Chân dung của Sương
Nguyệt Anh
Sương Nguyệt Anh (湯月英, 1
tháng 2 năm 1864 - 20
tháng 1 năm 1921)[1], tên thật là Nguyễn
Thị Khuê (theo
"Nguyễn chi thế phổ")[2], tuy nhiên tên ghi trên
bia mộ lại là Nguyễn
Ngọc Khuê, tự là Nguyệt
Anh. Ngoài bút hiệu Sương Nguyệt Anh, bà còn
ký nhiều bút hiệu khác như: Xuân
Khuê, Nguyệt Nga, Nguyệt Anh...Bà là nhà
thơ và
là chủ bút nữ đầu tiên của Việt
Nam. Tờ báo Nữ
giới chung do bà
phụ trách là tờ báo đầu tiên của phụ nữ được xuất
bản tại Sài Gòn[3].
Tiểu sử
Mộ nữ sĩ Sương
Nguyệt Anh tại Ba Tri
Sương Nguyệt Anh sinh tại xã
An Đức, huyện Ba
Tri, tỉnh Bến Tre. Bà là con
gái thứ tư (cho nên trong gia tộc thường gọi bà là Năm
Hạnh)[4] của
nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu,
mẹ là bà Lê Thị Điền, người làng Thanh Ba thuộc
huyện Cần
Giuộc.
Thuở nhỏ, bà cùng người chị
tên là Nguyễn Thị Xuyến, được cha (Đồ Chiểu)
truyền dạy nên giỏi cả chữ
Hán lẫn chữ
Nôm. Khi cả hai khôn lớn, nổi tiếng tài sắc,
được người quanh vùng ca tụng gọi là Nhị
Kiều.
Năm 1888,
Sương nguyệt Anh được 24 tuổi thì cha mất. Tri phủ
Ba Tường đến hỏi bà làm vợ không được, nên mang
lòng oán hận, đang tìm cách hãm hại...Để tránh tai
họa, bà cùng gia đình người anh (Nguyễn Đình Chúc)
chuyển sang Cái Nứa (Mỹ Tho) rồi dời về
Rạch Miễu ở nhờ nhà ông nghè Trương Văn Mân. Ở
đây, bà kết duyên với một phó tổng sở tại góa vợ
tên Nguyễn Công Tính [5], sinh được một gái tên là
Nguyễn Thị Vinh. Năm con gái được 2 tuổi, thì
chồng mất. Từ đó bà thủ tiết nuôi con, thờ chồng
và mở trường dạy chữ
Nho cho
học trò trong vùng để sinh sống. Và cũng từ đó, bà
thêm trước bút hiệu Nguyệt Anh một chữ "sương",
thành "Sương Nguyệt Anh", có nghĩa là Nguyệt Anh
goá chồng.
Những năm 1906-1908,
hưởng ứng phong trào Đông Du của Phan
Bội Châu bà
bán một phần điền sản và vận động quyên góp để
giúp học sinh xuất dương sang Nhật du
học.
Năm 1917,
Sương Nguyệt Anh được một nhóm chí sĩ ái quốc mời
làm chủ bút tờ Nữ
giới chung nghĩa
là "tiếng chuông của nữ giới". Tờ báo ra số đầu
tiên ngày 1 tháng 2 năm 1918,
với chủ trương nâng cao dân trí, khuyến khích công
nông thương và nhất là đề cao vai trò phụ nữ trong
xã hội [6]. Nhưng dù ngòi bút của
Sương nguyệt Anh có khéo léo đến đâu, tầm ảnh
hưởng của tờ báo này khiến mật thám Pháp e ngại, tháng
7 năm 1918,
tờ Nữ Giới Chung bị đình bản [7]. Cũng ngay lúc này, người
con gái độc nhất của bà tên Nguyễn Thị Vinh [8], vừa sinh nở xong, ngã
bệnh qua đời.
Hết khóc mẹ, khóc cha, khóc
chồng, lại phải khóc con cộng với việc viết lách
rất lao tâm, khiến đôi mắt của bà thường xuyên đau
nhức và sức khỏe cũng dần suy kiệt. Nghe lời thầy
thuốc, Sương Nguyệt Anh dẫn cháu ngoại trở về Mỹ
Chánh Hòa (Ba Tri), nương náu nơi nhà người em út
tên là Nguyễn Đình
Chiêm để
chạy chữa, nhưng chỉ một thời gian ngắn sau, đôi
mắt bà bị mù lòa hẳn.
Từ đấy, sớm chiều bà lại tiếp
tục dò dẫm bốc thuốc, dạy học và sáng tác thơ văn.
Sáng sớm ngày 12 tháng
Chạp năm Tân
Dậu (tức
9 tháng 1 năm 1922),
Sương Nguyệt Anh trút hơi thở cuối cùng, lúc 58
tuổi [9]
Lúc đầu, mộ Sương Nguyệt Anh
ở Mỹ Nhơn, về sau (năm 1959)
được đồng bào cải táng dời về nằm cạnh mộ phần của
song thân bà, tức nằm trong khu
đền thờ và mộ Nguyễn Đình Chiểungày nay.
Tác phẩm
Sương Nguyệt Anh sáng tác
nhiều, nhưng không gom thành tập. Nay chỉ còn tản
mác một số bài thơ, như: Đoan
Ngọ nhật điếu Khuất Nguyên, Tức
sự , Chinh
Phụ thi, Thưởng
bạch Mai,Vịnh ni cô, vua Thành Thái vào
Nam, cảm
tác khi lính Việt đi Âu chiến...Và vài bài
vè, như: Vè
tiểu yêu, Vè Thầy Hỷ, Vè đánh đề...
Một
tấm lòng thơ
Ngoài bản dịch bộ Yên
Sơn ngoại sử của Trung
Quốc ra
thơ lục bát,
một số ít bài thơ chữ
Hán, thể vè lục
bát; thơ của Sương Nguyệt Anh phần lớn là thơ Nôm,
theo thể Đường
luật...
Để bộc lộ cuộc nợ duyên dang
dở của mình, bà viết:
- Năm
canh thức nhấp...năm canh những
- Nửa
gối so le, nửa gối chờ
- Vườn
én rủ ren trên lối cũ,
- Canh
gà xao xác giục tình xưa...
Nhưng phần nhiều, thơ của bà
là để đối đáp lại những người đã trêu ghẹo, đã tỏ
tình với mình, nhằm nêu lên đức kiên trinh của
người phụ nữ Nam
Bộ, như: "Tiễn ông Kinh Hối nhậm chức kinh
lịch ở Sa Đéc", "Họa thơ
Bảy Nguyện", "Họa thơ Phủ Ngọc", "Họa thơ Bái
Liêu", "Thưởng Bạch Mai", "Vịnh ni cô"...
Trong số bài thơ khác, Sương
Nguyệt Anh đã kín đáo gửi gắm tấm lòng yêu nước,
thương dân, quan tâm đến thời cuộc, trích:
- Vui
lòng thánh đế nơi xe ngựa,
- Xót
dạ thần dân chốn lửa than
- Nước
mắt có cùng trời đất biết,
- Biển
dâu một cuộc thấy mà thương.
- (Vua Thành Thái vào
Nam)
Nhìn chung Thơ
Sương Nguyệt Anh không có gì thật đặc sắc, nhưng
lời lẽ thanh thoát, có ý vị. Thể vè do bà sáng
tác có cái chất mộc mạc của thể vè truyền thống
miền Nam, vừa giữ được ngòi bút cứng cáp, có
truyền thống trong gia đình...[10]
Năm 1915,
ông Việt sĩ sau khi đã khen ngợi Sương Nguyệt Anh
rằng: Cuộc
đời bà đã trải qua biết bao đau khổ, nhưng biết
bao nỗi khổ đó hình như để thử thách người thiếu
phụ kiên trinh, ông còn nhận định như sau:
- Nhắc
đến Sương nguyệt Anh, người ta còn thấy lại
nơi bà một tấm gương hoạt động cho phái nữ
lưu; người ta không quên một cây bút rắn rỏi
đã từng nêu trên tờ Nữ
giới chung nhiều
vấn đề lý thú về phận sự đàn bà đối với gia
đình và xã hội. Trong buổi giao thời, phụ nữ
nước nhà vừa ra khỏi khuê môn để tiếp xúc với
văn hóa Âu Tây, bà Sương Nguyệt Anh rất xứng
đáng là nữ sĩ tiền phong trên đất Việt[11].
Chú thích
- ^ Ghi theo Nguyễn
Đình Chiểu toàn tập (tập
2, Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp,
1980, tr. 28) và Mai Huỳnh Hoa (Từ điển
văn học, bộ mới, tr. 1576). Bia mộ ghi
bà "mất ngày 12 tháng
2 nămTân
Dậu (1922),
hưởng thọ 58 tuổi". Chưa rõ vì sao có sự
khác biệt này.
- ^ "Nguyễn chi thế phổ"
do Nguyễn
Đình Chiểu biên
soạn, Nguyễn Đình Huy (cha ông Chiểu) hiệu
chính.
- ^ Theo Nguyễn
Đình Chiểu toàn tập, tập 1, tr. 28.
- ^ Theo tục lệ ở Nam Bộ,
con đầu lòng kể thứ hai, nên mặc dù Sương
Nguyệt Anh là con gái thứ tư trong gia đình,
nhưng được gọi là thứ năm.
- ^ Có sách ghi tên
Trình. Ở đây ghi theo Nguyễn
Liên Phong vì
ông là người sống cùng thời với Sương Nguyệt
Anh. Ngoài ra, ông còn cho biết thêm chi
tiết: "Con
gái ông Đồ Chiểu hình trạng nho nhã ốm
yếu, tính nết điềm tịnh hiền lành. Thưở
nhỏ cô lấy chồng, tên là thầy phó Tính, về
ở theo quê chồng tại chợ Rạch Miễu" (Điếu
cổ hạ kim thi tập xuất
bản 1915).
- ^ Toà soạn đặt tại số
nhà 15 đường Taberd (nay là đường Nguyễn
Du, quận
1, Thành phố Hồ Chí Minh). Chủ nhiệm
là ông Henri Blanquière. Tờ báo phát hành
định kỳ hàng tuần với các chuyên mục: xã
thuyết, văn nghệ, gia chánh, học nghề, cùng
các trang lời hay ý đẹp và mẹ con nói
chuyện. Có thể nói, "Nữ giới chung" là tờ
báo đầu tiên ở Việt Nam thời đó chú trọng
đến việc dạy nữ công, đức hạnh phụ nữ và phê
phán những luật lệ khắt khe đối với nữ giới.
- ^ Theo Nguyễn Ngọc Hiền,
Nữ sĩ Việt Nam, NXB Thanh Niên, 2005,
tr.478.
- ^ Cô Vinh lấy chồng là
ông Mai
Bạch Ngọc (hay
Mai Văn Ngọc), sinh một cô con gái đặt tên
Mai Huỳnh Hoa nhũ danh Kim Ba, sau này kết
duyên với nhà hoạt động chính trị Phan
Văn Hùm (1902-1946),
tác giả Ngồi
tù khám lớn (1929)
- ^ Ngày mất ghi theo bia
mộ. Nhưng theo Mai Huỳnh Hoa thì bà mất tại Ba Tri ngày
2 tháng Chạp năm Canh
Thân tức
20 tháng
1 năm 1921 (Từ
điển Văn học, tập 2. Nxb KHXH, tr.
320).
- ^ Mai Huỳnh Hoa, Tự
điển Văn học Việt Nam (bộ
mới), NXB Thế Giới, 2004, tr.1576
- ^ Dẫn theo GS. Trịnh
Vân Thanh, Thành
ngữ danh nhân tự điển, NXB Hồn Thiêng, Sài
Gòn, 1966, tr. 1161
Nguồn:
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%C6%B0%C6%A1ng_Nguy%E1%BB%87t_Anh