Năm
Thứ 4889
www.vietnamvanhien.net
Tưởng
Niệm Nhà Cách Mạng
Phan Chu Trinh
Ngày 24 tháng 3 Dương lịch
Nam Phong tổng hợp
Mục Lục
Tiểu Sử Phan Chu Trinh
Xây Dựng Con Người Tự Chủ , Để
Dân Tộc Tự Chủ - Nguyên Ngọc
Tư Tưởng Lập Hiến Cuả Phan Chu
Trinh - Phan
Đăng Thanh
Giỗ Thứ 85 cuả Cụ Phan Chu Trinh
- Nguyễn
Quư Đại
|
Phan Chu Trinh
(1872-1926)
Tiểu Sử PHAN CHU TRINH
Phan Chu
Trinh sinh năm Nhâm Tuất (1872) niên
hiệu Tự Đức 26, tự là Tử Can, hiệu là
Tây Hồ, biệt hiệu là Hy Mă, quê ở xă Tây
Lộc, huyện Tiên Phước, phủ Tam Kỳ, tỉnh
Quảng Nam .Thân phụ ông là Phan Văn
B́nh, theo nghề vơ và đă tích cực chiến
đấu trong hàng ngũ Cần Vương . Thân mẫu
là Lê Thị Chung, con một nhà thế gia
vọng tộc tại làng Phủ Lâm rất tinh thông
Hán học và có nhiều đức hạnh .Thuở thiếu
thời Phan Chu Trinh được hiền mẫu ân cần
chăm sóc, trong khi phụ thân măi lo công
việc vơ biền . Chẳng may mẹ mất sớm, v́
cha phải bận với vơ nghiệp, ít săn sóc
đến việc học hành hành nên măi đến năm
lên 10, Phan Chu Trinh mới được vào
trường học tập.V́ mối t́nh yêu nước sớm
nẩy nở trong trí của Phan Chu Trinh nên
trong lúc các bạn đồng học chăm chỉ ngốn
những lời giảng dạy của thầy để nhồi vào
óc đạo lư và chữ nghĩa của Thánh hiền,
ông tỏ ra rất xao lăng, thờ ơ . Do đó,
trong suốt ba năm liền học tập, Phan Chu
Trinh chỉ học lấy lệ Năm 1885, kinh
thành Huế thất thủ, vua Hàm Nghi phải
chạy trốn ra Quảng Trị . Các đạo Cần
Vương kháng Pháp nổi lên khắp các nơi .
Để cho Phan Chu Trinh có một nghề hợp
khả năng và cũng đồng thời được đắc dụng
trong buổi non sông nghiêng ngửa, thân
phụ ông cho ông theo học nghề vơ . Lúc
bấy giờ thân phụ ông được cử làm Chuyển
vận sứ đồn A Bá thuộc hạt Tam Kỳ .
Năm
1887, v́ nghi kỵ, thân phụ Phan Chu
Trinh bị hại, việc học tập vơ nghệ của
ông bị gián đoạn. Nhờ người anh cả rước
thầy về cho ông tiếp tục học nghề văn .
V́ nhận thấy muốn có uy tín để thực hiện
chí lớn tron việc cách mạng để giành lại
chủ quyền của đất nước, nên ông đổi sang
học nghề nghiên bút, chớ thực ra ông
không bao giờ thích cái lối học hư văn
.Theo học bốn năm ở nhà . Phan Chu Trinh
tỏ ra thông minh tuyệt vời, ông thường
có những lư luận sâu sắc , những nhận
xét tinh vi .
Năm
1889, theo thụ nghiệp với vị Đốc học
Trần Mă Sơn, Phan Chu Trinh được bổ vào
ngạch học sinh .
Năm
1900, trong kỳ thi Hương, Phan Chu Trinh
thi đỗ Cử Nhân, và qua năm sau 1901, ông
đỗ Phó Bảng (nhằm niên hiệu Thành Thái
thứ 13).
Ông được
bổ làm Thừa Biện ở Huế, ít lâu sau,
người anh cả của ông mất, ông xin về quê
dạy học . Năm 1903, ông được bổ làm Thừa
Biện ở Bộ Lễ . Trong thời gian từ 1902
đế 1905, Phan Chu Trinh có dịp học những
tác phẩm có tư tưởng cách mạng của
Jean-Jacques Rousseau, Montesquieu,
Voltaire ... Càng tiếp xúc nhiều với các
quan trường, Phan Chu Trinh càng thấy rơ
cảnh thối nát , hủ bại trên đường cử
nghiệp .
Lúc bấy
giờ lực lượng Cần Vương lần lần tan ră,
thực dân Pháp bắt đầu đặt nền thống trị
trên đất nước Việt Nam .Trước cảnh non
sông nghiêng ngửa, nhận thấy sự bất lực
và thối nát của triều đ́nh Huế, Phan Chu
Trinh xin từ quan và bắt đầu hoạt động
chính trị với các ông Phan Bội Châu,
Lương Ngọc Can, Huỳnh Thúc Kháng, Trần
Quư Cáp . Sau khi từ quan về hoạt động
chính trị, Phan Chu Trinh đă cùng với
hai bạn đồng khoa là Trần Quư Cáp và
Huỳnh Thúc Kháng rủ nhau vào Nam vận
động đồng bào các giới . Vào đến B́nh
Định gặp lúc quan tỉnh mở một kỳ thi cho
học tṛ, đầu bài là Chí thành thông
thánh và Lưỡng Ngọc danh sơn ba ông mạo
tên là Đào Mộng Giác nộp quyển làm bài
Phan Chu Trinh làm bài thơ và hai ông
Trần Quư Cáp và Huỳnh Thúc Kháng làm bài
phú . Những bài này không theo quy tắc
thông thường mà cốt để thức tỉnh nhóm sĩ
phu . Quan tỉnh không dám quả quyết phải
dịch sang chữ Pháp để tŕnh viên Khâm sứ
đồng thời truy tầm tác giả của hai bài
văn cách mạng kia, nhưng không có kết
quả Việc này đă có ảnh hưởng lớn đến đám
sĩ phu thời bấy giờ . Tới Phan Thiết,
Phan Chu Trinh bị bệnh phải quay trở về
Huế . Sau mấy tháng dưỡng bệnh, ông ra
Bắc t́m cách lên Yên Thế để gặp Hoàng
Hoa Thám, nhưng chính sách bạo động của
Hoàng Hoa Thám không thích hợp với chủ
trương của ông, nên ông lại xuống Trung
Châu Bắc Việt vận động với nhóm nho sĩ
Bắc Hà . Đâu đâu ông cũng đề xướng chủ
trương tân học, cực lực đả kích các quan
trường tham lam và những nhà hủ nho .
Trong thời gian này ông kết nạp được một
số đồng chí đáng kể . Phan Chu Trinh tán
thành phong trạ xuất dương du học do
Phan Bội Châu khởi xướng . Lời kêu gọi
của Phan Bội Châu, với sự hưởng ứng của
Phan Chu Trinh gây được một phong trào
xuất dương rất rầm rộ . Để được quan sát
tại chỗ sự tiến triển của các nước, Phan
Chu Trinh liền trốn sang Trung Hoa . Ông
gặp Phan Bội Châu tại Hương Cảng rồi hai
ông cùng sang Nhật. Ở đó được 10 tháng,
ông lên đường về nước (năm 1906) . Phan
Chu Trinh quyết đứng ra tranh đấu công
khai với chính quyền bảo hộ Pháp . Ngày
15 tháng 8 năm Bính Ngọ (1906) , ông gởi
lên Toàn Quyền Pháp ở Đông Dương một bức
thư dài 12 trang gồm mấy điểm sau đây :
- Do sự
dung túng của chính quyền Bảo Hộ mà
những bọn tham quan ô lại lộng hành
khiến cho người Việt Nam bạc nhược suy
yếu .
- Chính
quyền Bảo Hộ đă dùng một chính sách bạo
ngược, tàn ác đối với dânViệt Nam, không
tôn trọng sinh mạng con người, muốn chém
giết ai tùy ư .
- Do
những cách đối xử tàn ác này, mà bọn
quan lại lợi dụng quyền thế bắt nạt dân
chúng, t́m cách vơ vét cho đầy túi tham,
gây nên một t́nh trạng bi đát trong dân
chúng. Bức thơ của Phan Chu Trinh đă có
ảnh hưởng rộng lớn trong dân chúng . Ông
bắt đầu hoạt động mạnh, hô hào tổ chức
nhiều buổi diễn thuyết tại trường Đông
Kinh Nghĩa Thục . Thực dân Pháp để ư căm
thù và triều đ́nh Huế cũng rất bực tức
quyết t́m cách hăm hại ông. Nhưng Phan
Chu Trinh vẫn không màng đến, ông đứng
ra lănh đạo phong trào duy tân, khuyến
khích đồng bào mở trường dạy học, lập
các hội buôn như Đông Kinh Nghĩa Thục,
Hồng Hưng Tân, công ty Minh Tân, ông cảm
hóa được rất nhiều nhân sĩ . Phan Chu
Trinh lại hô hào thanh niên vận Âu phục
, cắt tóc ngắn, ủng hộ các sản phẩm và
hàng nội hóa để giúp cho nền kinh tế
trong nước được dồi dào . Đa số thanh
niên trong toàn quốc đă nhiệt liệt hưởng
ứng phong trào duy tân này .
Năm
1908, tại tỉnh Quảng Nam phong trào
kháng thuế nổi lên mạnh mẽ lan rộng các
tỉnh miền Trung Việt. Đầu mùa Xuân năm
1908, thực dân Pháp ra lệnh đóng cửa
Đông Kinh Nghĩa Thục . Nhân việc kháng
thuế ở Quảng Nam, vốn đă không ưa Phan
Chu Trinh v́ ông đă nhiều lần đả kích và
nguyền rủa thậm tệ chúng, nên bọn quan
lại Nam triều và thực dân Pháp đổ cho
ông "xui dân làm loạn" và "phá rối" liền
bị hạ lệnh bắt ông ... Rất nhiều nhân sĩ
bị bắt, và trong dịp này, ông nghè Trần
Quư Cáp bị Nam Triều lên án xử chém tại
Nha Trang . Riêng Phan Chu Trinh bị bắt
đem về giam tại ṭa Khâm Sứ. Để phản đối
hành động khủng bố của thực dân, Phan
Chu Trinh tuyệt thực trong bảy ngày .
Nhận thấy t́nh thế khó xử, viên Khâm Sứ
Pháp phải giao trả ông về Cơ Mật Viện
của ṭa án Nam Triều, ông bị bọn quan
lại kết án tử h́nh . Nhờ có hội Nhân
Quyền can thiệp với chánh phủ Pháp.
Chính quyền Bảo Hộ phải điều đ́nh với
Nam Triều đổi bản án "tử h́nh" ra "Côn
lôn ngộ xá bất nguyên" (bị đày ra Côn
đảo măn kiếp không được ân xá ". Bỏ giam
ở nhà lao Phủ Thừa được it' lâu, Phan
Chu Trinh bị đày đi Côn đảo . Lúc đi
ngang qua cửa Thượng Tứ (Huế), ông đă
ngâm bốn câu thơ bằng chữ Hán mà ông
Phan Khôi đă dịch như sau Mang xiềng nhẹ
bước khỏi đô môn,
Hăng hái
ḥ reo lưỡi vẫn c̣n
Đất nước
hăm ch́m dân tộc héo
Làm trai
đâu xá thứ Côn-lôn
Trong
cảnh tù đày, nhưng Phan Chu Trinh rất
được chính phủ Pháp trọng đăi và kính
nể. Chính viên Thống Đốc Nam Kỳ đă ra
tận Côn đảo để t́m hiểu lập trường tranh
đấu của ông . Năm 1910, nhờ có hội Nhân
Quyền Pháp (do sự vận động của ông
Ernest Babut trong 3 năm trời) can thiệp
ráo riết với chính phủ Pháp, thủ tướng
Pháp lúc bấy giờ là Klobulowsky và Tổng
trưởng Bộ Thuộc địa là Trouillet lập Hội
đồng để xét án Phan Chu Trinh . Chánh
Tham Biện tỉnh Mỹ Tho là Cousineau được
cử làm chánh án . Mặc dù đă được ân xá,
nhưng ông cũng bị thực dân Pháp t́m cách
giữ măi tại Mỹ Tho .Ông phản kháng và
cương quyết đ̣i trở về Côn Đảo . Chính
phủ Pháp đành phải để ông tự do .V́ muốn
tranh đấu có hiệu quả trong việc cải
cách nền chính trị nước nhà và đồng thời
để được học hỏi thêm, năm 1911, Phan Chu
Trinh đă sang Pháp với Toàn Quyền
Klobulowsky, cùng theo ông có người con
trai tên là Phan Chu Dật .
Tại Ba
Lê, ông gởi con vào trường học c̣n ông
th́ lại làm nghề rửa ảnh để sinh sống
.Dù cho phải sống xa quê hương, ông vẫn
không ngừng hoạt động tranh đấu cho đất
nước. Ông viết báo Pháp phản đối việc
đào lăng Tự Đức, yêu cầu chính phủ Pháp
nên cấp tốc thay đổi chính sách thuộc
địa, giáo dục tinh thần tranh đấu của
Việt kiều tại Pháp . Ông t́m cách liên
kết với các lănh tụ thuộc đảng cấp tiến
ở Pháp . Ông không tiếc lời đả kích
những nạn tham nhũng thối nát của thực
dân Pháp ở Đông Dương và chỉ trích chính
sách cai trị của họ . Phái khuynh tả ở
Pháp rất tán thành việc làm của Phan Chu
Trinh, nhưng các quan lại ở các thuộc
địa Pháp rất căm thù và oán ghét . Tiền
trợ cấp của ông và tiền học bổng của con
ông là Phan Chu Dật đều bị truất, đó là
kết quả sự trả thù của thực dân .Hai cha
con ông phải sống kham khổ và vất vả với
số lương rửa ảnh của ông hàng tháng là
50 quan . Dù phải sống trong cảnh đói
rét, khốn khổ đủ mọi bề, Phan Chu Trinh
vẫn cương quyết tranh đấu cho lư tưởng
cao cả .
Năm
1914, chiến tranh Pháp Đức bộc phát, tại
quê nhà vua Duy Tân nhân cơ hội đó gây
biến, nhưng cuộc khởi nghĩa thất bại,
Trần Cao Vân và Thái Phiên bị xử chém .
Vua Thành Thái và Duy Tân bị thực dân
Pháp đày sang đảo Réunion .V́ không chịu
đi lính cho Pháp để đánh Đức, Phan Chu
Trinh bị vu cáo là làm gián điệp cho
Đức, nên ông bị bắt giam vào ngục SANTE
. Nơi đây ông bị hăm dọa đủ điều, nhưng
tấm kiên trung vẫn không bao giờ thay
đổi . Dùng vơ lực không được, người ta
đă đem tiền bạc, quyền tước để mua chuộc
ông , nhưng cũng vô hiệu quả . Nhờ sự
can thiệp của Đảng Xă Hội và Hội Nhân
Quyền Pháp, năm 1915 chính phủ Poinceré
phải kư giấy phóng thích ông. Vừa thoát
khỏi cảnh giam cầm, Phan Chu Trinh lại
phải khóc con . Phan Chu Dật sau 6 năm
học tập đă thi đỗ bằng Tú Tài Vật Lư
Học, được cha ủy thác sứ mạng về nước để
hoạt động . V́ bao năm sống thiếu thốn
đói lạnh, Chu Dật mang phải bệnh lao
phổi . Về đến quê nhà chưa đầy một năm,
Chu Dật mất .
Năm
1922, vua Khải Định sang dự cuộc đấu xảo
quốc tế ở Ba Lê, Phan Chu Trinh gởi cho
nhà vua một bức thư lời lẽ nghiêm khắc
buộc Khải Định phải thoái vị nhường
quyền lại cho quốc dân và kể bảy tội nhà
vua đă làm và đáng tội chém đầu .Có đoạn
ông đă viết : "... Một là v́ Trinh này
đối cùng bệ hạ đă đoạn tuyệt hẳn, không
c̣n một chút quan hệ ǵ, chỉ đứng vào
cái địa vị đối đăi mà thôi, cho nên bức
thư này không phải dâng lên cho bệ hạ mà
chính là gửi cho bệ hạ, hai chữ bệ hạ mà
tôi dùng đây, chẳng qua là cái tiếng
xưng hô đă quen trong Hán văn đó mà thôi
... ngày nay Trinh này đề thư cứ gửi
ngay cho ông Bửu Đảo là cái tên húy của
bệ hạ , để tỏ ư phản đối ." Bức thư của
ông, sau khi được công bố, khích động
được tinh thần tranh đấu của đồng bào
trong và ngoài nước .
Năm
1925, chính phủ Pháp nhận thấy Phan Chu
Trinh là một người ái quốc chân chính có
chính sách ôn ḥa, nên có ư muốn giúp đỡ
ông . Phái tả đảng bên Pháp từ lâu đă có
cảm t́nh với ông được thắng phiếu trong
cuộc bầu cử Nghị Viện và lên nắm chính
quyền . Thấy cơ hội thuận tiện cho ḿnh
đem tài trí ra giúp dân giúp nước, ông
xin trở về quê nhà và được chính phủ
Pháp chấp nhận.
Về đến
Saigon, Phan Chu Trinh có ư định ở lại
trong Nam ít lâu rồi sẽ ra Trung Bắc để
hoạt động. Dù tuổi già sức yếu, bệnh
hoạn v́ bao năm sống vất vả thiếu thốn ở
Pháp, Phan Chu Trinh vẫn hăng hái tranh
đấu . Ông vận động với nhà cầm quyền
Pháp để xin ân xá cho Phan Bội Châu bị
bắt ở Thượng Hải và sửa soạn hai bài
diễn văn để đọc trước công chúng :
1. Đạo
đức và luân lư Đông Tâỵ
2. Quân
trị chủ nghĩa, dân trị chủ nghĩạ
Hai bài
diễn văn trên đây đă bày tỏ được chính
kiến của một nhà cách mạng chân chính,
với ḷng yêu nước nhiệt thành . Ngày
24-12-1925, sau khi hay tin việc vận
động xin ân xá của quốc dân đă có kết
quả và Toà Quyền Varenne đă kư giấy ân
xá Phan Bội Châu . Phan Chu Trinh định
ra Huế để được gặp người bạn đồng chí để
cùng nhau tâm sự, nhưng ông bị đau không
đi được . Các sinh viên trường Đại học
Hà Nội đánh điện văn mời ông ra Bắc để
diễn thuyết . Chưa kịp đi th́ ông được
biết tin vua Khải Định mất . Phan Chu
Trinh đánh điện tín cho Pasquier Khâm sứ
Trung Kỳ hay ông sẽ ra để lo việc cải tổ
triều chính và lập dân đảng .
Tiếc
thay đại cuộc chưa thành, bệnh t́nh của
Phan Chu Trinh mỗi ngày một thêm trầm
trọng . Ngày 24 tháng 3 năm 1926 (nhằm
ngày 12 tháng 2 năm Bính Dần) nhà cách
mạng ái quốc Phan Chu Trinh đă trút hơi
thở cuối cùng, hưởng thọ được 55 tuổi .
Một Hội đồng trị sự được thành lập ngay
đêm đó để lo việc an táng cho ông ngày
4-4-1926 khắp từ Nam chí Bắc đều tự động
làm lễ băi khóa và làm lễ quốc táng nhà
chí sĩ Phan Chu Trinh rất trọng thể để
chứng tỏ tấm ḷng ngưỡng mộ và mến tiếc
nhà cách mạng đă suốt đời v́ dân v́ nước
.
Nguồn:
http://xuquang.com/dialinhnk/danhsi/pct.htm
|
THỨ SÁU, 25 THÁNG 03
2011 04:53 Nguyên Ngọc
Đầu thế kỷ XX, sau thất bại của các
cuộc khởi nghĩa Cần vương, đă xuất hiện
Phong trào Duy tân, thoạt tiên được khởi
xướng bởi một nhóm trí thức ưu tú, thường
được gọi là “bộ ba Quảng Nam” gồm Phan
Châu Trinh, Trần Quư Cáp và Huỳnh Thúc
Kháng. Phong trào nhóm lên ở Quảng Nam,
nhanh chóng loan ra khắp Trung Kỳ, ảnh
hưởng sâu rộng đến cả nước, đưa tới cuộc
Trung Kỳ dân biến năm 1908, cuộc bạo loạn
chống Pháp lớn nhất trước Cách mạng tháng
Tám. Cuộc nổi dậy bị đàn áp nặng nề, Trần
Quư Cáp bị chém ở Khánh Ḥa, Phan Châu
Trinh bị đày ra Côn Đảo, về sau thoát tù
đă sang Pháp để tiếp tục hoạt động, đến
năm 1925 trở về nước, và mất ngày
24/3/1926, đến nay vừa đúng 85 năm. Huỳnh
Thúc Kháng cũng bị đày Côn Đảo, sau khi ra
tù đă chuyển sang hoạt động hợp pháp, chủ
trương báo Tiếng Dân, tờ báo đậm
khuynh hướng yêu nước chống Pháp sống được
lâu nhất dưới thời Pháp thuộc; và trong số
ba người, ông cũng là người c̣n sống được
lâu nhất, để trở thành Phó Chủ tịch nước
Việt Nam dân chủ cọng ḥa bên cạnh Chủ
tịch Hồ Chí Minh năm 1945.
Có một điều cần chú ư: cuộc nổi dậy
rung trời chuyển đất năm 1908 không hề nằm
trong ư đồ hay kế hoạch của những người
chủ chốt khởi xướng phong trào Duy tân, họ
không hề lănh đạo nó, nó nằm ngoài ư định
của họ, thậm chí ngược với nguyện vọng và
chương tŕnh của họ. Có lẽ đó là một điều
chúng ta sẽ cố gắng t́m hiểu, thử giải
thích đôi phần hôm nay.
Nói về người đồng chí thân thiết nhất
của ḿnh, cũng là người đứng đầu nhóm “bộ
ba Quảng Nam”, Huỳnh Thúc Kháng có một
đánh giá rất đáng chú ư, ông gọi Phan Châu
Trinh là “nhà cách mạng đầu tiên của Việt
Nam”. Như thường thấy ở các nhà Nho uyên
thâm chuyển sang Tây học và sử dụng chữ
quốc ngữ, Huỳnh Thúc Kháng vốn là người
rất nghiêm túc, cẩn trọng, súc tích trong
từng câu chữ phát ngôn. Chắc chắn đánh giá
trên đây của ông dựa trên những suy ngẫm
sâu xa, những hiểu biết rất kỹ về người
đồng chí tâm huyết nhất của ḿnh, và những
so sánh không hời hợt. Ông hiểu nhà cách
mạng không chỉ là người mưu đồ một cuộc
nổi dậy, chủ trương một cuộc khởi nghĩa,
lật đổ một chính quyền… Nhà cách mạng là
người muốn thay đổi một xă hội, biến đổi
số phận một dân tộc, chuyển cuộc sống của
đất nước và con người sang một cấp độ
khác, một đường hướng và một thời đại
khác. Chính v́ nhận thức như vậy nên ông
đă không dành danh hiệu ấy cho ai khác
trong những người chiến sĩ và anh hùng
cùng thời với ông, ngoài Phan Châu Trinh.
Để cố gắng t́m hiểu đánh giá thoạt
nghe có thể đáng ngạc nhiên này, có lẽ cần
trở lại dù chỉ rất vắn tắt hành tŕnh tư
tưởng và hoạt động của Phan Châu Trinh.
Phan Châu Trinh sinh năm 1872 tại làng
Tây Lộc, huyện Hà Đông, nay là huyện Phú
Ninh, tỉnh Quảng Nam. Cha ông hy sinh
trong cuộc khởi nghĩa Cần Vương do Trần Dư
và Nguyễn Duy Hiệu cầm đầu. Năm 29 tuổi đỗ
Phó bảng, cùng khoa với cụ Nguyễn Sinh
Huy, thân sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh; sau
đó làm thừa biện, một chức quan nhỏ ở bộ
Lễ của triều đ́nh Huế. Những ai đă đọc qua
dù chỉ đôi chút về Phan Châu Trinh đều
biết ông rất khinh bỉ, căm ghét, đả kích
kịch liệt vua quan triều đ́nh Huế. Vậy tại
sao ông lại ra Huế và làm quan? Huế bấy
giờ là kinh đô, nơi diễn ra đời sống chính
trị và văn hóa quan trọng nhất, nơi hội tụ
và liên lạc rộng răi với những nhân vật ưu
tú trên cả nước… Và điều c̣n quan trọng
hơn: là đầu mối (cùng với Hội An một phần)
qua đường biển tiếp nhận tài liệu đến từ
Trung Hoa cũng đang sôi sục trăn trở t́m
đường. Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Dương
trong Tuyển tập Phan Châu Trinh, ở phần
Niên biểu, về những năm này chỉ ghi rất
gọn mà đầy ư nghĩa: “1903: Làm quan ở Huế.
Đọc sách mới. Kết giao với Phan Bội Châu…
Huỳnh Thúc Kháng và Trần Quư Cáp cũng ra
Huế đọc sách mới.” Năm 1904, Phan Châu
Trinh từ quan. C̣n Trần Quư Cáp và Huỳnh
Thúc Kháng đỗ cao song không hề chịu làm
quan, nhưng cũng ra Huế, để “đọc sách
mới”. Cùng có mặt ở Huế và cùng say sưa
“đọc sách mới” bấy giờ c̣n có nhiều trí
thức nổi tiếng: Phan Bội Châu, Đào Nguyên
Phổ, Vũ Phương Trứ… Nhiều người khác như
Đặng Nguyên Cẩn, Ngô Đức Kế, Nguyễn Hiệt
Chi, Lương Văn Can… ở Bắc, Hồ Tá Bang,
Trần Lê Chất, Nguyễn Trọng Lợi… ở trong
Nam, tuy không về Huế nhưng đều liên lạc
với trung tâm Huế, và cũng chủ yếu để “đọc
sách mới”.
“Sách mới” là chữ của Nguyễn Văn Dương
dịch cái mà hồi ấy người ta quen gọi là
“Tân Thư”. Hẳn rồi đến một lúc cần trở lại
nghiên cứu những “tân thư”, hiện tượng
“đọc tân thư” sôi nổi một thời ấy, hiểu
cho rơ tác động của chúng đối với một giai
đoạn có thể có tính quyết định của lịch sử
cận đại nước ta. Tân Thư là các sách được
chuyển sang từ Trung Quốc, gồm các tác
phẩm của Lương Khải Siêu và Khang Hữu Vi,
và các sách của Nhật, của Pháp được dịch
ra chữ Hán, trong đó các tác phẩm kinh
điển của Montesquieu (mà người ta dịch là
Mạnh Đức Tư Cưu) và Jean Jacques Rousseau
(được dịch là Lư Thoa). Sau khi đọc Tân
thư, Trần Quư Cáp thổn thức: “… nửa đêm
tỉnh giấc, nước mắt đầm đ́a”. Tân Thư đă
gây chấn động dữ dội trong tất cả tầng lớp
tinh hoa yêu nước đang đau đáu t́m đường
trong thế cùng cực bế tắc sau thất bại Cần
Vương anh hùng mà tuyệt vọng. T́m đường,
đi con đường nào đây để có thể cứu nước,
đưa dân tộc thoát ra khỏi ṿng nô lệ? Tân
Thư thổi một luồng gió mới vào những đầu
óc đang cháy bỏng bấy giờ. Tác động của nó
cực kỳ to lớn. Tuy nhiên, đều là những nhà
ái quốc tâm huyết, mỗi người đă chịu tác
động đó một cách khác nhau, đi đến những
suy ngẫm và những kết luận khác nhau, theo
cách nói ngày nay, những phương án chiến
lược khác nhau. Chính ở đây ta nhận ra
chân dung tư tưởng và văn hóa, chính trị
đặc sắc, có thể nói đặc sắc đến “độc
nhất”, của Phan Châu Trinh. Trong một
nghiên cứu gần đây (tháng 9-2010) tác giả
Lê Thị Hiền Minh ở Đại học Québec, Canada
viết: “Khác với Phan Bội Châu chỉ thấy ở
đấy một cuộc chiến đấu vũ trang đánh đuổi
người Pháp ra khỏi Việt Nam cũng giống hệt
như tổ tiên ông đối với quân xâm lược
Trung Hoa, Phan Châu Trinh đă nhận ngay ra
một vấn đề phức tạp hơn là một cuộc
ngoại xâm về mặt lănh thổ: vấn đề
trang bị cho “những người yếu hơn” các
phương tiện để bước vào một cuộc tiến hóa
ở cấp độ toàn cầu, đưa dân tộc Việt Nam
lên con đường hiện đại hóa.”[1].
Như vậy, nếu đối với hầu hết những chí sĩ
yêu nước đương thời, chấn động của Tân thư
chỉ là thêm một kích thích mạnh mẽ ư chí
dân tộc, tinh thần chống ngoại xâm, mà
không dẫn đến một đường hướng ǵ mới về
căn bản, do chưa có thay đổi ǵ về tầm
nh́n; th́ ở Phan Châu Trinh (và hai người
đồng chí thân thiết nhất của ông trong bộ
ba Quảng Nam) nó mở ra một chân trời hoàn
toàn khác; như cách nói ngày nay, nó mở ra
cho ông chân trời “toàn cầu hóa”. Ông là
người đầu tiên nhận ra phương Tây, không
chỉ là một phương Tây kỹ thuật tiên tiến
như Phạm Phú Thứ, thậm chí như Nguyễn
Trường Tộ đă thấy và lo lắng …, mà là một
phương Tây văn hóa, văn minh, khác hẳn và
cao hơn cái thế giới hạn hẹp phương Đông
ta từng biết xưa nay và vẫn loay hoay t́m
đường trong đó.
Pháp (và phương Tây nói chung bấy giờ)
là thế lực (puissance) hoàn toàn khác với
Trung Hoa, mối uy hiếp mà Việt Nam đă
thành công trong việc giữ một khoảng cách
nhất định suốt gần một ngh́n năm. Giữ được
như vậy là v́ dù tương quan lực lượng đă
nhiều lần hết sức chênh lệch, nhưng hai
bên đều thuộc cùng một thời đại lịch sử,
một nền văn minh tương đồng. Thắng lợi của
Việt Nam chống đồng hóa Trung Hoa suốt
ngh́n năm, như chúng ta đă nói nhiều lần,
là thắng lợi văn hóa. Thắng lợi văn hóa
trong khung khổ đóng kín của phương Đông,
hay cũng có thể nói khung khổ thế giới Hán
hóa (sinisé).
Giáp mặt với Pháp, với phương Tây, “sự
thống nhất văn hóa và chính trị cho đến
nay được bảo vệ bằng việc giữ ǵn các giá
trị Khổng giáo bị lay chuyển bởi các giá
trị của thiên chúa giáo và, ít nhận ra
được rơ hơn, bởi việc du nhập một hệ chữ
viết dựa trên nguyên tắc Hy-La, chữ Quốc
ngữ, được coi là ngôn ngữ chính thức song
song với chữ Pháp từ năm 1878…”[2]
Nhà sử học David Marr viết: “Việt Nam đi
vào một biện chứng văn hóa và bản sắc
quyết định; việc mất lănh thổ lại cọng
thêm mối uy hiếp mất tiếp ngay các quy
chiếu tâm lư-xă hội văn hóa… Thế hệ các
nhà nho trưởng thành vào những năm 1900 bị
ám ảnh bởi h́nh ảnh “mất nước”, không chỉ
theo nghĩa chính trị, mà c̣n nghiêm trọng
hơn là mất “một sự sống c̣n về sau với tư
cách là người Việt Nam”… Có lẽ lâu nay,
khi nói về t́nh thế của đất nước vào đầu
thế kỷ XX chúng ta đă tập trung chú ư vào
sự mất mát đau đớn lănh thổ, mà chưa làm
rơ được hết những khía cạnh sâu xa và tinh
tế này của xă hội khi đối mặt với phương
Tây, với cuộc “toàn cầu hóa” lần thứ nhất,
có thể gọi như vậy, mà Phan Châu Trinh,
với một cái nh́n sáng suốt đă là người duy
nhất nhận ra một cách hết sức tỉnh táo và
sáng rơ. Ông nhận ra không chỉ tai họa đau
đớn mất lănh thổ quốc gia (như trong lịch
sử ta đă nhiều lần mất vào tay Trung Hoa),
mà lâu dài hơn, sâu sắc hơn, căn bản hơn,
khó khăn hơn, nguy hiểm mất c̣n hơn, ông
nhận ra một cuộc khủng hoảng văn hóa
nghiêm trọng, thậm chí chưa từng có; điều
mà David Marr chỉ ra là ở “các quy chiếu
tâm lư-xă hội văn hóa”. Về sau Hoàng Xuân
Hăn nói rằng chỗ độc đáo và đặc sắc nhất
của Phan Châu Trinh so với tất cả những
người ưu tú nhất đương thời, là ông đă đi
t́m và t́m thấy nguyên nhân mất nước, dân
tộc sa vào ṿng nô lệ bi thảm, ở trong văn
hóa, trong sự lạc hậu nguy hiểm về văn hóa
của Việt Nam, lạc hậu cả một thời đại, so
với thế giới văn minh rộng lớn, toàn cầu,
và Việt Nam từ nay không thể sống c̣n
ngoài cái thế giới ấy, cái toàn cầu ấy, mà
các tân thư đă mở mắt cho ông nh́n thấy.
Vậy nên, tôi nghĩ có thể nói mà không hề
sợ quá đáng, Phan Châu Trinh là nhà văn
hóa tiên phong và lớn nhất của Việt Nam
trong thế kỷ XX – và có thể cả thế kỷ sau
đó nữa như ta sẽ suy nghĩ thêm. Và bài học
lớn nhất của Phan Châu Trinh để lại cho
chúng ta là bài học về văn hóa.
Từ nhận thức cơ bản đó, ông đặt lên
hàng đầu nhiệm vụ và chương tŕnh đưa dân
tộc vào “một cuộc tiến hóa ở cấp độ toàn
cầu, đưa dân tộc Việt Nam lên con đường
hiện đại hóa”. Và như vậy, vấn đề lănh
thổ, khôi phục lănh thổ quốc gia, tức vấn
đề độc lập, được coi như là một bộ phận
cần thiết nhưng không phải là cứu cánh của
chương tŕnh dài hạn rộng lớn, cơ bản hơn
nhiều, mà ông biết và chủ trương phải tiến
hành từng bước.
Ta từng biết Phan Châu Trinh có chủ
trương tự trị; và đi đến tự trị bằng con
đường ḥa b́nh, không bao động. Hẳn cần
nói rơ, dù chỉ là phần nào, về tư tưởng
này của ông, h́nh như lâu nay thường khá
bị hiểu lầm. Trong chủ trương này có phần
mà ông gọi là “Ỷ Pháp cầu tiến bộ”, học
lấy ngay cái hay chắt lọc được của đối thủ
để đem lại sự tiến bộ cho dân ta. Thực ra
trong suốt lịch sử lâu dài bài học này vốn
không lạ với người Việt. Tổ tiên ta đă học
biết bao nhiêu của Trung Hoa để góp cho sự
trưởng thành toàn diện và cả cho sức mạnh
chống ngoại xâm của dân tộc. Huống nữa học
lấy văn minh phương Tây mà ta biết ta đă
chậm trễ mất cả một thời đại là vô cùng
cần thiết và cấp bách. Tuy nhiên, tư tưởng
về tự trị của Phan Châu Trinh không chỉ bó
hẹp trong ư nghĩa đó. Trong luận văn đă
nhắc đến trên đây của Lê Thị Hiền Minh, tự
trị được dịch là autonomie. Và theo từ
điển autonomie được giải thích: “Quyền tự
trị. Quyền tự do, độc lập về đạo đức hoặc
về trí tuệ”. Đây là khía cạnh và nội dung
quan trọng trong chủ trương lớn của Phan
Châu Trinh. Lê Thị Hiền Minh viết: “Dự án
hiện đại hóa Việt Nam của ông (Phan Châu
Trinh), trong thực tế, là một dự án tự trị
hóa (autonomisation) trong đó sự tự trị cá
nhân và tập thể của những người Việt Nam
sẽ thúc đẩy đất nước lên những đường ray
của hiện đại hóa và văn minh”. Vậy rơ ràng
ở đây có thể thay từ tự trị (thường chỉ
được hiểu theo nghĩa một thiết chế chính
trị) bằng từ tự chủ. Và từ đó, khẩu hiểu
nổi tiếng của Phan Châu Trinh “Khai dân
trí” cũng rơ ràng bộc lộ một ư nghĩa sâu
xa mà có lẽ lâu nay chúng ta cũng chưa
thấu hiểu hết tinh thần. Khai dân trí
chính là xây dựng nên con người tự chủ, cá
nhân tự chủ, để đi đến tập thể tự chủ. Nhà
nghiên cứu Verbunt viết: “Chính trong sự
tự trị được hiểu là một sự tự tổ chức quản
trị trong liên quan phụ thuộc lẫn nhau…
Phan Châu Trinh t́m thấy một sức mạnh giải
phóng chứ không phải một nền độc lập như
Phan Bội Châu. Theo nghĩa đó, tự trị là
“giá trị cho phép cùng tồn tại với những
người khác mà ta không c̣n có thể áp đặt
nền văn hóa của ḿnh. Quyền của các thiểu
số được xác định trong chính chuyển động
cơ bản này”. Tác giả này c̣n nói rơ hơn:
“Bởi mọi tập thể đều gồm những cá nhân,
nên sự tự trị như một tiến tŕnh không thể
được trao cho một tập thể người mà không
đi qua từng người. Tiến tŕnh mà chúng ta
gọi là “tự trị hóa” đó trước hết phải là
một tiến tŕnh riêng biệt (tức của từng cá
nhân, từng cá nhân tiến đến tự chủ) trước
khi đạt đến một kích thước tập thể, và
việc đó, thông qua giáo dục, theo Phan
Châu Trinh mà khái niệm tu thân
trong tự phát triển của mỗi người không hề
xa lạ… Dự án tự trị hóa của Phan Châu
Trinh đồng thời là một dự án giáo dục hiện
đại đưa mọi người Việt Nam qua con đường
của trường học tự do ở Bắc Kỳ (tức mô h́nh
Đông Kinh Nghĩa Thục) và một dự án xă
hội-kinh tế nhằm thiết lập một hệ thống hỗ
trợ tập thể cho sự phát triển của các tổ
chức kinh tế…”
Ở đây cần đặc biệt chú ư tư tưởng của
Phan Châu Trinh về giáo dục nhấn mạnh đến
việc xây dựng cá nhân tự chủ, mà ông coi
là cơ sở của tự chủ tập thể, tự chủ dân
tộc. Nhiều tác giả nghiên cứu các văn bản
của Phan Châu Trinh, đặc biệt các thư ông
viết cho Toàn quyền Beau, cho vua Hàm
Nghi, cho vua Khải Định nêu bật cách xưng
hô của Phan Châu Trinh được cho là hoàn
toàn có ư thức: ông luôn xưng “tôi”. Chúng
ta biết về mặt từ nguyên “tôi” vốn xuất
phát từ quan hệ “vua-tôi”, với ư nghĩa là
“tôi tớ, thần dân của vua”. Phan Châu
Trinh xưng tôi với ư nghĩa khác,
ư nghĩa được Alexandre de Rhodes chỉ ra
khi ông coi từ này là tương đương với ego
trong tiếng La-tinh. “Tôi” của Phan Châu
Trinh chính là cái “le moi” phương Tây.
Một cái tôi độc lập, có ư thức về nhân
cách độc lập và ngang bằng của ḿnh với
người đối thoại. Phan Châu Trinh luôn xưng
“tôi” trong tất cả các văn bản viết cho
nhân dân, cho người cấp trên, cho các quan
chức Pháp và Việt. Trong thư gửi Toàn
quyền Beau năm 1907, ông mở đầu: “Tôi,
Phan Châu Trinh, thự trước tác hậu bổ, tỏ
bày cái t́nh trạng nguy cấp ở nước Việt
Nam…”. Năm 1922, trong thư Thất điều gửi
Khải Định, ông viết: “Tôi, Trinh, sinh gặp
lúc: trong th́ nước nhà nghiêng ngập,
ngoài th́ các nước đua tranh lên đường
tiến bộ…” Lê Thị Hiền Minh nhận xét: “Phan
Châu Trinh nói với toàn quyền Beau với tư
cách là viên chức nói với viên chức, nhà
chuyên môn nói với nhà chuyên môn, con
người nói với con người”. Một nhà nghiên
cưu khác, Trương, B.L. th́ viết: “Là con
người tư duy tự do, có thể nh́n chính lịch
sử của dân tộc ḿnh với một khoảng cách,
chính là với tư cách “con người đích thực”
(“personne authentique”) mà Phan Châu
Trinh đă viết cho toàn quyền Beau: “Tôi,
Phan Châu Trinh, quan chức cũ…”. Guidon
cho rằng “bản sắc cá nhân đó (ở Phan Châu
Trinh) đ̣i hỏi một hệ đạo đức thẩm nhập
suốt đời, hệ đạo đức của một công dân tự
do đảm nhận các quyền và các bổn phận của
ḿnh”.
H́nh như lâu nay khi nghiên cứu về hệ
thống các trường Duy tân mà bộ ba Quảng
Nam đă lập được ở tỉnh nhà trong khoảng
thời gian từ năm 1903 đến 1908, cũng như
về trường Đông Kinh Nghĩa Thục, chúng ta
chưa chú ư t́m hiểu kỹ nội dung và tính
chất rất quan trọng này trong quan điểm
giáo dục ở các cơ sở nói trên. Chúng ta đă
nói nhiều về tinh thần yêu nước, ư chí
chống ngoại xâm được kích thích, cổ vũ
mạnh mẽ, tinh thần thực hoc ở đây, mà chưa
làm rơ được triết lư về xây dựng con người
hiện đại tự trị, tự chủ, con người tự do
trước hết tự trong chính ḿnh c̣n sâu xa
hơn nhiều của các trường này.
Ḍ lại hành tŕnh tư tưởng của ông,
đọc lại kỹ các trước tác của ông, ta nhận
ra rơ ở chính Phan Châu Trinh h́nh ảnh
tiêu biểu của một con người như vậy. Và
một con người đạt được đến tự do như vậy
th́ có khả năng đặt biệt là giữ được
khoảng cách với mọi điều đă được coi là
“chân lư”, là “lịch sử”, kể cả với lịch sử
của chính dân tộc ḿnh.
Chính với khoảng cách độc lập đặc sắc
đó, đầy trách nhiệm và cực kỳ dũng cảm,
Phan Châu Trinh đă ráo riết chỉ ra hai
nhược điểm chí tử của dân tộc, đặc biệt
trong hoàn cảnh của “toàn cầu hóa”, mà
thẳng thắn một cách phi thường ông cho là
tập trung rơ nhất, cực điểm nhất ở một con
người đương thời lừng danh mà ông rất thân
thiết, yêu mến, kính trọng và bảo vệ: Phan
Bội Châu. Hai nhược điểm chí tử: một mặt
chủ nghĩa yêu nước hẹp ḥi, sô vanh, mặt
khác, nghịch lư thay, ư thức vọng ngoại mù
quáng. Ông nói về Phan Bội Châu, mà cũng
là nói về dân tộc ḿnh, chẳng hề một chút
khoan nhượng, nương nhẹ: “Phan Bội Châu là
người chưng ra rơ nhất những tập quán dân
tộc h́nh thành trong lịch sử của dân tộc
Việt Nam suốt thiên niên kỷ qua. Nếu có ai
đó không biết bản chất thật của người Việt
Nam, th́ hăy cứ nh́n ông ấy. Dân tộc ta có
t́nh yêu nước hẹp ḥi và ở ông ấy, tư
tưởng sô vanh lên đến cực điểm. Dân tộc ta
có tính vọng ngoại và ở ông ấy, sự phụ
thuộc vào sức mạnh bên ngoài lên đến tối
đa. Dân tộc ta thiếu tinh thần độc lập và
ở ông ấy cái thiếu đó càng rơ rệt hơn cả
…”.
Phan Châu Trinh coi ư nghĩa của cuộc
đời ông là nỗ lực cứu nhân dân thoát ra
khỏi những điểm yếu chí tử ấy, tự xây dựng
cho ḿnh, từ từng cá nhân, đến toàn dân
tộc ư thức tự chủ - mà ông gọi là tự trị.
Tư tưởng đó tập trung trong khẩu hiệu nổi
tiếng của ông: “Khai dân trí, Chấn dân
khí, Hậu dân sinh”…
Trong một thời gian ngắn hôm nay hẳn
không thể nói kỹ và sâu hết về tư tưởng
của Phan Châu Trinh mà dẫu chỉ điểm qua ta
đă có thể nhận ra tính hệ thống, liên hoàn
chặt chẽ, sâu sắc, và tính hiện đại đáng
kinh ngạc của nó. Chương tŕnh của ông là
chương tŕnh thay đổi một dân tộc, sửa
chữa và làm lại nó, tự trong chiều sâu
nhất của nó, chiều văn hóa, để nó có thể
tồn tại và phát triển trong một thế giới
tất yếu toàn cầu hóa.
Cũng như tất cả những nhà tiên phong,
những nhà khai sáng chân chính, nghĩa là
những người đi trước, Phan Châu Trinh đă
cô đơn trong cuộc đời của ông, và theo một
ư nghĩa nào đó, cả về sau nữa. Ông không
được sự đồng t́nh của phần lớn giới sĩ phu
cùng thời, trong đó có vị sĩ phu ông kính
trọng nhất: Phan Bội Châu. Quan hệ giữa
Phan Châu Trinh-Phan Bội Châu là điển h́nh
của một t́nh bạn kỳ lạ mà tiếc thay h́nh
như ngày nay chúng ta không c̣n được thấy,
đối nghịch kịch liệt về tư tưởng và quan
điểm, đường lối, nhưng thân thiết và kính
trọng nhau chẳng ai bằng. Khi Phan Châu
Trinh mất năm 1926, Phan Bội Chau đă viết
đôi câu đối thống thiết và đầy ư nghĩa:
“Thương hải vi điền, tinh vệ hàm
thạch
Chung Kỳ kư một, Bá Nha đoạn huyền”
“Biển thẳm lấp chưa bằng, tinh vệ
c̣n đội đá
Chung Kỳ thôi đă mất, Bá Nha dứt
dây đàn”
Chung Kỳ Phan Châu Trinh đă mất, Bá
Nha Phan Bội Châu đau đớn dứt dây đàn bởi
biết c̣n cùng ai chia sẻ?
Phan Châu Trinh cũng cô đơn trước nhân
dân đương thời của ông mà ông đă cống hiến
cả cuộc đời để quyết cứu, cho một tương
lai xán lạn bền vững mà ông đă sáng suốt
nhận ra con đường để đi tới. Ông hiểu điều
đó một cách sâu sắc. Ông nói: “Không
phải tôi không biết sự ngờ vực của các
quan chức người Pháp đối với tôi. Không
phải tôi không biết sự căm ghét của các
quan chức người Việt đối với tôi. Không
phải tôi không biết mối hiềm khích của
Phan Bội Châu đối với tôi. Không phải tôi
không cảm thấy sự gièm pha của nhân dân
Việt Nam đối với tôi. Nhưng tôi không t́m
cách tránh sự ngờ vực ấy”. Ông tin sắt đá
ở tư tưởng của ông, đường lối cứu dân tộc
của ông. Là con người tự trị, tự chủ cao
độ, là nhà tư tưởng tự do, có khả năng tạo
một khoảng cách ngay với lịch sử dân tộc
ḿnh, với một hệ đạo đức ông đă tự xây
dựng được cho ḿnh, với tư cách là công
dân tự do đảm nhận các quyền và các bổn
phận của ḿnh, cô đơn, ông dơng dạc tuyên
bố: “Việc này, tôi, Trinh, đă nhận
ra, quyết đảm nhận lấy, không nhường cho
ai nữa hết!”
Gần suốt một trăm năm ông cũng cô đơn
với hâụ thế. Chúng ta đă quá biết những
người coi ông là kẻ “lạc lối trời Âu” …
Lịch sử đă đi những con đường khác.
Chúng ta đều biết song song với phong trào
Duy tân ḥa b́nh của Phan Châu Trinh, là
chủ trương “thiết huyết” của Phan Bội
Châu, mà Phan Châu Trinh thẳng thắn chỉ ra
rằng ông ấy đă lợi dụng sự ngu dốt của
nhân dân (mà Phan Châu Trinh quyết ra công
thức tỉnh) để kích động “nhằm thỏa măn
chính khuynh hướng hủy hoại của ḿnh”.
Cuộc khai dân trí của phong trào Duy tân,
hoàn toàn ngoài ư muốn và chủ trương của
những người khởi xướng, chịu ảnh hưởng tự
nhiên và cũng tất yếu của phái thiết
huyết, sự bất b́nh tự nhiên và quyết liệt
của nhân dân tự phát, đă dẫn đến cuộc
Trung Kư dân biến 1908 anh hùng của nhân
dân nhưng tai hại cho một con đường đi
đang được sáng suốt tính toán và thực
hiện. Nó đă được kẻ thù lập tức lợi dụng
để tiến hành một cuộc tắm máu. Chương
tŕnh anh minh và vĩ đại của ông bị phá vỡ
và dở dang.
Chúng ta đều biết trong lịch sử không
có “nếu”. Nhưng suy nghiệm từ lịch sử cho
hôm nay th́ bao giờ cũng cần. Những ǵ đă
diễn ra th́ đă diễn ra. Song phải chăng có
thể một trong những nguyên nhân của những
vấn nạn mà chúng ta, xă hội chúng ta, đang
gặp ngày nay và vẫn c̣n rất loay hoay chưa
thật t́m được đường ra, chính là ở sự dở
dang vừa nói trên đó. Cuộc khai hóa cơ
bản, do nhà khai hóa vĩ đại Phan Châu
Trinh chủ trương và tiến hành một trăm năm
trước th́ nay vẫn dở dang, vẫn c̣n nguyên
đó.
Rơ ràng tư tưởng của ông, chương tŕnh
của ông, trong cốt lơi của nó, hôm nay vẫn
c̣n nguyên tính cập nhật, thậm chí c̣n
nóng hổi hơn, cấp bách hơn.
Tiếp tục chương tŕnh lớn của ông là
trách nhiệm lịch sử của chúng ta, mỗi
chúng ta, hôm nay, và cả ngay mai.
Nguyên Ngọc
3-2011
[1]
Lê Thị Hiền Minh – Phan Châu Trinh et le
projet d’autonomisation à l’aube du XXe
siècle.
[2]
nt.
Nguồn:
http://www.vietnam2100.org
|
|
5 |
Tư
tưởng lập hiến của Phan Chu Trinh
Phan Đăng Thanh
Tạp chí Nghiên cứu lập pháp
|
Phan
Châu
Trinh (1872- 1926) là một trong
những nhân vật lịch sử tiêu biểu của cách mạng
Việt Nam
cận đại, một nhà tư tưởng lập hiến Việt Nam
đầu thế kỷ XX.
Ông là người làng Tây
Lộc, huyện Hà Đông, tỉnh Quảng Nam, nay thuộc
huyện Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam. Cha làm Quản sở sơn
pḥng, sau tham gia Cần Vương. Lúc nhỏ Phan Chu
Trinh theo cha học chữ và học vơ. Năm 28 tuổi
(1900) đỗ cử nhân, cùng khoa với Huỳnh Thúc Kháng,
Phan Bội Châu. Năm sau, đỗ Phó bảng, cùng khoa với
Ngô Đức Kế, Nguyễn Sinh Huy.. Phan Chu Trinh được
bổ nhiệm làm Thừa biện Bộ lễ. Đến năm 1905 th́ từ
quan ông cùng Trần Quư Cáp, Huỳnh Thúc Kháng vào
Nam Kỳ t́m hiểu dân t́nh sinh khí, t́m người đồng
tâm, rồi ra Nghệ Ttĩnh, Hà Nội, lên căn cứ Đề Thám
và bí mật sang Hương Cảng gặp Phan Bội Châu, rồi
cùng sang Nhật.
Năm đó, ở Nhật về, ông
xác định đường lối cứu nước lâu dài của ḿnh, phát
biểu chính kiến và có một số hoạt động . Đầu năm
1908, nhân vụ chống thuế ở Quảng Nam,
ông bị bắt ở Hà Nội và bị triều đ́nh Huế kết án
"trảm giam hậu, lưu tam thiên lư, ngộ xá bất
nguyên" (Giam chờ chém, đày ba ngàn dặm, gặp dịp
ân xá cũng không cho về) rồi đày từ Côn Lôn. Năm
1910, được tha nhưng bị quản thúc ở Mỹ Tho. Theo
yêu cầu của ông, thực dân Pháp đồng ư cho ông sang
Pháp. Ở đây, ông vẫn tiếp tục hoạt động theo đường
lối mà ông đă tự xác định. Từ đó đến năm 1926 là
năm Phan Chu Trinh mất ở Sài G̣n, cuộc đời ông là
chuỗi ngày tranh đấu cách mạng không ngừng.
Tư tưởng lập hiến là
một bộ phận trong tư tưởng cách mạng của Phan Chu
Trinh, thể hiện qua các mặt chủ yếu sau đây:
1. Nước Việt Nam
cần có Hiến pháp
Trong tư tưởng cách
mạng Phan Châu Trinh, ông thường đề cao hiến pháp,
coi đó là công cụ pháp lư để hạn chế quân quyền
độc tôn và hà lạm của chế độ quần chủ chuyên chế
phương Đông. Ông nói: "lấy theo ư riêng một người
hay một triều đ́nh mà trị một nước, th́ cái nước
ấy không khác ǵ một đoàn chiên, được ấm no vui vẻ
hay là phải đói lạnh khổ sở, là tuỳ theo ḷng rộng
hay hẹp của người chăn chiên. C̣n như theo cái chủ
nghĩa dân trị, th́ tự quốc dân lập ra hiến pháp,
luật lệ, đặt ra các cơ quan để lo chung cho mọi
người..."1
Lấy mẫu mực là nền dân
chủ ở nước Pháp lúc bấy giờ, ông phân tích quan hệ
giữa Tổng thống và Nghị viện đặt trên cơ sở Hiến
pháp. Nguyễn Văn Dương, Phan Châu Trinh tuyển tập,
Nxb Đà Nẵng, 1995.
Chính Hiến pháp xây
dựng và bảo vệ sự ổn định của chế độ dân chủ pháp
trị: "Khi Tổng thống đă được bầu cử rồi, th́ phải
thề trước hai viện ấy: "Cứ giữ theo hiến pháp dân
chủ, không phản bạn, không theo đảng này chống
đảng kia, cứ giữ công b́nh, nếu có làm bậy, th́
dân nó truất ngay. Trước th́ có Macmahon, sau th́
có Mil1erand bị cách chức cũng v́ vi phạm hiến
pháp"2.
2. Về chủ
quyền quốc gia và độc lập dân tộc
Phan Châu Trinh là một
nhà yêu nước lớn, đồng thời với Phan Bội Châu
nhưng biện pháp cứu nước của hai ông không giống
nhau, nhất là con đường thực hiện giành lại chủ
quyền cho quốc gia, giải phóng dân tộc...
Nếu Phan Bội Châu yêu
nước bằng chủ trương bạo động để giành độc lập,
th́ Phan Chu Trinh trái lại, ông phản đối chủ
trương bạo động cách mạng và đi cầu viện nước
ngoài để giành độc lập. ông muốn nhờ vào chính
quyền thực dân Pháp mà làm chính trị công khai để
“Khai dân trí,
chấn dân khí, hậu dân sinh",
để từ đó giành lại chủ quyền cho đất nước, tự do,
hạnh phúc cho nhân dân.
|
Phan
Châu Trinh (1872-1926)
Ông là nhà cách mạng
xă hội, có tư tưởng dân chủ đầu tiên,
là nhà văn hóa, một nhân cách lớn.
Phan Châu Trinh là một
tấm gương sáng trong phong trào Duy
Tân đầu thế kỷ 20. Ông là một nhà nho
yêu nước có nhiều suy nghĩ tiến bộ. Có
thể xem ông là người có tư tưởng dân
chủ sớm nhất trong số các nhà nho yêu
nước tiến bộ đầu thế kỷ.
Đặc biệt hơn nữa, ông
chọn con đường dấn thân tranh đấu
nhưng ôn ḥa, bất bạo động. Ông coi
dân chủ cấp bách hơn độc lập và coi
việc dùng luật pháp, cai trị quy củ có
thể quét sạch hủ bại phong kiến.
Với tinh thần yêu nước
nồng nàn, suốt đời gắn bó với vận mệnh
đất nước, với cuộc sống sôi nổi, gian
khó và thanh bạch, ông xứng đáng để
hậu thế ngưỡng mộ, noi theo ngày hôm
nay...
|
Chủ trương cơ bản của Phan Chu Trinh là: "ỷ Pháp
cầu tiến bộ" tức là dựa vào thực dân Pháp mà cầu
tiến bộ để từ đó tranh đấu với Pháp về các mặt
kinh tế, văn hoá, chính trị. Chủ trương ấy gọi là
"Pháp - Việt đề huề". Nhận xét về tư tưởng của
Phan Chu Trinh, trong Phan Bội Châu niêu biểu,
Phan Bội Châu đă viết: "Cụ th́ muốn đánh đổ quân
chủ, mà cốt vun trồng lấy nền tảng dân quyền, dựa
vàn Pháp mà đánh đổ quân chủ. C̣n ư tôi th́ trước
muốn đánh đổ người Pháp, chờ nước ḿnh độc lập
rồi, mới bàn đến việc khác. V́ thế mà đương lúc
đánh với Pháp, phải lợi dụng quân chủ (...) Cụ th́
muốn đi theo lối dựa Pháp đánh đổ vua, tôi ưng đi
theo lối bài Pháp phục Việt, sở dĩ mâu thuẫn với
nhau là v́ thể”3.
Phan Chu Trinh đề
xướng và lănh đạo phong trào Duy Tân. Ông có ư
định thiết lập ở Việt Nam
một chế độ dân chủ tự trị. Tự trị nghĩa là tách
khỏi sự cai trị của thực dân Pháp. Trong Pháp -
Việt liên hiệp hậu chi tân Việt Nam,
Phan Chu Trinh viết: 'Tôi đă chủ trương tự trị,
tin cậy Pháp. Đă muôn cậy Pháp ắt không lợi dung
ḷng dân oán Pháp (…). Tôi đă chủ trương cậy Pháp
th́ thủ đoạn không thể do tự trị mà ra. Tự trị
cũng chẳng là việc dễ lắm đâu, việc hỏng ắt cũng
chết…” 4.
Như vậy, chủ trương
của Phan Chu Trinh là dựa vào Pháp để tự trị, c̣n
Phan Bội Châu th́ bài Pháp để độc lập. Mặc dù Phan
Chu Trinh chưa có lần nào giải thích rơ ư nghĩa
của chế độ "tự trị" ấy, nhưng qua con đường tranh
đấu của ông cũng cho phép xác định được nội dung
"tự trị" ấy là tự cai trị ḿnh, tách khỏi sự thống
trị của thực dân Pháp, tự trị cũng nguy hiểm như
độc lập. Cho nên một tài liệu của Phủ Toàn quyền
Đông Dương đă viết: "Mặc dầu khuynh hướng có vẻ
khác nhau ở bên ngoài như thế, người ta vẫn phải
công nhận rằng các hoạt động kia khớp với nhau
chặt chẽ và đều nhằm mục đích cuối cùng là đánh
đuổi người nước ngoài đi"5.
3. Về chế độ
chính trị
Phan Chu Trinh kịch
liệt phản đối chế độ quân chủ mà ông gọi là "quân
trị" và đ̣i thực hiện chế độ cộng hoà tư sản mà
ông gọi là "dân trị".
Ông giải thích "Quân
trị chủ nghĩa tuy có pháp luật mặc ḷng, nhưng cứ
tự tay ông vua lập ra, chứ c̣n dân th́ chẳng biết
ǵ hết. Vậy cho nên khi nào gặp một ông vua thông
minh, anh hùng, hiểu rơ cái sự quan hệ dân với
nước là thế nào mà trừng trị những cái lũ tham
quan, lại nhũng để dân được yên lặng làm ăn, th́
dân giàu nước mạnh...”6 . Ông cũng nói:
"Nhân trị nghĩa là cái phép luật thi hành rộng răi
hay là nghiêm ngặt là tuỳ theo cái ḷng vui, buồn,
thương ghét của một ông vua mà thôi, c̣n pháp luật
tuy có cũng như không"7. Phan Chu Trinh
cho rằng bên Châu Âu, người ta đă thực hành từ lâu
rồi chính thể "Quân dân cộng trị mà Tàu dịch là
quân chủ lập hiến", tức như chính thể "nước Anh,
nước Bỉ, nước Nhật đang theo hiện nay"8.
So Sánh, ông khẳng
định: "... cái chủ nghĩa dân trị hơn cái chủ nghĩa
quân trị nhiều”9, bởi v́ "theo cái chủ
nghĩa dân trị, th́ tự quốc dân lập ra hiến pháp,
luật lệ, đặt ra các cơ quan để lo việc chung mọi
người. Ḷng quốc dân muốn thế nào th́ được thế
ấy..."10. Năm 1922, khi vua Khải Định
sang Pháp, Phan Châu Trinh đă viết “Thất điều thư"
công kích trực diện chế độ quân chủ, định tội của
Khải Định và hầu như kêu gọi quốc dân tuyên chiến
để "nhổ đến tận gốc, lấp cho dầy nguồn, ra tay
quét sạch sành sanh vua, quan...
Phan Châu Trinh có đọc
J.J. Ronsseau, Montesquieu và sống nhiều năm ở
Pháp, trong nhà của Phan Văn Trường- một trí thức
tân học, lại cũng dă tiếp xúc với Nguyễn Ái Quốc
và đă bị Chính phủ Pháp bắt giam một thời gian...
Thế mà năm 1925, về Sài G̣n, ông giải thích quân
chủ lập hiến ở Châu Âu là "Quân dân cộng trị", là
b́nh đẳng theo lời dạy của Khổng Tử: “Tự thiên tử
dĩ chí ư thứ dân nhất thị giai dĩ tu thân vi bản"
tức là từ vua chí dân đều phải lấy việc sửa ḿnh
làm gốc11 . Về chủ nghĩa dân chủ, ông
lại lấy câu của Mạnh Tử: "Dân vi quư, xă tắc thứ
chi, quân vi khinh", nghĩa là dân quư hơn hết,
lănh thổ thứ nh́, vua là nhẹ rồi ông lại nói: "Đạo
Khổng - Mạnh đă mất rồi, nay ta muốn nước ta có
một nền đạo đức, luân lư vững vàng, th́ có ǵ hay
bằng ta hết sức đem cái chủ nghĩa dân chủ Châu Âu
về. Chủ nghĩa dân chủ chính là một vị thuốc tất
thần hiệu dùng để chữa bệnh chuyên chế của nước ta
vậy. Đem văn minh Ââu Châu về, tức đem đạo Khổng -
Mạnh về"12. Nếu chỉ đọc đoạn này th́ có
thể nghĩ đây là một cách nói để dễ thuyết phục
tầng lớp nho học. Nhưng, gắn liền vào lời nói của
Mạnh Tử về "dân vi quư”, ông đă viết: "Ngày nay,
bên Đức, bên Pháp, bên Nga, tuy chính thể của họ
có khác nhau chút đỉnh nhưng đều thực hành cái chủ
nghĩa dân chủ cả"13.
Ảnh hưởng của Cách
mạng Tháng 10 đối với Phan Châu Trinh c̣n rất ít,
tư tưởng lập hiến của ông đi theo con đường dân
chủ tư sản. Tuy nhiên, ông không bài bác chủ nghĩa
xă hội. Dù biết Nguyễn Ái Quốc đă chọn con đường
cứu nước khác ḿnh, qua bức thư ngày 18/2/1922,
ông vẫn khuyên Nguyễn Ái Quốc về nước để quảng
cáo, tuyên truyền cho chủ nghĩa Mác - Lênin để cứu
nước: "Tôi biết anh hấp thụ được cái chủ nghĩa của
ông Mă Khắc Tư (Karl Marx), ông Lư Ninh (Lenine),
nên tôi cũng đem chuyện hai ông ấy mà giảng dẫn
cho anh em rơ (...) Cứ xem hai ông Mă, Lư mà anh
tôn thờ chủ nghĩa, có ông nào dùng cái lối nương
náu đất người mà làm quốc sự của ḿnh, như anh
đâu? Bởi vậy, quả như anh tôn thờ lư thuyết hai
ông ấy th́ anh nghe lời tôi mà về quảng cáo cho
quốc dân đồng bào, ai nấy đều biết, có phải là cái
phương pháp hay biết chừng nào"14.
4. Về dân quyền Phan
Châu Trinh là người yêu nước lại chịu ảnh hưởng
mạnh mẽ của tư tưởng dân chủ tư sản qua tân thư.
Con đường cứu nước của ông khác với Phan Bội Châu
ở điểm cơ bản là ông chủ trương băi bỏ chế độ quân
chủ phong kiến, thực hiện dân chủ, khai thông dân
trí, mở mang công thương nghiệp. Không bạo động,
không nhờ ngoại viện, mà nhờ vào chính quyền thực
dân, vin vào những lời hứa hẹn của nhà cầm quyền
để làm chính trị công khai, mưu dân quyền, dân chủ
và hạnh phúc cho nhân dân. Cho nên, có thể nói lư
tưởng dân quyền là tư tưởng căn bản quyết định
hành động cách mạng của Phan Châu Trinh.
Chủ trương xuyên suốt
của ông là dựa vào "nước Pháp là một nước làm tiền
đạo văn minh của hoàn cầu, nay hiện bảo hộ nước
ta, ḿnh nhân đó mà học theo, chuyên tâm về mặt
khai tự trị sinh, các việc thực dụng, dân trí đă
mở rộng, tŕnh độ ngày sẽ một cao, tức là cái nền
độc lập ngày sau ở đây"15.
Thứ văn Phan Châu
Trinh tràn ngập t́nh thương yêu người dân bị áp
chế, nghèo khổ và cực lực chống lại mọi kẻ quyền
thế, giàu có, tàn ác…
"Nhớ vợ thương
con, dạ nặng tŕ,
Lên non c̣i túc, lệnh đ̣i đi.
Ba quân hiệu giáp nghe vang cả,
Hai mối t́nh sâu rẽ sá chi.
Non nước trót vương cơn bấn loạn,
Cửa nhà đành chịu kiếp phân ly.
Gươm thiêng một lưỡi anh từ giả.
Giọt máu anh hùng luỵ nữ nhi"16.
Hay
"Biết lấy chi chi
trả ái ân,
Phần thời làng bắt nộp công ngân.
Đá vàng trơ đấy khôn đ̣i nợ,
Tiền bạc vơ dâu để rảnh thân.
Nghĩa mẹ ơn cha trời đất nặng,
Bán con đợ vợ tháng ngày lần.
Đắp đàng, đào suối, ḅn vàng bể,
Khuấy khoả v́ ai khổ kiếp dân"17.
Trong thư gửi Toàn
quyền Paul Beau (Đầu Pháp Chính phủ thư) tố cáo
trước công luận trong và ngoài nước về tội ác của
thực dân Pháp đối với nhân dân Việt Nam Phan Chu
Trinh đă kết luận theo hướng "Pháp - Việt đề huề"
của ông như sau: "Nếu Chính phủ quả thật sẵn ḷng
đồi hết chính sách đi, kén chọn người hiền tài
trao quyền bính cho, lấy lễ mà tiếp, lấy thành mà
đăi, cùng nhau lo toan việc dấy lợi trừ hại ở
trong nước, mở đường sinh nhai cho dân nghèo, rộng
quyền ăn nói cho thân sỹ, báo quán cho mở rộng để
thông đạt t́nh dân, thưởng phạt cho nghiêm minh để
khuyên răn quan lại, c̣n dấn những việc đổi pháp
luật, bó khoa cử, mở trường học, đặt toà tu thư,
dạy lớp sư phạm, cho đến học công thương, học kỹ
nghệ và các ngạch giúp việc cho Chính phủ, chỉ sợ
người Pháp bỏ nước Nam mà đi, c̣n ai toan mưu việc
chống cự nữa?"18.
Trong Thất điều thư
gửi vua Khải Định (1922), Phan Chu Trinh cực lực
công kích Khải Định và qua đó lên án chế độ quân
quyền độc tôn, quân chủ chuyên chế, áp bức nhân
dân.
Với tư tưởng ấy và
hành động ấy, khi Phan Chu Trinh qua đời, Huỳnh
Thúc Kháng đă đọc trong buổi tang lễ lời nhận xét:
"Chủ nghĩa tiên sinh là đánh đổ chuyên chế, là dân
quyền tự do ..."19
5. Về cơ chế
nhà nước và quản lư nhà nước.
Quân trị chủ nghĩa và
dân trị chủ nghĩa, là bài diễn thuyết cuối cùng
trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Phan Châu
Trinh nói ở Sài G̣n vào năm 1925, trước khi ông
qua đời (1926). Trong bài diễn thuyết này, ông đă
tập trung tŕnh bày về cái mẫu nhà nước lư tưởng
cho Việt Nam
tương lai khi công cuộc duy tân hoàn thành.
Mô h́nh lư tưởng theo
Phan Châu Trinh là tổ chức nhà nước của các nước
phát triển ở Châu Âu lúc bấy giờ (như Anh, Pháp...
). Tổng quát, nhà nước ấy được tổ chức và điều
hanh theo nguyên tắc cơ bản là “tam quyền phân
lập", với cơ chế 3 quyền độc lập với nhau: lập
pháp giao cho Nghị viện, hành pháp đứng đầu là
Giám quốc (Tổng thống) do Nghị viện bầu ra, và tư
pháp giao cho các cơ quan xét xử độc lập đối với
hai ngành ha. "Đó là theo cái lẽ ba quyền là quyền
lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp đều
riêng ra, không hiệp lại trong tay một người nào”
20.
Bộ máy nhà nước ấy bao
gồm các bộ phận chủ yếu sau đây:
Nghị viện: Gồm có hai
viện: Hạ nghị viện và Nguyên lăo viện.
Hạ nghị viện với số
lượng Hạ nghị viên trên dưới 60 người, do dân trực
tiếp bầu ra, có nhiệm vụ làm Hiến pháp và luật "Số
phận của nước Tây cầm ở trong tay cái viện ấy”21.
Công dân từ đủ 21 tuổi trở lên có quyền bầu cử, 25
tuổi trở lên có quyền ứng cử
Nguyên lăo viện không
do dân bầu. Song viện này phối hợp với Hạ nghị
viện để bầu chọn Tổng thống (Giám quốc) và nội các
Chính phủ.
Tổng thống và nội các:
Chức vụ Tổng thống (hay Giám quốc) đứng đầu ngành
hành pháp do Nghị viện bầu ra với nhiệm kỳ 7 năm,
bầu theo nguyên tắc đa số. Nếu nước có vua th́ vua
được truyền ngôi theo chế độ thế tập (cha truyền
con nối).
Tổng thống được chọn
trong số các thành viên của Nghị viện. Tổng thống
được bầu xong phải tuyên thệ trước hai viện, đại
khái rằng: "Cứ giữ theo Hiến pháp dân chủ, không
phản bạn, không theo đảng này chống lại đảng kia,
cứ giữ công b́nh, nếu có làm bậy th́ dân nó truất
ngay".
Chính phủ (nội các) do
Nghị viện bầu ra, gọi là Quốc vụ viện. Nội các gồm
khoảng 20 Bộ trưởng hoạt động tích cực trong trách
nhiệm về lănh vực chuyên môn của mỗi người ("chứ
không phải ăn rồi ngồi không như các ông Thượng
thư ở ta")22.
Viện tư pháp: Viện này
quản lư các quan chức xử án và công việc xét xử
trong nước. Các quan xử án không phải do các quan
cai trị (hành chính) kiêm nhiệm như ở xứ ta thời
quân chủ mà là những người đă học thông thạo luật
lệ Cơ quan tư pháp có quyền xét xử cả thường dân
lẫn chính phủ nữa. Tư pháp có quyền độc lập, khi
xét xử, quan xử án chỉ tuân theo pháp luật và
lương tâm của ḿnh.
Ngoài ra, trong cơ chế
quyền. lực ấy, có những điểm đáng lưu ư sau đây:
Vai tṛ của đảng phái
chính trị: Theo Phan Châu Trinh, chế độ nhiều đảng
cần thiết để đảm bảo chế độ dân chủ. Đảng đa số
trong Nghị viện làm hậu thuẫn của Chính phủ, đồng
thời thường xuyên có sự đối lập của Đảng thiểu số
Nhờ đó tránh được những sai lầm: "C̣n Chính phủ
th́ cũng bởi do 2 viện ấy mà ra. Nhưng mà phải
giao quyền cho cái Đảng nào chiếm số nhiều trong
hai viện ấy th́ mới được tổ chức Quốc vụ viện (…).
Nếu cái ǵ mà làm không bằng ḷng dân thế nào cũng
có người chỉ trích. Bởi v́ ở trong Hạ nghị viện
thế nào cũng có hai đảng, một đảng tả, một đảng
hữu, nếu cái đảng tả chiếm số nhiều mà cầm quyền
trong nước, th́ đảng hữu nó xem xét, chỉ trích,
cho nên muốn làm bậy cũng khó lắm"23.
Vai tṛ của pháp luật:
Chế độ dân chủ pháp trị được xây dựng trên một nền
pháp luật hoàn chỉnh, ổn định. ông viết: "Dân trị
tức là pháp trị". Pháp luật định ra quyền hạn,
nhiệm vụ của nhà cầm quyền, của từng chức vụ, cơ
quan trong bộ máy nhà nước, từ người thấp nhất đến
người cao nhất. Mọi người đều b́nh đẳng trước pháp
luật. Phan Châu Trinh viết: "Nhưng mà thế nào mặc
ḷng, trong nước đă có pháp luật kỹ càng, cái
quyền chính phủ có hạn định, khi nào vượt ra khỏi
cái quyền hạn của ḿnh th́ không được, nên dẫu
muốn áp chế cũng không biết tḥ ra chỗ nào. Vả
lại,khi có điều ǵ phạm đến pháp luật, th́ người
nào cũng như người nấy, từ ông Tổng thống cho đến
một người dân nhà quê cũng đều chịu theo pháp luật
như nhaư”24
1 Nguyễn Văn
Dương, Phan Chu Trinh tuyển tập, Nxb Đà Nẵng,
sđd, tr 783.
2 Nguyễn Văn
Dương, sđd, tr 815 - 816.
3 Phan Bội Châu,
toàn tập, Tập 6, Nxb Thuận Hóa, Huế, 1990, tr
116.
4 Nguyễn Văn
Dương, sđd, tr 543 – 541.
5 Nguyễn Văn
Dương, sđd, tr 44.
6 Nguyễn Văn
Dương, sđd, tr 807 - 808.
7 Nguyễn Văn
Dương, sđd, tr 809.
8 Nguyễn Văn
Dương, sđd, tr 783.
9 Nguyễn Văn
Dương, sđd, tr 783.
10 Nguyễn Văn
Dương, sđd, tr 817.
11 Nguyễn Văn
Dương, sđd, tr 783.
12 Nguyễn Văn
Dương, sđd, tr 784.
13 Nguyễn Văn
Dương, sđd, tr 783.
14 Thu Trang,
những hoạt động của Phan Chu Trinh tại Pháp
(1911 – 1925), Nxb Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh,
2000, tr175, 178.
15 Huỳnh Thúc
Kháng, Thu từ tùng thoại, Nxb,
Nam
Cường, Sài G̣n, 1951, tr.176.
16 Nguyễn Văn
Dương, sđd, tr 269.
17 Nguyễn Văn
Dương, sđd, tr 270.
18 Nguyễn Văn
Dương, sđd, tr 354 - 355.
19 Trần Văn Dầu.
Hệ ư thức tư sản và sự thất bại của nó trước
nhiệm vụ lịch sử , Nxb Khoa học xă hội, 1975,
tr.437.
20 Nguyễn Văn
Dương, Sđd, tr 817.
21 Nguyễn Văn
Dương, Sđd, tr 825.
22 Nguyễn Văn
Dương, Sđd, tr 816.
23 Nguyễn Văn
Dương, sđd, tr 816.
24 Nguyễn Văn
Dương, sđd, tr 816.
Nguồn:http://chungta.com/Desktop.aspx/Tac-gia/Tac-gia/Phan_Chau_Trinh/
|
Nguyễn Quư Đại
Phan Châu
Trinh sinh tháng 8 năm 1872 (Nhâm Thân) tại làng Tây Lộc
phủ Tam Kỳ Quảng Nam, tự Tử Cán hiệu là Tây Hồ, biệt
hiệu Hy Mă. Ông xuất thân gia đ́nh danh tiếng tại Tiên
Phước, thân phụ ông Phan văn B́nh làm quan chức Quản cơ
sơn pḥng (chức quan vơ trong coi biên giới các vùng
núi) thân mẫu bà Lê thị Chung(Trung?). Ông là con trai
út, lập gia đ́nh năm 1896 lúc 25 tuổi, vợ là Lê Thị Tỵ
(1877-1914) người làng An Sơn, Tiên Phước. Thi đỗ cử
nhân năm 1900, phó bảng 1901, năm 1903 làm quan ở Huế.
Bối cảnh lịch sử
Thực dân Pháp chiếm 6 tỉnh Nam Việt. Ngày 05.07.1885
Tướng De Courcy đem đại quân đánh úp Kinh thành Huế, Tôn
Thất Thuyết (1835-1913) xa giá vua Hàm Nghi (1872-1943)
ra khỏi Kinh thành. Các đạo quân De Courcy chỉ huy đuổi
theo truy lùng. Tôn Thất Thuyết phải đưa vua chạy đến
Tân Sở (QuảngTrị) thảo hịch Cần Vương được sĩ phu khắp
nơi hưởng ứng lời kêu gọi, nổi lên chống Pháp, bấy giờ
cụ Phan Văn B́nh hưu trí, nhưng hưởng ứng Nghĩa Hội Cần
Vương làm chuyển vận sứ (phụ trách quân lương) ở
đồn A-Bá Tiên Phước và lập đồn điền để trồng hoa màu
tiếp tế cho Phong Trào Nghĩa Hội tại Quảng Nam (từ tháng
7.1885 đến tháng 8.1887) dưới sự lănh đạo của Nguyễn Duy
Hiệu (1847-1887) và tiến sĩ Trần Văn Dư (1839-1885).
Tổng trú sứ Bihourd đề nghị với Đồng Khánh sai Nguyễn
Thân đánh dẹp Phong Trào Nghĩa Hội Quảng Nam. Nguyễn
Thân đánh Tam Kỳ và phá nhiều căn cứ quân Cần Vương,
tiếp tục truy lùng bắt gia đ́nh Nguyễn Duy Hiệu
tại thượng nguyên Phước Sơn làm con tin, yêu cầu ông ra
đầu hàng v́ ḷng hiếu thương mẹ già và gia đ́nh. Ông
phải về với triều đ́nh (Đồng Khánh) lảnh bản án tử h́nh.
Đồng Khánh lên ngôi 14.9.1885 làm vua bù nh́n. Triều
đ́nh có một số quan lại muốn yên thân cúi đầu tuân theo
lệnh của bọn thực dân, xă hội và triều đ́nh bị phân hoá
trầm trọng chia làm hai phe. Phe theo kháng chiến cứu
quốc, phe c̣n lại hàng giặc để thừa hưởng, vinh thân ph́
gia.
Cuộc kháng chiến của vua Hàm Nghi thất bại, bị tên thổ
phỉ Lê Quang Ngọc, và Nguyễn Đ́nh Th́n chỉ điểm cho
Pháp. Đêm 01.11.1888 bắt vua Hàm Nghi giao cho Đại úy
Boulanger ngày 04.11.1888, đến trung tuần tháng 8.1889
vua bị lưu đày sang Bắc Phi. Các phong trào Văn Thân,
Cần Vương bị dẹp, nhưng không dập tắt ḷng yêu nước của
toàn dân Việt Nam. Năm 1930 khởi nghiă chống Pháp của
Việt Nam Quốc Dân Đảng dù thất bại "không thành công
cũng thành nhân“, không làm nao núng ḷng yêu nước. Dân
tộc Việt Nam luôn tranh đấu qua nhiều pḥng trào đánh
Tây, muốn thoát khỏi ṿng nô lệ nên máu xương của dân
quân tiếp tục đổ ra trên ḍng sông lịch sử, cho đến ngày
dành lại độc lập năm 1945. Bọn tay sai đắc lực như
Nguyễn Thân (1840-1914), Hoàng Trọng Phu, Hoàng Cao Khải
(1850-1933), Lê Hoan, Nguyễn Trọng Hợp (1834-1902), Phạm
Ngọc Quát v.v. bị lịch sử phê phán, người đời nguyền
rủa. hai tên phản quốc Ngọc và Th́n đều bị nghiă quân
Phan Đ́nh Phùng (1844-1895) giết để làm gương cho hậu
thế.
Sau cơn Quốc biến và Gia biến, Phan Châu Trinh mồ côi mẹ
lúc 6 (8?) tuổi, năm Đinh Hợi 1887 thân phụ bị nạn qua
đời, pḥng trào cũng tan, ông từ giả chiến khu lúc 16
tuổi về quê sống với anh cả Phan Văn Cừ nuôi ông
ăn học, ông là người hoạt bát tháo vát và vui
tính. Năm 1892 (21 tuổi) kết giao với Huỳnh Thúc Kháng,
đến năm 1898 ông được vào trường tỉnh do đốc Trần Đinh
Phong (Mă Sơn) tại Thanh Chiêm quận Điện Bàn trông coi
giảng dạy, có nhiều cơ hội tiếp xúc với nền văn minh phố
Hội và có thêm bạn thân là Trần Quư Cáp. Năm 1901 đậu
phó bảng, người anh cả mất năm 1902 ông về cư tang, ở
nhà dạy học đến năm Qúy măo 1903 lại được bổ dụng làm
Thừa biện bộ Lễ. Kinh đô Huế là Trung tâm văn hóa,
trong thời gian làm quan ông tiếp xúc nhiều giới trí
thức tân học như: Đào Nguyên Phổ (1861-1907), Thân Trọng
Huề (1869-1925) Phan Bội Châu (1867-1940). Tàu bè ngoại
quốc đến Đà Nẵng, bán sách cho sĩ phu Việt Nam, từ đó
Phan Châu Trinh tiếp thu ư thức thế hệ mới, về tư tưởng
dân quyền và dân chủ. Các cuộc chiến Trung Hoa Nhật Bản
(1894-1895) chiến tranh Đức Pháp (1870-1871), ảnh hưởng
rất nhiều đến thành phần trí thức, cũng như sách
Tân thư, của Khang Hữu Vi (K’ang Yu Wei 1858-1927) Lương
Khải Siêu (Liang Ch’i Ch’ao 1837-1929) và của các tác
giả: Montesquieu (1689-1755), Rousseu (1712-1778),
Voltaire (1694-1778) được dịch sang Hán văn. Từ đó có
một sự chuyển biến trong tư tưởng và cuộc đời của Phan
Châu Trinh, nhưng nhà văn Nguyễn Văn Xuân cho rằng: Phan
Châu Trinh ảnh hưởng sâu rộng tư tưởng Duy Tân của tác
giả Nguyễn Lộ Trạch với "Thiên Hạ Đại Thế Luận“
(2).
Phong Trào Duy Tân
Cuối năm 1904,
Phan Châu Trinh từ quan, rời Huế không muốn làm việc
trong cảnh nô lệ. Triều đ́nh có Vua nhưng chỉ để thi
hành mệnh lệnh của chính phủ bảo hộ không có quyền
hành.“vận nước gặp cơn dâu biến..c̣n ḷng đâu áo măo
xênh xang“. Ông cùng hai người bạn thân là Hùynh
Thúc Kháng và Trần Quư Cáp, không làm quan để vinh thân
ph́ gia chọn con đường đấu tranh nhiều chông gai, dấn
thân hoạt động trong Phong Trào Duy Tân tại Quảng Nam.
Phong trào Duy Tân chủ trương bất bạo động, công khai
hoạt động nhằm khai hoá dân tộc "chấn dân khí, khai dân
trí, hậu dân sinh“ cải cách trên mọi lănh vực, khuyến
khích giáo dục bỏ lối học từ chương, truyền bá canh tân
mở mang công thương nghiệp, chấn hưng công nghệ, bỏ mê
tín dị đoan, kêu goị cắt tóc ngắn, cắt móng tay, phát
động phong trào học Quốc ngữ , nhưng triều đ́nh Huế vẫn
duy tŕ lối học thi phú, qua các loại sách như “Tứ Thư
Đại học, Trung dung, Luận ngữ, Mạnh Tử“ và Ngũ kinh. Cho
đến năm 1913 Triều đ́nh bắt đầu cải cách, năm 1917 kỳt
thi Hương cuối cùng chấm dứt chương tŕnh học cổ điển.
Trong lúc Tây Phương họ học toán, phát triển văn-minh,
khoa-học, kỷ-thuật tiến bộ, người ta dùng kỷ nghệ nặng
như đóng tàu, đúc súng…đem lại đời sống phồn thịnh Phan
Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quư Cáp cùng nhau đi
vào miền Nam, tới B́nh Định gặp quan tỉnh kỳ khảo
hạch , ông cùng hai bạn làm bài thơ "Chí Thành Thông
Thánh “ và bài phú " Danh Sơn Lương Ngọc “ gây chấn động
trong học giới và văn giới.
Việc đời
ngoảnh lại thành không
C̣n đâu giọt lụy non sông khóc người
Muôn dân luồn cúi tôi đ̣i
Văn chương bát cổ say hoài giấc mơ
Mặc ai chửi rủa tha hồ,
Xích xiềng này biết bao giờ tháo xong?
Anh em c̣n chút máu nồ
Hăy đem văn ấy đọc cùng nhau nghe.
(Á Nam Trần Tuấn Khải dịch)
Thơ và phú đó gây phản ứng
mạnh tại trường thi, mục đích cảnh tỉnh học tṛ sĩ tử
c̣n mê muội với từ chương thi phú, ham công danh quên
đất nước đang ch́m trong ṿng nô lệ. Đó cũng là cách vận
động gây tiếng vang trong giới trí thức và quần chúng.
Chính quyền điạ phương truy lùng tác giả các bài trên,
nhưng các cụ đă đi xa vào tới Nha Trang, xem hạm đội Nga
do đô đốc Rojestvensky chỉ huy tạm thả neo chờ ngày cấp
cưú Lữ Thuận (Lu Shun). Ba người tới Phan Thiết
gặp các ông Trương Gia Mô (1866-1930), Hồ Tá Bang
(1875-1943), Nguyễn Trọng Lôi ( ?1911) cùng bàn chuyện
Duy Tân, thành lập công ty Liên Thành và mở trường Dục
Anh. Phan Châu Trinh bị bệnh nên không thể tiếp
tục xuôi Nam. phải ở lại dưỡng bệnh Huỳnh Thúc Kháng
(1876-1947) , Trần Quư Cáp (1870-1908) trở về hoạt động
tại Quảng Nam, có thêm Lê Bá Trinh (1875- ?), Phan Thúc
Duyện (1873-1944) là những người khoa bảng không ra làm
quan, tham gia vận động mạnh cho Phong Trào Duy Tân với
chủ thuyết Dân Quyền, được vận động trong quần chúng,
thực hành theo phương thức hoạt động của Khang Hữu Vi và
Lương Khải Siêu. Khác với Nguyễn Lộ Trạch (1852-1895),
Nguyễn Trường Tộ (1828-1817), Phan Thanh Giản
(1796-1867), Phạm Phú Thứ (1820-1883) viết nhiều điều
trần gởi cho triều đ́nh Huế đều bị bỏ quên!
Tại Quảng Nam các thương hội, dệt các thứ vải dày có thể
may Âu phục. Phan Châu Trinh đích thân làm gương cắt
may, mặc bộ đồ tây bằng vải nội, hàng vải tơ lụa nội hóa
được cải tiến, làng Bảo An, Điện Bàn nổi tiếng dệt đẹp
cần phát triển thủ công nghệ, có thể cạnh tranh với tơ
lụa nhập cảng. Nông Hội phát triển lớn nhất tại Yến Nê,
(Điện Bàn) rộng chừng 20 mẫu trồng khoai, sắn, bắp, cho
trồng cây dương liễu để cản gió theo hai bên bờ sông,
c̣n lại dấu tích cho đến ngày nay. Mỹ Sơn (Duy Xuyên)
rộng khoảng 40 mẫu trồng hoa màu và cấy lúa, Bửu Sơn
(Đại Lộc) khai phá để trồng lúa.
Về thương nghiệp cạnh tranh với thương gia Trung Hoa.
Các thương hội tổ chức, phương pháp làm việc kết qủa tốt
như thương hội Phong Thử (Điện Bàn) do Phan Thúc Duyện
trông coi, điạ điểm thuận lợi cho việc giao thông bằng
đường thủy ghe lớn có thể cập bến được, tấp nập người
đến buôn bán. Hội An thương cuộc do ông Bang Kỳ
Lam phụ trách bán đủ loại sỉ và lẽ vải, gạo, đường, quế,
trên các món hàng bày bán đều có định giá rỏ ràng nhân
viên lịch sự tiếp khách… Phú Lâm (Tiên Phước) do Lê Cơ
(1870-1918) tổ chức chương tŕnh khuyến kích công thương
nghiệp, là bước tiến đầu tiên tại Quảng Nam từ từ ảnh
hưởng đến thay đổi sinh hoạt Hà Nội và Sài G̣n. Các nhà
nho tiến bộ tại Hà Nội đứng ra khuếch trương thương
nghiệp là ông Đỗ Chân Thiết mở hiệu Đồng Lợi Tế ở phố Mă
Mây, mở tiệm thuốc Bắc Tụy Phương ở phố Hàng Cỏ, Hoàng
Tăng Bí mở hiệu Đông Thành Xương ở Hàng Gai..Tại sài g̣n
có Minh Tân Khách sạn của cụ Phủ Chiếu (3).
Phong Trào Duy Tân là cuộc cách mạng lớn trên mọi lănh
vực đầu Thế kỷ 20. Các trường dạy thêm chương tŕnh chữ
Quốc ngữ lan rộng trên khắp nẻo đường đất nước. Vua
Thành Thái thường cải trang vi hành, nghe và ảnh hưởng
Phong Trào Duy Tân, cắt bỏ cục tóc trên đầu, các quan
ngạc nhiên lúc ngài ngự triều, nhà Vua tự làm gương đề
xướng theo Duy Tân cải cách sinh hoạt để thúc đẩy dân
tiến (4).
Thực dân Pháp kết án ai theo Duy Tân cắt tóc gọi là giặc
cúp tóc. Ngày 30-7-1907 toàn quyền Beau kết tội vua
Thành Thái bị bệnh tâm thần và phế đế, lập Duy Tân (Vĩnh
San) lên ngôi (1900-1945).Phong Trào Duy Tân phát triển
tốt đẹp tại quê nhà, Phan Châu Trinh ra Nghệ An gặp Ngô
Đức Kế đến Hà Nội tiếp xúc với số sĩ phu vận động mở
rộng Phong Trào Duy Tân, ông có tài diễn thuyết, chinh
phục được phái cựu học tham gia Phong Trào, khuyến khích
mở trường dạy nghành nghề từ công nghiệp cho đến thương
nghiệp, mở nông hội và thương hội nâng cao đời sống về
kinh tế, truyền bá chữ Quốc ngữ đề xướng chủ thuyết Dân
Quyền, được hoan hô đón nhận. Các nhà nho như cụ Phương
Nam, Đổ Chân Thiết, Lương Trúc Đàm (1879-1908) là những
người tiên phong cắt tóc ngắn và ăn mặc Âu phục với hàng
nội hóa (5).
Ông ích Đường (1884-1908) cháu nội Ông Ích Khiêm hướng
dẫn Phan Châu Trinh lên Yên Thế thăm lănh tụ Hoàng Hoa
Thám (1858-1913). Về Hà Nội gặp các ông Lương Văn Can,
Nguyễn Quyền là người có công mở trường Đông Kinh Nghĩa
Thục.
Xuất ngoại lần thứ nhất
Cuối tháng 3 năm 1906 trốn đi sang Hồng Kông. Nhờ vào
đường giây của Phong Trào Đông Du (1906-1908) Tăng Bạt
Hổ người có công đầu dẫn đường cho các nhà cách mạng
Việt Nam. Phan Bội Châu và các đồng chí khởi xướng Phong
Trào Đông Du đưa du học sinh sang Nhựt. Trên tàu các Cụ
gặp Lư Tuệ làm việc đầu bếp, giúp đỡ từ đó Phan
Châu Trinh, được Lư Tuệ dẫn đường xuống tàu cải trang
làm bếp đi Hồng Kông gặp Phan Bội Châu (1867-1940),
Cường Để (1882-1951 là cháu 5 đời vua Gia Long). Cùng
nhau sang Quảng Châu thăm Lưu Vĩnh Phúc, Nguyễn Thiện
Thuật (?-1841), Lương Ngọc Quyến (1890-1917).
Tháng 5-1906 cả 3 người đến Hoành Tân (Yokohama) và Đông
kinh (Tokyo), trong thời gian lưu lại Nhật, các cụ nh́n
thấy nước Nhật hùng mạnh nhờ biết thay đổi chính sách
cai trị duy tân của Minh-trị-Thiên-Hoàng (Mutsu Hito
1852-1912). Nhật trở nên hùng mạnh thắng Trung Hoa năm
1895 đưa đến việc hai bên kư kết hoà ước Shimonoseki (Hạ
Quan) ngày 17.04.1895. Nhật đánh bại quân Nga tại
Tsushima (Đối Mă) năm (1904-1905).
Phan Châu Trinh gặp giới chính khách Nhật, như Khuyển
Dưởng nghị (Inukai ki 1855-1932) Đại Ôi Trọng Tín (Okuma
Shigonebu 1838-1922) người Nhật xướng lên chủ nghĩa Đại
Đông Á. Phan Châu Trinh thấy chính sách của Nhật không
thật t́nh giúp đỡ Việt Nam..Dân tộc Việt Nam phải tự duy
tân, nếu không được khai hóa th́ không thể canh tân xứ
sở....
Tư tưởng hai nhà cách mạng họ PHAN rất tiếc không tương
đồng, Phan Bội Châu với khuynh hướng bạo động, duy tŕ
chế độ Quân chủ trông cậy vào Nhật để chống Thực dân.
Ngược lại Phan Châu Trinh chủ trương bất bạo động tân
dân, không chấp nhận chế độ quân chủ, muốn khai thông
dân trí th́ phải cải cách, muốn có nhân quyền th́ phải
chấm dứt chế độ vua quan bù nh́n Nam Triều. Chủ trương
dựa vào nước Pháp để khai hóa dân tộc tiến bộ, làm cuộc
cách mạng văn hóa, khi đất nước mạnh có thể đấu tranh
dành lại độc lập, tiết kiệm xương máu. Nếu dựa vào nước
Nhật để chống Pháp có tránh được việc. ”đuổi con hổ ra
cửa trước, rước con gấu vào ngơ sau“ (6)?
Đại Hàn bị Nhật đô hộ, cũng như Hiệp ước Pháp và Nhật kư
ngày 10.7.1907 Pháp nhường cho Nhật số quyền lợi. Pháp
yêu cầu chính phủ Nhật bắt các nhà Cách mạng Việt Nam
chống Tây, giải tán và trục xuất du học sinh. Tháng 8.
1908 Nhật trục xuất hàng trăm thanh niên Việt Nam bổng
nhiên rơi vào cảnh bơ vơ không nơi nương tựa, năm 1909
Phan Bội Châu và Cường Để cùng chung số phận phải trốn
sang Trung hoa. Đến tháng 10.1910 chính phủ Măn Thanh
khủng bố các nhà Cách mạng Trung Hoa. Cường Để và Phan
Bội Châu phải sang Thái Lan.
Đệ nhị thế chiến 9.3.1945, người Nhật lộ hẳn sự phản bội
dân tộc Việt Nam, trước khi Phan Châu Trinh trở về Việt
Nam tâm sự với Phan Bội Châu "Xem dân trí Nhật rồi đem
dân trí ta ra so sánh, thật không khác ǵ muốn đem con
gà con đọ với con chim cắt già. Giờ bác ở đây, nên lo
chuyên tâm ra sức vào việc văn, thức tỉnh đồng bào cho
khỏi tai điếc mắt dui c̣n việc mở mang diù dắt ở trong
nước nhà th́ tôi xin lảnh. Lưỡi tôi đang c̣n, người pháp
chẳng làm ǵ tôi được mà lo“ (7).
Trở về nước hoạt động
Đường lối đấu tranh hai nhà cách mạng tuy khác nhau,
nhưng cùng t́nh yêu đối với Tổ quốc đồng bào. Phan Châu
Trinh về nước công khai đấu tranh bất bạo động, chính
sách cai trị của chính phủ bảo hộ chỉ bần cùng hóa
ngu dân, không thực ḷng khai hóa dân tộc Việt Nam, đào
tạo số người tay sai làm giàu trên xương máu của dân
tộc. Ngày 15-08-1906 gọi là " Phan Châu Trinh đầu thư
cho Pháp“. Gởi thư cho toàn quyền Paul Beau và khâm sứ
Trung kỳ Fernand Lévecque. Thư tŕnh bày ḥan cảnh bi
đát nhất của nhân dân dưới chính sách cai trị, những tệ
trạng của quan lại Nam triều:
1/ Chính phủ bảo hộ dung dưỡng cho bọn quan lại An nam
để gây nên tệ lậu
2/ Chính phủ bảo hộ khi thị dân Việt Nam thái quá, khiến
cho đôi bên phải xa cách
3/ Quan lại nhân cái sự ly gián ấy mà hành hạ dân (8)
Phan Châu Trinh ghé thăm Lương Văn Can nói về t́nh h́nh
nước Nhật, tháng 3.1907 tại phố Hàng Đào Hà Nội các sĩ
phu Bắc Kỳ ngồi lại với nhau. Cụ Phan đề nghị mở trường
dạy học, ư kiến nầy được chấp thuận lấy tên trường là
Đông Kinh Nghĩa Thục “tương tự như Khánh Ưng Nghĩa Thục“
của Phúc Trạch bên Nhật, xin giấy phép mở trường, chủ
trương không lấy tiền học phí, mọi người tự nguyện bỏ
công, bỏ tiền, tài sản ra thành lập. Ngày khai giảng thu
nhận học sinh đông đảo. Bỏ lối học từ chương, chú trọng
thường thức và thực nghiệm dạy theo phương pháp
giáo dục mới, chương tŕnh dạy chữ Quốc ngữ, chữ Hán và
Pháp Văn. Phạm Đ́nh Đối dạy môn toán học, thành
phần giảng dạy của Đông Kinh Nghĩa Thục là các nhà nho
và tân học: Dương Bá Trạc, Hoàng Tăng Bí, Nguyễn Văn
Vĩnh, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học, Phan Huy Thịnh, Đào
Nguyên Phổ, Phan Tuấn Phong, Đặng Kinh Luân, Nguyễn Hữu
Cầu, vv... (9).
Lương Văn Can làm thục trưởng, Nguyễn Quyền làm giám
học. Phan Châu Trinh không giữ vai tṛ nào
v́ cụ Phan về miền Trung vận động tiếp cho Phong Trào
Duy Tân. Đông Kinh Nghĩa Thục truyền bá văn hóa
nước nhà, thêm t́nh thần ái quốc, trường có một số nhà
nho như Lương Trúc Đàm, Dương Bá Trạc. Đổ Chân Thiết..
hoạt động ngầm cho phái bạo động (Phan Bôi Châu) nhiều
cụ qúa hăng hái giảng dạy kêu gọi ḷng yêu nước, đưa đến
chủ trương chống chính sách thuộc địa. Thực dân Pháp
nghi ngờ cho mật thám theo dơi, tịch thu giấy phép giải
tán trường học vào tháng 11.1907. Khép tội Đông Kinh
Nghĩa Thục là ḷ phiến loạn ở Bắc Kỳ, đóng cửa luôn tờ
(Đăng Cổ Tùng Báo) cấm lưu hành tàn trữ sách vở. Giáo
viên, những người trong tổ chức bị nghi ngờ, bị kết án
tù, đày ra côn đảo.
Đoàn kết Tôn Giáo
Các tỉnh miền Trung xảy ra chia rẽ với người theo Đạo
Thiên Chúa dưới thời Phong trào Cần vương. Giáo dân vùng
Trà Kiệu quận Duy Xuyên bị cô lập, bị phân biệt xảy ra
tranh chấp đổ máu... Phan Châu Trinh đi khắp nơi
trong tỉnh nhà, kêu gọi toàn dân đoàn kết, chia rẽ gây
thêm cảnh khổ đau dân tộc có lợi cho thực dân. Cụ Phan
không đặt vấn đề Lương-Giáo mọi người đều có trách nhiệm
với quốc gia Việt Nam. Nh́n lại các nhà truyền giáo Tây
Phương đă giúp ích cho văn học Việt Nam. Đạo Thiên Chúa
đào tạo những con Chiên ưu tú như Nguyễn Trường Tộ
(1828-1871) Trương Vĩnh Kư (1837-1898) .. Phan
Châu Trinh tiếp xúc với các vị các linh mục người Pháp,
kêu gọi họ giúp đỡ để khai hóa con Chiên Việt Nam, Phan
Châu Trinh hỏi các Linh mục:
"Có lẽ dân An Nam không phải là con chung của Chúa Trời,
nên dầu có theo giáo, chỉ có sớm chiều đọc mấy câu kinh,
đến ngày lễ tới nhà thờ quỳ nghe giảng mà thôi sao? "
(10)
Lần đầu tiên trong đấu tranh sử nước nhà, giữa
Lương-Giáo được ḥa giải san bằng hố sâu ngăn cách, đoàn
kết hoạt động với Phong Trào Duy Tân, làng Phước Kiều
(Duy Xuyên) có cơ sở giáo dục Quảng Phước do một vị nhà
ḍng dạy học và tổ chức cơ sở chế biến kỷ nghệ đồ đồng
rất tinh xảo như nghề gia truyền cho đến ngày nay.
Phong Trào Duy Tân giúp Dân trí được mở mang mạnh mẽ,
nhiều người hưởng ứng nổi bật nhất, ông Lê Cơ thi đậu tú
tài nhưng chỉ làm lư trưởng, con cô cậu với Phan châu
Trinh. Nhân dân được học hỏi tiến bộ, hưởng ứng
phong trào như cắt tóc ngắn, là một thành công lớn của
Phong Trào Duy Tân, muốn bỏ được phong tục lâu đời rất
khó, hớt tóc có bài vè cúp tóc, được truyền tụng trong
dân gian, khuyến khích đàn ông hớt tóc ngắn. Phong Trào
chủ trương lâu dài, khai trí dân tộc tiến bộ mau chóng,
Dân tộc hiểu được các quyền tự do: Dân quyền và Nhân
quyền, th́ chính sách bảo hộ của người Pháp phải thay
đổi.
Cuộc vận động đ̣i quyền sống, dù bất bạo động của Phong
Trào Duy Tân, công khai dần dần lan rộng, bởi v́ thực
dân Pháp và tay sai đàn áp bóc lột đánh thuế nặng, tất
cả tai hoạ của xă hội trong giai đoạn nầy phản ảnh qua
những câu ca dao (11)
Đời ông
cho đến đời cha
Đời nào cực khổ như ta đời nầy
Ngoài đồng cắm cọc giăng giây
Vườn hà đóng thuế vợ gầy con khô..
Từ ngày Tây chiếm Đế Đô
Xâu cao thuế nặng biết chừng mô hỡi trời!
Diễn tiến cuộc biểu t́nh
Năm 1908 các điạ phương từ
tỉnh Quảng Nam đến Quảng Ngăi, B́nh Định, Phú Yên, Thừa
Thiên, Hà Tỉnh, Nghệ An nổi lên phong trào kháng thuế
xin xâu. Lúc đầu cuộc vận động biểu t́nh bất bạo động,
có tầm mức quan trọng từ trước chưa xảy ra ở Việt Nam.
Tại quận Đại lộc (11.03.1908) sau đó Điện Bàn rồi các
nơi đều hưởng ứng tham gia biểu t́nh kháng thuế, chống
bọn tay sai, đ̣i hỏi dân quyền. Thực dân Pháp không giải
quyết nguyện vọng của toàn dân ra lệnh đàn áp. Phong
Trào như làng sóng lên cao, phẩn nộ trong người dân từ
lâu bị đè nén và bộc phát. Thực dân Pháp lúc đầu để
Phong Trào Duy Tân hoạt động v́ quan niệm sĩ phu kêu gọi
duy tân, theo Âu hóa càng sớm càng mất dần dân tộc tính
càng dễ cai trị. Không ngờ Phong Trào gây ảnh hưởng sâu
rộng, đưa đến đấu tranh chống thuế xin xâu, đụng vào cái
thực chất quyền lợi của thực dân. Nếu không đánh thuế
vào dân, lấy tiền đâu nuôi đ̣an quân viễn chinh, bộ máy
cai trị tại Việt nam, đem tiền bạc về cho nước Pháp.
Thực dân và bọn tay sai quyết đập tan phong trào kháng
thế xin xâu, dùng bạo lực súng đạn, đàn áp bắn giết đồng
bào tham gia trên tay không vũ khí. Kết án ngọn lửa đấu
tranh ấy phát xuất từ Phong Trào Duy Tân, đồng thời
ngoài Bắc ngày 27.6.1908 xảy ra vụ Hà Thành đầu độc.
Thực dân Pháp ra lệnh bắt bỏ tù hàng loạt từ Trung đến
Bắc các sĩ phu yêu nước như: Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức
Kế, Châu Thượng Văn (1856-1908), Nguyễn Thượng Hiền, Lê
Cơ, Phan Khôi Tiểu La Nguyễn Thành (1863-1911)
vv.. đến nhà tù Côn đảo cũng như Lao Bảo .
Kết án xử chém những người dẫn đầu đấu tranh tại Quảng
Nam: Trần Thuyết (1857-1908 ngày 8-4 tại Tam Kỳ), Ông
Ích Đường (bị chém ngày 24-4 tại Túy Loan), các ông
Nguyễn Cang, Nguyễn Dực, Phan Tham, Trần Phước, đều bị
chém tháng 5 tại Duy Xuyên. Phong trào đấu tranh máu đổ
ra tô thắm thêm trang sử Việt Nam oai hùng. Phong
Trào xin thuế bị dẹp v́ thiếu tổ chức không có người chỉ
huy tổng quát. Phong Trào Duy Tân dù thất bại nhưng nó
c̣n trường tồn măi trong lịch sử nước nhà.
Phong Trào có các ưu điểm: tin vào việc tự khai hóa dân
tộc, phát triển các ngành nghề phù hợp với sinh hoạt địa
phương, công-thương-nghiệp phải phát triển toàn diện,
không có tinh thần vọng ngoại, truyền bá chữ Quốc ngữ...
Áp dụng chủ thuyết Dân quyền hành động có lư tưởng, xây
dựng đất nước quan tâm đến dân tộc phải tự cường và đoàn
kết.
Trong giai đoạn nầy Trần Qúy Cáp (làm giáo học tại Khánh
Hoà, v́ nhà nghèo làm việc theo ư thân mẫu) bị Bố chánh
Phạm Ngọc Quát, bắt (16.04) đổ tội cho cụ Trần xách động
và đồng lỏa với phong trào kháng thuế xin xâu. Bản án
dành cho Trần Quư Cáp thật ác nghiệt đó là chủ trương
của chế độ thực dân, bởi v́ Trần Quư Cáp viết gởi cho
Phan Thúc Duyện có câu (Ngô dân thử cử khoái khoái khóai
= dân ta làm thế sướng ...) vui mừng quê nhà có biểu
t́nh đấu tranh chống thuế xin xâu. Bị kết án "tuy
chưa có hành động nhưng đă nuôi cái ḷng phản nghịch“
được gọi là bản án "mạc tu hửu“ nghĩa là chẳng cần có
tội, muốn giết th́ giết, dẹp hết các người yêu nước để
bọn thực dân rảnh tay cai trị.
Chính quyền muốn tử h́nh Phan Châu Trinh không thực hiện
được, lần nầy phải giết gấp Trần Quư Cáp, tuyên án xử
chém ngang lưng tại Khánh Hoà, đến 1924 Trần Quư Cáp
được khai phục phẩm hàm, nhưng ông đă an giấc ngh́n thu!
Phan Châu Trinh công khai
hoạt động làm cho người Pháp rất lo ngại. Louis Bonhoure
toàn quyền Đông Dương nhận xét: "Phan Châu Trinh không
tỏ ra bạo động như Phan Bội Châu nhưng nguy hiểm hơn cho
sự thống trị của người Pháp tại Việt Nam".
V́ xảy ra vụ chống thuế bùng nổ tại Quảng Nam, Công sứ
Lévecque yêu cầu thống sứ Bắc kỳ Joseph de Mirabel bắt
Phan Châu Trinh ngày 10.04.1908 tại Hà nội giải về Huế
giam ở toà Khâm sứ, (khu vực trường Đại học Sư Phạm
trước 1975). Người Pháp bề ngoài văn minh nhưng chẳng
hơn ǵ triều đ́nh Huế về những điều hủ bại. Phan Châu
Trinh phản đối chính phủ Pháp kiệt thực 7 ngày, Khâm sứ
Lévecque là con cáo già thực dân, muốn ném đá dấu tay,
trả cụ cho Cơ Mật Viện để toà An Nam xét xử, nếu xét
theo luật Gia Long điều 223 tội nhân bị ghép làm loạn
xách động bị xử trảm. Các quan lại Nam triều vốn thù
ghét Phan Châu Trinh đă phê phán chế độ quân chủ làm tay
sai, Nam triều lấy cơ hội nầy lên án tử h́nh, nhưng ở Hà
Nội cụ Phan chơi thân Babut Ernest Chủ nhiệm tờ Đại Việt
Tân Báo và có chân trong Hội Nhân Quyền Ligue des Droits
de L’ Homme. Được Babut Ernest tận tâm can thiệp lên
thẳng phủ Toàn quyền xin tái thẩm vụ án, yêu cầu chính
phủ Pháp can thiệp giảm án. Tóa án An Nam không thể thi
hành án tử h́nh đổi lại án chung thân khổ sai đày ra Côn
đảo Cụ Phan phẩn nộ trước bản án và nói: "Một dân tộc
nào có người tù về quốc sự như thế th́ dân tộc ấy càng
thêm vẽ vang .Một dân tộc không có người ở tù về quốc sự
th́ cái dân tộc ấy là khối dân tộc vô hồn thôi "(12).
Ngày 04. 4.1908 cụ Phan bị đày ra Côn đảo ứng khẩu bài
thơ:
Ra cửa
thành nam mang xiềng rột rạt
C̣n lưỡi này ta hát ta ca
Dân hèn nước cũng tiêu ma
Chi c̣n chả sợ nữa là côn lôn
Những năm tù Côn đảo, cụ
Phan cảm xúc cho thân phận, man mát ḷng cố quốc làm thơ
cho quên nỗi sầu xa xứ. Trong lúc dân tộc sống khổ đau
dưới gót giày đinh của thực dân Pháp dẫm nát Quê Hương
Làm trai
đứng giữa đất Côn lôn
Lừng lẫy làm cho lỡ núi non
Xách búa đánh tan năm bảy đống
Ra tay đập bể mấy trăm ḥn
Tháng ngày bao quản thân sành sỏi
Mưa nắng chi sờn dạ sắt son
Những kẻ vá trời khi lỡ bước
Gian nan nào sá sự con con.
(Đi đập đá)
Cụ bị đày ra Côn đảo được
báo chí Hội Nhân Quyền thân oan và vận động được tự do,
chính phủ bảo hộ nhận thấy dư luận trong cũng như ngoài
nước, muốn ngăn ngừa bớt phẩn nộ của sĩ phu Việt Nam.
Chính phủ cử Thống đốc Nam Việt ra Côn đảo thẩm vấn cụ
Phan cho về lại Mỹ Tho. Thủ tướng Pháp ông Poincaré kư
lệnh tha, quan Toàn quyền Đông Pháp ông Klobukowsky
(1908-1911) Tổng trưởng bộ thuộc điạ Trouillot cùng các
quan khác tại Sàig̣n xét án và ân xá. Tuyên báo trả tự
do nhưng cụ bị quản thúc, Cụ nhất định không chịu, phản
đối đến cùng. Chính phủ Pháp nhượng bộ cho tự do hoàn
toàn. Ở Mỹ Tho thời gian thấy tinh thần đồng bào ở Nam
Việt lụn bại hơn đồng bào ngoài miền Trung và Bắc. Cụ
phải ngậm ngùi cho tŕnh trạng dân tộc bị đô hộ, các bạn
thân chiến hữu của cụ Phan phần lớn bị bắt đày ra Côn
đảo. Thực dân Pháp theo dơi đàn áp khắp nơi, rất khó có
thể hoạt động. Cụ Phan thoát được cảnh tù đày nhờ nhà
báo Babut và Hội Nhân quyền can thiệp.
Phan Châu Trinh cùng với người con trai làm đơn xin nhập
cảnh Pháp. Toàn quyền Klobukowdky cho phép, nghĩ cụ là
ông quan già không biết Pháp ngữ, có đến Paris cũng
chẳng làm được ǵ bất lợi cho chính sách thuộc địa của
Pháp. Nhưng Phan Châu Trinh tin tưởng đến Pháp có thể
vận động rộng răi với chính khách Pháp văn minh tiến bộ,
đ̣i hỏi chính phủ Pháp thay đổi chính sách thuộc địa tại
Việt Nam và Đông Dương, kêu gọi Pháp trả tự do cho các
tù nhân chính trị Việt Nam.
Xuất ngoại lần thứ 2
Năm 1911 Phan Châu Trinh theo Toàn quyền Klobukowsky
sang Pháp, cụ biết trước các sĩ phu Việt Nam yêu nước
xúc động mạnh với tin cuộc cách mạng Tân Hợi 19.08.1911,
Trung Hoa lật đổ được chính thể chuyên chế, bước sang
chế độ Dân chủ, tại Việt Nam các sĩ phu yêu nước sẽ tiếp
tục nổi dậy chống Pháp dành độc lập, không tránh được
cảnh chiến tranh, gây thêm khổ đau, vốn cụ chủ trương
Pháp-Việt đề huề xem như nền tảng tư tưởng dân chủ xây
dựng Việt Nam. Sử sách thế giới ca tụng Mohandas
Karamchand Gandhi (1867-1948) đấu tranh bất bạo động với
người Anh dành độc lập cho Ấn Độ, nhưng nước Việt Nam
nhỏ bé thời ấy chí sĩ Phan Châu Trinh, đấu tranh dành
độc lập với thực dân Pháp bất bạo động trước Gandhi. Chủ
trương của Cụ Phan: «không nên trông người ngoài trông
người ngoài là ngu, không nên bạo động, bạo động là
chết. Tôi chỉ có một lời để nói với đồng bào, không ǵ
bằng học...v.v. Chỉ nên đề xướng dân quyền, dân đă biết
có quyền th́ việc khác có thể làm» (13)
Tàu đến cảng Marseille, cụ Phan và con trai được đón lên
tàu lửa về Paris, ở trọ trên đường Gay Lussac, sau về số
32 Vouillé quận 15. Cụ tiếp xúc với Messimy, Bộ trưởng
Bộ Thuộc Địa và Albert Sarraut sắp sang làm Toàn quyền
tại Đông Dương. Ông Jules Roux đại úy từng làm việc tại
Ṭa án binh ở Bắc Bộ từ năm 1904-1909, rất ngưởng mộ cụ
Phan đến tiếp xúc giúp đỡ và dịch các thư sang Pháp văn,
gởi cho Bộ Thuộc Địa Pháp và ông Phan Văn Trường
(1875-1933), nhỏ hơn cụ Phan 3 tuổi lúc ở Hà Nội làm
việc cho ṭa Khâm sứ Bắc Kỳ. Cuối năm 1908 được tuyển
sang Paris làm phụ giảng tiếng Việt ở trường Ngôn Ngữ
Phương Đông và tiếp tục học đỗ cử nhân luật, có quốc
tịch Pháp. Từ năm 1910 ông thuê nhà số 6 Villa des
Gobelins. Nơi đây như trụ sở của người Việt yêu nước, cụ
Phan cùng đến ở chung thời gian dài, Việt kiều, sinh
viên sống tại Paris lúc bấy giờ khoảng hơn 100 người
(14).
Cụ
Phan và Phan Văn Trường trở thành cột trụ của phong trào
Việt Kiều tại Pháp, Phan Châu Trinh viết các bản điều
trần gởi cho chính phủ Pháp, nêu lư do Việt Nam được
Pháp bảo hộ, nhưng không có tự do, công dân Việt Nam yêu
nước chỉ trích chính sách cai trị, đều bị kết án tử h́nh
và bỏ tù, vv.. Cụ viết "Trung Kỳ Dân Biến Thỉ Mạt Kư",
Jules Roux dịch sang Pháp văn. Tài liệu nầy binh vực,
kêu oan cho Trần Quư Cáp và nỗi oan ức của người Việt bi
áp bức gây dư luận tại Paris (gởi kèm đến Albert Sarraut
chuẩn bị sang làm toàn quyền tại Đông Dương) gởi thư
phản đối chính sách đô hộ tại Việt Nam. Khâm sứ Mahé
muốn đào lăng vua Tự Đức (1913) t́m vàng, cụ viết báo
phản đối việc làm thiếu đạo đức, đi diễn thuyết trong
tập thể Kiều bào, kêu gọi ḷng yêu nước hướng về Quê
hương và thường tiếp xúc với người Pháp có ḷng nhân
đạo, bác ái bày tỏ nỗi ḷng và chỉ trích chính sách cai
trị tàn ác của Pháp ở Đông Dương của Sarraut: "Cách cai
trị rộng răi bên An Nam của ông ấy thế nào? Nói những sự
cải cách giả dối, như viện tư vấn, pháp luật, học hành,
sự đầu độc dân ta bằng rượu, bằng thuốc phiện, và sự
đoạt quyền tự do của nhân dân ta..."
Tháng
9.1914 chiến tranh Đức Pháp bùng nổ. Đức tổng tấn công
mặt trận La Somme, vua Duy Tân (Vĩnh San) nổi dậy chống
Pháp ngày 6.5.1916 thất bại bị truất phế đày sang đảo
Réunion... Pháp t́nh nghi Việt Kiều có tinh thần chống
Pháp liên hệ với Đức, Phan Văn Tường bị giam ở lao
Cherchemidi và Phan Châu Trinh bị giam ngục Santé
(Prison de la Santé). Bên quê nhà người vợ hiền bị bệnh
qua đời ngày 12.5.1914. Cuộc đời của bà đă hy sinh lo
gia đ́nh để chồng hoạt động cách mạng. (Chúng ta cần
phải vinh danh người đàn bà lư tưởng nầy!). Hai người
con gái: Phan Thị Châu Liên (tức cô Đậu 1901- ?) chồng
là ông đốc học Lê Ấm (1897-1976) ông bà Lê Ấm ở nhà thờ
cụ Phan gần ngă năm Hoàng Diệu Đà Nẵng. Ông bà Lê Ấm có
con trai Lê Khâm (1930-1995) tập kết ra Bắc theo học Đại
học tổng hợp Hà nội là một nhà văn đă qua đời) và người
con gái là Lê Thị Minh. Phan Thị Châu Lan (tức cô Mè
1904 -1944) chồng là ông Nguyễn Đồng Hợi làm tham tá
công chánh (Agent technique) là thân sinh của bà Nguyễn
Thị B́nh (các cháu không theo thuyết Dân Quyền của ông
ngoại, ngược lại theo cộng sản Marxismus).
Các ông Marius Moutet, Jules Roux bênh vực, căi với viên
đại lư Ṭa án binh Đệ nhất tại Paris đến tháng 7-1915
chính phủ Poincaré trả tự do cho cụ Phan. Các quan Bộ
Thuộc Điạ coi về Đông Pháp, cắt tiền phụ cấp 450 quan
gây đời sống cụ càng khó khăn hơn. Cụ học nghề rửa h́nh
mỗi ngày được 30 quan nuôi con trai là Phan Châu Dật học
trung học, dù hoàn cảnh khó khăn không muốn lệ thuộc
đồng tiền mua chuộc, cụ sống với lư tưởng cao đẹp : "
Phú qúy không tham lam, nghèo khổ không thay đổi ḷng
dạ, sức mạnh không khuất phục"(15).
Năm 1917 Phan Châu Trinh bị bệnh nặng điều trị lâu, Phan
Châu Dật (1897-1921) không muốn nhận giúp đỡ của gia
đ́nh ông Roux, t́m việc đưa hàng ở hăng Au Bon Marché để
nuôi cha. V́ vất vả và thiếu thốn bị nhiểm bệnh, anh
phải bỏ học về nước ngày 27.09.1919 và qua đời tại Huế
14.02.1921 thi hài được đem về mai táng cạnh mộ Mẹ tại
Tây Lộc.
Vào khoảng cuối năm 1916 sang đầu năm 1917 Nguyễn Ái
Quốc đến Paris được Phan Châu Trinh giúp đỡ. Nguyễn Ái
Quốc viết: " Cụ Phan đă giúp ḿnh rất nhiều, thực sự là
người đỡ đầu cho ḿnh trong một thời gian khi ḿnh ở
Paris" (16). Năm 1920 tư tưởng hoạt động Nguyễn Ái Quốc
khác Phan Châu Trinh, ông ta theo chủ nghĩa cộng sản
quốc tế, tham dự đại hội Tours và sang Liên Xô năm 1923
(?) Nếu Nguyễn Ái Quốc tiếp tục theo đường lối hoạt động
của Phan Châu Trinh th́ lịch sử Việt Nam đă khác hẳn
rồi.
Pháp tổ chức cuộc triển lăm quốc tế tại Marseille năm
1922 vua Khải Định (1916-1925) sang tham dự, từ lối phục
sức cho đến việc tiếp xúc ngoại giao những điều chướng
tai gai mắt. Cụ viết bằng chữ Hán gởi đến vua Khải Định
"Kư Khải Định Hoàng Đế Thư "ngày 15-7-1922 kể bảy tội là
"tôn bậy quân quyền, lạm hành thưởng phạt, thích chuộng
sự qùy lạy, xa xỉ quá độ, ăn bận không phải lối, tội
chơi bời, chuyến đi có ám muội ". Dịch ra Việt ngữ và
Pháp văn đăng trên báo chí gây dư luận xôn xao tại Pháp,
vua Khải Định nhận thư về nước thời gian ngắn rồi bị
băng hà.
Phan Châu Trinh ở Paris 14 năm, gây ảnh hưởng ḷng yêu
nước sâu rộng trong giới Việt Kiều và sinh viên, người
Pháp kính nể xem cụ Phan là chính trị gia, đại diện cho
người Việt tại thủ đô Paris và các nhà cách mạng Việt
Nam: "Ông vừa thể hiện tính kiên quyết, thẳng thắng, vừa
biết thận trọng cân nhắc lời lẽ, thông minh nhạy bén
trong việc hiểu và đoán ư người khác, có quan điểm đạo
nghĩa sâu sắc, coi thường mặt vật chất kinh tế".
Phan Châu Trinh về nước bị bệnh mất
Phan Châu Trinh xuống tàu Fontainebleau, ngày 29.5.1925
sau một tháng, cụ Phan và Nguyễn An Ninh về tới Sài G̣n
26-6-1925. Nguyễn An Ninh đưa Phan Châu Trinh về thẳng
khách sạn Chiêu Nam Lầu (*). Cho đến 29-6-1925 được
Nguyễn An Ninh đưa về nhà cha của ông, là cụ Nguyễn An
Khương, ở Mỹ Hoà để tiện việc tiếp đón bạn bè đến thăm
hỏi, trao đổi công việc; đồng thời cũng để tiện cho cụ
Nguyễn An Cư (Chú ruột của Nguyễn An Ninh, một lương y
nổi tiếng ở Nam Kỳ) chăm sóc sức khoẻ cho Phan Châu
Trinh đang thời kỳ suy yếu nhất. Thời gian ở Chiêu Nam
Lầu và tại nhà cụ Nguyễn An Khương, Phan Châu Trinh tiếp
xúc với các nhân vật như: Trần Quang Nghiêm, Nguyễn Kim
Đính, Khánh Kư, Lâm Hiệp Châu, De Jean de la Bâtre, Paul
Monin, Malraux... Trong các cuộc tiếp xúc nầy, cụ Phan
bày tỏ tâm t́nh: "Một khi đă trở lại sống trên quê hương
xứ sở, tôi nguyện đem hết nghị lực b́nh sinh mà thức
tỉnh dân khí ba miền đồng tâm, hiệp lực đạp đổ cường
quyền áp chế".
Chính v́ tâm quyết phụng sự cho dân quyền, nên dù sức
khỏe c̣n yếu, cụ Phan cùng Nguyễn An Ninh (với vợ chồng
người con gái là ông bà Lê Ấm) đi xuống các tỉnh Trà
Vinh, Mỹ Tho... để vận động tài chánh cho việc tái bản
tờ "La Cloche Fêlée". Nhờ vậy, ngày 26-11-1925, báo "La
Cloche Fêlée" số 20 được tái bản. Thời gian bị bệnh
nhưng cụ cố gắng diễn thuyết thêm hai đề tài
- Đạo
đức và luân lư Đông Tây
- Quân trị chủ nghiă và Dân trị chủ nghĩa
Bài diễn văn cuối cùng Phan
Châu Trinh nói chuyện tại Hội Thanh Niên Sàig̣n "Tôi
nghĩ rằng v́ cái độc quân chủ nó giết hẳn cái ḷng ái
quốc của dân tộc Việt Nam ta. Nói theo đạo Nho đó kỳ
thật không có thi hành một chút đạo Nho nào, chỉ c̣n sót
lại một hai điều trong gia đ́nh mà thôi. Kỳ dư là những
điều mấy ông Vua chuyên chế đựa vào đạo Nho để đè nén
dân".
Về Đạo Đức và Luân Lư Đông Tây
"Xem
như thế th́ xưa nay nước ta không có quốc gia luân lư,
chỉ có một cái luật vua tôi bắt buộc dân phải theo vua
với dân không có luân lư ǵ dính nhau, chẳng qua vua và
tôi tớ của vua hiệp lại với nhau lấy sức mạnh để đè lên
dân mà thôi. Nay muốn một ngày kia nước Việt nam được tự
do độc lập th́ trước hết dân Việt nam phải đoàn kết".
Các bài diễn thuyết của cụ Phan gây ảnh hưởng sâu xa đến
thế hệ trẻ văn minh tại Sàig̣n, tiêu biểu trong đó có
nhà cách mạng Tạ Thu Thâu (1906-1945). Trong thời gian
trở về Sài g̣n cụ bị bệnh được cả gia đ́nh nhà cách mạng
Nguyễn An Ninh (1900-1943) lo giúp đỡ thuốc men, tiếp
đón thân nhân và khách đến thăm và cho đến những ngày
cuối cùng. T́nh thần gia đ́nh Nguyễn An Ninh thật đáng
quư lưu danh cho hậu thế, nhưng thương tiếc thay. Phan
Châu Trinh đang thoi thóp trên giường bệnh lại hay tin
Nguyễn An Ninh đă bị bọn mật thám Pháp bắt tại nhà. Vào
lúc 11 giờ 30 trưa 24-3-1926. Phan Châu Trinh trút hơi
thở cuối cùng vào lúc 21 giờ 30 tối 24.3.1926 tại khách
sạn Chiêu Nam Lầu và được đem quàn tại nhà số 54 đường
Pellerin, nhà của ông Huỳnh Đ́nh Điển (đường Pasteur
trước 30-4-1975).
Ủy Ban tổ chức lễ quốc táng nhà yêu nước Phan Châu Trinh
đă được h́nh thành ngay trong đêm 24-3-1926. Những thành
viên của ủy ban tổ chức tang lễ nhà chí sĩ Phan Châu
Trinh gồm nhiều nhân sĩ, trí thức. Tang lễ được đại diện
thân hào nhân sĩ Sài G̣n tổ chức cử hành theo nghi thức
quốc tang. Hai người con gái đă có mặt bên linh cữu của
cha, tại Sài G̣n không phân biệt chính trị, đảng phái,
tôn giáo đều tham dự, đưa linh cữu cụ Phan đến nơi an
nghỉ cuối cùng lúc 6 giờ sáng 4.4.1926 tại nghĩa trang
của hội G̣ Công tương tế. Hàng ngàn câu đối, trướng, la
liệt bàn phúng điếu các Sư chùa Nam Sơn tỉnh Sóc trăng
gởi mấy câu đối:
Tiên
sinh thật là vị cao tăng trong giác thế, gồm đủ từ bi và
trí huệ.
Người đời sau ngưỡng trông ṭa pháp Cộng Ḥa, biết bao
nhiêu công đức như cát sông Hồng Hà.
Hai mươi năm trống sớm chuông chiều, khua tỉnh ái hà con
ma chuyên chế, nh́n muôn dặm mưa ḍn gió dập, kêu gọi
người ngủ mê trong biển trần.
Phan Bội Châu đang được an
trí ở Huế thay mặt cho đồng bào Huế gởi 2 câu đối:
Thương
hải vi điền, Tinh vệ hàm thạch
Chung Kỳ kư một, Bá Nha đoạn huyền (17)
Huỳnh Thúc Kháng thay mặt
cho anh em Trung-Việt đă đọc một bài điếu văn mang ư
nghĩa lịch sử rơ nét nhất về quan điểm chính trị.
"Một đoạn lịch sử của tiên sinh hơn hai mươi năm trời,
nào bị tù đày, ở nước này sang nước khác, trải bao nhiêu
phen nguy hiểm, trong giây phút này không thể lược thuật
lại cho được; chúng tôi xin tóm tắt lại mà nói sơ: Chủ
nghĩa tiên sinh đệ nhất là đánh đổ chuyên chế, làm cho
dân quyền tự do, c̣n cái phương pháp tiến hành th́ tiên
sinh thường nói rằng:
- T́nh h́nh trong nước ta bây giờ đang vào nguy ngập,
nếu muốn cải cách th́ cần liên lạc đoàn thể mới được.
Tiếc cho người nước ḿnh c̣n đang mê mộng, đồng chí với
tiên sinh chẳng được mấy người . V́ vậy mà tấm ḷng bị
phân hóa ra uất ức, uất ức hóa nên đại bệnh huống ǵ
những điều mắt thấy tai nghe dể làm cho tiên sinh cảm
xúc mà đau được, chết được, thương ôi!
- Thôi, đất vàng một nắm, giấc mộng ngàn thu, sự nghiệp
anh hùng, ngày nay hết cuộc. Chúng tôi chỉ mong mai sau
này những người kế chí tiên sinh, làm cho vẻ vang dân
tộc Việt Nam ta. Th́ linh hồn tiên sinh sẽ được yên ổn
mà ngậm cười nơi suối vàng.
Phan Châu Trinh tranh đấu bất bạo động với chủ thuyết
Dân Quyền, Phong Trào Duy Tân làm thay đổi lịch sử Việt
Nam dưới thời thuộc điạ, từ đó người Pháp phải thay đổi
chính sách cai trị. Phan Châu Trinh một v́ sao sáng trên
ṿm trời Việt Nam của đầu Thế kỷ 20.
Chủ
trương chính trị của Phan Châu Trinh có thể được xem là
nền tảng của hệ tư tưởng dân chủ Việt nam ngày nay.
Trước Phan Châu Trinh, tại Việt nam chưa có ai nghĩ đến
dân chủ, dân quyền..Chẳng những Phan Châu Trinh là người
đầu tiên thổi một luồng gió mới vào chính trường Việt
nam, Ông cũng là người Việt nam đầu tiên gây được uy tín
lớn lao với chính trường nước Pháp là nước đang đô hộ
Việt Nam (18).
Phan Châu Trinh sống phục vụ lư tưởng, chủ trương xây
dựng đất nước vững chắc khai dân trí, giành lại độc lập.
Mong ước Dân Quyền và Nhân Quyền chưa thành công cụ đă
ra đi, nhưng để lại những tác phẩm văn chương, giá trị
đạo đức và quan điểm hoạt động chính trị bất bạo động .
Đầu Pháp
chính phủ thư (1906)
Hợp quần doanh sinh thuyết quốc am tự (1907)
Tỉnh quốc hồn ca I & II (1907)
Tuồng Trưng nữ Vương soạn chung với Hùynh thúc Kháng,
Phan Thúc Duyện (1910)
Trong thời gian sống ở Paris và về nước viết các tác
phẩm
Trung kỳ dân biến thỉ mạt kư (1911)
Giai nhân kỳ ngộ (1913-1915)
Tây Hồ và Santé thi tập ! (1914-1915)
Khải Định Hoàng Đế thư (1922)
Bức thư trả lời cho người học tṛ tên Đông (1925)
Đông Dương Chính trị luận (1925)
Kỷ niệm ngày giỗ thứ 85 cụ PCT (24.4.1926-24.3.2011)
Nguyễn Quư Đại
(cựu Học sinh Phan
Châu Trinh Đà Nẵng)
1/ Quảng Nam trong
lịch sử tác giả Trần Gia Phụng
2/ Phong Trào Duy Tân tác giả Nguyễn Văn Xuân
3/ Phong Trào Duy Tân tác giả Nguyễn Văn Xuân
4/ Thành Thái người điên thế kỷ tác giả Thái Vũ trang
236
5/ Đông Kinh Nghĩa Thục tác giả Nguyễn Hiến Lê trang 95
6/ Quân sử trang 333 xuất bản Bộ tổng tham mưu QĐ
VNCH
7/ Phan Bội Châu Ngục trung thư trang 50
8/ Phan Châu Trinh Thế Nguyên
9/ Đông Kinh Nghĩa Thục tác giả Nguyễn Hiến Lê
10/ Phong Trào Duy Tân tác giả Nguyễn Văn Xuân
11/ Quân sử trang 338 xuất bản Bộ tổng tham mưu QLVNCH
12/ Phong Trào Duy Tân tác
giả Nguyễn Văn Xuân
13/ Lam Giang trang 211
14/ Những hoạt động của Phan Châu Trinh Ts Thu Trang
15/ Phong Trào Duy Tân tác giả Nguyễn Văn Xuân trang 172
16/ Những hoạt động của Phan Châu Trinh Ts Thu Trang
trang 125
17/ Phan Chu Trinh Thế Nguyên
18/ Quảng Nam trong lịch sử tác giả Trần Gia Phụng
Tài liệu tham khảo
Quảng Nam trong lịch sử tác giả Trần Gia Phụng Nxb Non
Nước Toronto 2000
Phan Châu Trinh (1872 - 1926) Tác giả Thế Nguyên tủ sách
Tân Việt
Phong Trào Duy Tân tác giả Nguyễn Văn Xuân Nxb Lá Bối
Thành Thái người điên thế kỷ tác giả Thái Vũ Nxb Văn Học
Những hoạt động của Phan Châu Trinh tại Pháp 1911-1925
Tác giả Thu Trang Nxb Văn Học
Từ Hi Thái Hậu cuốn 2 tác giả Mộng B́nh Sơn Nxb Xuân Thu
Bộ Quân sử do bộ tổng tham QLVNCH mưu xuất bản
Quảng Nam đất nước và nhân vật 1 &2 Nguyễn Quyết
Thắng
Nguồn:
http://www.lyhuong.net/uc/index.php/bandoc/571-571
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Nam
Phong tổng hợp
Cập nhật ngày 24/2/4893 - Giáp Ngọ (24/3/2014)
Nhóm mạng Việt Nam Văn
Hiến
Trang
: Phan Chu Trinh
www.vietnamvanhien.net
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.info
www.vietnamvanhien.com
Email:
thuky@vietnamvanhien.org
"Bất
chiến tự nhiên thành" chi kế
Văn Hiến ngàn năm sử đă đề
Giải trừ
quốc nạn bằng Tâm Lực
"Nhân
Chủ (tự chủ) - An Vi (an lạc)" khai lối
về
|
Lấy Nhân Tâm làm phương
tiện, dụng Dân Tâm làm kế sách "An Dân - Lạc Quốc"
là kim chỉ nam cuả thể chế Dân Chủ Văn Hiến.
|