Phạm Quỳnh (17
tháng 12 năm 1892 - 6
tháng 9[1] năm 1945)
là một nhà văn hóa, nhà
báo, nhà văn và quan đại thần triều
Nguyễn (Việt Nam). Ông là
người đi tiên phong trong việc quảng bá chữ Quốc ngữ và
dùng tiếng
Việt -
thay vì chữ Nho hay tiếng
Pháp -
để viết lý luận, nghiên cứu. Ông có tên hiệu là Thượng
Chi, bút danh: Hoa
Đường, Hồng
Nhân.
Ông được xem là người chiến
đấu bất bạo động nhưng không khoan nhượng cho chủ
quyền độc lập, tự trị của Việt Nam, cho việc khôi
phục quyền hành của Triều
đình Huế trên
cả ba kỳ (Bắc, Trung, Nam),
chống lại sự bảo hộ của Pháp và kiên trì chủ
trương chủ nghĩa quốc gia với thuyết Quân chủ lập hiến [2].
Tiểu sử
Phạm Quỳnh sinh
tại số 17 phố Hàng Trống, Hà
Nội; quê quán ở làng Lương Ngọc (nay thuộc
xã Thúc Kháng), phủ Bình
Giang, tỉnh Hải
Dương, một làng khoa bảng, có truyền thống
hiếu học. Mồ côi mẹ từ 9 tháng tuổi, mồ côi cha từ
khi lên 9 tuổi; Phạm Quỳnh côi cút được bà nội
nuôi ăn học.
Phạm Quỳnh học giỏi, có học
bổng, đỗ đầu bằng Thành chung (tốt nghiệp) Trường
trung học Bảo hộ (tức trường Bưởi,
còn gọi là trường Thông ngôn).
Hoạt
động báo chí, văn hóa xã hội
Năm 1908,
Phạm Quỳnh làm việc ở Trường Viễn Đông Bác cổ tại
Hà Nội lúc vừa tuổi 16.
Từ năm 1916, Ông tham gia
viết báo cho một số tờ có uy tín đương thời; làm
chủ bút kỳ cựu của Nam Phong tạp chí từ
ngày 1 tháng 7 năm 1917cho
đến năm 1932; tuyên truyền cho tư tưởng "Pháp Việt
đề huề".
Cũng trong thời kỳ 1924-1932,
ông còn là giảng viên Trường Cao đẳng Hà Nội.
Ngày 2
tháng 5 năm 1919,
ông sáng lập và là Tổng Thư ký Hội Khai trí Tiến Đức, Trần
Trọng Kim là
Trưởng ban Văn học của Hội; và Hội trưởngHội Trí tri Bắc Kỳ.
Năm 1922, với tư cách đại
diện cho Hội Khai trí Tiến Đức, ông đã sang Pháp
dự Hội chợ triển lãm Marseille rồi
diễn thuyết cả ở Ban Chính trị và Ban Luân lý Viện Hàn lâm Pháp về
dân tộc giáo dục.
Năm 1924, ông được mời làm
giảng viên Khoa Bác ngữ học, Văn hóa, Ngữ ngôn Hoa
Việt, Trường Cao đẳng Hà Nội, trợ bút báo France - Indochine.
Từ năm 1925 - 1928, Phạm
Quỳnh là Hội trưởng Hội Trí tri Bắc Kỳ; năm 1926,
ông làm ở Hội đồng Tư vấn Bắc Kỳ và đến năm 1929
được cử vào Hội đồng Kinh tế và Tài chính Đông
Dương.
Năm 1930, Phạm Quỳnh đề xướng
thuyết lập hiến, đòi hỏi người Pháp phải thành lập
hiến pháp, để quy định rõ ràng quyền căn bản của
nhân dân Việt Nam, vua quan Việt Nam và chính
quyền bảo hộ.
Năm 1931, ông được giao chức
Phó Hội trưởng Hội Địa dư Hà Nội. Năm 1932, giữ
chức Tổng Thư ký Ủy ban Cứu trợ xã hội Bắc Kỳ.
Thượng
thư Nam triều
Ngày 11 tháng 11 năm 1932,
sau khi Bảo
Đại lên
làm vua thay Khải
Định, ông được triều đình nhà Nguyễn triệu
vào Huế tham gia chính quyền Bảo
Đại, ông thôi không làm chủ bút Nam phong
Tạp chí nữa. Tại Huế thời gian đầu ông làm việc
tại Ngự tiền Văn phòng, sau đó làm Thượng
thư Bộ Học và
cuối cùng giữ chức vụ Thượng thư Bộ
Lại (1944-1945).
Trong một bài viết trên báo
Sông Hương, ông đã đả phá Trần
Trọng Kim và
các sử gia phong kiến khi cho Triệu Đà là
vua của nước Nam. theo ông "quốc sử phải lấy dân
tộc làm nền", "sử gia phong kiến tôn y (Triệu Đà)
là ông vua khai quốc, ấy là đã làm một việc vô
nghĩa...Hoặc có ai ngờ cho tôi sở dĩ cái kiến giải
nầy là tại quá trọng về quốc gia chủ nghĩa, và
cũng bởi cái chủ nghĩa ấy khích thích nên tôi mới
viết bài này"[3].
Cuối đời
Ngày 9
tháng 3 năm
1945, Nhật đảo
chính Pháp. Chính phủ Trần Trọng
Kim được
thành lập. Ông về sống ẩn dật ở biệt thự Hoa Đường
bên bờ sông đào Phủ Cam, Huế.
Ông bị Việt
Minh bắt
giam ngày 23 tháng 8 năm 1945 và
giam ở lao Thừa Phủ, Huế.
Ông bị giết sau đó cùng với
nguyên Tổng đốc Quảng Nam Ngô
Đình Khôi (anh
ruột Ngô
Đình Diệm) và Ngô Đình Huân (con trai của
Ngô Đình Khôi).
Di hài ông được tìm thấy năm
1956 trong khu rừng Hắc Thú, và được cải táng ngày
9 tháng 2 năm 1956 tại Huế, trong khuôn viên chùa
Vạn Phước.[4]
Thông tin về ai đã ra lệnh
giết ông được lý giải theo nhiều giả thuyết khác
nhau.
Cái
chết của Phạm Quỳnh
- Cuốn Tác
gia văn học Thăng Long Hà Nội từ thế kỷ XI đến
giữa thế kỷ XX, mục về Phạm Quỳnh
(1892-1945) cũng có một dòng: Đến Cách mạng Tháng
Tám 1945
chính quyền nhân dân khép án tử hình[2].
- Có lệnh cấp tốc
di dời Ngô Đình Khôi và
Phạm Quỳnh ra khỏi cố đô đề phòng những chuyện
bất trắc không hay sau này. Nhóm du kích áp tải
đến một quãng rừng cách xa Huế thì nghe tiếng
tàu bay Pháp ầm ì trên đầu tưởng đâu như tiếng
máy bay thả biệt kích. Sợ không hoàn thành trách
nhiệm di dời nên nhóm áp tải đã tự động thủ tiêu
cả ba người mà không chờ chỉ thị của cấp trên[2]. Giả thuyết này không
đề cập đến cấp trên là ai hay cơ quan nào ra
lệnh[2].
- Có người cho
rằng trong số người đi áp tải đó có người nhà
Thượng thư Nguyễn Hữu Bài, người có mối hiềm
từ lâu với Phạm Quỳnh nên đã lợi dụng việc này
mà giải quyết ân oán[2].
- Có nguồn tin, vì
Pháp cho biệt kích tìm Phạm Quỳnh nhưng nhóm này
bị bắt và để lộ thông tin, và Phạm Quỳnh bị dân
quân địa phương (Hiền Sĩ, Thừa Thiên, Huế)
giết. Nhà văn Thái Vũ lý giải:
- Mà
lúc ấy trong dân chúng, buổi đầu cách mạng,
cũng là trong ngày đầu chính quyền mới do dân
làm chủ thì mấy tiếng Việt gian,
diệt Việt gian kèm theo hành động lan truyền…
khắp mọi nơi, nhất là đối với những người có
"thành tích" thân Pháp.
- Mà
hai cụ họ Phạm và Ngô thì rõ ràng quá, tránh
sao lúc trong dân, chỉ mới hưởng 1 ngày đầu
chính quyền cách mạng, còn căm thù bọn thống
trị Pháp và đám tay chân người bản xứ của
chúng, có hành động manh động. Đó hẳn là "nỗi
uẩn khúc" cuối cùng của ông chủ báo Nam Phong…[5].
Di
sản
Phạm Quỳnh được coi là người
đi tiên phong trong việc dùng tiếng Việt để viết
lý luận. Dương
Quảng Hàm đánh
giá các công trình của ông là đã "luyện cho
tiếng ta có thể diễn dịch được các lý thuyết,
các ý tưởng về triết học, khoa học mới."[7]
Trước đây, cũng có nhiều
người cho rằng ông gắn bó với các chủ trương chính
trị của thực dân Pháp. Ông bị coi là "ru ngủ"
thanh niên trí thức trong cái "hồn nước" mơ hồ,
khiến họ đi chệch khỏi chí hướng làm cách mạng
chống Pháp. Trong một thời gian dài, quan điểm
chính thống của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam gọi ông là tay sai
đắc lực của Pháp.[8]
Gần đây, tại Việt Nam bắt đầu
có sự đánh giá công bằng hơn. Từ
điển Văn học bộ mới (2004)
coi ông là người có tinh thần dân tộc, ôm ấp một
chủ nghĩa quốc gia theo xu hướng ôn hòa, lấy việc
canh tân văn hóa để làm sống lại hồn nước. Kể từ
năm 2000,
nhiều tác phẩm của Phạm Quỳnh đã được xuất bản tại
Việt Nam:
- Mười ngày ở
Huế, Nhà xuất bản Văn học - 2001
- Luận giải Văn
học và Triết học, Nhà xuất bản Thông tin,
2003
- Pháp du hành
trình nhật ký, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn,
2004
- Thượng Chi
văn tập, Nhà xuất bản Văn học, 2007
- Du ký Việt
Nam, Nhà xuất bản Trẻ, 2007
- Phạm Quỳnh -
Tiểu luận viết bằng tiếng Pháp, Nhà xuất
bản Tri thức, 2007 (gồm những bài diễn thuyết,
bài báo ông viết bằng tiếng Pháp từ 1922 đến 1932)
Theo nhạc sĩ Phạm
Tuyên -
con trai của học giả Phạm Quỳnh, vào mùa thu năm 1945, Hồ
Chí Minh đã
nói với hai người chị của ông là Phạm Thị Giá và
Phạm Thị Thức rằng: "Cụ
Phạm là người của lịch sử, sẽ được lịch sử đánh
giá lại sau này. Con cháu cứ vững tâm đi theo
cách mạng". [9]
Tác phẩm
Ông là tác giả và dịch giả
nhiều bài viết và sách văn học, triết học, cách
ngôn, ngụ ngôn, tuồng hát tiếng Pháp dịch ra tiếng
Việt và tùy bút. Gần như toàn bộ các tác phẩm của
ông đều đăng trên tạp chí Nam Phong. Nhiều bài sau
đó in lại thành sách do Đông Kinh ấn quán ở Hà Nội
xuất bản.
Các tác phẩm của ông có thể
chia làm ba loại:
Dịch thuật
Bao gồm các tác phẩm luận
thuyết, phương pháp luận, sách cách ngôn, kịch bản
và thơ văn...; Ông dịch các đoạn văn và tác phẩm
từ tiếng Pháp, chủ yếu thiên về triết học, như
triết học của Descartes.
Tuy nhiên, ông cũng có dịch một số tác phẩm nghệ
thuật như kịch của Corneille.
Khảo luận
Phần quan trọng nhất trong
các tác phẩm của Phạm Quỳnh là các tác phẩm khảo
cứu.[cần dẫn nguồn] Ông
nghiên cứu trong các sách chữ nho, sách tiếng
Pháp, và viết lại những bài chuyên khảo bằng tiếng
Việt. Có ba ngành ông chú trọng, là:
- Các học thuyết
Âu Tây, như trong Văn
minh luận, Khảo
về chính trị nước Pháp, Lịch
sử và học thuyết của Rousseau, Lịch
sử và học thuyết của Montesquieu, Lịch
sử và học thuyết củaVoltaire, v.v.
- Học thuật Á
Đông, những bài về triết học và tôn giáo Á Đông
như Phật
giáo lược khảo, Cái
quan niệm người quân tử trong triết học đạo
Khổng, v.v.
- Văn hóa Việt
Nam, với chủ đề trải rộng từ Tục
ngữ ca dao, tới Việt
Nam thi ca, tới Văn
chương trong lối hát ả đào.
Nhiều tác phẩm của ông liên
kết những học thuật Âu Tây và phân tích, so sánh
chúng với các khái niệm quen thuộc của người Việt
Nam. Như trong bài Cái
quan niệm người quân tử trong triết học đạo
Khổng ông
có phần phân tích và so sánh giữa quan niệm người
quân tử của đạo Khổng và người "chính nhân" (là
chữ ông dùng cho l'honnête
homme) trong văn hóa Pháp. Hay như ông có
những bài Văn
hóa Pháp đối với tiền đồ nước Nam hoặc Công
cuộc chấn chỉnh quốc gia ở nước Pháp và khôi
phục cổ điển ở nước Nam.
Văn du ký
Ông viết nhiều du ký ghi lại
những điều quan sát, nhận định, nghị luận trong
các chuyến du lịch đi Pháp và đi các vùng đất Việt
Nam như:
- Mười ngày ở
Huế (1918)
- Một tháng ở
Nam Kỳ (1919)
- Pháp du hành
trình nhật ký (1922)
Một
số tác phẩm chính
Cái quan-niệm
của người quân-tử trong triết-học Đạo Khổng in
năm 1928
- Văn minh luận
- Ba tháng ở
Paris
- Văn học nước
Pháp
- Chính trị
nước Pháp
- Khảo về tiểu
thuyết
- Lịch sử thế
giới
- Lịch sử và
học thuyết Voltaire
- Phật giáo đại
quan
- Cái quan niệm
của người quân tử trong Đạo Khổng
- Thượng Chi
văn tập gồm
5 quyển, Nhà xuất bản Alexandre de Rhodes Hanoi
ấn hành năm 1943.
Về
sách in sau này ở Việt Nam
- Mười ngày ở Huế,
Nhà xuất bản Văn học - 2001
- Luận giải Văn
học và Triết học, Nhà xuất bản Thông tin, 2001
- Pháp du hành
trình nhật ký, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, 2004
- Thượng Chi văn
tập, Nhà xuất bản Văn học, 2007
- Du ký Việt Nam,
Nhà xuất bản Trẻ, 2007
- Phạm Quỳnh -
Tiểu luận viết bằng tiếng Pháp, Nhà xuất bản Tri
thức, 2007 (gồm những bài diễn thuyết, bài báo
ông viết bằng tiếng Pháp từ 1922 đến 1932)