Tạ Ký (1928-1979)
là nhà thơ của Việt Nam Cộng hòa, kiêm giáo viên Trường Trung học Petrus Ký, Sài Gòn. Tập thơ Sầu
ở lại của ông đã đoạt
giải nhất bộ môn Thơ của giải Văn học Nghệ
thuật năm 1970 do Tổng thống Việt Nam Cộng hòa trao.
Tiểu sử
Ông sinh ra
tại làng Trung Phước, Quế Sơn, Quảng Nam,[2] nay
thuộc thị trấn Trung
Phước, huyện Nông Sơn,
cùng tỉnh. Cùng làng với Tạ Ký có hai nhà thơ
nữa là Tường Linh và Bùi Giáng,
trong đó Tường Linh là tri kỷ của ông.[3]
Đầu thập niên 1940, ông học tiểu học ở
trường Bình Sơn, Quảng Ngãi,
trọ học tại nhà hiệu trưởng trường
này. Ông bắt đầu sưu tầm thơ của Đoàn Văn
Cừ, Nguyễn
Bính, và cũng bắt đầu làm thơ từ thời
này. Từ năm 1945, ông tham gia chiến đấu chống
lại thực dân Pháp ở
chiến khu 5 (gồm các tỉnh Quảng Nam, Quảng
Ngải, Bình Định và Phú Yên).[1] Bảy
năm sau vào tháng 6 năm 1952, ông bỏ khu
chiến, đi chung chuyến với nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn đến
vùng Gò Nổi thuộc
Điện Bàn, Quảng Nam. Ông khai sụt tuổi đi bảy
năm để đi học trở lại ở trường Quốc Học[1] Ông
tốt nghiệp Tú tài II vào
năm 1956.
Lên đại học,
ông ghi danh Trường Đại học Luật khoa Sài
Gòn và Trường Đại học Văn khoa Sài Gòn.
Từ 1957 khi còn là sinh viên,[1] ông
có tham gia dạy môn văn ở Trường Trung học Petrus Ký.[4] Giữa thập niên 1950, ông được
biết đến khi thơ được đăng trên các tờ Đời
Mới, Văn Nghệ Tiền
Phong,...[4] Năm
1960, ông xong cử nhân văn khoa, được một số
trường trung học tư thục khác ở Sài Gòn mời
giảng dạy.[1]
Năm 1962, ông
nhập ngũ khoá 14 Sĩ quan Trừ bị ở Liên trường Võ khoa Thủ Đức,
về sau tốt nghiệp với cấp bậc Chuẩn úy và
được bổ về làm giảng viên môn văn hóa ở Trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt.
Tại đây ông cũng giảng dạy tại một vài trường
tư thục khác. Người vợ sau này là một nữ sinh
ở Đà Lạt.[1] Năm
1966, ông giải ngũ về lại trường Pétrus Ký,
nhưng đến sự kiện Tết Mậu Thân năm
1968 thì lại bị gọi tái ngũ, nhưng đến cuối
năm này ông lại được biệt phái Bộ Giáo dục và
quay về trường cũ.[1]
Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975,
ông bị bắt đi học tập cải tạo với
tội danh "giáo chức biệt phái"[4] trong
hai năm tại trại Long Giao, trong khu căn cứ
cũ của Sư đoàn 18 Bộ
binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa tại
tỉnh Đồng Nai.
Trong tù ông vẫn không ngừng sáng tác thơ
nhưng hầu như không còn lưu lại.[5]
Tháng 9 năm
1978, sau khi vợ con bỏ ông đi vượt biên
trước, ông bèn bán hết đồ đạc còn lại rồi lần
về Tây Nam Bộ, trú ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang trong
nhà một người đồng hương, rồi tiếp tục bị bắt
giam chỉ ba tháng sau đó vào ngày 25 tháng 12
năm 1978 vì tội cư trú bất hợp pháp, không có hộ khẩu.[1][2][5] Ngày
19 tháng 3 năm 1979, sau vài tháng căn bệnh gan[4] tái
phát, ông được cho ra khỏi nhà tù nhưng qua
đời trên đường đi, được chôn ở cạnh một gốc
cây.[5] Sau
này, nhà thơ Đinh Trầm
Ca tìm ra phần mộ chôn
ở Chợ Mới;[2][6][1] đến
ngày 5 tháng 4 năm 2001 thì thân hữu và gia
quyến dời cốt về nghĩa trang Gò Dưa, Thủ Đức,
Thành phố Hồ Chí Minh, an táng cạnh mộ phần
thi sĩ Bùi Giáng.[2]
Sự
nghiệp sáng tác
Tương tự nhà
thơ đồng hương Tường Linh,
nhà thơ Tạ Ký cũng dành tình yêu sâu nặng cho
quê hương Trung Phước, đất Quế Sơn hay đất
Quảng Nam bằng việc đưa vào thơ các địa danh
thân quen, các cảnh trí thôn dã hay hình ảnh
thân yêu về cha mẹ, về người em láng giềng,
như trong các bài "Bức thư đầu xuân", "Gánh
gạo qua đèo", "Thư gửi mẹ", "Trung Phước
ơi",...[7] Ông
đồng cảm với cuộc đời của các nhân vật trong Truyện Kiều qua
nhiều bài thơ như "Đoạn trường gợi lại", "Thúy Vân", "Từ Hải",
"Thì trang tình sử",...[7]
“ |
Tạ Ký hiện
diện như một nhà thơ của đau xót, trữ
tình... Tạ Ký đứng riêng rẽ. Con đường
ông đi cũng âm thầm như tiếng thơ ông
song vẫn là sự lan rộng trong cái âm
thầm yêu dấu của quê hương. Thơ ông đặc
biệt Việt Nam. |
” |
—— Nhà
biên khảo Cao Thế Dung nhận định về
thơ Tạ Ký, [8]
|
Trong số các
nhà thơ thời kỳ này, ông là người viết nhiều
thơ tặng bạn, như một truyền thống phương Đông
từ thời thơ Đường,
như các bài "Dâng", "Ngõ lạc" tặng Cao Thế
Dung; "Viết trang tình sử" tặng Thế Viên; "Anh
cho em mùa xuân" tặng Phạm Công Thiện; "Dáng xưa"
tặng Bùi Giáng; "Đếm sao" tặng Cam Duy Lễ;
"Bài thơ cuối mùa" tặng Huy Trâm; "Buồn như",
"Em chỉ trả lời" tặng Tôn Thất Trung Nghĩa;
"Thư gửi mẹ" tặng Tạ Hồng Nguyện, "Giao thừa
giữa phố" tặng Hoài Khanh; "Thế hệ bốn lăm"
tặng Nguyễn Liệu; "Lại một bài thơ tâm tình"
tặng Lê Sử; "Hẹn một ngày mai" tặng Phổ Đức;
"Xuân về thương nhớ với ai đây?" tặng Trương
Đình Ngữ,...[7]
Ông có các tập
thơ là Sầu ở lại (1970)
và Cô đơn còn mãi (1973),
riêng một tập thơ khác là Giòng
mắt em xanh được kiểm
duyệt năm 1961 nhưng không thấy xuất bản.[1] Tập Sầu
ở lại tựa như một tiên
cảm về cuộc đời, về một tương lai gập ghềnh,
buồn thương, cay đắng. Tập thơ có lời tựa là
câu thơ của Huy Cận:
"Tình đi mau, sầu ở lại lâu dài".[7] Ngày
19 tháng 1 năm 1971, trong buổi trao giải Văn
học Nghệ thuật năm 1970 diễn ra ở dinh Độc
Lập, tập thơ Sầu ở
lại của ông đoạt giải
nhất bộ môn Thơ.[2][9]
Năm 1961, Tạ
Ký có quyển sách giáo khoa Việt
Nam thi văn trích giảng (Văn học cận đại:
1765-1921), được NXB Khoa Học ấn hành.
Năm 1974, ông đồng biên soạn sách Quốc
văn lớp 12 với các
thầy khác tại trường Pétrus Ký, được NXB Trí
Đăng ấn hành.[1]
Bài thơ "Buồn
như" tặng Tôn Thất Trung Nghĩa, sau năm 1975
được nhạc sĩ Y Vân lấy
ý để sáng tác nhạc phẩm "Buồn".
Tham khảo