Phạm Thiên Thư tên
thật là Phạm
Kim Long (1 tháng 1 năm 1940-)
là một nhà thơ Việt Nam.
Ông từng đi tu và rồi hoàn tục, nên có kiến
thức khá thâm thúy về đạo Phật.
Ông được coi là "người thi hóa kinh Phật" (dịch
kinh Phật ra thơ) và là tác giả của nhiều bài
thơ phảng phất triết lý mà ông đã tin theo.
Nhiều thơ của ông được nhạc sĩ Phạm Duy phổ
nhạc, và trở nên phổ biến trong công chúng, có
thể kể đến Ngày
xưa Hoàng Thị, các bài Đạo ca...
Tiểu
sử vắn tắt
Phạm Thiên Thư sinh
tại Lạc Viên, Hải
Phòng trong
một gia đình Đông y. Năm 1943-1951,
ông sống ở trang trại Đá Trắng, Chi Ngãi, Hải Dương. Năm 1954 cho
đến nay, ông cư ngụ ở Sài Gòn .
- Từ 1964-1973:
tu sĩ Phật
giáo, làm thơ. Trong năm 1973,
ông đoạt giải nhất văn chương toàn quốc với
tác phẩm Hậu
truyện Kiều-Đoạn trường Vô Thanh[1].
- Năm 1973-2000:
Nghiên cứu, sáng lập và truyền bá môn dưỡng
sinh Điện công Phathata (viết tắt chữ
Pháp-Thân–Tâm)...
Tác
phẩm đã in
- Thơ Phạm
Thiên Thư (1968)
- Kinh Ngọc
(thi hoá Kinh
Kim Cương)
- Động Hoa
Vàng (Thơ, 1971)
- Đạo ca (Nhạc Phạm
Duy)
- Hậu Kiều - Đoạn
Trường Vô Thanh (1972)
- Kinh thơ
(thi hoá Kinh
Pháp Cú)
- Quyên Từ Độ
Bỏ Thôn Đoài (Thơ)
- Kinh Hiếu
(thi hóa kinh ?)
- Kinh Hiền
(thi hoá Kinh Hiền Ngu, gồm 12.000 câu lục
bát)
- Ngày xưa
người tình (thơ)
- Trại Hoa
Đỉnh Đồi (thơ, 1975)
- Thơ Phạm
Thiên Thư (Nhà xuất bản. Đồng
Nai tái
bản)
- Tự điển cười
(24.000 bài tứ tuyệt tiếu liệu pháp. Năm
2007, Trung tâm Sách và Kỷ lục Việt Nam đã
trao cho ông kỷ lục là người đầu tiên viết
Từ điển cười bằng thơ)
- Vua núi vua
nước (tức Sơn
Tinh Thủy
tinh, Nhà xuất bản. Văn hóa Thông tin,
2003).
Cõi
thơ Phạm Thiên Thư
Trong bài Phạm
Thiên Thư, người thi hóa kinh Phật, Hà
Thi viết:
- Nhà thơ họ Phạm
này tuy xuất hiện khá muộn (1968), nhưng
cũng đã đóng góp vào văn học khá nhiều tác
phẩm, đặc biệt là những thi phẩm ở dạng khá
độc đáo: thơ đạo! Một trong những tác phẩm
ấy của Phạm Thiên Thư đã được giải thưởng
Văn Học Toàn Quốc (miền
Nam Việt Nam) vào năm 1973 (tác phẩm
Đoạn Trường Vô Thanh). Một số thơ của ông
được phổ thành ca khúc đã mang lại một số
đông công chúng yêu thích thơ ông: Em
lễ chùa này, Ngày Xưa Hoàng Thị, Động Hoa
Vàng, Gọi Em Là Đóa Hoa Sầu...Thơ Phạm
Thiên Thư cứ vấn vít nửa đời nửa đạo thật
khác thường, làm cho độc giả ngẩn ngơ, bất
ngờ...Thế giới thi ca Phạm Thiên Thư giúp
chúng ta khám phá thêm những cửa ngõ mới lạ,
phong phú về tôn giáo, tình yêu và thiên
nhiên.[2]
Hoàng Nguyên Vũ trong bài Cõi
lạ Phạm Thiên Thư còn
cho biết thêm:
- Nhà thơ Phạm
Thiên Thư sinh trong một gia đình bố mẹ làm
nghề bốc thuốc nhưng thích thơ văn. Tuổi thơ
của ông khá êm đềm. Những điều đó chỉ cho
ông được những tiền đề thuận lợi, nhưng để
một tài thơ bật hẳn lên thì phải là từ năm
1958, sau một biến động của cuộc đời...
- Chuyện là ông có
nhóm bạn thơ họa Hồ
Quý Ly, tụ tập đàn đúm thơ phú đêm
ngày. Thấy đám văn nghệ sĩ này cứ "ương ương
dở dở", cảnh sát chế độ Sài Gòn cũ đã vây
bắt. Ông phải ẩn tu vào một ngôi chùa. Đi
tu, thực ra với ông không hẳn là tìm một
chốn nương náu, mà ông ngộ ra một điều, ông
đã tự tìm cho mình một cõi riêng, một kiểu
tu hành riêng...
- Ông viết Động hoa
vàng những ngày đầu ngấm giáo lý nhà Phật,
như đánh dấu mình vào một cõi của chính mình
trong thi đàn. Dĩ nhiên, Động hoa vàng chưa
hẳn là tác phẩm xuất sắc nhất trong đời viết
của Phạm Thiên Thư, nhưng nó đã làm nên một
"thương hiệu" của Phạm Thiên Thư. Những câu
thơ đẩy cái đạo đời bềnh bồng trên cõi Phật,
làm hiện hữu cái cuộc đời đáng sống trên cái
mênh mang bao la của phù vân hư ảo:
- Đợi nhau tàn
cuộc hoa này
- Đành như cánh
bướm đồi tây hững hờ
- Tìm trang lệ ố
hàng thơ
- Chữ xưa quyên
giục bây giờ chim đi...
- Nhiều người đã
cho rằng Phạm Thiên Thư đi tu mà lòng vẫn
hướng về cõi tục. Ông chỉ cười: "Tôi tu theo
cách của mình, tu để sống cuộc đời của mình,
nuôi dưỡng lối tư duy và trí tuệ của mình".
Quả thực là từ cõi Phật, ông đã làm được
những điều đáng nể: thi hóa kinh Phật, sáng
tác những thi phẩm hay và đẹp thuộc diện
hiếm hoi trong văn học Việt Nam...Thơ của
ông được nhiều người có tên tuổi trong giới
và rất nhiều bạn đọc mến mộ...[3].