Tiểu sử
Nguyễn
Văn Trung sinh ngày 26/9/1930, là nhà giáo, nhà
văn - triết Việt Nam, bút hiệu khác: Hoàng Thái
Linh, Phan Mai. Sinh tại làng Thanh Hương, huyện
Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, trong một gia đình công
giáo đông con. Cha là Nguyễn Văn Tuynh, thầy thuốc
Bắc và mẹ là bà Thiệu Thị Tốt. Thuở nhỏ học trường
dòng Puginier ở Hà Nội. Khi chiến tranh Việt Pháp
bùng nổ, tản cư về Hà Đông học ở chủng viện Hoàng
Nguyên. Đến 1950, trở lại Hà Nội theo ban tú tài
văn chương ở trường Chu Văn An. Năm 1951, đỗ tú
tài I, được nhà dòng cấp học bổng du học ở Âu
Châu. Đến Toulouse rồi sang Bỉ học đại học
Louvain, đậu cử nhân triết học, theo ban tiến sĩ
triết học phần I. Cuối năm 1955 về Sài gòn, dạy
triết ở trường Chu văn An. 1956 kết hôn với cô
Trần Thị Minh Chi. Từ 1957, dạy triết tại đại học
Huế. 1961 trở lại đại học Louvain trình luận án
tiến sĩ và lấy bằng Tiến sĩ triết học, về nước
(1961) dạy triết và văn ở đại học Văn Khoa Sài
gòn. Khoảng 63-64, dạy đại học công giáo Đà Lạt.
Một thời gian sau, ông bị "đuổi" khỏi đại học
công giáo vì ảnh hưởng "độc hại" của cuốn Ca
tụng thân xác trên
sinh viên. Sau 1975, ông ở lại Đại học Văn
khoa, nhưng các giáo sư miền Nam cũ không được dạy
ba môn Văn, Triết, Sử nữa, ông chuyển sang nghiên
cứu. Năm 1993, sang định cư ở Montréal, Canada.
Sách đã xuất bản
Sách
giáo khoa: Luận lý học (tủ
sách Á Châu, 1957). Đạo đức
học (tủ sách Á Châu 1957). Luận
triết học tập I (nhà xuất
bản Nam Sơn). Phương pháp làm
luận triết học (nxb Nam
Sơn).
Tiểu
luận: Nhận định I (nxb
Nguyễn Du, 1958). Nhận định
II (nxb Đại học 1959). Nhận
định III, (nxb Nam Sơn, 1963). Nhận
định IV ( Nam Sơn, 1966). Nhận
định V (Nam Sơn, 1969). Nhận
định VI (Nam Sơn, 1972) .
Lý
luận văn học: Xây dựng
tác phẩm tiểu thuyết (Cơ
sở xuất bản Tự Do, 1962). Lược
khảo văn học tập I (Nam
Sơn 1963). Lược khảo văn học
II (Nam Sơn, 1965). Lược
khảo văn học III (Nam Sơn
1968).
Văn học và chính trị: Chủ nghiã
thực dân Pháp ở Việt Nam thực chất và huyền thoại (Nam
Sơn 1963). Chữ và văn quốc
ngữ thời kỳ đầu Pháp thuộc (Nam
Sơn, 1974). Trường hợp Phạm
Quỳnh (phỏng vấn những
người viết sách báo đương thời với Phạm Quỳnh, Nam
Sơn 1974). Chủ đích Nam
Phong (Trí Đăng, 1975). Vụ
án truyện Kiều (tập hợp
những bài viết trong vụ tranh luận về truyện
Kiều giữa Ngô Đức Kế và Phạm Quỳnh năm 1924, in
1972).
Triết học: Triết
học tổng quát (Vĩnh Bảo,
1957). Ca tụng thân xác (Nam
Sơn 1967). Hành trình trí
thức của Karl Marx (Nam
Sơn 1969). Đưa vào triết
học (Nam Sơn 1970). Góp
phần phê phán giáo dục và đại học (Trình
Bày, 1967). Ngôn ngữ và thân xác (Trình Bày, 1968). La
conception bouddhique du Devenir (Xã
Hội, 1962). Danh từ triết
học (làm chung với LM
Cao Văn Luận, Đào Văn Tập, Trần Văn Tuyên, LM
Xuân Corpet (nxb Đại học 1958).
Tôn giáo: Biện chứng giải thoát trong Phật giáo (nxb Đại học Huế,
1958). Người công giáo
trước thời đại (nhiều
tác giả) (Đạo và Đời, 1961). Lương
tâm công giáo và công bằng xã hội (Nam
Sơn, 1963).
Sau 1975: Câu
đố Việt Nam (nxb TP Hồ
Chí Minh, 1986). Những áng
văn quốc ngữ đầu tiên: Thầy Lazaro Phiền của
Nguyễn Trọng Quản (Đại
học sư phạm TP Hồ Chí Minh, 1987; nxb Hội Nhà
Văn tái bản). Về sách báo
của tác giả công giáo thế kỷ XVII- XIX (nhiều
tác giả, nxb TP Hồ Chí Minh 1993).
Bản thảo soạn sau 75, chưa in: Lục châu học, Ngôn
ngữ và văn học dân gian, Ăn
mặc theo truyền thống Việt Nam, Đạo
chúa vào Việt nam, Hồ
sơ về hàng giám mục Việt Nam, Trương
Vĩnh Ký con người và tác phẩm, Nhận
định VII, VIII.
Ở
hải ngoại, viết thêm Nhận
định IX và X.
Ngoài những tác phẩm liệt kê
trên đây còn hàng trăm bài báo đủ mọi thể loại,
in trên các báo hàng ngày như Tin sáng, Dân chủ
mới, Hoà bình... hoặc các tạp chí như: Văn học,
Bách khoa, Đại học, Sáng tạo, Thế kỷ XX, Đất
nước, Nghiên cứu văn học, Văn, Sống đạo, Hành
trình, Thái độ, v.v... chưa in thành sách.
Nguồn:
http://thuykhue.free.fr/stt/n/NguyenvanTrung01.html