Nguyễn Vỹ (1912[1]-1971)
là nhà báo, nhà thơ Việt Nam thời tiền chiến. Các bút hiệu khác của
ông là: Tân
Phong, Tân Trí, Lệ Chi, Cô Diệu Huyền.
Ông là tác giả hai bài thơ: "Gởi
Trương Tửu" và "Sương rơi", từng gây tiếng vang
trong nền thơ ca đương thời.
Tiểu sử
Nguyễn Vỹ sinh
tại làng Tân Hội (sau
đổi là Tân Phong, năm 1945 lại
đổi là Phổ Phong), huyện
Ðức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi. Cha ông tên Nguyễn
Thuyên[2] từng
làm quan ở huyện Tuy Phước tỉnh Bình Định, nhưng sau từ chức để
chống Pháp.
Mẹ ông là bà Trần Thị Luyến.
Ngoài ra, ông có người bác là Nguyễn
Tuyên từng bị nhà cầm quyền Pháp đày Côn
Đảo, anh họ là Nguyễn Nghiêm, thủ lĩnh phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh ở
Quảng Ngãi năm 1930,
sau bị giết hại tại tỉnh nhà.[2]
Ông từng theo học tại trường Trung học
Pháp-Việt ở Quy Nhơn 1924-1927,
rồi gián đoạn vì tham gia các cuộc vận động
chống thực dân, sau đó ông ra Bắc theo
học ban tú tài tại Hà Nội.
Năm 1934,
ông xuất bản tập thơ đầu tiên, tên là Tập
thơ đầu, gồm hơn 30 bài thơ Việt và thơ
Pháp. Thi phẩm này in ra không được nhiều thiện
cảm, bị cho là rườm rà, "nhiều chân" và là đối
tượng chê bai chính của Lê Ta trên
các báo.
Năm 1937,
Nguyễn Vỹ sáng lập tờ Việt-Pháp lấy tên là Le
Cygne, tức Bạch Nga. Báo này ngoài Nguyễn
Vỹ còn có nhà văn nổi tiếng bấy giờ là Trương Tửu cộng
tác. Sau do Nguyễn Vỹ có viết nhiều bài viết chỉ
trích đường lối cai trị của người Pháp nên tờ
báo bị đóng cửa, bị rút giấy phép vĩnh viễn. Còn
bản thân ông bị kết tội phá
rối trị an và phá hoại nền an ninh quốc gia,
bị tòa án thực dân tuyên phạt 6 tháng tù và
3.000 quan tiền.
Năm 1939,
Nguyễn Vỹ mãn tù lúc Pháp thất trận, quân Nhật vào
chiếm đóng nước Việt. Nguyễn Vỹ lại tranh đấu
chống Nhật, bằng cách soạn và cho xuất bản hai
quyển sách chống chế độ quân phiệt Nhật là: Kẻ
thù là Nhật Bản, Cái
họa Nhật-Bản.
Lần này, Nguyễn Vỹ lại bị nhà cầm
quyền Nhật bắt giam tại ngục Trà Khê (sau
này trong tạp chí Phổ
thông bộ mới, Nguyễn Vỹ có kể lại những
ngày sống trong tù ngục với tựa bài Người
tù 69).
Năm 1945, thế chiến thứ hai chấm
dứt, Nguyễn Vỹ ra tù, sáng lập tờ báo Tổ
quốc tại Sài Gòn, trong
ấy có những bài công kích chính quyền đương thời
nên chỉ ít lâu sau, báo này bị đóng cửa.
Sau đấy, Nguyễn Vỹ lại cho ra tờ Dân
chủ xuất
bản ở Ðà Lạt,
chống chính sách quân chủ lập hiến của Bảo
Ðại. Tồn tại chẳng bao lâu, đến lượt tờ
báo trên cũng bị đình bản.
Năm 1952,
một nhật báo khác cũng do Nguyễn Vỹ chủ trương
là tờ Dân
ta, sống được một thời gian, cuối cùng
cũng bị đóng cửa như các tờ báo trước.
Mãi đến năm 1958,
ông đứng ra chủ trương bán nguyệt san Phổ
Thông, chú trọng về nghệ thuật và văn học,
tạp chí này được kể là có nhiều uy tín đối với
làng báo miền Nam.
Ngoài ra, ông còn cho ra tuần báo Bông
Lúa, tuần báo thiếu nhi Thằng
Bờm.
Năm 1956,
Nguyễn Vỹ được mời làm cố vấn cho chính quyền
thời bấy giờ, nhưng chỉ ít lâu sau ông rút lui.
Trong khoảng thời gian này ông được phép tái bản
nhật báo Dân
ta (bộ
mới) nhưng đến năm 1965 cũng
lại bị đóng cửa và từ 1967 Nguyễn
Vỹ chỉ còn chủ trương tạp chí Phổ
Thông mà
thôi.
Vào ngày 4 tháng 2 năm 1971,
ông qua đời do tại nạn xe hơi trên đoạn đường
Tân An (thuộc tỉnh Long
An)-Sài Gòn, hưởng
dương 59 tuổi.
Tác
phẩm
- Tập thơ đầu -
Premières poésies (thơ Việt và Pháp), tác giả
xuất bản, Hà Nội, 1934
- Đứa con hoang
(tiểu thuyết) Nhà xuất bản Minh Phương, Hà
Nội, 1936
- Grandeurs et
Servitudes de Nguyễn Văn Nguyên (tập truyện
ngắn Việt Nam bằng Pháp văn) Nhà xuất bản Đông
Tây, Hà Nội, 1937
- Kẻ thù là Nhật
Bản (luận đề chính trị), Nhà xuất bản Thanh
Niên, Hà Nội, 1938
- Cái họa Nhật
Bản (luận đề chính trị), Nhà xuất bản Thanh
Niên, Hà Nội, 1938
- Đứng trước
thảm kịch Việt Pháp - Devant le drame Franco
Vietnamien, (luận đề chính trị bằng Việt và
Pháp văn) tác giả xuất bản, Đà Lạt 1947
- Hào quang Đức
Phật (luận đề tôn giáo) tác giả xuất bản, Đà
Lạt 1948
- Thi sĩ Kì
Phong (tiểu thuyết, 1938)
- Chiếc Bóng
(tiểu thuyết, Nhà xuất bản Cộng Lực, Hà Nội
1941)
- Chiếc áo cưới
màu hồng (tiểu thuyết), Nhà xuất bản Dân Ta,
Sàigòn 1957
- Người yêu của
hoàng thượng (tiểu thuyết, Nhà xuất bản Minh
Phương, Hà Nội 1958)
- Giây bí rợ
(tiểu thuyết), Nhà xuất bản Dân Ta, Sàigòn
1957
- Hai thiêng
liêng I
- Hai thiêng
liêng II (tiểu thuyết), Nhà xuất bản Dân Ta,
Sàigòn 1957
- Hoang vu (thơ)
Nhà xuất bản Phổ Thông, Sàigòn 1962
- Mồ hôi nước
mắt (tiểu thuyết), Nhà xuất bản Sống Mới,
Sàigòn 1965
- Những đàn bà
lừng danh trong lịch sử (biên khảo), Nhà xuất
bản Sống Mới, Sàigòn 1970
- Tuấn, chàng
trai nước Việt I
- Tuấn, chàng
trai nước Việt II, (chứng tích thời đại), Nhà
xuất bản Triêu Dương, Sàigòn, 1970
- Văn thi sĩ
tiền chiến (ký ức văn học), Nhà xuất bản Khai
Trí, sàigòn, 1970
- Buồn muốn khóc
lên (thơ) 1970
- Mình ơi (văn
hóa tổng quát) 1970
- Thơ lên ruột
(thơ trào phúng) 1971
Đánh giá
Bên cạnh những tập sách biên khảo có
giá trị như Văn
thi sĩ tiền chiến, Tuấn-chàng
trai nước Việt… Nguyễn Vỹ còn viết nhiều
bộ tiểu thuyết, nhưng được đánh giá là không
thành công[3].
Riêng về thơ, ông nhận được nhiều lời
khen chê. Trong Tập
thơ đầu (1934),
Nguyễn Vỹ có đăng vài bài theo lối 12 chân
(alexandrins), một lối thơ mới trên thi đàn Việt
Nam, nhưng không lạ gì đối với thi đàn phương Tây:
- Đến ngày nay
cảnh non sông đã phủ mấy lớp sương mù
- Mà còn rên dưới rễ
cỏ những vết hận lòng lai láng...
- (Gửi một thi sĩ
của nước tôi, Hà Nội báo, số 23, 1936)
Vì lẽ đó, Thế Lữ cho
rằng ông có
ý định toan lòe và bịp mọi người[4], còn Vũ
Ngọc Phan thì
viết: Với
thời gian, không một ai có thể bị cám dỗ mãi
về những cái tầm thường, chỉ cầu kỳ có bề mặt[5].
Giới thiệu Nguyễn Vỹ, Hoài Thanh và
Hoài Chân cũng đã viết như sau:
- Nguyễn Vỹ đã đến
giữa làng thơ với chiêng trống, xập xoèng
inh cả tai. Chúng ta đổ nhau xem. Nhưng
chúng ta lại tưng hửng trở vào vì ngoài cái
lối ăn mặc và những điệu bộ lố lăng, lúc đầu
ta thấy con người ấy không có gì...
Chê bai, nhưng ngay sau đó hai ông
cũng phải nhìn nhận:
- Một bài như bài
"Sương rơi" được rất nhiều người thích.
Người ta thấy Nguyễn Vỹ đã sáng tạo ra một
nhạc điệu riêng để diễn tả một cái gì đương
rơi. Cái gì đó có thể là những giọt
lệ...Nhưng "Sương rơi" còn có vẻ một bài
văn. "Gửi Trương Tửu" mới thực là kiệt tác
của Nguyễn Vỹ. Lời thơ thống thiết, uất ức,
đủ dãi nỗi bi phẫn cho cả một hạng người.[6].
Khác với các ý trên, Lan
Khai trong
báo Đông
Phương, Phạm Huy Thông trong
báo L’Annam
nouveau (báo
của Nguyễn Văn Vĩnh), Lê Tràng Kiều) trong Hà
Nội báo (số
23, ngày 10 tháng 6 năm 1936)
đều hết sức khen ngợi thơ Nguyễn Vỹ.
Ở Sài Gòn, trong
quyển Hồn
Thơ nước Việt thế kỷ XX[7] tác
giả Lam Giang đã
nhận định như sau:
- Phê bình Nguyễn
Vỹ, Hoài Thanh phát biểu một ý kiến võ đoán:
"Nguyễn Vỹ chí lớn mà tài nhỏ nên hay lập
dị, chứ thật sự ít có thành tích văn
chương". Tôi thiết tưởng cái công du nhập
đầu tiên lối thơ nhạc vào thi đàn Việt Nam,
giữa lúc rất nhiều người chỉ chăm lo đả kích
Luật Đường, chứ chưa sáng tạo được một thể
điệu gì mới, cũng đáng cho chúng ta nhìn tác
giả với một nhãn quang nhiều thiện cảm hơn.
Năm 1962,
tập thơ thứ nhì mang tên Hoang
vu ra
đời. Bình luận về tập thơ này, nhà văn Thiết Mai
trong tờ Sáng
dội miền Nam viết:
- Nguyễn Vỹ đã nếm
mùi tân khổ, gian lao...lại ở vào cảnh giao
thời của hai thế hệ, trong tình trạng bi đát
nhất của lịch sử nước nhà, nên Nguyễn Vỹ đã
trở thành con người rắn rỏi, yếm thế...rồi
đi đến tâm trạng căm hờn, biếm nhạo, khắt
khe, chua chát...Nhưng lúc trở lại với bẩm
tính vốn có, chúng ta thấy ông hiền dịu, đa
tình, đa cảm, thiết tha với một đời sống êm
đềm...
- Về tài thơ, ta
thấy thơ của ông được cấu tạo dễ dàng, không
gò ép...Điều đáng chú ý là ông như muốn đưa
những thể mới, có tác dụng gây xúc cảm, có
âm điệu du dương, hợp tình để gợi tình và tả
chân mạnh hơn. Thể mới ấy được thấy trong
các bài thơ: Sương rơi, Mưa rào, Tiếng
chuông chùa...
- Về ý thơ, Nguyễn
Vỹ đã có nhiều ý tưởng, nhiều câu văn táo
bạo (Hai người điên, Hai con chó, Trăng,
Chó, Tù, Đêm trinh...). Điều này khiến thơ
của ông thoát ra khỏi lối thường tình, cổ
điển và cũng chứng tỏ ông là con người có
nội tâm cứng rắn, thành thật, dám biểu lộ
tâm tư mình bằng những hình ảnh thiết thực
do lòng mình suy tưởng...
Đề cập đến Nguyễn Vỹ, trong Việt
Nam thi nhân tiền chiến (Quyển
Thượng) có đoạn:
- Nguyễn Vỹ góp
mặt vào làng thơ tiền chiến từ năm 1934,
thời kỳ thơ mới đang hồi phát triển mạnh mẽ.
Trong giai đoạn này, phần đông thi sĩ thường
đem khung cảnh lãng mạn, chuyện tình ái vào
thi ca...Nhưng với Nguyễn Vỹ, có thể nói nhà
thơ không lấy tình yêu làm đối tượng, vì thế
thơ ông có một đường nét độc đáo riêng biệt.
- Đọc Nguyễn Vỹ,
người ta cảm nhận những điều mỉa mai, chua
chát...là sự tức tối như muốn phá vỡ cái gì
trong hiện tại đang bị dồn ép, uất ức để nói
lên nỗi thống khổ của kiếp người...
- Thời tiền chiến,
thân phận Nguyễn Vỹ đã thế, nhưng với ý chí
phục vụ văn nghệ, trung thành đường hướng
vạch sẵn, ông, một nhà thơ từng chịu nhiều
cam go trên đường tạo lập văn nghiệp, đã
kiên trì xây dựng lại Trường thơ Bạch Nga
trong bán nguyệt san Phổ Thông từ Trung thu
năm 1962 và được nhiều bạn đọc hưởng ứng,
chứng tỏ lời nói trước kia của Lê tràng Kiều
là đúng: "Người ta công kích ta, chỉ chứng
tỏ là ta sống". Vậy, Nguyễn Vỹ ngày nay hãy
yên ổn với trường phái của mình."
- Nguyễn Vỹ là một
nhà thơ có thực tài. Ông có cái nhìn thường
xuyên vào thực trạng xã hội, theo dõi những
màu sắc biến đổi của nhịp sống dân tộc đã
chịu nhiều thảm họa; hòa lẫn vào đấy là tình
thương yêu đồng loại. Tiếng thơ của Nguyễn
Vỹ là tiếng nói chân thành phát xuất tự con
người còn nghĩ đến quê hương.[8]
Chú
thích
- ^ Theo Văn
Thi sĩ tiền chiến (tr.
6).Từ điển văn học (bộ
mới) ghi Nguyễn Vỹ sinh năm 1910.
- ^ a ă Cao Chư, "Các nhà
khoa bảng Nho học Quảng Ngãi". Nhà xuất
bản Đà Nẵng. Đà Nẵng. 2001. tr. 170 – 1.
- ^ Vũ
Ngọc Phan, Nhà
Văn hiện đại (tập
hai), phần Nguyễn Vỹ.
- ^ Nguyễn Tấn Long và
Nguyễn Hữu Trọng, tr.442.
- ^ Nhà văn hiện đại (tập
2), tr.1146.
- ^ Thi
nhân Việt Nam, tr.107-108
- ^ Hồn Thơ nước
Việt thế kỷ XX. Nhà xuất bản. Sơn
Quang, Sài Gòn, 1967.
- ^ Việt Nam thi
nhân tiền chiến (Quyển
Thượng), tr. 438, 448 và 460.
Nguồn:https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_V%E1%BB%B9