Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ
tục danh Phạm Văn Thương sinh ngày 15
tháng 2 năm 1943 tại Paksé, Lào, quê tại Quảng
Bình, Việt Nam, là một học giả uyên bác về Phật
giáo, nguyên giáo sư thực thụ của Đại học Vạn Hạnh
tại Sài Gòn, nhà văn, nhà thơ, dịch giả và là một
người bất đồng chính kiến với chính phủ Việt Nam
hiện nay.
Nhà thơ/
Thượng tọa Tuệ Sỹ
Ông thông thạo tiếng Trung
Hoa, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Pali, tiếng Phạn
và tiếng Nhật, đọc hiểu tiếng Đức. Ông được giới
học giả Việt Nam đánh giá cao vì đã công bố nhiều
tiểu luận, chuyên khảo, thơ và nhiều công trình
dịch thuật Phật giáo từ tiếng Phạn, tiếng Trung
Hoa và tiếng Nhật. Ông và Thích Trí Siêu, được coi
là 2 nhà sư uyên bác nhất của Phật giáo Việt Nam.
Quy y Phật năm 7 tuổi, ông
học Phật Pháp trong Viện Hải Đức tại Nha Trang,
rồi sau đó là tại Thiền viện Quảng Hương Già Lam
tại Sài Gòn.
Tuệ Sỹ tốt nghiệp Viện Cao
đẳng Phật học năm 1964, Viện Đại học Vạn Hạnh phân
khoa Phật học năm 1965, được đặc cách bổ nhiệm là
Giáo sư thực thụ Viện Đại học Vạn Hạnh từ năm 1970
và là Chủ bút của tạp chí Tư Tưởng do Viện Đại học
Vạn Hạnh phát hành. Ông cũng làm thơ, viết một số
truyện ngắn đăng trên tạp chí Khởi hành
(1969-1972), Thời tập (1973-1975). Ngoài ra ông
cũng hiểu biết rất nhiều trong lĩnh vực triết học
Tây phương.
Sau năm 1975 ông về lại Nha
Trang, đến năm 1977 vào lại Sài Gòn sống tại Thị
Ngạn Am, chùa Già Lam.
Đầu năm 1978 ông bị đưa đi
"học tập cải tạo" 3 năm, đến năm 1980 thì được trả
tự do.
Ngày 1 tháng 4 năm 1984 ông
bị bắt cùng với Thích Trí Siêu (Lê Mạnh Thát).
Tháng 9 năm 1988 ông và Lê Mạnh Thát bị tuyên án
tử hình vì tội “hoạt động lật đổ chính quyền nhân
dân”. Tháng 11 năm 1988 sau một cuộc vận động giảm
án, bản án được giảm xuống còn tù chung thân. Ngày
1 tháng 9 năm 1998 ông được trả tự do từ trại Ba
Sao – Nam Hà ở miền Bắc Việt Nam. Một năm sau, do
vì tiếp tục hoạt động cho GHPGVNTN, ông cùng với
Thích Quảng Độ lại bị đe dọa giam giữ và bị công
an triệu tập tra hỏi.
Năm 1998 tổ chức Human Rights
Watch đã tặng giải thưởng về nhân quyền
Hellman-Hammett Awards cho ông và 7 người Việt
khác (Hoàng Tiến, nhà văn Lữ Phương, Nguyễn Ngọc
Tần, Phạm Thái Thụy, Thích Trí Siêu và 2 người
được giấu tên). Tháng 4 năm 2000 công an đã đến
khám xét chùa nơi cư ngụ của Thích Quảng Độ và
Thích Tuệ Sỹ. Năm 2004 đài RFA đưa tin Thích Tuệ
Sỹ vẫn còn đang bị quản thúc tại gia. Hiện tại
Thích Tuệ Sỹ đã rời chùa Già Lam, lên sống ở Lâm
Đồng.
Đọc thơ Tuệ Sỹ
Trước hết, xin nói để các bạn
hiểu cho: Nguyễn chưa gặp thầy Tuệ Sỹ bao giờ,
cũng là do không có cái duyên gặp gỡ. Nhà thơ
Nguyễn Thị Khánh Minh thì may mắn hơn đã được gặp
thầy tại chùa Già Lam năm 2009 và được thầy cùng
Giai Hoa đàn dương cầm cho nghe và được thầy tặng
sách, chụp hình chung với thầy. Còn Đinh Cường thì
đã được gặp thầy Tuệ Sỹ nhiều lần. Cách đây khá
lâu, Đinh Cường gởi cho một tấm hình chụp thầy
đang ngồi đàn dương cầm -có phải những điệp
khúc Refrains pour Piano*?Ảnh chụp có Đinh Cường
và Dương Nghiễm Mậu đứng lặng nghe, chìm đắm trong
những âm thanh thánh thót và mùi hương ngọc lan
thoảng bay vào từ sân chùa Già Lam. Gần đây, cuối
năm 2013, Đinh Cường và Bửu Ý lại được ngồi uống
cà phê với thầy ở Cà phê Tùng, Đà Lạt.
Về thơ Tuệ Sỹ, Nguyễn cũng
chưa được đọc một tập nào, chỉ loáng thoáng đâu đó
vài câu vài đoạn, đặc biệt là trong tập sách Thầy
viết về thơ và từ của Tô Đông Pha. Chỉ bấy nhiêu
thôi mà đã thấy thơ thầy chứa đựng cả một không
gian của cảm xúc và suy tư. Đọc và bồi hồi xúc
động. Nay, với lòng ngưỡng mộ thầy, Nguyễn tìm đọc
Điệp Khúc Cho Dương Cầm. Sau đây xin mượn lời của
người viết nào đó trên Việt Báo Online để nói lên
cảm xúc của mình.
“Đó là những dòng thơ hiếm
hoi viết cho một thời đất nước tan tác, những dòng
thơ của một nhà sư ưu tư với sứ mệnh độ sanh, lo
ngại về dòng sử mệnh của dân tộc, và viết ra từ
tấm lòng cực kỳ thơ mộng.
“Ngày mai sư xuống núi
Áo mỏng sờn
đôi vai
Chuỗi hạt mòn
năm tháng
Hương trầm lỡ
cuộc say..”
Thơ mộng như vậy đó, cho một
cuộc lữ của nhà thơ vương chung một cộng nghiệp
với đồng bào. Và vẫn hết sức là thơ mộng, rất mực
là thiết tha với chúng sinh… tập thơ “Giấc Mơ
Trường Sơn” của Thượng tọa Tuệ Sỹ đã nhiều
năm được người yêu thơ và các Phật Tử yêu chuộng,
phổ biến, cả trong và ngoài nước, bất kể là những
dòng thơ của thầy bị cấm lưu hành trên quốc độ
Việt Nam, nơi mà thơ ca cũng phải có cục tình báo
văn học nghệ thuật A-25 đóng dấu cho phép lưu
hành.
Bây giờ, xin bạn hãy lắng
lòng, nghe kỹ lại đi, những dòng thơ của thầy Tuệ
Sỹ viết từ trong tù mà tưởng chừng như quyện vào
tiếng dương cầm thánh thót với âm thanh hồ cầm
trầm thống:
“…Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài
gót mỏi đi quanh
Giờ ngó lại,
bốn vách tường ủ rũ
Suối rừng xa
ngược nước xuôi ngàn ..”
Thơ thầy Tuệ Sỹ cực hay. Đặng
Tiến từng viết trong bài tiểu luận Tuệ Sỹ Điệp
Khúc Dương Trần đăng trên tạp chí Diễn Đàn ở
Paris: “Tuệ Sỹ không phải là người tìm danh vọng,
nhất là bằng thi ca. Ông không tìm độc giả, tìm
tri kỷ, tri âm. Ông thừa nội lực để sống an nhiên
trong tịch lặng giữa cõi ta bà. Nhưng thơ ông xuất
hiện như vầng trăng ra khỏi đám mây, như mùi hương
bông sứ chợt thoảng vào vườn khuya, là một niềm
vui chung, và cho người lữ khách ngồi lại bên
đường, buổi chiều, cười với nắng một ngày sao
chóng thế… đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan,
câu thơ ngày xưa của ông mà Bùi Giáng hết lời ca
ngợi. […] Thơ Tuệ Sỹ cô đúc, hàm súc, uyên áo.
Người đọc không quen cho là khó hiểu, vì tác giả
không đề cập đến một đề tài nào chính xác, không
miêu tả không tự sự. Ngôn ngữ lấp lánh ánh sáng
tâm cảm và ngoại giới, trầm tư và huyễn mộng. Hình
ảnh chập chờn, ngôn từ lảo đảo, như những tiếng
dương cầm đuổi bắt nhau, chưa kịp tương phùng đã
muôn đời vĩnh quyết.”
Ở trên có nói thầy – với tư
cách nhà sư và nhà thơ – ở những năm tháng của
trung tâm cơn bão thời đại, đã cùng chung cộng
nghiệp với đồng bào: Người ở lại với bàn tay bạo
chúa / Cọng lau gầy trĩu nặng bóng tà dương. Con
người ấy, thơ ấy xứng đáng với lòng ngưỡng mộ của
mọi người. Không như ai kia, trở về thăm chùa lễ
Phật, phải có lọng vàng và người đi trước rải hoa
cùng chuông trống bát nhã om sòm. Thầy Tuệ Sỹ luôn
luôn âm thầm lẻ bóng trên con đường từ hiện kiếp
tới thiên thu: Ta đi trong cõi vĩnh hằng / Nhớ tàn
cây nhỏ mấy lần rụng hoa.