Phạm Công Thiện
Phạm Công
Thiện
(1/6/1941 - 8/3/2011),là một nhà văn, triết
gia,
học giả, thi sĩ và cư sĩ Phật Giáo người Việt
Nam với
pháp danh Thích Nguyên Tánh. Tuy
nhận
ḿnh là nhà thơ và phủ nhận nghề triết gia,
ông vẫn được coi là một triết gia thần đồng, một
hiện
tượng dị thường của Sài
G̣n thập niên 60 và của Việt Nam với
những tư tưởng ít người hiểu và được bộc phát từ
hồi c̣n rất trẻ.
Phạm Công Thiện sinh năm 1941 tại Mỹ Tho
Ông đến với văn
chương
từ rất sớm. Từ năm 13 tới 16 tuổi, ông là cộng
tác
viên của tạp chí
Bách Khoa. Năm 15 tuổi, ông đă đọc thông
viết thạo năm ngoại ngữ Anh, Pháp, Nhật, Hoa,
Tây Ban Nha,
ngoài ra c̣n biết tếng Sancrit
và tiếng La
Tinh.[4]
Năm 1960,
ông
khởi sự viết cuốn "Ư thức mới trong văn nghệ và
triết
học" khi chưa được 19 tuổi.
Thời kỳ này ông viết nhiều sách về Phật
Giáo, dù ông theo đạo cơ đốc
Năm 18 tuổi, giữ
chức
giảng
viên môn Triết học của Viện Đại học Vạn Hạnh.
Về
sau ông c̣n là giáo sư của nhiều trường đại
học khác nữa dù chưa bao giờ đi thi tú tài, cũng
chưa học một trường đại học nào.[4]
Năm 23 tuổi, ông
cho ra
đời cuốn sách Tiểu luận về Bồ
Đề Đạt Ma, tổ sư Thiền Tông,
mà sau đó đă trở nên nổi tiếng. Đến năm 26
tuổi, ông đă có hàng chục cuốn sách
triết học, tiểu luận và thơ. Ông cũng khởi xướng
và
tham gia tranh luận nhiều về đề tài Phật giáo
trên
các báo Sài
G̣n.
Đầu năm 1964,
ông chuyển ra Nha Trang sống để an dưỡng
sau một cuộc
"khủng hoảng tinh thần". Tại đây ông quy y ở
chùa
Hải Đức, lấy pháp danh Nguyên Tánh. Một thời
gian
sau ông lại về Sài G̣n.[1]
Từ năm 1966
- 1968,
ông
là
Giám
đốc soạn thảo tất cả chương
tŕnh giảng dạy cho tất cả phân khoa viện Đại
học Vạn
Hạnh. Từ năm 1968 - 1970, giữ chức trưởng khoa
Văn học và Khoa
học Nhân văn của viện. Tại đây ông cũng là
sáng lập viên và chủ trương biên tập của tạp
chí Tư Tưởng.
Ông rời Việt Nam
từ năm 1970, chuyển sang sống ở Israel,
Đức,
rồi sống lâu dài tại Pháp.
Năm 1983,
ông
sang Hoa Kỳ, định cư ở Los Angeles,
giữ chức
giáo sư Phật Giáo viện College of Buddhist
Studies.
Từ đó về sau,
ông ở Mỹ và tiếp tục viết sách - phần lớn là
nghiên cứu về đạo Phật.
Ngày 8/3/2011 (
mùng 04 tháng Hai năm Tân Măo), ông
qua đời tại Thành Phố Houston, Texas, hưởng thọ
71 tuổi
Phạm Công Thiện
không coi ḿnh là một triết gia, dù mọi
người vẫn gọi ông với chức danh đó. Trên ng̣i
bút của ḿnh, ông đă phủ nhận tất cả
các triết gia: "Ngay đến Heraclite,
Parmenide và Empédocle,
bây
giờ
tao
c̣n xem thường, tao coi ba tên ấy như
là ba tên thủ phạm của nền văn minh hiện đại,
chưa
nói đến Socrate,
đó là một tên ngu dại nhất mà ta đă
gặp trong đời sống tâm linh của ta". Ông
coi những nghệ
sĩ như Goethe,
Dante
như những thằng hề ngu
xuẩn. Và đối với Sartre,
Beauvoir: "Nếu
họ
muốn
xin
gặp tao, tao sẽ không cho gặp mà c̣n
chửi vào mặt họ". Về thiền tông: "Tao
đă gửi
thiền tông vào một phong b́ tối khẩn đề địa
chỉ của
bất cứ ngôi chùa nào trên thế giới". Về
dạy học và các văn sĩ cùng thời: thời gian
tao
học ở Hoa Kỳ, tao đă bỏ học v́ tao thấy những
trường đại
học mà tao học như Yale, Columbia chỉ toàn là
nơi
sản xuất những thằng ngu xuẩn, ngay đến giáo
sư của tao chỉ
là những thằng ngu xuẩn nhất đời, tao có thể
dạy họ hơn
là họ dạy tao...Bây giờ nếu có Phật
Thích Ca hay Chúa
Giê
Su hiện ra đứng giảng trước mặt tao, tao
cũng không
nghe theo nữa. Tao là học tṛ của tao và chỉ
có tao làm thầy cho tao. Tao không muốn làm
thầy ai hết và cũng không để ai làm thầy tao.
C̣n các văn sĩ ở Sài G̣n, đọc các
bài thơ của các anh, tôi thấy ngay sự nghèo
nàn của tâm hồn anh, sự quờ quạng lúng túng,
sự lặp đi lặp lại vô ư thức hay có ư hức:
trí thức "mười lăm xu", ái quốc nhân đạo "ba
mươi
lăm xu", triết lư tôn giáo "bốn mươi lăm xu".[5]
Ngoài ra cũng
có thể nhắc đến những quan niệm của ông về tiếng
Việt:
"Không cần phải đọc Platon, Aristote,
Kant,
Hegel
hay Karl
Marx, không cần phải đọc Khổng Tử
và Lăo
Tử, không cần phải đọc Upanishads
và Bhagavad
Gita, chúng ta chỉ cần đọc lại ngôn
ngữ
Việt
Nam và nói lại tiếng Việt Nam và bỗng
nhiên nh́n thấy rằng tất cả đạo lư triết lư
cao siêu nhất của nhân loại đă nằm sẵn trong
vài ba tiếng Việt đơn sơ như CON và CÁI, như
CHAY,
CHÁY, CHÀY, CHẢY, CHẠY và c̣n biết bao
nhiêu điều đáng suy nghĩ khác mà
chúng ta đă bỏ quên một cách ngu xuẩn.”
Tuy làm thơ
ít
nhưng Phạm Công Thiện thường coi ḿnh là nhà
thơ hơn những nghề khác, và nhiều người cũng
công
nhận điều này. Ngôn ngữ trong thơ của ông
không có vẻ ngông cuồng như trong tuỳ bút
và văn xuôi. Một số bài của ông đựơc
yêu thích, như Ngày sinh của rắn, là
một bài thơ dài được chia ra làm từng đoạn,
ví dụ đoạn thứ VIII:
- mười năm qua gió thổi đồi
tây
- tôi long đong theo
bóng chim gầy
- một sớm em về ru giấc ngủ
- bông trời bay trắng cả
rừng cây
- gió thổi đồi tây
hay đồi đông
- hiu hắt quê hương bến cỏ
hồng
- trong mơ em vẫn c̣n
bên cửa
- tôi đứng trên đồi
mây trổ
bông
- gió thổi đồi thu qua đồi
thông
- mưa hạ ly hương nước
ngược
ḍng
- tôi đau trong tiếng
gà xơ xác
- một sớm bông hồng nở cửa
đông
Đoạn này nổi
tiếng
và đă được Lê Uyên Phương phổ nhạc
thành bài hát "Tôi đứng trên đồi
mây trổ bông".
Thơ, văn, tiểu luận
- Tiểu luận về Bồ Đề Đạt Ma, tổ sư Thiền
tông (1964)
- Ư thức mới
trong văn nghệ
và triết học
(1965)
- Ngày sinh của rắn (1967)
- Trời tháng Tư (1966)
- Im lặng hố thẳm (1967)
- Hố thẳm của tư tưởng (1967)
- Mặt Trời không bao giờ có thực (1967)
- Bay đi những cơn Mưa Phùn (1970)
- Đi cho hết một đêm hoang vu trên mặt
đất (1988)
- Sự chuyển động toàn diện của tâm thức
trong tư tưởng Phật Giáo (1994)
- Những bước chân nhẹ nhàng trở về sự im
lặng
- Triết lư Việt Nam về sự vượt biên (1995)
- Làm thế nào để trở thành một bậc
Bồ Tát
- Sáng rực khắp bốn phương Trời (1998)
- Tinh tuư trong sáng của đạo lư
Phật Giáo (1998)
- Trên tất cả đỉnh cao là Im Lặng
- Một đêm siêu h́nh với Hàn
Mặc Tử
- Khai ngôn cho một câu hỏi dễ hiểu: Triết
học là ǵ?
- Đối mặt với 1000 năm cô đơn của Nietzche.
Dịch
Nguồn:
http://vi.wikipedia.org
|