơn
túng quẩn: quán trà ế khách, lớp học
Cổ Nguyệt đường thiếu học trò, chiến
tranh sắp xảy ra tại Thăng Long. Gặp
anh học trò cũ của cha cũng từng vác
lều chỏng đi thi, xuớng họa vài câu
đáp cũng không đến nổi nào nên Hồ
Xuân Hương cũng
liều nhắm mắt đưa chân, Thử xem
con tạo xoay vần đến đâu. Năm
ấy năm 1802, nàng 30 xuân xanh.
Từ đây
khởi đầu một chương mới, Hồ Xuân
Hương gọi là : Thập
tải phong trần quán nhỉ linh. Mười
năm lận đận như ăn trộm bịt tai đi
trộm chuông. (Mời
các bạn đón xem trong số tới)
TS PHẠM TRỌNG CHÁNH
phamtrongchanh@free.
fr
Tiến
Sĩ Khoa Học Giáo Dục. Viện Đại Học
Paris V, Sorbonne,
nhà
thơ Nhất Uyên
Mời
các bạn tìm đọc những công trình
nghiên cứu của môn sinh, nối tiếp GS
Hoàng Xuân Hãn, nghiêm túc, công
phu, tài liệu phong phú, làm sụp đổ
toàn bộ các nghiên cứu, sách giáo
khoa về Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du,
Đoàn Thị Điểm trong cả thế kỷ 20.
Tìm
đọc hai tác phẩm vĩ đại và hay nhất
của nhân loại, cách chúng ta 3000
năm khó dịch, khó đọc nhất được diễn
ca bình dị trong ngôn ngữ Truyện
Kiều để người Việt Nam ai cũng đọc,
cũng thưởng thức được.
Bạn đã
đọc một Xuân Diệu say đắm yêu
thương, bạn hãy tìm đọc những bài
thơ tình đau đớn bi thương của Xuân
Diệu viết cho người yêu Bạch Diệp,
mà lúc sống ông không thể thổ lộ.Ông
ký thác toàn bộ sự nghiệp mình 575
bài thơ tình cho Nhất Uyên biên soạn
thành tự điển tình yêu.với 65 chương
mục.
Tìm
đọc tập thơ Tình một nhà thơ hải
ngoại, được hai nhà thơ lớn Việt Nam
Huy Cận, Xuân Diệu trân trọng viết
tựa giới thiệu..
Tác
phẩm:
- Hồ
Xuân Hương, nàng là ai ? Khuê Văn
Paris xb 2000.
-
Nguyễn Du, mười năm gió bụi, và mối
tình Hồ Xuân Hương. Khuê Văn Paris
2010
-
Truyện thơ Odyssée qua 12110 câu thơ
lục bát. Khuê Văn . Paris 2005.
- Sử
Thi Iliade qua 16933 câu thơ lục
bát. Khuê Văn Paris 2009.
- Tự
điển Tình Yêu bằng thơ Tình Xuân
Diệu (575 bài thơ tình,trong đó 300
bài chưa xuất bản do chính Xuân Diệu
ký thác) Khuê Văn Paris 2011.
- Thơ
Tình Nhất Uyên, Huy Cận, Xuân Diệu
đề tựa. Khuê Văn Paris. 2007.
- Chân
dung Đoàn Thị Điểm, toàn tập tác
phẩm. Khuê Văn Paris 2012..
|