Mộng Tuyết (1914-2007),
tên thật Thái
Thị Úc; là một nhà thơ, nhà báo Việt Nam nổi
danh từ thời tiền chiến.
Các bút hiệu khác của bà là: Hà
Tiên cô, Nàng Út, Bách Thảo Sương, Bân Bân
nữ sĩ, Thất Tiểu Muội. Mộng Tuyết là
thành viên của nhóm "Hà Tiên tứ tuyệt" gồm: Đông Hồ, Mộng Tuyết, Lư Khê và Trúc Hà.
Tiểu sử
Mộng Tuyết sinh
ngày 9 tháng 1 năm 1914 ở
làng Mỹ Đức, tỉnh Hà Tiên (nay
thuộc thị xã Hà Tiên,
tỉnh Kiên Giang).
Năm 12 tuổi, Mộng Tuyết bắt đầu tập
làm văn ở Trí
Đức Học Xá của
thi sĩ Đông Hồ. Các sáng tác trong thời
kỳ này, sau được tập hợp với nhan đề Bông
Hoa Đua Nở đăng
ở Nam Phong tạp
chí năm 1930.
Năm 1939,
Mộng Tuyết được bằng khen về thơ của Tự Lực Văn Đoàn với
thi phẩm Phấn
hương rừng, và bắt đầu nổi tiếng từ đó.
Năm 1943,
bà cùng với Anh Thơ, Vân Đài, Hằng Phương xuất
bản tập thơ Hương
xuân. Đây là tuyển tập thơ nữ đầu tiên ở
Việt Nam.
Những năm 50, bà cùng chồng là thi
sĩ Đông Hồ lên Sài Gòn mở
nhà sách, nhà xuất bản Bốn Phương, Yiễm Yiễm
thư trang.
Tháng 3 năm 1969,
chồng mất, bà lui về sống ẩn dật tại quận Tân Bình.
Sau năm 1995,
bà lui về sống đến hết đời tại Nhà
lưu niệm thi sĩ Đông Hồ ở
tại thị xã Hà Tiên.
Mộng Tuyết mất ngày 1 tháng 7 năm 2007 tại
Bệnh viện Đa khoa Kiên Giang.
Tác phẩm
- Phấn
hương rừng 1939,
được tặng giải “Khen tặng” của Tự Lực văn
đoàn
- Đường vào
Hà Tiên (tùy
bút, 1960)
- Nàng Ái
Cơ trong chậu úp (tiểu
thuyết lịch sử, 1961)
- Truyện cổ
Đông Tây (1969)
- Dưới mái
trăng non (thơ,
1969)
- Núi mộng
gương hồ (hồi
ký ba tập, Nhà xuất bản Trẻ, 1998)
Ngoài ra, bà còn dịch thơ và viết
khảo cứu văn học.
Thơ, tùy bút, truyện ngắn của bà
thường đăng trên các báo: Tiểu
thuyết Thứ Năm, Hà Nội Báo, Con Ong, Đông
Tây, Trung Bắc Chủ Nhật, Tri Tân, Gió Mùa,
ánh Sáng, Nhân Loại.
Nhận xét
Thủ
bút Mộng Tuyết (Hà Tiên, 2003)
Tuy viết nhiều thể loại, nhưng Mộng
Tuyết được biết chủ yếu như một nhà thơ. Thơ
của bà, như Hoài Thanh, Hoài
Chân từng
nhận xét:
- Còn
thơ, hoặc nhẹ nhàng dí dỏm, hoặc hàm xúc
lâm ly, hoặc nhớ nhung bát ngát, hoặc xôn
xao rạo rực, tổng chi là lời một thiếu nữ,
khi tình tự, khi đùa giỡn, khi tạ lòng
người yêu. Người xem thơ bỗng thấy lòng
run run như khi được đọc thư tình gửi cho
một người bạn: người thấy mình đã phạm vào
chỗ riêng tây của một tâm hồn, trong tay
như đương nắm cả một niềm ân ái[1].
Trong Văn
thi sĩ tiền chiến, Nguyễn Vỹ đánh
giá:
- Nhất
là văn xuôi, Mộng Tuyết viết rất ngọt
ngào, chải chuốt, ảnh hưởng nhiều bởi
những chuyện Tàu...Thơ của Mộng Tuyết cũng
khác thơ Đông Hồ, nó gói ghém nhiều thi tứ
hơn, ý nhị hơn[2].
Sách Tự
điển Tác gia Văn hóa Việt Nam khen
ngợi:
- Thơ
bà chuẩn mực, trong sáng, hồn nhiên đượm
vẻ ngọt ngào như tiếng nói dịu dàng của
những cô gái có học nơi khuê phòng...:Khởi
đi từ Bà
Huyện Thanh Quan, Đoàn
Thị Điểm, Tương
Phố...đến Mộng Tuyết... Tất cả đã để
lại cho đời những vần thơ nho nhỏ mà trác
tuyệt...[3]
Ngoài ra, Mộng Tuyết còn có những
vần thơ nhiều cảm xúc, nói lên sự kiện đau
thương mà anh dũng của dân tộc Việt như: "Mười
khúc đoạn trường", "Dưới cờ" (1945), "Chiếc lá
thị thành" (1947). Trích một đoạn:
- Đây
một tờ thư của thị thành
- Thả
về thăm hỏi chiến khu xanh.
- Hỡi
anh chiến sĩ mùa thu trước,
- Hơn
một mùa thu bận chiến tranh.
- Lẫm
liệt rừng thu gió tải về
- Bao
tờ lá đỏ chiến công ghi.
- Bao
tờ lá đỏ đề lời máu,
- Thề
quyết thành công một chuyến đi…
- (Chiếc
lá thị thành)
Mộng Tuyết và Đông Hồ là hai nhà thơ mới tiêu
biểu của miền Nam Việt
Nam
Nguồn:https://vi.wikipedia.org/wiki/M%E1%BB%99ng_Tuy%E1%BA%BFt