TÁC GIẢ
NHƯỢNG
TỐNG
Nhượng
Tống
Bách
khoa toàn thư mở Wikipedia
Nhượng Tống (1906-1949[1]), tên thật là Hoàng
Phạm Trân, vì bút danh Nhượng Tống nên
còn được gọi là Hoàng
Nhượng Tống. Ông là nhà văn, nhà báo, dịch giả và là nhà cách mạng Việt Nam.
Thân thế
Ông là người làng
Đô Hoàng, xã Yên Thành, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định.
Thân sinh ông là Hoàng Hồ, thi đỗ tú tài đời nhà Nguyễn,
nổi tiếng chống Pháp. Điều
này ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động chính trị
của ông sau này. Ngoài người cha ruột, ông còn
làm con nuôi ông Phạm Bùi Cẩm ở phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam.
Sinh ra trong một
gia đình Nho học, nên Nhượng Tống
được học chữ Hán ngay
từ nhỏ, sau mới tự học thêm chữ Quốc
ngữ và tiếng Pháp.
Mặc dù học lực rất uyên bác, nhưng ông không
có một văn bằng nào cả.
Hoạt
động cách mạng
Năm 1921, báo Khai
hóa ra đời, đã thấy
ông có bài đăng trên báo ấy. Kể từ đó, ông lần
lượt viết cho các báo: Nam
thành, Thực nghiệp
dân báo, Hồn cách
mạng, Hà Nội tân
văn...
Năm 1924, ông
làm trợ bút cho tờ Thực
nghiệp dân báo ở Hà Nội.
Năm 1926 Ông cùng
cụ Đồ Lê (thân sinh đại tướng Lê Trọng Tấn) tổ
chức lễ truy điệu nhà chí sĩ Phan Chu Trinh
tại đền thờ Hai Bà Trưng, có hàng vạn người
tham dự. [2]
Cuối năm 1926[3] hai
anh em nhà giáo là Phạm Tuấn Lâm, Phạm Tuấn Tài thành
lập Nam Đồng thư xã trên
đường Ngũ Xã[4] (Hà Nội), chuyên xuất bản
các sách tuyên truyền chủ nghĩa yêu nước. Sau
đó, Nhượng Tống đến tham gia, và trở thành một
thành viên nòng cốt [5].
Thời gian ông viết
và dịch hăng say nhất là khoảng thập niên 1940 với
những truyện dịch cũng như tác phẩm khác.
Tháng 10 năm 1927, Nguyễn Thái Học tham
gia Nam Đồng thư xã và
thành lập chi bộ để tiến tới thành một đảng
cách mạng. Song khác với Phạm Tuấn Tài, Phạm Tuấn
Lâm, Nguyễn Thái Học... Nhượng
Tống chủ trương "hòa bình cách mạng", tức
không ủng hộ tư tưởng "bạo lực cách mạng",
dùng "sắt và máu để giành lại độc lập dân
tộc."[6]
Ngày 25 tháng 12 năm 1927, Nhượng
Tống cùng với các đồng chí thành lập Việt Nam Quốc dân Đảng tại
làng Thể Giao, Hà Nội. Ông
là ủy viên trong Trung ương Đảng bộ với vai
trò trọng yếu trong việc biên soạn văn thư
tuyên truyền và huấn luyện đảng viên.[7]
Năm 1929, theo
kế hoạch của Nguyễn Thái Học, Nhượng Tống vào Huế gặp Phan Bội Châu, nhưng khi
trở ra khi thì bị Pháp đón bắt. Hội đồng đề
hình tuyên án ông 10 năm tù rồi đày ra Côn Đảo mãi
đến năm 1936 mới
được tha,[7] nhưng
vẫn chịu sự quản thúc tại quê nhà.
Khi ông đang ở nhà
lao Côn Đảo,
thì các đồng chí của ông tổ chức cuộc khởi nghĩa Yên Bái (1930), nhưng
bị thực dân Pháp đàn
áp và khủng bố.
Bị ám sát
Sau Cách mạng tháng
Tám, vào tháng 12 năm 1945, ba
đảng phái là: Việt Nam Quốc dân Đảng, Đại Việt Dân chính Đảng, Đại Việt Quốc
dân Đảng liên minh
thành Mặt trận quốc dân đảng Việt Nam, rồi cùng tham gia
vào Chính phủ Liên hiệp Việt Nam.
Tuy nhiên, đến cuối năm 1946, Pháp
tái chiếm liên bang Đông Dương, thì
Chính phủ Liên hiệp Việt Nam tan vỡ.
Năm 1947, hết
thời gian bị quản thúc, Nhượng Tống trở lại Hà Nội (1947), rồi
cùng với một số đồng chí tái tổ chức lại hoạt
động của Việt Nam Quốc dân Đảng tại
một số vùng do quân Pháp kiểm
soát.
Ngày 17 tháng 2 năm 1947, Việt
Nam Quốc dân đảng tham gia Mặt trận Quốc gia
Thống nhất Toàn quốc, chống lại chính quyền Việt Minh và
ủng hộ giải pháp Bảo Đại,
thành lập chính quyền Quốc gia Việt Nam. Ông làm
cố vấn cho Tổng trấn Bắc phần Nghiêm Xuân Thiện. Nhưng
rồi vì những mâu thuẫn trong giới chính khách Hà Nội, trong nội bộ Việt Nam Quốc dân Đảng, nên
đầu năm 1949, ông
lặng lẽ trở về hành nghề thầy thuốc Bắc tại
128 phố Chợ Hôm, Hà Nội.
Ngày 8 tháng 9 năm 1949, Nhượng
Tống bị công an mật Việt Minh tên
là Nguyễn Văn Kịch, người làng Mai Động, Quỳnh
Lôi, ngoại thành Hà Nội ám sát tại Hà Nội.[8]
Thư mục
Sáng tác
- Hai Bà
Trưng, đệ nhất anh thư (1926)
(?)
- Trưng
Vương, Hà Nội: Nam Đồng thư xã, 1927
- Đời trong
ngục, Nhà xuất bản Văn hóa mới, 1935
- Lan Hữu,
Hà Nội: Nhà in Lê Cường, 1940, tiểu thuyết
tình cảm lãng mạn, có tính tự truyện. Tái
bản sau 1975: Hà Nội: NXB Văn học và Công ty
CP Sách Tao Đàn, 2015.
- Nguyễn
Thái Học, Hà Nội, Tân Việt, 1945 (hồi
ký). In lần 2: 1949, lần 3, 1956, lần 4:
1973 đều do Tân Việt tại Sài Gòn; tái bản
sau 1975: NXB Hội nhà văn và Công ty Văn hóa
& Truyền thông Nhã Nam, 2014.
- Tân Việt
cách mệnh đảng, Việt Nam thư xã, 1945
- Hỗ trợ
thảo luận, tác giả xuất bản, Tân Việt
tổng phát hành, 1945
- Treo cổ
Hoàng Diệu
- Phất cờ
nương tử
- Hoa cành
Nam, Sài Gòn: Khai Trí, 1964, tập hợp
những bài viết của Nhượng Tống từ 1945 và
bạn bè viết về ông sau khi ông mất
Ngoài ra, ông còn
sáng tác một số bài thơ trong đó có những bài
đầy khí khái.
Dịch phẩm
- Khuất Nguyên, Ly tao,
1944 (in lại trong: Khuất Nguyên, Sở
từ, Đào Duy Anh và
Nguyễn Sĩ Lâm dịch, Hà Nội, Nhà xuất bản Văn
học, 1974). Tái bản sau 1975: Hà Nội: NXB
Văn học và Công ty Văn hóa & Truyền
thông Nhã Nam, 2015.
- Thơ Đỗ Phủ, Hà Nội: Tân
Việt, 1944. Tái bản sau 1975: Hà Nội: NXB
Văn hóa Thông tin, 1996.
- Sử ký Tư Mã Thiên,
Hà Nội: Tân Việt, 1944. In lần 2: Sài Gòn:
Tân Việt, 1964.
- Tái bản
có sửa chữa, bổ chú, lược khảo: Tư Mã
Thiên, Sử ký (Nhượng
Tống dịch văn, Lâm Tây Trọng bình giảng,
Nguyễn Duy Long hiệu khảo), Hà Nội, NXB
Văn học và Công ty CP Sách Bách Việt,
2021.
- Vương Thực Phủ, Mái
Tây (Tây sương ký),
Hà Nội: Tân Việt, 1944. In lần 2: Sài Gòn:
Tân Việt; in lần 3: Sài Gòn: Tân Việt, 1963;
tái bản sau 1975: Hà Nội: NXB Văn học, 1992;
NXB Văn hóa Thông tin, 1999.
- Trang tử, Nam Hoa kinh,
Hà Nội: Tân Việt, 1945. In lần 2: Sài Gòn:
Tân Việt, 1962; tái bản sau 1975: NXB Văn
học và Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây,
2001.
- Từ Chẩm Á, Dưới
hoa (đăng báo, chưa
đầy đủ).
- Dịch bổ
sung và xuất bản: Ngọc
lê hồn (Nhượng
Tống dịch, Dương Minh dịch bổ sung), Hà
Nội: NXB Văn học và Công ty CP Sách Tao
Đàn, 2016.
- Bả phồn
hoa. Tái bản sau 1975: Hà Nội: NXB Thế
Giới và Mai Hà Books, 2021.
- Tào Tuyết Cần, Hồng lâu
mộng, 1945
- Bồ Tùng
Linh, Liêu trai chí dị (đăng
báo một số truyện)
- Lão tử, Đạo đức kinh,
1945
- Khổng tử, Kinh Thư,
Sài Gòn: Tân Việt, 1963. Tái bản sau 1975:
Hà Nội: NXB Văn học, 2002.
Văn dịch ký bút
danh Mạc Bảo Thần:
Viết
về Nhượng Tống
- Tạp chí Văn
học, số chuyên đề Nhượng Tống, Sài
Gòn, phát hành ngày 01/12/1973.
- Yên Ba, Nhượng
Tống - Bi kịch con người giữa những xung
đột của thế kỷ XX, NXB Hội nhà văn và
Công ty Văn hóa & Truyền thông Nhã Nam,
2021.
Thơ
Nhượng Tống
- Cảm đề lịch sử
- Ba xứ non sông một giải liền,
- Máu đào xương trắng điểm tô
nên.
- Cơ trời dù đổi trò tang hải,
- Mặt đất chưa tàn nghiệp tổ
tiên.
- Có nước có dân đừng rẻ rúng;
- Muốn còn muốn sống phải đua
chen.
- Giựt mình nhớ chuyện nghìn năm
cũ;
- Chiêm, Lạp xưa
kia vốn chẳng hèn.
|
- Khóc Nguyễn Thái Học
- Nhục mấy trùng cao, ách mấy
trùng.
- Thương đời không lẽ đứng mà
trông.
- Quyết quăng nghiên bút xoay
gươm súng,
- Đâu chịu râu mày thẹn núi
sông.
- Người dẫu chết đi, lòng vẫn
sống,
- Việc dù hỏng nữa, tội là công.
- Nhớ anh nhớ lúc khi lâm biệt;
- Cười khóc canh khuya chén rượu
nồng.
|
- Cảnh nhà tù
- Hàng vạn con người áo một màu
- Khác nhau con số chẳng đều
nhau
- Xưa nay vẫn có câu bình đẳng[9]
- Bình đẳng là đây lọ phải cầu!
|
Nhận
xét (sơ lược)
Nhượng Tống đặc
biệt yêu quý Đỗ Phủ, như
ông tự nhận:
-
- Tôi biết đọc thơ từ thuở nhỏ,
- Trong thơ riêng thích thơ Đỗ
Phủ.
Lại do ưu tư vì
vận nước và hoạt động cách mạng gian truân,
mang mối đồng cảm với Khuất Nguyên, Đỗ Phủ...
nên ông dịch Ly tao,
những vần thơ hiện thực của Đỗ... hết sức
thành công, tái tạo được hồn thơ của nguyên
tác.
Bàn về sự nghiệp
văn chương của ông, nhà văn Vũ Ngọc Phan đã
khen rằng: "Nhượng Tống
có tâm hồn thi sĩ, nên quyển "Lan Hữu" gần
như là một tiểu thuyết tả một thứ ái tình lý
tưởng. Còn thơ ông có cái đặc sắc là bao giờ
cũng già giặn và thiên về tình cảm rất
nhiều...Ông quả là một nhà văn tài hoa, lãng
mạn và rất sở trường về dịch thuật".[10]
Thông
tin thêm
Ông có người em
trai út là Hoàng
Trung Tích, là Giám đốc ty Giáo dục Hà Nam Ninh.
Ông là anh họ của Chu Thiên tức
Hoàng Minh Giám, còn Hoàng Minh Chính (là
bộ đội hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ, tác
giả phần lời bài hát " Đi học") là con thứ của
người em trai thứ hai là Hoàng Trọng Huống,
gọi Nhượng Tống là bác.
Chú thích
- ^ Năm sinh và năm
mất của Nhượng Tống, chép theo Từ
điển văn học ([bộ
mới]. Nhà xuất bản Thế giới, 2004). Từ
điển các nhân vật lịch sử Việt Nam cho
là: 1904-1949. Lược
truyện các tác gia Việt Nam và Từ
điển bách khoa Việt Nam đều
cho là: 1897-1948. Tuy nhiên, theo
gia đình họ Hoàng thì năm sinh, năm mất
của ông là 1906-1949.
- ^ Từ Đội Tố đến Đại
tướng Lê Trọng Tấn, Báo Quân đội
Nhân dân, 7/2/2013
- ^ Ghi theo Đại
cương lịch sử Việt Nam (Tập
2, Đinh Xuân Lâm chủ biên, Nhà xuất bản
Giáo dục, 2006, tr. 275). Có nguồn ghi 1925.
- ^ Nay là nhà số 129
phố Trúc Bạch, Hà Nội.
- ^ Theo Đại
cương lịch sử Việt Nam (Tập
2, tr. 275). Văn Tâm trong Từ
điển văn học (bộ mới, tr. 1299) ghi
rằng Nhượng Tống cũng là một trong số
thành viên sáng lập Nam Đồng
thư xã.
- ^ Theo Đại
cương lịch sử Việt Nam (Tập
2), tr. 275.
- ^ a b Hoàng Văn Đào. Từ
Yên Bái đến các ngục-thất Hỏa-Lò,
Côn-nôn, Guy-an. Sài Gòn: Sống
Mới, 1957. tr 107-108.
- ^ Theo tác giả
Hoàng Văn Đào thì Nhượng Tống đã bị
Nguyễn Văn Kịch, biệt động nội thành của
Việt Minh ám sát ngày 20 tháng
8 năm 1949,
tức 26 tháng 7 âm
lịch năm Kỷ
Sửu (theo Việt
Nam Quốc Dân Đảng, Lịch sử Đấu tranh
Cận Đại 1927-1954, tr. 466-467 và
ở đây:[1] Lưu trữ 2009-03-28
tại Wayback
Machine).
- ^ Khẩu hiệu tiêu
biểu của Cộng hòa Pháp là "Bình đẳng, Tự
do, Bác ái"
- ^ Lược theo Vũ Ngọc Phan, Nhà
văn hiện đại (Tập
2). Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội,
1989, tr. 1105.
Nguồn:https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C6%B0%E1%BB%A3ng_T%E1%BB%91ng
THƯ MỤC
Nhóm mạng Việt
Nam Văn Hiến
www.vietnamvanhien.net
(Tin tức cập nhật
thường xuyên)
www.vietnamvanhien.org (Thuần ngữ, tải nhanh)
www.vietnamvanhien.com (Kinh tế & Tài chánh)
www.vietnamvanhien.info (Tủ Sách
Văn Hiến, có hơn 11200
Tác phẩm )
Email:thuky@vietnamvanhien.org
Lấy Tâm Lực thay
cho vũ lực để giải trừ quốc nạn là phục hoạt
nếp sống Văn Hiến và
phục hồi nền "An Lạc & Tự Chủ" ngàn đời
cuả Việt tộc.
Lấy
Nhân Tâm làm phương tiện, dụng Dân Tâm làm
quốc sách "An Dân & Lạc Quốc" là
kim chỉ nam cuả thể chế Dân Chủ Văn
Hiến.
|