Việt Nam Văn Hiến
Năm Thứ 4889

www.vietnamvanhien.net




Nội Dung

  Tiểu Sử Phan Chu Trinh
  Xây Dựng Con Người Tự Chủ , Để Dân Tộc Tự Chủ - Nguyên Ngọc
  Tư Tưởng Lập Hiến Cuả Phan Chu Trinh - Phan Đăng Thanh
   Giỗ Thứ 85 cuả Cụ Phan Chu Trinh - Nguyễn Quý Đại






Phan Chu Trinh (1872-1926)


Tiểu Sử PHAN CHU TRINH


Phan Chu Trinh sinh năm Nhâm Tuất (1872) niên hiệu Tự Ðức 26, tự là Tử Can, hiệu là Tây Hồ, biệt hiệu là Hy Mã, quê ở xã Tây Lộc, huyện Tiên Phước, phủ Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam .Thân phụ ông là Phan Văn Bình, theo nghề võ và đã tích cực chiến đấu trong hàng ngũ Cần Vương . Thân mẫu là Lê Thị Chung, con một nhà thế gia vọng tộc tại làng Phủ Lâm rất tinh thông Hán học và có nhiều đức hạnh .Thuở thiếu thời Phan Chu Trinh được hiền mẫu ân cần chăm sóc, trong khi phụ thân mãi lo công việc võ biền . Chẳng may mẹ mất sớm, vì cha phải bận với võ nghiệp, ít săn sóc đến việc học hành hành nên mãi đến năm lên 10, Phan Chu Trinh mới được vào trường học tập.Vì mối tình yêu nước sớm nẩy nở trong trí của Phan Chu Trinh nên trong lúc các bạn đồng học chăm chỉ ngốn những lời giảng dạy của thầy để nhồi vào óc đạo lý và chữ nghĩa của Thánh hiền, ông tỏ ra rất xao lãng, thờ ơ . Do đó, trong suốt ba năm liền học tập, Phan Chu Trinh chỉ học lấy lệ Năm 1885, kinh thành Huế thất thủ, vua Hàm Nghi phải chạy trốn ra Quảng Trị . Các đạo Cần Vương kháng Pháp nổi lên khắp các nơi . Ðể cho Phan Chu Trinh có một nghề hợp khả năng và cũng đồng thời được đắc dụng trong buổi non sông nghiêng ngửa, thân phụ ông cho ông theo học nghề võ . Lúc bấy giờ thân phụ ông được cử làm Chuyển vận sứ đồn A Bá thuộc hạt Tam Kỳ .

Năm 1887, vì nghi kỵ, thân phụ Phan Chu Trinh bị hại, việc học tập võ nghệ của ông bị gián đoạn. Nhờ người anh cả rước thầy về cho ông tiếp tục học nghề văn . Vì nhận thấy muốn có uy tín để thực hiện chí lớn tron việc cách mạng để giành lại chủ quyền của đất nước, nên ông đổi sang học nghề nghiên bút, chớ thực ra ông không bao giờ thích cái lối học hư văn .Theo học bốn năm ở nhà . Phan Chu Trinh tỏ ra thông minh tuyệt vời, ông thường có những lý luận sâu sắc , những nhận xét tinh vi .

Năm 1889, theo thụ nghiệp với vị Ðốc học Trần Mã Sơn, Phan Chu Trinh được bổ vào ngạch học sinh .

Năm 1900, trong kỳ thi Hương, Phan Chu Trinh thi đỗ Cử Nhân, và qua năm sau 1901, ông đỗ Phó Bảng (nhằm niên hiệu Thành Thái thứ 13).

Ông được bổ làm Thừa Biện ở Huế, ít lâu sau, người anh cả của ông mất, ông xin về quê dạy học . Năm 1903, ông được bổ làm Thừa Biện ở Bộ Lễ . Trong thời gian từ 1902 đế 1905, Phan Chu Trinh có dịp học những tác phẩm có tư tưởng cách mạng của Jean-Jacques Rousseau, Montesquieu, Voltaire ... Càng tiếp xúc nhiều với các quan trường, Phan Chu Trinh càng thấy rõ cảnh thối nát , hủ bại trên đường cử nghiệp .

Lúc bấy giờ lực lượng Cần Vương lần lần tan rã, thực dân Pháp bắt đầu đặt nền thống trị trên đất nước Việt Nam .Trước cảnh non sông nghiêng ngửa, nhận thấy sự bất lực và thối nát của triều đình Huế, Phan Chu Trinh xin từ quan và bắt đầu hoạt động chính trị với các ông Phan Bội Châu, Lương Ngọc Can, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp . Sau khi từ quan về hoạt động chính trị, Phan Chu Trinh đã cùng với hai bạn đồng khoa là Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng rủ nhau vào Nam vận động đồng bào các giới . Vào đến Bình Ðịnh gặp lúc quan tỉnh mở một kỳ thi cho học trò, đầu bài là Chí thành thông thánh và Lưỡng Ngọc danh sơn ba ông mạo tên là Ðào Mộng Giác nộp quyển làm bài Phan Chu Trinh làm bài thơ và hai ông Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng làm bài phú . Những bài này không theo quy tắc thông thường mà cốt để thức tỉnh nhóm sĩ phu . Quan tỉnh không dám quả quyết phải dịch sang chữ Pháp để trình viên Khâm sứ đồng thời truy tầm tác giả của hai bài văn cách mạng kia, nhưng không có kết quả Việc này đã có ảnh hưởng lớn đến đám sĩ phu thời bấy giờ . Tới Phan Thiết, Phan Chu Trinh bị bệnh phải quay trở về Huế . Sau mấy tháng dưỡng bệnh, ông ra Bắc tìm cách lên Yên Thế để gặp Hoàng Hoa Thám, nhưng chính sách bạo động của Hoàng Hoa Thám không thích hợp với chủ trương của ông, nên ông lại xuống Trung Châu Bắc Việt vận động với nhóm nho sĩ Bắc Hà . Ðâu đâu ông cũng đề xướng chủ trương tân học, cực lực đả kích các quan trường tham lam và những nhà hủ nho . Trong thời gian này ông kết nạp được một số đồng chí đáng kể . Phan Chu Trinh tán thành phong traò xuất dương du học do Phan Bội Châu khởi xướng . Lời kêu gọi của Phan Bội Châu, với sự hưởng ứng của Phan Chu Trinh gây được một phong trào xuất dương rất rầm rộ . Ðể được quan sát tại chỗ sự tiến triển của các nước, Phan Chu Trinh liền trốn sang Trung Hoa . Ông gặp Phan Bội Châu tại Hương Cảng rồi hai ông cùng sang Nhật. Ở đó được 10 tháng, ông lên đường về nước (năm 1906) . Phan Chu Trinh quyết đứng ra tranh đấu công khai với chính quyền bảo hộ Pháp . Ngày 15 tháng 8 năm Bính Ngọ (1906) , ông gởi lên Toàn Quyền Pháp ở Ðông Dương một bức thư dài 12 trang gồm mấy điểm sau đây :

- Do sự dung túng của chính quyền Bảo Hộ mà những bọn tham quan ô lại lộng hành khiến cho người Việt Nam bạc nhược suy yếu .

- Chính quyền Bảo Hộ đã dùng một chính sách bạo ngược, tàn ác đối với dânViệt Nam, không tôn trọng sinh mạng con người, muốn chém giết ai tùy ý .

- Do những cách đối xử tàn ác này, mà bọn quan lại lợi dụng quyền thế bắt nạt dân chúng, tìm cách vơ vét cho đầy túi tham, gây nên một tình trạng bi đát trong dân chúng. Bức thơ của Phan Chu Trinh đã có ảnh hưởng rộng lớn trong dân chúng . Ông bắt đầu hoạt động mạnh, hô hào tổ chức nhiều buổi diễn thuyết tại trường Ðông Kinh Nghĩa Thục . Thực dân Pháp để ý căm thù và triều đình Huế cũng rất bực tức quyết tìm cách hãm hại ông. Nhưng Phan Chu Trinh vẫn không màng đến, ông đứng ra lãnh đạo phong trào duy tân, khuyến khích đồng bào mở trường dạy học, lập các hội buôn như Ðông Kinh Nghĩa Thục, Hồng Hưng Tân, công ty Minh Tân, ông cảm hóa được rất nhiều nhân sĩ . Phan Chu Trinh lại hô hào thanh niên vận Âu phục , cắt tóc ngắn, ủng hộ các sản phẩm và hàng nội hóa để giúp cho nền kinh tế trong nước được dồi dào . Ða số thanh niên trong toàn quốc đã nhiệt liệt hưởng ứng phong trào duy tân này .

Năm 1908, tại tỉnh Quảng Nam phong trào kháng thuế nổi lên mạnh mẽ lan rộng các tỉnh miền Trung Việt. Ðầu mùa Xuân năm 1908, thực dân Pháp ra lệnh đóng cửa Ðông Kinh Nghĩa Thục . Nhân việc kháng thuế ở Quảng Nam, vốn đã không ưa Phan Chu Trinh vì ông đã nhiều lần đả kích và nguyền rủa thậm tệ chúng, nên bọn quan lại Nam triều và thực dân Pháp đổ cho ông "xui dân làm loạn" và "phá rối" liền bị hạ lệnh bắt ông ... Rất nhiều nhân sĩ bị bắt, và trong dịp này, ông nghè Trần Quý Cáp bị Nam Triều lên án xử chém tại Nha Trang . Riêng Phan Chu Trinh bị bắt đem về giam tại tòa Khâm Sứ. Ðể phản đối hành động khủng bố của thực dân, Phan Chu Trinh tuyệt thực trong bảy ngày . Nhận thấy tình thế khó xử, viên Khâm Sứ Pháp phải giao trả ông về Cơ Mật Viện của tòa án Nam Triều, ông bị bọn quan lại kết án tử hình . Nhờ có hội Nhân Quyền can thiệp với chánh phủ Pháp. Chính quyền Bảo Hộ phải điều đình với Nam Triều đổi bản án "tử hình" ra "Côn lôn ngộ xá bất nguyên" (bị đày ra Côn đảo mãn kiếp không được ân xá ". Bỏ giam ở nhà lao Phủ Thừa được it' lâu, Phan Chu Trinh bị đày đi Côn đảo . Lúc đi ngang qua cửa Thượng Tứ (Huế), ông đã ngâm bốn câu thơ bằng chữ Hán mà ông Phan Khôi đã dịch như sau Mang xiềng nhẹ bước khỏi đô môn,

Hăng hái hò reo lưỡi vẫn còn

Ðất nước hãm chìm dân tộc héo

Làm trai đâu xá thứ Côn-lôn

Trong cảnh tù đày, nhưng Phan Chu Trinh rất được chính phủ Pháp trọng đãi và kính nể. Chính viên Thống Ðốc Nam Kỳ đã ra tận Côn đảo để tìm hiểu lập trường tranh đấu của ông . Năm 1910, nhờ có hội Nhân Quyền Pháp (do sự vận động của ông Ernest Babut trong 3 năm trời) can thiệp ráo riết với chính phủ Pháp, thủ tướng Pháp lúc bấy giờ là Klobulowsky và Tổng trưởng Bộ Thuộc địa là Trouillet lập Hội đồng để xét án Phan Chu Trinh . Chánh Tham Biện tỉnh Mỹ Tho là Cousineau được cử làm chánh án . Mặc dù đã được ân xá, nhưng ông cũng bị thực dân Pháp tìm cách giữ mãi tại Mỹ Tho .Ông phản kháng và cương quyết đòi trở về Côn Ðảo . Chính phủ Pháp đành phải để ông tự do .Vì muốn tranh đấu có hiệu quả trong việc cải cách nền chính trị nước nhà và đồng thời để được học hỏi thêm, năm 1911, Phan Chu Trinh đã sang Pháp với Toàn Quyền Klobulowsky, cùng theo ông có người con trai tên là Phan Chu Dật .

Tại Ba Lê, ông gởi con vào trường học còn ông thì lại làm nghề rửa ảnh để sinh sống .Dù cho phải sống xa quê hương, ông vẫn không ngừng hoạt động tranh đấu cho đất nước. Ông viết báo Pháp phản đối việc đào lăng Tự Ðức, yêu cầu chính phủ Pháp nên cấp tốc thay đổi chính sách thuộc địa, giáo dục tinh thần tranh đấu của Việt kiều tại Pháp . Ông tìm cách liên kết với các lãnh tụ thuộc đảng cấp tiến ở Pháp . Ông không tiếc lời đả kích những nạn tham nhũng thối nát của thực dân Pháp ở Ðông Dương và chỉ trích chính sách cai trị của họ . Phái khuynh tả ở Pháp rất tán thành việc làm của Phan Chu Trinh, nhưng các quan lại ở các thuộc địa Pháp rất căm thù và oán ghét . Tiền trợ cấp của ông và tiền học bổng của con ông là Phan Chu Dật đều bị truất, đó là kết quả sự trả thù của thực dân .Hai cha con ông phải sống kham khổ và vất vả với số lương rửa ảnh của ông hàng tháng là 50 quan . Dù phải sống trong cảnh đói rét, khốn khổ đủ mọi bề, Phan Chu Trinh vẫn cương quyết tranh đấu cho lý tưởng cao cả .

Năm 1914, chiến tranh Pháp Ðức bộc phát, tại quê nhà vua Duy Tân nhân cơ hội đó gây biến, nhưng cuộc khởi nghĩa thất bại, Trần Cao Vân và Thái Phiên bị xử chém . Vua Thành Thái và Duy Tân bị thực dân Pháp đày sang đảo Réunion .Vì không chịu đi lính cho Pháp để đánh Ðức, Phan Chu Trinh bị vu cáo là làm gián điệp cho Ðức, nên ông bị bắt giam vào ngục SANTE . Nơi đây ông bị hăm dọa đủ điều, nhưng tấm kiên trung vẫn không bao giờ thay đổi . Dùng võ lực không được, người ta đã đem tiền bạc, quyền tước để mua chuộc ông , nhưng cũng vô hiệu quả . Nhờ sự can thiệp của Ðảng Xã Hội và Hội Nhân Quyền Pháp, năm 1915 chính phủ Poinceré phải ký giấy phóng thích ông. Vừa thoát khỏi cảnh giam cầm, Phan Chu Trinh lại phải khóc con . Phan Chu Dật sau 6 năm học tập đã thi đỗ bằng Tú Tài Vật Lý Học, được cha ủy thác sứ mạng về nước để hoạt động . Vì bao năm sống thiếu thốn đói lạnh, Chu Dật mang phải bệnh lao phổi . Về đến quê nhà chưa đầy một năm, Chu Dật mất .

Năm 1922, vua Khải Ðịnh sang dự cuộc đấu xảo quốc tế ở Ba Lê, Phan Chu Trinh gởi cho nhà vua một bức thư lời lẽ nghiêm khắc buộc Khải Ðịnh phải thoái vị nhường quyền lại cho quốc dân và kể bảy tội nhà vua đã làm và đáng tội chém đầu .Có đoạn ông đã viết : "... Một là vì Trinh này đối cùng bệ hạ đã đoạn tuyệt hẳn, không còn một chút quan hệ gì, chỉ đứng vào cái địa vị đối đãi mà thôi, cho nên bức thư này không phải dâng lên cho bệ hạ mà chính là gửi cho bệ hạ, hai chữ bệ hạ mà tôi dùng đây, chẳng qua là cái tiếng xưng hô đã quen trong Hán văn đó mà thôi ... ngày nay Trinh này đề thư cứ gửi ngay cho ông Bửu Ðảo là cái tên húy của bệ hạ , để tỏ ý phản đối ." Bức thư của ông, sau khi được công bố, khích động được tinh thần tranh đấu của đồng bào trong và ngoài nước .

Năm 1925, chính phủ Pháp nhận thấy Phan Chu Trinh là một người ái quốc chân chính có chính sách ôn hòa, nên có ý muốn giúp đỡ ông . Phái tả đảng bên Pháp từ lâu đã có cảm tình với ông được thắng phiếu trong cuộc bầu cử Nghị Viện và lên nắm chính quyền . Thấy cơ hội thuận tiện cho mình đem tài trí ra giúp dân giúp nước, ông xin trở về quê nhà và được chính phủ Pháp chấp nhận.

Về đến Saigon, Phan Chu Trinh có ý định ở lại trong Nam ít lâu rồi sẽ ra Trung Bắc để hoạt động. Dù tuổi già sức yếu, bệnh hoạn vì bao năm sống vất vả thiếu thốn ở Pháp, Phan Chu Trinh vẫn hăng hái tranh đấu . Ông vận động với nhà cầm quyền Pháp để xin ân xá cho Phan Bội Châu bị bắt ở Thượng Hải và sửa soạn hai bài diễn văn để đọc trước công chúng :

1. Ðạo đức và luân lý Ðông Tâỵ

2. Quân trị chủ nghĩa, dân trị chủ nghĩạ

Hai bài diễn văn trên đây đã bày tỏ được chính kiến của một nhà cách mạng chân chính, với lòng yêu nước nhiệt thành . Ngày 24-12-1925, sau khi hay tin việc vận động xin ân xá của quốc dân đã có kết quả và Toà Quyền Varenne đã ký giấy ân xá Phan Bội Châu . Phan Chu Trinh định ra Huế để được gặp người bạn đồng chí để cùng nhau tâm sự, nhưng ông bị đau không đi được . Các sinh viên trường Ðại học Hà Nội đánh điện văn mời ông ra Bắc để diễn thuyết . Chưa kịp đi thì ông được biết tin vua Khải Ðịnh mất . Phan Chu Trinh đánh điện tín cho Pasquier Khâm sứ Trung Kỳ hay ông sẽ ra để lo việc cải tổ triều chính và lập dân đảng .

Tiếc thay đại cuộc chưa thành, bệnh tình của Phan Chu Trinh mỗi ngày một thêm trầm trọng . Ngày 24 tháng 3 năm 1926 (nhằm ngày 12 tháng 2 năm Bính Dần) nhà cách mạng ái quốc Phan Chu Trinh đã trút hơi thở cuối cùng, hưởng thọ được 55 tuổi . Một Hội đồng trị sự được thành lập ngay đêm đó để lo việc an táng cho ông ngày 4-4-1926 khắp từ Nam chí Bắc đều tự động làm lễ bãi khóa và làm lễ quốc táng nhà chí sĩ Phan Chu Trinh rất trọng thể để chứng tỏ tấm lòng ngưỡng mộ và mến tiếc nhà cách mạng đã suốt đời vì dân vì nước .


Nguồn: http://xuquang.com/dialinhnk/danhsi/pct.htm




Xây dựng con người tự chủ, để dân tộc tự chủ, chương trình vĩ đại bị dở dang của Phan Châu Trinh

 

Đầu thế kỷ XX, sau thất bại của các cuộc khởi nghĩa Cần vương, đã xuất hiện Phong trào Duy tân, thoạt tiên được khởi xướng bởi một nhóm trí thức ưu tú, thường được gọi là “bộ ba Quảng Nam” gồm Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng. Phong trào nhóm lên ở Quảng Nam, nhanh chóng loan ra khắp Trung Kỳ, ảnh hưởng sâu rộng đến cả nước, đưa tới cuộc Trung Kỳ dân biến năm 1908, cuộc bạo loạn chống Pháp lớn nhất trước Cách mạng tháng Tám. Cuộc nổi dậy bị đàn áp nặng nề, Trần Quý Cáp bị chém ở Khánh Hòa, Phan Châu Trinh bị đày ra Côn Đảo, về sau thoát tù đã sang Pháp để tiếp tục hoạt động, đến năm 1925 trở về nước, và mất ngày 24/3/1926, đến nay vừa đúng 85 năm. Huỳnh Thúc Kháng cũng bị đày Côn Đảo, sau khi ra tù đã chuyển sang hoạt động hợp pháp, chủ trương báo Tiếng Dân, tờ báo đậm khuynh hướng yêu nước chống Pháp sống được lâu nhất dưới thời Pháp thuộc; và trong số ba người, ông cũng là người còn sống được lâu nhất, để trở thành Phó Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cọng hòa bên cạnh Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1945.

Có một điều cần chú ý: cuộc nổi dậy rung trời chuyển đất năm 1908 không hề nằm trong ý đồ hay kế hoạch của những người chủ chốt khởi xướng phong trào Duy tân, họ không hề lãnh đạo nó, nó nằm ngoài ý định của họ, thậm chí ngược với nguyện vọng và chương trình của họ. Có lẽ đó là một điều chúng ta sẽ cố gắng tìm hiểu, thử giải thích đôi phần hôm nay.

Nói về người đồng chí thân thiết nhất của mình, cũng là người đứng đầu nhóm “bộ ba Quảng Nam”, Huỳnh Thúc Kháng có một đánh giá rất đáng chú ý, ông gọi Phan Châu Trinh là “nhà cách mạng đầu tiên của Việt Nam”. Như thường thấy ở các nhà Nho uyên thâm chuyển sang Tây học và sử dụng chữ quốc ngữ, Huỳnh Thúc Kháng vốn là người rất nghiêm túc, cẩn trọng, súc tích trong từng câu chữ phát ngôn. Chắc chắn đánh giá trên đây của ông dựa trên những suy ngẫm sâu xa, những hiểu biết rất kỹ về người đồng chí tâm huyết nhất của mình, và những so sánh không hời hợt. Ông hiểu nhà cách mạng không chỉ là người mưu đồ một cuộc nổi dậy, chủ trương một cuộc khởi nghĩa, lật đổ một chính quyền… Nhà cách mạng là người muốn thay đổi một xã hội, biến đổi số phận một dân tộc, chuyển cuộc sống của đất nước và con người sang một cấp độ khác, một đường hướng và một thời đại khác. Chính vì nhận thức như vậy nên ông đã không dành danh hiệu ấy cho ai khác trong những người chiến sĩ và anh hùng cùng thời với ông, ngoài Phan Châu Trinh.

Để cố gắng tìm hiểu đánh giá thoạt nghe có thể đáng ngạc nhiên này, có lẽ cần trở lại dù chỉ rất vắn tắt hành trình tư tưởng và hoạt động của Phan Châu Trinh.

Phan Châu Trinh sinh năm 1872 tại làng Tây Lộc, huyện Hà Đông, nay là huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam. Cha ông hy sinh trong cuộc khởi nghĩa Cần Vương do Trần Dư và Nguyễn Duy Hiệu cầm đầu. Năm 29 tuổi đỗ Phó bảng, cùng khoa với cụ Nguyễn Sinh Huy, thân sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh; sau đó làm thừa biện, một chức quan nhỏ ở bộ Lễ của triều đình Huế. Những ai đã đọc qua dù chỉ đôi chút về Phan Châu Trinh đều biết ông rất khinh bỉ, căm ghét, đả kích kịch liệt vua quan triều đình Huế. Vậy tại sao ông lại ra Huế và làm quan? Huế bấy giờ là kinh đô, nơi diễn ra đời sống chính trị và văn hóa quan trọng nhất, nơi hội tụ và liên lạc rộng rãi với những nhân vật ưu tú trên cả nước… Và điều còn quan trọng hơn: là đầu mối (cùng với Hội An một phần) qua đường biển tiếp nhận tài liệu đến từ Trung Hoa cũng đang sôi sục trăn trở tìm đường. Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Dương trong Tuyển tập Phan Châu Trinh, ở phần Niên biểu, về những năm này chỉ ghi rất gọn mà đầy ý nghĩa: “1903: Làm quan ở Huế. Đọc sách mới. Kết giao với Phan Bội Châu… Huỳnh Thúc Kháng và Trần Quý Cáp cũng ra Huế đọc sách mới.” Năm 1904, Phan Châu Trinh từ quan. Còn Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng đỗ cao song không hề chịu làm quan, nhưng cũng ra Huế, để “đọc sách mới”. Cùng có mặt ở Huế và cùng say sưa “đọc sách mới” bấy giờ còn có nhiều trí thức nổi tiếng: Phan Bội Châu, Đào Nguyên Phổ, Vũ Phương Trứ… Nhiều người khác như Đặng Nguyên Cẩn, Ngô Đức Kế, Nguyễn Hiệt Chi, Lương Văn Can… ở Bắc, Hồ Tá Bang, Trần Lê Chất, Nguyễn Trọng Lợi… ở trong Nam, tuy không về Huế nhưng đều liên lạc với trung tâm Huế, và cũng chủ yếu để “đọc sách mới”.

“Sách mới” là chữ của Nguyễn Văn Dương dịch cái mà hồi ấy người ta quen gọi là “Tân Thư”. Hẳn rồi đến một lúc cần trở lại nghiên cứu những “tân thư”, hiện tượng “đọc tân thư” sôi nổi một thời ấy, hiểu cho rõ tác động của chúng đối với một giai đoạn có thể có tính quyết định của lịch sử cận đại nước ta. Tân Thư là các sách được chuyển sang từ Trung Quốc, gồm các tác phẩm của Lương Khải Siêu và Khang Hữu Vi, và các sách của Nhật, của Pháp được dịch ra chữ Hán, trong đó các tác phẩm kinh điển của Montesquieu (mà người ta dịch là Mạnh Đức Tư Cưu) và Jean Jacques Rousseau (được dịch là Lư Thoa). Sau khi đọc Tân thư, Trần Quý Cáp thổn thức: “… nửa đêm tỉnh giấc, nước mắt đầm đìa”. Tân Thư đã gây chấn động dữ dội trong tất cả tầng lớp tinh hoa yêu nước đang đau đáu tìm đường trong thế cùng cực bế tắc sau thất bại Cần Vương anh hùng mà tuyệt vọng. Tìm đường, đi con đường nào đây để có thể cứu nước, đưa dân tộc thoát ra khỏi vòng nô lệ? Tân Thư thổi một luồng gió mới vào những đầu óc đang cháy bỏng bấy giờ. Tác động của nó cực kỳ to lớn. Tuy nhiên, đều là những nhà ái quốc tâm huyết, mỗi người đã chịu tác động đó một cách khác nhau, đi đến những suy ngẫm và những kết luận khác nhau, theo cách nói ngày nay, những phương án chiến lược khác nhau. Chính ở đây ta nhận ra chân dung tư tưởng và văn hóa, chính trị đặc sắc, có thể nói đặc sắc đến “độc nhất”, của Phan Châu Trinh. Trong một nghiên cứu gần đây (tháng 9-2010) tác giả Lê Thị Hiền Minh ở Đại học Québec, Canada viết: “Khác với Phan Bội Châu chỉ thấy ở đấy một cuộc chiến đấu vũ trang đánh đuổi người Pháp ra khỏi Việt Nam cũng giống hệt như tổ tiên ông đối với quân xâm lược Trung Hoa, Phan Châu Trinh đã nhận ngay ra một vấn đề phức tạp hơn là một cuộc  ngoại xâm về mặt lãnh thổ: vấn đề trang bị cho “những người yếu hơn” các phương tiện để bước vào một cuộc tiến hóa ở cấp độ toàn cầu, đưa dân tộc Việt Nam lên con đường hiện đại hóa.”[1]. Như vậy, nếu đối với hầu hết những chí sĩ yêu nước đương thời, chấn động của Tân thư chỉ là thêm một kích thích mạnh mẽ ý chí dân tộc, tinh thần chống ngoại xâm, mà không dẫn đến một đường hướng gì mới về căn bản, do chưa có thay đổi gì về tầm nhìn; thì ở Phan Châu Trinh (và hai người đồng chí thân thiết nhất của ông trong bộ ba Quảng Nam) nó mở ra một chân trời hoàn toàn khác; như cách nói ngày nay, nó mở ra cho ông chân trời “toàn cầu hóa”. Ông là người đầu tiên nhận ra phương Tây, không chỉ là một phương Tây kỹ thuật tiên tiến như Phạm Phú Thứ, thậm chí như Nguyễn Trường Tộ đã thấy và lo lắng …, mà là một phương Tây văn hóa, văn minh, khác hẳn và cao hơn cái thế giới hạn hẹp phương Đông ta từng biết xưa nay và vẫn loay hoay tìm đường trong đó.

Pháp (và phương Tây nói chung bấy giờ) là thế lực (puissance) hoàn toàn khác với Trung Hoa, mối uy hiếp mà Việt Nam đã thành công trong việc giữ một khoảng cách nhất định suốt gần một nghìn năm. Giữ được như vậy là vì dù tương quan lực lượng đã nhiều lần hết sức chênh lệch, nhưng hai bên đều thuộc cùng một thời đại lịch sử, một nền văn minh tương đồng. Thắng lợi của Việt Nam chống đồng hóa Trung Hoa suốt nghìn năm, như chúng ta đã nói nhiều lần, là thắng lợi văn hóa. Thắng lợi văn hóa trong khung khổ đóng kín của phương Đông, hay cũng có thể nói khung khổ thế giới Hán hóa (sinisé).

Giáp mặt với Pháp, với phương Tây, “sự thống nhất văn hóa và chính trị cho đến nay được bảo vệ bằng việc giữ gìn các giá trị Khổng giáo bị lay chuyển bởi các giá trị của thiên chúa giáo và, ít nhận ra được rõ hơn, bởi việc du nhập một hệ chữ viết dựa trên nguyên tắc Hy-La, chữ Quốc ngữ, được coi là ngôn ngữ chính thức song song với chữ Pháp từ năm 1878…”[2] Nhà sử học David Marr viết: “Việt Nam đi vào một biện chứng văn hóa và bản sắc quyết định; việc mất lãnh thổ lại cọng thêm mối uy hiếp mất tiếp ngay các quy chiếu tâm lý-xã hội văn hóa… Thế hệ các nhà nho trưởng thành vào những năm 1900 bị ám ảnh bởi hình ảnh “mất nước”, không chỉ theo nghĩa chính trị, mà còn nghiêm trọng hơn là mất “một sự sống còn về sau với tư cách là người Việt Nam”… Có lẽ lâu nay, khi nói về tình thế của đất nước vào đầu thế kỷ XX chúng ta đã tập trung chú ý vào sự mất mát đau đớn lãnh thổ, mà chưa làm rõ được hết những khía cạnh sâu xa và tinh tế này của xã hội khi đối mặt với phương Tây, với cuộc “toàn cầu hóa” lần thứ nhất, có thể gọi như vậy, mà Phan Châu Trinh, với một cái nhìn sáng suốt đã là người duy nhất nhận ra một cách hết sức tỉnh táo và sáng rõ. Ông nhận ra không chỉ tai họa đau đớn mất lãnh thổ quốc gia (như trong lịch sử ta đã nhiều lần mất vào tay Trung Hoa), mà lâu dài hơn, sâu sắc hơn, căn bản hơn, khó khăn hơn, nguy hiểm mất còn hơn, ông nhận ra một cuộc khủng hoảng văn hóa nghiêm trọng, thậm chí chưa từng có; điều mà David Marr chỉ ra là ở “các quy chiếu tâm lý-xã hội văn hóa”. Về sau Hoàng Xuân Hãn nói rằng chỗ độc đáo và đặc sắc nhất của Phan Châu Trinh so với tất cả những người ưu tú nhất đương thời, là ông đã đi tìm và tìm thấy nguyên nhân mất nước, dân tộc sa vào vòng nô lệ bi thảm, ở trong văn hóa, trong sự lạc hậu nguy hiểm về văn hóa của Việt Nam, lạc hậu cả một thời đại, so với thế giới văn minh rộng lớn, toàn cầu, và Việt Nam từ nay không thể sống còn ngoài cái thế giới ấy, cái toàn cầu ấy, mà các tân thư đã mở mắt cho ông nhìn thấy. Vậy nên, tôi nghĩ có thể nói mà không hề sợ quá đáng, Phan Châu Trinh là nhà văn hóa tiên phong và lớn nhất của Việt Nam trong thế kỷ XX – và có thể cả thế kỷ sau đó nữa như ta sẽ suy nghĩ thêm. Và bài học lớn nhất của Phan Châu Trinh để lại cho chúng ta là bài học về văn hóa.

Từ nhận thức cơ bản đó, ông đặt lên hàng đầu nhiệm vụ và chương trình đưa dân tộc vào “một cuộc tiến hóa ở cấp độ toàn cầu, đưa dân tộc Việt Nam lên con đường hiện đại hóa”. Và như vậy, vấn đề lãnh thổ, khôi phục lãnh thổ quốc gia, tức vấn đề độc lập, được coi như là một bộ phận cần thiết nhưng không phải là cứu cánh của chương trình dài hạn rộng lớn, cơ bản hơn nhiều, mà ông biết và chủ trương phải tiến hành từng bước.

Ta từng biết Phan Châu Trinh có chủ trương tự trị; và đi đến tự trị bằng con đường hòa bình, không bao động. Hẳn cần nói rõ, dù chỉ là phần nào, về tư tưởng này của ông, hình như lâu nay thường khá bị hiểu lầm. Trong chủ trương này có phần mà ông gọi là “Ỷ Pháp cầu tiến bộ”, học lấy ngay cái hay chắt lọc được của đối thủ để đem lại sự tiến bộ cho dân ta. Thực ra trong suốt lịch sử lâu dài bài học này vốn không lạ với người Việt. Tổ tiên ta đã học biết bao nhiêu của Trung Hoa để góp cho sự trưởng thành toàn diện và cả cho sức mạnh chống ngoại xâm của dân tộc. Huống nữa học lấy văn minh phương Tây mà ta biết ta đã chậm trễ mất cả một thời đại là vô cùng cần thiết và cấp bách. Tuy nhiên, tư tưởng về tự trị của Phan Châu Trinh không chỉ bó hẹp trong ý nghĩa đó. Trong luận văn đã nhắc đến trên đây của Lê Thị Hiền Minh, tự trị được dịch là autonomie. Và theo từ điển autonomie được giải thích: “Quyền tự trị. Quyền tự do, độc lập về đạo đức hoặc về trí tuệ”. Đây là khía cạnh và nội dung quan trọng trong chủ trương lớn của Phan Châu Trinh. Lê Thị Hiền Minh viết: “Dự án hiện đại hóa Việt Nam của ông (Phan Châu Trinh), trong thực tế, là một dự án tự trị hóa (autonomisation) trong đó sự tự trị cá nhân và tập thể của những người Việt Nam sẽ thúc đẩy đất nước lên những đường ray của hiện đại hóa và văn minh”. Vậy rõ ràng ở đây có thể thay từ tự trị (thường chỉ được hiểu theo nghĩa một thiết chế chính trị) bằng từ tự chủ. Và từ đó, khẩu hiểu nổi tiếng của Phan Châu Trinh “Khai dân trí” cũng rõ ràng bộc lộ một ý nghĩa sâu xa mà có lẽ lâu nay chúng ta cũng chưa thấu hiểu hết tinh thần. Khai dân trí chính là xây dựng nên con người tự chủ, cá nhân tự chủ, để đi đến tập thể tự chủ. Nhà nghiên cứu Verbunt viết: “Chính trong sự tự trị được hiểu là một sự tự tổ chức quản trị trong liên quan phụ thuộc lẫn nhau… Phan Châu Trinh tìm thấy một sức mạnh giải phóng chứ không phải một nền độc lập như Phan Bội Châu. Theo nghĩa đó, tự trị là “giá trị cho phép cùng tồn tại với những người khác mà ta không còn có thể áp đặt nền văn hóa của mình. Quyền của các thiểu số được xác định trong chính chuyển động cơ bản này”. Tác giả này còn nói rõ hơn: “Bởi mọi tập thể đều gồm những cá nhân, nên sự tự trị như một tiến trình không thể được trao cho một tập thể người mà không đi qua từng người. Tiến trình mà chúng ta gọi là “tự trị hóa” đó trước hết phải là một tiến trình riêng biệt (tức của từng cá nhân, từng cá nhân tiến đến tự chủ) trước khi đạt đến một kích thước tập thể, và việc đó, thông qua giáo dục, theo Phan Châu Trinh mà khái niệm tu thân trong tự phát triển của mỗi người không hề xa lạ… Dự án tự trị hóa của Phan Châu Trinh đồng thời là một dự án giáo dục hiện đại đưa mọi người Việt Nam qua con đường của trường học tự do ở Bắc Kỳ (tức mô hình Đông Kinh Nghĩa Thục) và một dự án xã hội-kinh tế nhằm thiết lập một hệ thống hỗ trợ tập thể cho sự phát triển của các tổ chức kinh tế…”

Ở đây cần đặc biệt chú ý tư tưởng của Phan Châu Trinh về giáo dục nhấn mạnh đến việc xây dựng cá nhân tự chủ, mà ông coi là cơ sở của tự chủ tập thể, tự chủ dân tộc. Nhiều tác giả nghiên cứu các văn bản của Phan Châu Trinh, đặc biệt các thư ông viết cho Toàn quyền Beau, cho vua Hàm Nghi, cho vua Khải Định nêu bật cách xưng hô của Phan Châu Trinh được cho là hoàn toàn có ý thức: ông luôn xưng “tôi”. Chúng ta biết về mặt từ nguyên “tôi” vốn xuất phát từ quan hệ “vua-tôi”, với ý nghĩa là “tôi tớ, thần dân của vua”. Phan Châu Trinh xưng tôi với ý nghĩa khác, ý nghĩa được Alexandre de Rhodes chỉ ra khi ông coi từ này là tương đương với ego trong tiếng La-tinh. “Tôi” của Phan Châu Trinh chính là cái “le moi” phương Tây. Một cái tôi độc lập, có ý thức về nhân cách độc lập và ngang bằng của mình với người đối thoại. Phan Châu Trinh luôn xưng “tôi” trong tất cả các văn bản viết cho nhân dân, cho người cấp trên, cho các quan chức Pháp và Việt. Trong thư gửi Toàn quyền Beau năm 1907, ông mở đầu: “Tôi, Phan Châu Trinh, thự trước tác hậu bổ, tỏ bày cái tình trạng nguy cấp ở nước Việt Nam…”. Năm 1922, trong thư Thất điều gửi Khải Định, ông viết: “Tôi, Trinh, sinh gặp lúc: trong thì nước nhà nghiêng ngập, ngoài thì các nước đua tranh lên đường tiến bộ…” Lê Thị Hiền Minh nhận xét: “Phan Châu Trinh nói với toàn quyền Beau với tư cách là viên chức nói với viên chức, nhà chuyên môn nói với nhà chuyên môn, con người nói với con người”. Một nhà nghiên cưu khác, Trương, B.L. thì viết: “Là con người tư duy tự do, có thể nhìn chính lịch sử của dân tộc mình với một khoảng cách, chính là với tư cách “con người đích thực” (“personne authentique”) mà Phan Châu Trinh đã viết cho toàn quyền Beau: “Tôi, Phan Châu Trinh, quan chức cũ…”. Guidon cho rằng “bản sắc cá nhân đó (ở Phan Châu Trinh) đòi hỏi một hệ đạo đức thẩm nhập suốt đời, hệ đạo đức của một công dân tự do đảm nhận các quyền và các bổn phận của mình”.

Hình như lâu nay khi nghiên cứu về hệ thống các trường Duy tân mà bộ ba Quảng Nam đã lập được ở tỉnh nhà trong khoảng thời gian từ năm 1903 đến 1908, cũng như về trường Đông Kinh Nghĩa Thục, chúng ta chưa chú ý tìm hiểu kỹ nội dung và tính chất rất quan trọng này trong quan điểm giáo dục ở các cơ sở nói trên. Chúng ta đã nói nhiều về tinh thần yêu nước, ý chí chống ngoại xâm được kích thích, cổ vũ mạnh mẽ, tinh thần thực hoc ở đây, mà chưa làm rõ được triết lý về xây dựng con người hiện đại tự trị, tự chủ, con người tự do trước hết tự trong chính mình còn sâu xa hơn nhiều của các trường này.

Dò lại hành trình tư tưởng của ông, đọc lại kỹ các trước tác của ông, ta nhận ra rõ ở chính Phan Châu Trinh hình ảnh tiêu biểu của một con người như vậy. Và một con người đạt được đến tự do như vậy thì có khả năng đặt biệt là giữ được khoảng cách với mọi điều đã được coi là “chân lý”, là “lịch sử”, kể cả với lịch sử của chính dân tộc mình.

Chính với khoảng cách độc lập đặc sắc đó, đầy trách nhiệm và cực kỳ dũng cảm, Phan Châu Trinh đã ráo riết chỉ ra hai nhược điểm chí tử của dân tộc, đặc biệt trong hoàn cảnh của “toàn cầu hóa”, mà thẳng thắn một cách phi thường ông cho là tập trung rõ nhất, cực điểm nhất ở một con người đương thời lừng danh mà ông rất thân thiết, yêu mến, kính trọng và bảo vệ: Phan Bội Châu. Hai nhược điểm chí tử: một mặt chủ nghĩa yêu nước hẹp hòi, sô vanh, mặt khác, nghịch lý thay, ý thức vọng ngoại mù quáng. Ông nói về Phan Bội Châu, mà cũng là nói về dân tộc mình, chẳng hề một chút khoan nhượng, nương nhẹ: “Phan Bội Châu là người chưng ra rõ nhất những tập quán dân tộc hình thành trong lịch sử của dân tộc Việt Nam suốt thiên niên kỷ qua. Nếu có ai đó không biết bản chất thật của người Việt Nam, thì hãy cứ nhìn ông ấy. Dân tộc ta có tình yêu nước hẹp hòi và ở ông ấy, tư tưởng sô vanh lên đến cực điểm. Dân tộc ta có tính vọng ngoại và ở ông ấy, sự phụ thuộc vào sức mạnh bên ngoài lên đến tối đa. Dân tộc ta thiếu tinh thần độc lập và ở ông ấy cái thiếu đó càng rõ rệt hơn cả …”.

Phan Châu Trinh coi ý nghĩa của cuộc đời ông là nỗ lực cứu nhân dân thoát ra khỏi những điểm yếu chí tử ấy, tự xây dựng cho mình, từ từng cá nhân, đến toàn dân tộc ý thức tự chủ - mà ông gọi là tự trị. Tư tưởng đó tập trung trong khẩu hiệu nổi tiếng của ông: “Khai dân trí, Chấn dân khí, Hậu dân sinh”…

Trong một thời gian ngắn hôm nay hẳn không thể nói kỹ và sâu hết về tư tưởng của Phan Châu Trinh mà dẫu chỉ điểm qua ta đã có thể nhận ra tính hệ thống, liên hoàn chặt chẽ, sâu sắc, và tính hiện đại đáng kinh ngạc của nó. Chương trình của ông là chương trình thay đổi một dân tộc, sửa chữa và làm lại nó, tự trong chiều sâu nhất của nó, chiều văn hóa, để nó có thể tồn tại và phát triển trong một thế giới tất yếu toàn cầu hóa.

Cũng như tất cả những nhà tiên phong, những nhà khai sáng chân chính, nghĩa là những người đi trước, Phan Châu Trinh đã cô đơn trong cuộc đời của ông, và theo một ý nghĩa nào đó, cả về sau nữa. Ông không được sự đồng tình của phần lớn giới sĩ phu cùng thời, trong đó có vị sĩ phu ông kính trọng nhất: Phan Bội Châu. Quan hệ giữa Phan Châu Trinh-Phan Bội Châu là điển hình của một tình bạn kỳ lạ mà tiếc thay hình như ngày nay chúng ta không còn được thấy, đối nghịch kịch liệt về tư tưởng và quan điểm, đường lối, nhưng thân thiết và kính trọng nhau chẳng ai bằng. Khi Phan Châu Trinh mất năm 1926, Phan Bội Chau đã viết đôi câu đối thống thiết và đầy ý nghĩa:

Thương hải vi điền, tinh vệ hàm thạch

Chung Kỳ ký một, Bá Nha đoạn huyền

Biển thẳm lấp chưa bằng, tinh vệ còn đội đá

Chung Kỳ thôi đã mất, Bá Nha dứt dây đàn

Chung Kỳ Phan Châu Trinh đã mất, Bá Nha Phan Bội Châu đau đớn dứt dây đàn bởi biết còn cùng ai chia sẻ?

Phan Châu Trinh cũng cô đơn trước nhân dân đương thời của ông mà ông đã cống hiến cả cuộc đời để quyết cứu, cho một tương lai xán lạn bền vững mà ông đã sáng suốt nhận ra con đường để đi tới. Ông hiểu điều đó  một cách sâu sắc. Ông nói: “Không phải tôi không biết sự ngờ vực của các quan chức người Pháp đối với tôi. Không phải tôi không biết sự căm ghét của các quan chức người Việt đối với tôi. Không phải tôi không biết mối hiềm khích của Phan Bội Châu đối với tôi. Không phải tôi không cảm thấy sự gièm pha của nhân dân Việt Nam đối với tôi. Nhưng tôi không tìm cách tránh sự ngờ vực ấy”. Ông tin sắt đá ở tư tưởng của ông, đường lối cứu dân tộc của ông. Là con người tự trị, tự chủ cao độ, là nhà tư tưởng tự do, có khả năng tạo một khoảng cách ngay với lịch sử dân tộc mình, với một hệ đạo đức ông đã tự xây dựng được cho mình, với tư cách là công dân tự do đảm nhận các quyền và các bổn phận của mình, cô đơn, ông dõng dạc tuyên bố:  “Việc này, tôi, Trinh, đã nhận ra, quyết đảm nhận lấy, không nhường cho ai nữa hết!”

Gần suốt một trăm năm ông cũng cô đơn với hâụ thế. Chúng ta đã quá biết những người coi ông là kẻ “lạc lối trời Âu” …

Lịch sử đã đi những con đường khác. Chúng ta đều biết song song với phong trào Duy tân hòa bình của Phan Châu Trinh, là chủ trương “thiết huyết” của Phan Bội Châu, mà Phan Châu Trinh thẳng thắn chỉ ra rằng ông ấy đã lợi dụng sự ngu dốt của nhân dân (mà Phan Châu Trinh quyết ra công thức tỉnh) để kích động “nhằm thỏa mãn chính khuynh hướng hủy hoại của mình”. Cuộc khai dân trí của phong trào Duy tân, hoàn toàn ngoài ý muốn và chủ trương của những người khởi xướng, chịu ảnh hưởng tự nhiên và cũng tất yếu của phái thiết huyết, sự bất bình tự nhiên và quyết liệt của nhân dân tự phát, đã dẫn đến cuộc Trung Ký dân biến 1908 anh hùng của nhân dân nhưng tai hại cho một con đường đi đang được sáng suốt tính toán và thực hiện. Nó đã được kẻ thù lập tức lợi dụng để tiến hành một cuộc tắm máu. Chương trình anh minh và vĩ đại của ông bị phá vỡ và dở dang.

Chúng ta đều biết trong lịch sử không có “nếu”. Nhưng suy nghiệm từ lịch sử cho hôm nay thì bao giờ cũng cần. Những gì đã diễn ra thì đã diễn ra. Song phải chăng có thể một trong những nguyên nhân của những vấn nạn mà chúng ta, xã hội chúng ta, đang gặp ngày nay và vẫn còn rất loay hoay chưa thật tìm được đường ra, chính là ở sự dở dang vừa nói trên đó. Cuộc khai hóa cơ bản, do nhà khai hóa vĩ đại Phan Châu Trinh chủ trương và tiến hành một trăm năm trước thì nay vẫn dở dang, vẫn còn nguyên đó.

Rõ ràng tư tưởng của ông, chương trình của ông, trong cốt lõi của nó, hôm nay vẫn còn nguyên tính cập nhật, thậm chí còn nóng hổi hơn, cấp bách hơn.

Tiếp tục chương trình lớn của ông là trách nhiệm lịch sử của chúng ta, mỗi chúng ta, hôm nay, và cả ngay mai.

Nguyên Ngọc 3-2011


[1] Lê Thị Hiền Minh – Phan Châu Trinh et le projet d’autonomisation à l’aube du XXe siècle.

[2] nt.


Nguồn: http://www.vietnam2100.org


   
5
 

Tư tưởng lập hiến của Phan Chu Trinh

Phan Đăng Thanh
Tạp chí Nghiên cứu lập pháp


Phan Châu Trinh (1872- 1926) là một trong những nhân vật lịch sử tiêu biểu của cách mạng Việt Nam cận đại, một nhà tư tưởng lập hiến Việt Nam đầu thế kỷ XX.

Ông là người làng Tây Lộc, huyện Hà Đông, tỉnh Quảng Nam, nay thuộc huyện Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam. Cha làm Quản sở sơn phòng, sau tham gia Cần Vương. Lúc nhỏ Phan Chu Trinh theo cha học chữ và học võ. Năm 28 tuổi (1900) đỗ cử nhân, cùng khoa với Huỳnh Thúc Kháng, Phan Bội Châu. Năm sau, đỗ Phó bảng, cùng khoa với Ngô Đức Kế, Nguyễn Sinh Huy.. Phan Chu Trinh được bổ nhiệm làm Thừa biện Bộ lễ. Đến năm 1905 thì từ quan ông cùng Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng vào Nam Kỳ tìm hiểu dân tình sinh khí, tìm người đồng tâm, rồi ra Nghệ Ttĩnh, Hà Nội, lên căn cứ Đề Thám và bí mật sang Hương Cảng gặp Phan Bội Châu, rồi cùng sang Nhật.

Năm đó, ở Nhật về, ông xác định đường lối cứu nước lâu dài của mình, phát biểu chính kiến và có một số hoạt động . Đầu năm 1908, nhân vụ chống thuế ở Quảng Nam, ông bị bắt ở Hà Nội và bị triều đình Huế kết án "trảm giam hậu, lưu tam thiên lý, ngộ xá bất nguyên" (Giam chờ chém, đày ba ngàn dặm, gặp dịp ân xá cũng không cho về) rồi đày từ Côn Lôn. Năm 1910, được tha nhưng bị quản thúc ở Mỹ Tho. Theo yêu cầu của ông, thực dân Pháp đồng ý cho ông sang Pháp. Ở đây, ông vẫn tiếp tục hoạt động theo đường lối mà ông đã tự xác định. Từ đó đến năm 1926 là năm Phan Chu Trinh mất ở Sài Gòn, cuộc đời ông là chuỗi ngày tranh đấu cách mạng không ngừng.

Tư tưởng lập hiến là một bộ phận trong tư tưởng cách mạng của Phan Chu Trinh, thể hiện qua các mặt chủ yếu sau đây:

1. Nước Việt Nam cần có Hiến pháp

Trong tư tưởng cách mạng Phan Châu Trinh, ông thường đề cao hiến pháp, coi đó là công cụ pháp lý để hạn chế quân quyền độc tôn và hà lạm của chế độ quần chủ chuyên chế phương Đông. Ông nói: "lấy theo ý riêng một người hay một triều đình mà trị một nước, thì cái nước ấy không khác gì một đoàn chiên, được ấm no vui vẻ hay là phải đói lạnh khổ sở, là tuỳ theo lòng rộng hay hẹp của người chăn chiên. Còn như theo cái chủ nghĩa dân trị, thì tự quốc dân lập ra hiến pháp, luật lệ, đặt ra các cơ quan để lo chung cho mọi người..."1

Lấy mẫu mực là nền dân chủ ở nước Pháp lúc bấy giờ, ông phân tích quan hệ giữa Tổng thống và Nghị viện đặt trên cơ sở Hiến pháp. Nguyễn Văn Dương, Phan Châu Trinh tuyển tập, Nxb Đà Nẵng, 1995.

Chính Hiến pháp xây dựng và bảo vệ sự ổn định của chế độ dân chủ pháp trị: "Khi Tổng thống đã được bầu cử rồi, thì phải thề trước hai viện ấy: "Cứ giữ theo hiến pháp dân chủ, không phản bạn, không theo đảng này chống đảng kia, cứ giữ công bình, nếu có làm bậy, thì dân nó truất ngay. Trước thì có Macmahon, sau thì có Mil1erand bị cách chức cũng vì vi phạm hiến pháp"2.

2. Về chủ quyền quốc gia và độc lập dân tộc

Phan Châu Trinh là một nhà yêu nước lớn, đồng thời với Phan Bội Châu nhưng biện pháp cứu nước của hai ông không giống nhau, nhất là con đường thực hiện giành lại chủ quyền cho quốc gia, giải phóng dân tộc...

Nếu Phan Bội Châu yêu nước bằng chủ trương bạo động để giành độc lập, thì Phan Chu Trinh trái lại, ông phản đối chủ trương bạo động cách mạng và đi cầu viện nước ngoài để giành độc lập. ông muốn nhờ vào chính quyền thực dân Pháp mà làm chính trị công khai để “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh", để từ đó giành lại chủ quyền cho đất nước, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.

Phan Châu Trinh (1872-1926)

Ông là nhà cách mạng xã hội, có tư tưởng dân chủ đầu tiên, là nhà văn hóa, một nhân cách lớn.

Phan Châu Trinh là một tấm gương sáng trong phong trào Duy Tân đầu thế kỷ 20. Ông là một nhà nho yêu nước có nhiều suy nghĩ tiến bộ. Có thể xem ông là người có tư tưởng dân chủ sớm nhất trong số các nhà nho yêu nước tiến bộ đầu thế kỷ.

Đặc biệt hơn nữa, ông chọn con đường dấn thân tranh đấu nhưng ôn hòa, bất bạo động. Ông coi dân chủ cấp bách hơn độc lập và coi việc dùng luật pháp, cai trị quy củ có thể quét sạch hủ bại phong kiến.

Với tinh thần yêu nước nồng nàn, suốt đời gắn bó với vận mệnh đất nước, với cuộc sống sôi nổi, gian khó và thanh bạch, ông xứng đáng để hậu thế ngưỡng mộ, noi theo ngày hôm nay...


Chủ trương cơ bản của Phan Chu Trinh là: "ỷ Pháp cầu tiến bộ" tức là dựa vào thực dân Pháp mà cầu tiến bộ để từ đó tranh đấu với Pháp về các mặt kinh tế, văn hoá, chính trị. Chủ trương ấy gọi là "Pháp - Việt đề huề". Nhận xét về tư tưởng của Phan Chu Trinh, trong Phan Bội Châu niêu biểu, Phan Bội Châu đã viết: "Cụ thì muốn đánh đổ quân chủ, mà cốt vun trồng lấy nền tảng dân quyền, dựa vàn Pháp mà đánh đổ quân chủ. Còn ý tôi thì trước muốn đánh đổ người Pháp, chờ nước mình độc lập rồi, mới bàn đến việc khác. Vì thế mà đương lúc đánh với Pháp, phải lợi dụng quân chủ (...) Cụ thì muốn đi theo lối dựa Pháp đánh đổ vua, tôi ưng đi theo lối bài Pháp phục Việt, sở dĩ mâu thuẫn với nhau là vì thể”3.

Phan Chu Trinh đề xướng và lãnh đạo phong trào Duy Tân. Ông có ý định thiết lập ở Việt Nam một chế độ dân chủ tự trị. Tự trị nghĩa là tách khỏi sự cai trị của thực dân Pháp. Trong Pháp - Việt liên hiệp hậu chi tân Việt Nam, Phan Chu Trinh viết: 'Tôi đã chủ trương tự trị, tin cậy Pháp. Đã muôn cậy Pháp ắt không lợi dung lòng dân oán Pháp (…). Tôi đã chủ trương cậy Pháp thì thủ đoạn không thể do tự trị mà ra. Tự trị cũng chẳng là việc dễ lắm đâu, việc hỏng ắt cũng chết…” 4.

Như vậy, chủ trương của Phan Chu Trinh là dựa vào Pháp để tự trị, còn Phan Bội Châu thì bài Pháp để độc lập. Mặc dù Phan Chu Trinh chưa có lần nào giải thích rõ ý nghĩa của chế độ "tự trị" ấy, nhưng qua con đường tranh đấu của ông cũng cho phép xác định được nội dung "tự trị" ấy là tự cai trị mình, tách khỏi sự thống trị của thực dân Pháp, tự trị cũng nguy hiểm như độc lập. Cho nên một tài liệu của Phủ Toàn quyền Đông Dương đã viết: "Mặc dầu khuynh hướng có vẻ khác nhau ở bên ngoài như thế, người ta vẫn phải công nhận rằng các hoạt động kia khớp với nhau chặt chẽ và đều nhằm mục đích cuối cùng là đánh đuổi người nước ngoài đi"5.

3. Về chế độ chính trị

Phan Chu Trinh kịch liệt phản đối chế độ quân chủ mà ông gọi là "quân trị" và đòi thực hiện chế độ cộng hoà tư sản mà ông gọi là "dân trị".

Ông giải thích "Quân trị chủ nghĩa tuy có pháp luật mặc lòng, nhưng cứ tự tay ông vua lập ra, chứ còn dân thì chẳng biết gì hết. Vậy cho nên khi nào gặp một ông vua thông minh, anh hùng, hiểu rõ cái sự quan hệ dân với nước là thế nào mà trừng trị những cái lũ tham quan, lại nhũng để dân được yên lặng làm ăn, thì dân giàu nước mạnh...”6 . Ông cũng nói: "Nhân trị nghĩa là cái phép luật thi hành rộng rãi hay là nghiêm ngặt là tuỳ theo cái lòng vui, buồn, thương ghét của một ông vua mà thôi, còn pháp luật tuy có cũng như không"7. Phan Chu Trinh cho rằng bên Châu Âu, người ta đã thực hành từ lâu rồi chính thể "Quân dân cộng trị mà Tàu dịch là quân chủ lập hiến", tức như chính thể "nước Anh, nước Bỉ, nước Nhật đang theo hiện nay"8.

So Sánh, ông khẳng định: "... cái chủ nghĩa dân trị hơn cái chủ nghĩa quân trị nhiều”9, bởi vì "theo cái chủ nghĩa dân trị, thì tự quốc dân lập ra hiến pháp, luật lệ, đặt ra các cơ quan để lo việc chung mọi người. Lòng quốc dân muốn thế nào thì được thế ấy..."10. Năm 1922, khi vua Khải Định sang Pháp, Phan Châu Trinh đã viết “Thất điều thư" công kích trực diện chế độ quân chủ, định tội của Khải Định và hầu như kêu gọi quốc dân tuyên chiến để "nhổ đến tận gốc, lấp cho dầy nguồn, ra tay quét sạch sành sanh vua, quan...

Phan Châu Trinh có đọc J.J. Ronsseau, Montesquieu và sống nhiều năm ở Pháp, trong nhà của Phan Văn Trường- một trí thức tân học, lại cũng dã tiếp xúc với Nguyễn Ái Quốc và đã bị Chính phủ Pháp bắt giam một thời gian... Thế mà năm 1925, về Sài Gòn, ông giải thích quân chủ lập hiến ở Châu Âu là "Quân dân cộng trị", là bình đẳng theo lời dạy của Khổng Tử: “Tự thiên tử dĩ chí ư thứ dân nhất thị giai dĩ tu thân vi bản" tức là từ vua chí dân đều phải lấy việc sửa mình làm gốc11 . Về chủ nghĩa dân chủ, ông lại lấy câu của Mạnh Tử: "Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh", nghĩa là dân quý hơn hết, lãnh thổ thứ nhì, vua là nhẹ rồi ông lại nói: "Đạo Khổng - Mạnh đã mất rồi, nay ta muốn nước ta có một nền đạo đức, luân lý vững vàng, thì có gì hay bằng ta hết sức đem cái chủ nghĩa dân chủ Châu Âu về. Chủ nghĩa dân chủ chính là một vị thuốc tất thần hiệu dùng để chữa bệnh chuyên chế của nước ta vậy. Đem văn minh Ââu Châu về, tức đem đạo Khổng - Mạnh về"12. Nếu chỉ đọc đoạn này thì có thể nghĩ đây là một cách nói để dễ thuyết phục tầng lớp nho học. Nhưng, gắn liền vào lời nói của Mạnh Tử về "dân vi quý”, ông đã viết: "Ngày nay, bên Đức, bên Pháp, bên Nga, tuy chính thể của họ có khác nhau chút đỉnh nhưng đều thực hành cái chủ nghĩa dân chủ cả"13.

Ảnh hưởng của Cách mạng Tháng 10 đối với Phan Châu Trinh còn rất ít, tư tưởng lập hiến của ông đi theo con đường dân chủ tư sản. Tuy nhiên, ông không bài bác chủ nghĩa xã hội. Dù biết Nguyễn Ái Quốc đã chọn con đường cứu nước khác mình, qua bức thư ngày 18/2/1922, ông vẫn khuyên Nguyễn Ái Quốc về nước để quảng cáo, tuyên truyền cho chủ nghĩa Mác - Lênin để cứu nước: "Tôi biết anh hấp thụ được cái chủ nghĩa của ông Mã Khắc Tư (Karl Marx), ông Lý Ninh (Lenine), nên tôi cũng đem chuyện hai ông ấy mà giảng dẫn cho anh em rõ (...) Cứ xem hai ông Mã, Lý mà anh tôn thờ chủ nghĩa, có ông nào dùng cái lối nương náu đất người mà làm quốc sự của mình, như anh đâu? Bởi vậy, quả như anh tôn thờ lý thuyết hai ông ấy thì anh nghe lời tôi mà về quảng cáo cho quốc dân đồng bào, ai nấy đều biết, có phải là cái phương pháp hay biết chừng nào"14.

4. Về dân quyền Phan Châu Trinh là người yêu nước lại chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của tư tưởng dân chủ tư sản qua tân thư. Con đường cứu nước của ông khác với Phan Bội Châu ở điểm cơ bản là ông chủ trương bãi bỏ chế độ quân chủ phong kiến, thực hiện dân chủ, khai thông dân trí, mở mang công thương nghiệp. Không bạo động, không nhờ ngoại viện, mà nhờ vào chính quyền thực dân, vin vào những lời hứa hẹn của nhà cầm quyền để làm chính trị công khai, mưu dân quyền, dân chủ và hạnh phúc cho nhân dân. Cho nên, có thể nói lý tưởng dân quyền là tư tưởng căn bản quyết định hành động cách mạng của Phan Châu Trinh.

Chủ trương xuyên suốt của ông là dựa vào "nước Pháp là một nước làm tiền đạo văn minh của hoàn cầu, nay hiện bảo hộ nước ta, mình nhân đó mà học theo, chuyên tâm về mặt khai tự trị sinh, các việc thực dụng, dân trí đã mở rộng, trình độ ngày sẽ một cao, tức là cái nền độc lập ngày sau ở đây"15.

Thứ văn Phan Châu Trinh tràn ngập tình thương yêu người dân bị áp chế, nghèo khổ và cực lực chống lại mọi kẻ quyền thế, giàu có, tàn ác…

"Nhớ vợ thương con, dạ nặng trì,
Lên non còi túc, lệnh đòi đi.
Ba quân hiệu giáp nghe vang cả,
Hai mối tình sâu rẽ sá chi.
Non nước trót vương cơn bấn loạn,
Cửa nhà đành chịu kiếp phân ly.
Gươm thiêng một lưỡi anh từ giả.
Giọt máu anh hùng luỵ nữ nhi"
16.

Hay

"Biết lấy chi chi trả ái ân,
Phần thời làng bắt nộp công ngân.
Đá vàng trơ đấy khôn đòi nợ,
Tiền bạc vơ dâu để rảnh thân.
Nghĩa mẹ ơn cha trời đất nặng,
Bán con đợ vợ tháng ngày lần.
Đắp đàng, đào suối, bòn vàng bể,
Khuấy khoả vì ai khổ kiếp dân"
17.

Trong thư gửi Toàn quyền Paul Beau (Đầu Pháp Chính phủ thư) tố cáo trước công luận trong và ngoài nước về tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân Việt Nam Phan Chu Trinh đã kết luận theo hướng "Pháp - Việt đề huề" của ông như sau: "Nếu Chính phủ quả thật sẵn lòng đồi hết chính sách đi, kén chọn người hiền tài trao quyền bính cho, lấy lễ mà tiếp, lấy thành mà đãi, cùng nhau lo toan việc dấy lợi trừ hại ở trong nước, mở đường sinh nhai cho dân nghèo, rộng quyền ăn nói cho thân sỹ, báo quán cho mở rộng để thông đạt tình dân, thưởng phạt cho nghiêm minh để khuyên răn quan lại, còn dấn những việc đổi pháp luật, bó khoa cử, mở trường học, đặt toà tu thư, dạy lớp sư phạm, cho đến học công thương, học kỹ nghệ và các ngạch giúp việc cho Chính phủ, chỉ sợ người Pháp bỏ nước Nam mà đi, còn ai toan mưu việc chống cự nữa?"18.

Trong Thất điều thư gửi vua Khải Định (1922), Phan Chu Trinh cực lực công kích Khải Định và qua đó lên án chế độ quân quyền độc tôn, quân chủ chuyên chế, áp bức nhân dân.

Với tư tưởng ấy và hành động ấy, khi Phan Chu Trinh qua đời, Huỳnh Thúc Kháng đã đọc trong buổi tang lễ lời nhận xét: "Chủ nghĩa tiên sinh là đánh đổ chuyên chế, là dân quyền tự do ..."19

5. Về cơ chế nhà nước và quản lý nhà nước.

Quân trị chủ nghĩa và dân trị chủ nghĩa, là bài diễn thuyết cuối cùng trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Phan Châu Trinh nói ở Sài Gòn vào năm 1925, trước khi ông qua đời (1926). Trong bài diễn thuyết này, ông đã tập trung trình bày về cái mẫu nhà nước lý tưởng cho Việt Nam tương lai khi công cuộc duy tân hoàn thành.

Mô hình lý tưởng theo Phan Châu Trinh là tổ chức nhà nước của các nước phát triển ở Châu Âu lúc bấy giờ (như Anh, Pháp... ). Tổng quát, nhà nước ấy được tổ chức và điều hanh theo nguyên tắc cơ bản là “tam quyền phân lập", với cơ chế 3 quyền độc lập với nhau: lập pháp giao cho Nghị viện, hành pháp đứng đầu là Giám quốc (Tổng thống) do Nghị viện bầu ra, và tư pháp giao cho các cơ quan xét xử độc lập đối với hai ngành ha. "Đó là theo cái lẽ ba quyền là quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp đều riêng ra, không hiệp lại trong tay một người nào” 20.

Bộ máy nhà nước ấy bao gồm các bộ phận chủ yếu sau đây:

Nghị viện: Gồm có hai viện: Hạ nghị viện và Nguyên lão viện.

Hạ nghị viện với số lượng Hạ nghị viên trên dưới 60 người, do dân trực tiếp bầu ra, có nhiệm vụ làm Hiến pháp và luật "Số phận của nước Tây cầm ở trong tay cái viện ấy”21. Công dân từ đủ 21 tuổi trở lên có quyền bầu cử, 25 tuổi trở lên có quyền ứng cử

Nguyên lão viện không do dân bầu. Song viện này phối hợp với Hạ nghị viện để bầu chọn Tổng thống (Giám quốc) và nội các Chính phủ.

Tổng thống và nội các: Chức vụ Tổng thống (hay Giám quốc) đứng đầu ngành hành pháp do Nghị viện bầu ra với nhiệm kỳ 7 năm, bầu theo nguyên tắc đa số. Nếu nước có vua thì vua được truyền ngôi theo chế độ thế tập (cha truyền con nối).

Tổng thống được chọn trong số các thành viên của Nghị viện. Tổng thống được bầu xong phải tuyên thệ trước hai viện, đại khái rằng: "Cứ giữ theo Hiến pháp dân chủ, không phản bạn, không theo đảng này chống lại đảng kia, cứ giữ công bình, nếu có làm bậy thì dân nó truất ngay".

Chính phủ (nội các) do Nghị viện bầu ra, gọi là Quốc vụ viện. Nội các gồm khoảng 20 Bộ trưởng hoạt động tích cực trong trách nhiệm về lãnh vực chuyên môn của mỗi người ("chứ không phải ăn rồi ngồi không như các ông Thượng thư ở ta")22.

Viện tư pháp: Viện này quản lý các quan chức xử án và công việc xét xử trong nước. Các quan xử án không phải do các quan cai trị (hành chính) kiêm nhiệm như ở xứ ta thời quân chủ mà là những người đã học thông thạo luật lệ Cơ quan tư pháp có quyền xét xử cả thường dân lẫn chính phủ nữa. Tư pháp có quyền độc lập, khi xét xử, quan xử án chỉ tuân theo pháp luật và lương tâm của mình.

Ngoài ra, trong cơ chế quyền. lực ấy, có những điểm đáng lưu ý sau đây:

Vai trò của đảng phái chính trị: Theo Phan Châu Trinh, chế độ nhiều đảng cần thiết để đảm bảo chế độ dân chủ. Đảng đa số trong Nghị viện làm hậu thuẫn của Chính phủ, đồng thời thường xuyên có sự đối lập của Đảng thiểu số Nhờ đó tránh được những sai lầm: "Còn Chính phủ thì cũng bởi do 2 viện ấy mà ra. Nhưng mà phải giao quyền cho cái Đảng nào chiếm số nhiều trong hai viện ấy thì mới được tổ chức Quốc vụ viện (…). Nếu cái gì mà làm không bằng lòng dân thế nào cũng có người chỉ trích. Bởi vì ở trong Hạ nghị viện thế nào cũng có hai đảng, một đảng tả, một đảng hữu, nếu cái đảng tả chiếm số nhiều mà cầm quyền trong nước, thì đảng hữu nó xem xét, chỉ trích, cho nên muốn làm bậy cũng khó lắm"23.

Vai trò của pháp luật: Chế độ dân chủ pháp trị được xây dựng trên một nền pháp luật hoàn chỉnh, ổn định. ông viết: "Dân trị tức là pháp trị". Pháp luật định ra quyền hạn, nhiệm vụ của nhà cầm quyền, của từng chức vụ, cơ quan trong bộ máy nhà nước, từ người thấp nhất đến người cao nhất. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Phan Châu Trinh viết: "Nhưng mà thế nào mặc lòng, trong nước đã có pháp luật kỹ càng, cái quyền chính phủ có hạn định, khi nào vượt ra khỏi cái quyền hạn của mình thì không được, nên dẫu muốn áp chế cũng không biết thò ra chỗ nào. Vả lại,khi có điều gì phạm đến pháp luật, thì người nào cũng như người nấy, từ ông Tổng thống cho đến một người dân nhà quê cũng đều chịu theo pháp luật như nhaư”24


1 Nguyễn Văn Dương, Phan Chu Trinh tuyển tập, Nxb Đà Nẵng, sđd, tr 783.

2 Nguyễn Văn Dương, sđd, tr 815 - 816.

3 Phan Bội Châu, toàn tập, Tập 6, Nxb Thuận Hóa, Huế, 1990, tr 116.

4 Nguyễn Văn Dương, sđd, tr 543 – 541.

5 Nguyễn Văn Dương, sđd, tr 44.

6 Nguyễn Văn Dương, sđd, tr 807 - 808.

7 Nguyễn Văn Dương, sđd, tr 809.

8 Nguyễn Văn Dương, sđd, tr 783.

9 Nguyễn Văn Dương, sđd, tr 783.

10 Nguyễn Văn Dương, sđd, tr 817.

11 Nguyễn Văn Dương, sđd, tr 783.

12 Nguyễn Văn Dương, sđd, tr 784.

13 Nguyễn Văn Dương, sđd, tr 783.

14 Thu Trang, những hoạt động của Phan Chu Trinh tại Pháp (1911 – 1925), Nxb Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh, 2000, tr175, 178.

15 Huỳnh Thúc Kháng, Thu từ tùng thoại, Nxb, Nam Cường, Sài Gòn, 1951, tr.176.

16 Nguyễn Văn Dương, sđd, tr 269.

17 Nguyễn Văn Dương, sđd, tr 270.

18 Nguyễn Văn Dương, sđd, tr 354 - 355.

19 Trần Văn Dầu. Hệ ý thức tư sản và sự thất bại của nó trước nhiệm vụ lịch sử , Nxb Khoa học xã hội, 1975, tr.437.

20 Nguyễn Văn Dương, Sđd, tr 817.

21 Nguyễn Văn Dương, Sđd, tr 825.

22 Nguyễn Văn Dương, Sđd, tr 816.

23 Nguyễn Văn Dương, sđd, tr 816.

24 Nguyễn Văn Dương, sđd, tr 816.




Giỗ Thứ 85 Năm Cụ Phan Châu Trinh (1872-1926)

Nguyễn Quý Đại


Phan Châu Trinh sinh tháng 8 năm 1872 (Nhâm Thân) tại làng Tây Lộc phủ Tam Kỳ Quảng Nam, tự Tử Cán hiệu là Tây Hồ, biệt hiệu Hy Mã. Ông xuất thân gia đình danh tiếng tại Tiên Phước, thân phụ ông Phan văn Bình làm quan chức Quản cơ sơn phòng (chức quan võ trong coi biên giới các vùng núi) thân mẫu bà Lê thị Chung(Trung?). Ông là con trai út, lập gia đình năm 1896 lúc 25 tuổi, vợ là Lê Thị Tỵ (1877-1914) người làng An Sơn, Tiên Phước. Thi đỗ cử nhân năm 1900, phó bảng 1901, năm 1903 làm quan ở Huế.

Bối cảnh lịch sử

Thực dân Pháp chiếm 6 tỉnh Nam Việt. Ngày 05.07.1885 Tướng De Courcy đem đại quân đánh úp Kinh thành Huế, Tôn Thất Thuyết (1835-1913) xa giá vua Hàm Nghi (1872-1943) ra khỏi Kinh thành. Các đạo quân De Courcy chỉ huy đuổi theo truy lùng. Tôn Thất Thuyết phải đưa vua chạy đến Tân Sở (QuảngTrị) thảo hịch Cần Vương được sĩ phu khắp nơi hưởng ứng lời kêu gọi, nổi lên chống Pháp, bấy giờ cụ Phan Văn Bình hưu trí, nhưng hưởng ứng Nghĩa Hội Cần Vương làm chuyển vận sứ  (phụ trách quân lương) ở đồn A-Bá Tiên Phước và lập đồn điền để trồng hoa màu tiếp tế cho Phong Trào Nghĩa Hội tại Quảng Nam (từ tháng 7.1885 đến tháng 8.1887) dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Duy Hiệu (1847-1887) và tiến sĩ Trần Văn Dư (1839-1885).

Tổng trú sứ Bihourd đề nghị với Ðồng Khánh sai Nguyễn Thân đánh dẹp Phong Trào Nghĩa Hội Quảng Nam. Nguyễn Thân đánh Tam Kỳ và phá nhiều căn cứ quân Cần Vương, tiếp tục truy lùng  bắt gia đình Nguyễn Duy Hiệu tại thượng nguyên Phước Sơn làm con tin, yêu cầu ông ra đầu hàng vì lòng hiếu thương mẹ già và gia đình. Ông phải về với triều đình (Ðồng Khánh) lảnh bản án tử hình. Ðồng Khánh lên ngôi 14.9.1885 làm vua bù nhìn. Triều đình có một số quan lại muốn yên thân cúi đầu tuân theo lệnh của bọn thực dân, xã hội và triều đình bị phân hoá trầm trọng chia làm hai phe. Phe theo kháng chiến cứu quốc, phe còn lại hàng giặc để thừa hưởng, vinh thân phì gia.

Cuộc kháng chiến của vua Hàm Nghi thất bại, bị tên thổ phỉ Lê Quang Ngọc, và Nguyễn Ðình Thìn chỉ điểm cho Pháp. Đêm 01.11.1888 bắt vua Hàm Nghi giao cho Ðại úy Boulanger ngày 04.11.1888, đến trung tuần tháng 8.1889 vua bị lưu đày sang Bắc Phi. Các phong trào Văn Thân, Cần Vương bị dẹp, nhưng không dập tắt lòng yêu nước của toàn dân Việt Nam. Năm 1930 khởi nghiã chống Pháp của Việt Nam Quốc Dân Ðảng dù thất bại "không thành công cũng thành nhân“, không làm nao núng lòng yêu nước. Dân tộc Việt Nam luôn tranh đấu qua nhiều phòng trào đánh Tây, muốn thoát khỏi vòng nô lệ nên máu xương của dân quân tiếp tục đổ ra trên dòng sông lịch sử, cho đến ngày dành lại độc lập năm 1945. Bọn tay sai đắc lực như Nguyễn Thân (1840-1914), Hoàng Trọng Phu, Hoàng Cao Khải (1850-1933), Lê Hoan, Nguyễn Trọng Hợp (1834-1902), Phạm Ngọc Quát v.v. bị lịch sử phê phán, người đời nguyền rủa. hai tên phản quốc Ngọc và Thìn đều bị nghiã quân Phan Ðình Phùng (1844-1895) giết để làm gương cho hậu thế.

Sau cơn Quốc biến và Gia biến, Phan Châu Trinh mồ côi mẹ lúc 6 (8?) tuổi, năm Đinh Hợi 1887 thân phụ bị nạn qua đời, phòng trào cũng tan, ông từ giả chiến khu lúc 16 tuổi  về quê sống với anh cả Phan Văn Cừ nuôi ông ăn học, ông là  người hoạt bát tháo vát và vui tính. Năm 1892 (21 tuổi) kết giao với Huỳnh Thúc Kháng, đến năm 1898 ông được vào trường tỉnh do đốc Trần Đinh Phong (Mã Sơn) tại Thanh Chiêm quận Ðiện Bàn trông coi giảng dạy, có nhiều cơ hội tiếp xúc với nền văn minh phố Hội và có thêm bạn thân là Trần Quý Cáp. Năm 1901 đậu phó bảng, người anh cả mất năm 1902 ông về cư tang, ở nhà dạy học đến năm Qúy mão 1903 lại được bổ dụng làm Thừa biện bộ Lễ.  Kinh đô Huế là Trung tâm văn hóa, trong thời gian làm quan ông tiếp xúc nhiều giới trí thức tân học như: Ðào Nguyên Phổ (1861-1907), Thân Trọng Huề (1869-1925) Phan Bội Châu (1867-1940). Tàu bè ngoại quốc đến Ðà Nẵng, bán sách cho sĩ phu Việt Nam, từ đó Phan Châu Trinh tiếp thu ý thức thế hệ mới, về tư tưởng dân quyền và dân chủ. Các cuộc chiến Trung Hoa Nhật Bản (1894-1895) chiến tranh Ðức Pháp (1870-1871), ảnh hưởng rất nhiều đến thành phần trí thức, cũng như  sách Tân thư, của Khang Hữu Vi (K’ang Yu Wei 1858-1927) Lương Khải Siêu (Liang Ch’i Ch’ao 1837-1929) và của các tác giả: Montesquieu (1689-1755), Rousseu (1712-1778), Voltaire (1694-1778) được dịch sang Hán văn. Từ đó có một sự chuyển biến trong tư tưởng và cuộc đời của Phan Châu Trinh, nhưng nhà văn Nguyễn Văn Xuân cho rằng: Phan Châu Trinh ảnh hưởng sâu rộng tư tưởng Duy Tân của tác giả Nguyễn Lộ Trạch với "Thiên Hạ Ðại Thế Luận“  (2).

Phong Trào Duy Tân

Cuối năm 1904, Phan Châu Trinh từ quan, rời Huế không muốn làm việc trong cảnh nô lệ. Triều đình có Vua nhưng chỉ để thi hành mệnh lệnh của chính phủ bảo hộ không có quyền hành.“vận nước gặp cơn dâu biến..còn lòng đâu áo mão xênh xang“.  Ông cùng hai người bạn thân là Hùynh Thúc Kháng và Trần Quý Cáp, không làm quan để vinh thân phì gia chọn con đường đấu tranh nhiều chông gai, dấn thân hoạt động trong Phong Trào Duy Tân tại Quảng Nam.

Phong trào Duy Tân chủ trương bất bạo động, công khai hoạt động nhằm khai hoá dân tộc "chấn dân khí, khai dân trí, hậu dân sinh“ cải cách trên mọi lãnh vực, khuyến khích giáo dục bỏ lối học từ chương, truyền bá canh tân mở mang công thương nghiệp, chấn hưng công nghệ, bỏ mê tín dị đoan, kêu goị cắt tóc ngắn, cắt móng tay, phát động phong trào học Quốc ngữ , nhưng triều đình Huế vẫn duy trì lối học thi phú, qua các loại sách như “Tứ Thư Ðại học, Trung dung, Luận ngữ, Mạnh Tử“ và Ngũ kinh. Cho đến năm 1913 Triều đình bắt đầu cải cách, năm 1917 kỳt thi Hương cuối cùng chấm dứt chương trình học cổ điển. Trong lúc Tây Phương họ học toán, phát triển văn-minh, khoa-học, kỷ-thuật tiến bộ, người ta dùng kỷ nghệ nặng như đóng tàu, đúc súng…đem lại đời sống phồn thịnh Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp cùng nhau đi vào miền Nam, tới Bình Ðịnh gặp quan tỉnh kỳ khảo  hạch , ông cùng hai bạn làm bài thơ "Chí Thành Thông Thánh “ và bài phú " Danh Sơn Lương Ngọc “ gây chấn động trong học giới và văn giới.

Việc đời ngoảnh lại thành không
Còn đâu giọt lụy non sông khóc người
Muôn dân luồn cúi tôi đòi
Văn chương bát cổ say hoài giấc mơ
Mặc ai chửi rủa tha hồ,
Xích xiềng này biết bao giờ tháo xong?
Anh em còn chút máu nồ
Hãy đem văn ấy đọc cùng nhau nghe.
(Á Nam Trần Tuấn Khải dịch)

Thơ và phú đó gây phản ứng mạnh tại trường thi, mục đích cảnh tỉnh học trò sĩ tử còn mê muội với từ chương thi phú, ham công danh quên đất nước đang chìm trong vòng nô lệ. Ðó cũng là cách vận động gây tiếng vang trong giới trí thức và quần chúng.

Chính quyền điạ phương truy lùng tác giả các bài trên, nhưng các cụ đã đi xa vào tới Nha Trang, xem hạm đội Nga do đô đốc Rojestvensky chỉ huy tạm thả neo chờ ngày cấp cưú  Lữ Thuận (Lu Shun). Ba người tới Phan Thiết gặp các ông Trương Gia Mô (1866-1930), Hồ Tá Bang (1875-1943), Nguyễn Trọng Lôi ( ?1911) cùng bàn chuyện Duy Tân, thành lập công ty Liên Thành và mở trường Dục Anh.  Phan Châu Trinh bị bệnh nên không thể tiếp tục xuôi Nam. phải ở lại dưỡng bệnh Huỳnh Thúc Kháng (1876-1947) , Trần Quý Cáp (1870-1908) trở về hoạt động tại Quảng Nam, có thêm Lê Bá Trinh (1875- ?), Phan Thúc Duyện (1873-1944) là những người khoa bảng không ra làm quan, tham gia vận động mạnh cho Phong Trào Duy Tân với chủ thuyết Dân Quyền, được vận động trong quần chúng, thực hành theo phương thức hoạt động của Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu. Khác với Nguyễn Lộ Trạch (1852-1895), Nguyễn Trường Tộ (1828-1817), Phan Thanh Giản (1796-1867), Phạm Phú Thứ (1820-1883) viết nhiều điều trần gởi cho triều đình Huế đều bị bỏ quên!

Tại Quảng Nam các thương hội, dệt các thứ vải dày có thể may Âu phục. Phan Châu Trinh đích thân làm gương cắt may, mặc bộ đồ tây bằng vải nội, hàng vải tơ lụa nội hóa được cải tiến, làng Bảo An, Ðiện Bàn nổi tiếng dệt đẹp cần phát triển thủ công nghệ, có thể cạnh tranh với tơ lụa nhập cảng. Nông Hội phát triển lớn nhất tại Yến Nê, (Ðiện Bàn) rộng chừng 20 mẫu trồng khoai, sắn, bắp, cho trồng cây dương liễu để cản gió theo hai bên bờ sông, còn lại dấu tích cho đến ngày nay. Mỹ Sơn (Duy Xuyên) rộng khoảng 40 mẫu trồng hoa màu và cấy lúa, Bửu Sơn (Ðại Lộc) khai phá để trồng lúa.

Về thương nghiệp cạnh tranh với thương gia Trung Hoa. Các thương hội tổ chức, phương pháp làm việc kết qủa tốt như thương hội Phong Thử (Ðiện Bàn) do Phan Thúc Duyện trông coi, điạ điểm thuận lợi cho việc giao thông bằng đường thủy ghe lớn có thể cập bến được, tấp nập người đến buôn bán.  Hội An thương cuộc do ông Bang Kỳ Lam phụ trách bán đủ loại sỉ và lẽ vải, gạo, đường, quế, trên các món hàng bày bán đều có định giá rỏ ràng nhân viên lịch sự tiếp khách… Phú Lâm (Tiên Phước) do Lê Cơ (1870-1918) tổ chức chương trình khuyến kích công thương nghiệp, là bước tiến đầu tiên tại Quảng Nam từ từ ảnh hưởng đến thay đổi sinh hoạt Hà Nội và Sài Gòn. Các nhà nho tiến bộ tại Hà Nội đứng ra khuếch trương thương nghiệp là ông Ðỗ Chân Thiết mở hiệu Ðồng Lợi Tế ở phố Mã Mây, mở tiệm thuốc Bắc Tụy Phương ở phố Hàng Cỏ, Hoàng Tăng Bí mở hiệu Ðông Thành Xương ở Hàng Gai..Tại sài gòn có Minh Tân Khách sạn của cụ Phủ Chiếu (3).

Phong Trào Duy Tân là cuộc cách mạng lớn trên mọi lãnh vực đầu Thế kỷ 20. Các trường dạy thêm chương trình chữ Quốc ngữ lan rộng trên khắp nẻo đường đất nước. Vua Thành Thái thường cải trang vi hành, nghe và ảnh hưởng Phong Trào Duy Tân, cắt bỏ cục tóc trên đầu, các quan ngạc nhiên lúc ngài ngự triều, nhà Vua tự làm gương đề xướng theo Duy Tân cải cách sinh hoạt để thúc đẩy dân tiến (4).

Thực dân Pháp kết án ai theo Duy Tân cắt tóc gọi là giặc cúp tóc. Ngày 30-7-1907 toàn quyền Beau kết tội vua Thành Thái bị bệnh tâm thần và phế đế, lập Duy Tân (Vĩnh San) lên ngôi (1900-1945).Phong Trào Duy Tân phát triển tốt đẹp tại quê nhà, Phan Châu Trinh ra Nghệ An gặp Ngô Ðức Kế đến Hà Nội tiếp xúc với số sĩ phu vận động mở rộng Phong Trào Duy Tân, ông có tài diễn thuyết, chinh phục được phái cựu học tham gia Phong Trào, khuyến khích mở trường dạy nghành nghề từ công nghiệp cho đến thương nghiệp, mở nông hội và thương hội nâng cao đời sống về kinh tế, truyền bá chữ Quốc ngữ đề xướng chủ thuyết Dân Quyền, được hoan hô đón nhận. Các nhà nho như cụ Phương Nam, Ðổ Chân Thiết, Lương Trúc Ðàm (1879-1908) là những người tiên phong cắt tóc ngắn và ăn mặc Âu phục với hàng nội hóa (5).

Ông ích Ðường (1884-1908) cháu nội Ông Ích Khiêm hướng dẫn Phan Châu Trinh lên Yên Thế thăm lãnh tụ Hoàng Hoa Thám (1858-1913). Về Hà Nội gặp các ông Lương Văn Can, Nguyễn Quyền là người có công mở trường Ðông Kinh Nghĩa Thục.

Xuất ngoại lần thứ nhất

Cuối tháng 3 năm 1906 trốn đi sang Hồng Kông. Nhờ vào đường giây của Phong Trào Ðông Du (1906-1908) Tăng Bạt Hổ người có công đầu dẫn đường cho các nhà cách mạng Việt Nam. Phan Bội Châu và các đồng chí khởi xướng Phong Trào Ðông Du đưa du học sinh sang Nhựt. Trên tàu các Cụ gặp Lý Tuệ  làm việc đầu bếp, giúp đỡ từ đó Phan Châu Trinh, được Lý Tuệ dẫn đường xuống tàu cải trang làm bếp đi Hồng Kông gặp Phan Bội Châu (1867-1940), Cường Ðể (1882-1951 là cháu 5 đời vua Gia Long). Cùng nhau sang Quảng Châu thăm Lưu Vĩnh Phúc, Nguyễn Thiện Thuật (?-1841), Lương Ngọc Quyến (1890-1917).

Tháng 5-1906 cả 3 người đến Hoành Tân (Yokohama) và Ðông kinh (Tokyo), trong thời gian lưu lại Nhật, các cụ nhìn thấy nước Nhật hùng mạnh nhờ biết thay đổi chính sách cai trị duy tân của Minh-trị-Thiên-Hoàng (Mutsu Hito 1852-1912). Nhật trở nên hùng mạnh thắng Trung Hoa năm 1895 đưa đến việc hai bên ký kết hoà ước Shimonoseki (Hạ Quan) ngày 17.04.1895. Nhật đánh bại quân Nga tại Tsushima (Ðối Mã) năm (1904-1905).

Phan Châu Trinh gặp giới chính khách Nhật, như Khuyển Dưởng nghị (Inukai ki 1855-1932) Ðại Ôi Trọng Tín (Okuma Shigonebu 1838-1922) người Nhật xướng lên chủ nghĩa Ðại Ðông Á. Phan Châu Trinh thấy chính sách của Nhật không thật tình giúp đỡ Việt Nam..Dân tộc Việt Nam phải tự duy tân, nếu không được khai hóa thì không thể canh tân xứ sở....

Tư tưởng hai nhà cách mạng họ PHAN rất tiếc không tương đồng, Phan Bội Châu với khuynh hướng bạo động, duy trì chế độ Quân chủ trông cậy vào Nhật để chống Thực dân. Ngược lại Phan Châu Trinh chủ trương bất bạo động tân dân, không chấp nhận chế độ quân chủ, muốn khai thông dân trí thì phải cải cách, muốn có nhân quyền thì phải chấm dứt chế độ vua quan bù nhìn Nam Triều. Chủ trương dựa vào nước Pháp để khai hóa dân tộc tiến bộ, làm cuộc cách mạng văn hóa, khi đất nước mạnh có thể đấu tranh dành lại độc lập, tiết kiệm xương máu. Nếu dựa vào nước Nhật để chống Pháp có tránh được việc. ”đuổi con hổ ra cửa trước, rước con gấu vào ngõ sau“ (6)?

Ðại Hàn bị Nhật đô hộ, cũng như Hiệp ước Pháp và Nhật ký ngày 10.7.1907 Pháp nhường cho Nhật số quyền lợi. Pháp yêu cầu chính phủ Nhật bắt các nhà Cách mạng Việt Nam chống Tây, giải tán và trục xuất du học sinh. Tháng 8. 1908 Nhật trục xuất hàng trăm thanh niên Việt Nam bổng nhiên rơi vào cảnh bơ vơ không nơi nương tựa, năm 1909 Phan Bội Châu và Cường Ðể cùng chung số phận phải trốn sang Trung hoa. Ðến tháng 10.1910 chính phủ Mãn Thanh khủng bố các nhà Cách mạng Trung Hoa. Cường Ðể và Phan Bội Châu phải sang Thái Lan.

Ðệ nhị thế chiến 9.3.1945, người Nhật lộ hẳn sự phản bội dân tộc Việt Nam, trước khi Phan Châu Trinh trở về Việt Nam tâm sự với Phan Bội Châu "Xem dân trí Nhật rồi đem dân trí ta ra so sánh, thật không khác gì muốn đem con gà con đọ với con chim cắt già. Giờ bác ở đây, nên lo chuyên tâm ra sức vào việc văn, thức tỉnh đồng bào cho khỏi tai điếc mắt dui còn việc mở mang diù dắt ở trong nước nhà thì tôi xin lảnh. Lưỡi tôi đang còn, người pháp chẳng làm gì tôi được mà lo“ (7).

Trở về nước hoạt động

Ðường lối đấu tranh hai nhà cách mạng tuy khác nhau, nhưng cùng tình yêu đối với Tổ quốc đồng bào. Phan Châu Trinh về nước công khai đấu tranh bất bạo động, chính sách cai trị của chính phủ bảo hộ chỉ  bần cùng hóa ngu dân, không thực lòng khai hóa dân tộc Việt Nam, đào tạo số người tay sai làm giàu trên xương máu của dân tộc. Ngày 15-08-1906 gọi là " Phan Châu Trinh đầu thư cho Pháp“. Gởi thư cho toàn quyền Paul Beau và khâm sứ Trung kỳ Fernand Lévecque. Thư trình bày hòan cảnh bi đát nhất của nhân dân dưới chính sách cai trị, những tệ trạng của quan lại Nam triều:

1/ Chính phủ bảo hộ dung dưỡng cho bọn quan lại An nam để gây nên tệ lậu

2/ Chính phủ bảo hộ khi thị dân Việt Nam thái quá, khiến cho đôi bên phải xa cách

3/ Quan lại nhân cái sự ly gián ấy mà hành hạ dân (8)

Phan Châu Trinh ghé thăm Lương Văn Can nói về tình hình nước Nhật, tháng 3.1907 tại phố Hàng Ðào Hà Nội các sĩ phu Bắc Kỳ ngồi lại với nhau. Cụ Phan đề nghị mở trường dạy học, ý kiến nầy được chấp thuận lấy tên trường là Ðông Kinh Nghĩa Thục “tương tự như Khánh Ưng Nghĩa Thục“ của Phúc Trạch bên Nhật, xin giấy phép mở trường, chủ trương không lấy tiền học phí, mọi người tự nguyện bỏ công, bỏ tiền, tài sản ra thành lập. Ngày khai giảng thu nhận học sinh đông đảo. Bỏ lối học từ chương, chú trọng thường thức  và thực nghiệm dạy theo phương pháp giáo dục mới, chương trình dạy chữ Quốc ngữ, chữ Hán và Pháp Văn.  Phạm Ðình Ðối dạy môn toán học, thành phần giảng dạy của Ðông Kinh Nghĩa Thục là các nhà nho và tân học: Dương Bá Trạc, Hoàng Tăng Bí, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học, Phan Huy Thịnh, Ðào Nguyên Phổ, Phan Tuấn Phong, Ðặng Kinh Luân, Nguyễn Hữu Cầu, vv... (9).

Lương Văn Can làm thục trưởng, Nguyễn Quyền làm giám học. Phan Châu Trinh  không giữ vai  trò nào vì cụ Phan về miền Trung vận động tiếp cho Phong Trào Duy Tân.  Ðông Kinh Nghĩa Thục truyền bá văn hóa nước nhà, thêm tình thần ái quốc, trường có một số nhà nho như Lương Trúc Ðàm, Dương Bá Trạc. Ðổ Chân Thiết.. hoạt động ngầm cho phái bạo động (Phan Bôi Châu) nhiều cụ qúa hăng hái giảng dạy kêu gọi lòng yêu nước, đưa đến chủ trương chống chính sách thuộc địa. Thực dân Pháp nghi ngờ cho mật thám theo dõi, tịch thu giấy phép giải tán trường học vào tháng 11.1907. Khép tội Ðông Kinh Nghĩa Thục là lò phiến loạn ở Bắc Kỳ, đóng cửa luôn tờ (Ðăng Cổ Tùng Báo) cấm lưu hành tàn trữ sách vở. Giáo viên, những người trong tổ chức bị nghi ngờ, bị kết án tù, đày ra côn đảo.

Ðoàn kết Tôn Giáo

Các tỉnh miền Trung xảy ra chia rẽ với người theo Ðạo Thiên Chúa dưới thời Phong trào Cần vương. Giáo dân vùng Trà Kiệu quận Duy Xuyên bị cô lập, bị phân biệt xảy ra tranh chấp đổ máu...  Phan Châu Trinh đi khắp nơi trong tỉnh nhà, kêu gọi toàn dân đoàn kết, chia rẽ gây thêm cảnh khổ đau dân tộc có lợi cho thực dân. Cụ Phan không đặt vấn đề Lương-Giáo mọi người đều có trách nhiệm với quốc gia Việt Nam. Nhìn lại các nhà truyền giáo Tây Phương đã giúp ích cho văn học Việt Nam. Ðạo Thiên Chúa đào tạo những con Chiên ưu tú như Nguyễn Trường Tộ (1828-1871) Trương Vĩnh Ký (1837-1898) .. Phan  Châu Trinh tiếp xúc với các vị các linh mục người Pháp, kêu gọi họ giúp đỡ để khai hóa con Chiên Việt Nam, Phan Châu Trinh hỏi các Linh mục:

"Có lẽ dân An Nam không phải là con chung của Chúa Trời, nên dầu có theo giáo, chỉ có sớm chiều đọc mấy câu kinh, đến ngày lễ tới nhà thờ quỳ nghe giảng mà thôi sao? " (10)

Lần đầu tiên trong đấu tranh sử nước nhà, giữa Lương-Giáo được hòa giải san bằng hố sâu ngăn cách, đoàn kết hoạt động với Phong Trào Duy Tân, làng Phước Kiều (Duy Xuyên) có cơ sở giáo dục Quảng Phước do một vị nhà dòng dạy học và tổ chức cơ sở chế biến kỷ nghệ đồ đồng rất tinh xảo như  nghề gia truyền cho đến ngày nay. Phong Trào Duy Tân giúp Dân trí được mở mang mạnh mẽ, nhiều người hưởng ứng nổi bật nhất, ông Lê Cơ thi đậu tú tài nhưng chỉ làm lý trưởng, con cô cậu với Phan châu Trinh.  Nhân dân được học hỏi tiến bộ, hưởng ứng phong trào như cắt tóc ngắn, là một thành công lớn của Phong Trào Duy Tân, muốn bỏ được phong tục lâu đời rất khó, hớt tóc có bài vè cúp tóc, được truyền tụng trong dân gian, khuyến khích đàn ông hớt tóc ngắn. Phong Trào chủ trương lâu dài, khai trí dân tộc tiến bộ mau chóng, Dân tộc hiểu được các quyền tự do: Dân quyền và Nhân quyền, thì chính sách bảo hộ của người Pháp phải thay đổi.

Cuộc vận động đòi quyền sống, dù bất bạo động của Phong Trào Duy Tân, công khai dần dần lan rộng, bởi vì thực dân Pháp và tay sai đàn áp bóc lột đánh thuế nặng, tất cả tai hoạ của xã hội trong giai đoạn nầy phản ảnh qua những câu ca dao (11)

Ðời ông cho đến đời cha
Ðời nào cực khổ như ta đời nầy
Ngoài đồng cắm cọc giăng giây
Vườn hà đóng thuế vợ gầy con khô..
Từ ngày Tây chiếm Ðế Ðô
Xâu cao thuế nặng biết chừng mô hỡi trời!
Diễn tiến cuộc biểu tình

Năm 1908 các điạ phương từ tỉnh Quảng Nam đến Quảng Ngãi, Bình Ðịnh, Phú Yên, Thừa Thiên, Hà Tỉnh, Nghệ An nổi lên phong trào kháng thuế xin xâu. Lúc đầu cuộc vận động biểu tình bất bạo động, có tầm mức quan trọng từ trước chưa xảy ra ở Việt Nam. Tại quận Ðại lộc (11.03.1908) sau đó Ðiện Bàn rồi các nơi đều hưởng ứng tham gia biểu tình kháng thuế, chống bọn tay sai, đòi hỏi dân quyền. Thực dân Pháp không giải quyết nguyện vọng của toàn dân ra lệnh đàn áp. Phong Trào như làng sóng lên cao, phẩn nộ trong người dân từ lâu bị đè nén và bộc phát. Thực dân Pháp lúc đầu để Phong Trào Duy Tân hoạt động vì quan niệm sĩ phu kêu gọi duy tân, theo Âu hóa càng sớm càng mất dần dân tộc tính càng dễ cai trị. Không ngờ Phong Trào gây ảnh hưởng sâu rộng, đưa đến đấu tranh chống thuế xin xâu, đụng vào cái thực chất quyền lợi của thực dân. Nếu không đánh thuế vào dân, lấy tiền đâu nuôi đòan quân viễn chinh, bộ máy cai trị tại Việt nam, đem tiền bạc về cho nước Pháp.

Thực dân và bọn tay sai quyết đập tan phong trào kháng thế xin xâu, dùng bạo lực súng đạn, đàn áp bắn giết đồng bào tham gia trên tay không vũ khí. Kết án ngọn lửa đấu tranh ấy phát xuất từ Phong Trào Duy Tân, đồng thời ngoài Bắc ngày 27.6.1908 xảy ra vụ Hà Thành đầu độc. Thực dân Pháp ra lệnh bắt bỏ tù hàng loạt từ Trung đến Bắc các sĩ phu yêu nước như: Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Ðức Kế, Châu Thượng Văn (1856-1908), Nguyễn Thượng Hiền, Lê Cơ, Phan Khôi  Tiểu La Nguyễn Thành (1863-1911) vv.. đến nhà tù Côn đảo cũng như Lao Bảo .

Kết án xử chém những người dẫn đầu đấu tranh tại Quảng Nam: Trần Thuyết (1857-1908 ngày 8-4 tại Tam Kỳ), Ông Ích Ðường (bị chém ngày 24-4 tại Túy Loan), các ông Nguyễn Cang, Nguyễn Dực, Phan Tham, Trần Phước, đều bị chém tháng 5 tại Duy Xuyên. Phong trào đấu tranh máu đổ ra tô thắm thêm trang sử Việt Nam oai hùng.  Phong Trào xin thuế bị dẹp vì thiếu tổ chức không có người chỉ huy tổng quát. Phong Trào Duy Tân dù thất bại nhưng nó còn trường tồn mãi trong lịch sử nước nhà.

Phong Trào có các ưu điểm: tin vào việc tự khai hóa dân tộc, phát triển các ngành nghề phù hợp với sinh hoạt địa phương, công-thương-nghiệp phải phát triển toàn diện, không có tinh thần vọng ngoại, truyền bá chữ Quốc ngữ... Áp dụng chủ thuyết Dân quyền hành động có lý tưởng, xây dựng đất nước quan tâm đến dân tộc phải tự cường và đoàn kết.

Trong giai đoạn nầy Trần Qúy Cáp (làm giáo học tại Khánh Hoà, vì nhà nghèo làm việc theo ý thân mẫu) bị Bố chánh Phạm Ngọc Quát, bắt (16.04) đổ tội cho cụ Trần xách động và đồng lỏa với phong trào kháng thuế xin xâu. Bản án dành cho Trần Quý Cáp thật ác nghiệt đó là chủ trương của chế độ thực dân, bởi vì Trần Quý Cáp viết gởi cho Phan Thúc Duyện có câu (Ngô dân thử cử khoái khoái khóai = dân ta làm thế sướng ...) vui mừng quê nhà có biểu tình đấu tranh chống thuế xin xâu. Bị  kết án "tuy chưa có hành động nhưng đã nuôi cái lòng phản nghịch“ được gọi là bản án "mạc tu hửu“ nghĩa là chẳng cần có tội, muốn giết thì giết, dẹp hết các người yêu nước để bọn thực dân rảnh tay cai trị.

Chính quyền muốn tử hình Phan Châu Trinh không thực hiện được, lần nầy phải giết gấp Trần Quý Cáp, tuyên án xử chém ngang lưng tại Khánh Hoà, đến 1924 Trần Quý Cáp được khai phục phẩm hàm, nhưng ông đã an giấc nghìn thu!

Phan Châu Trinh công khai hoạt động làm cho người Pháp rất lo ngại. Louis Bonhoure toàn quyền Ðông Dương nhận xét: "Phan Châu Trinh không tỏ ra bạo động như Phan Bội Châu nhưng nguy hiểm hơn cho sự thống trị của người Pháp tại Việt Nam".

Vì xảy ra vụ chống thuế bùng nổ tại Quảng Nam, Công sứ Lévecque yêu cầu thống sứ Bắc kỳ Joseph de Mirabel bắt Phan Châu Trinh ngày 10.04.1908 tại Hà nội giải về Huế giam ở toà Khâm sứ, (khu vực trường Ðại học Sư Phạm trước 1975). Người Pháp bề ngoài văn minh nhưng chẳng hơn gì triều đình Huế về những điều hủ bại. Phan Châu Trinh phản đối chính phủ Pháp kiệt thực 7 ngày, Khâm sứ Lévecque là con cáo già thực dân, muốn ném đá dấu tay, trả cụ cho Cơ Mật Viện để toà An Nam xét xử, nếu xét theo luật Gia Long điều 223 tội nhân bị ghép làm loạn xách động bị xử trảm. Các quan lại Nam triều vốn thù ghét Phan Châu Trinh đã phê phán chế độ quân chủ làm tay sai, Nam triều lấy cơ hội nầy lên án tử hình, nhưng ở Hà Nội cụ Phan chơi thân Babut Ernest Chủ nhiệm tờ Ðại Việt Tân Báo và có chân trong Hội Nhân Quyền Ligue des Droits de L’ Homme. Ðược Babut Ernest tận tâm can thiệp lên thẳng phủ Toàn quyền xin tái thẩm vụ án, yêu cầu chính phủ Pháp can thiệp giảm án. Tóa án An Nam không thể thi hành án tử hình đổi lại án chung thân khổ sai đày ra Côn đảo Cụ Phan phẩn nộ trước bản án và nói: "Một dân tộc nào có người tù về quốc sự như thế thì dân tộc ấy càng thêm vẽ vang .Một dân tộc không có người ở tù về quốc sự thì cái dân tộc ấy là khối dân tộc vô hồn thôi "(12).

Ngày 04. 4.1908 cụ Phan bị đày ra Côn đảo ứng khẩu bài thơ:

Ra cửa thành nam mang xiềng rột rạt
Còn lưỡi này ta hát ta ca
Dân hèn nước cũng tiêu ma
Chi còn chả sợ nữa là côn lôn

Những năm tù Côn đảo, cụ Phan cảm xúc cho thân phận, man mát lòng cố quốc làm thơ cho quên nỗi sầu xa xứ. Trong lúc dân tộc sống khổ đau dưới gót giày đinh của thực dân Pháp dẫm nát Quê Hương

Làm trai đứng giữa đất Côn lôn
Lừng lẫy làm cho lỡ núi non
Xách búa đánh tan năm bảy đống
Ra tay đập bể mấy trăm hòn
Tháng ngày bao quản thân sành sỏi
Mưa nắng chi sờn dạ sắt son
Những kẻ vá trời khi lỡ bước
Gian nan nào sá sự con con.
(Đi đập đá)

Cụ bị đày ra Côn đảo được báo chí Hội Nhân Quyền thân oan và vận động được tự do, chính phủ bảo hộ nhận thấy dư luận trong cũng như ngoài nước, muốn ngăn ngừa bớt phẩn nộ của sĩ phu Việt Nam. Chính phủ cử Thống đốc Nam Việt ra Côn đảo thẩm vấn cụ Phan cho về lại Mỹ Tho. Thủ tướng Pháp ông Poincaré ký lệnh tha, quan Toàn quyền Ðông Pháp ông Klobukowsky (1908-1911) Tổng trưởng bộ thuộc điạ Trouillot cùng các quan khác tại Sàigòn xét án và ân xá. Tuyên báo trả tự do nhưng cụ bị quản thúc, Cụ nhất định không chịu, phản đối đến cùng. Chính phủ Pháp nhượng bộ cho tự do hoàn toàn. Ở Mỹ Tho thời gian thấy tinh thần đồng bào ở Nam Việt lụn bại hơn đồng bào ngoài miền Trung và Bắc. Cụ phải ngậm ngùi cho trình trạng dân tộc bị đô hộ, các bạn thân chiến hữu của cụ Phan phần lớn bị bắt đày ra Côn đảo. Thực dân Pháp theo dõi đàn áp khắp nơi, rất khó có thể hoạt động. Cụ Phan thoát được cảnh tù đày nhờ nhà báo Babut và Hội Nhân quyền can thiệp.

Phan Châu Trinh cùng với người con trai làm đơn xin nhập cảnh Pháp. Toàn quyền Klobukowdky cho phép, nghĩ cụ là ông quan già không biết Pháp ngữ, có đến Paris cũng chẳng làm được gì bất lợi cho chính sách thuộc địa của Pháp. Nhưng Phan Châu Trinh tin tưởng đến Pháp có thể vận động rộng rãi với chính khách Pháp văn minh tiến bộ, đòi hỏi chính phủ Pháp thay đổi chính sách thuộc địa tại Việt Nam và Ðông Dương, kêu gọi Pháp trả tự do cho các tù nhân chính trị Việt Nam.

Xuất ngoại lần thứ 2

Năm 1911 Phan Châu Trinh theo Toàn quyền Klobukowsky sang Pháp, cụ biết trước các sĩ phu Việt Nam yêu nước xúc động mạnh với tin cuộc cách mạng Tân Hợi 19.08.1911, Trung Hoa lật đổ được chính thể chuyên chế, bước sang chế độ Dân chủ, tại Việt Nam các sĩ phu yêu nước sẽ tiếp tục nổi dậy chống Pháp dành độc lập, không tránh được cảnh chiến tranh, gây thêm khổ đau, vốn cụ chủ trương Pháp-Việt đề huề xem như nền tảng tư tưởng dân chủ xây dựng Việt Nam. Sử sách thế giới ca tụng Mohandas Karamchand Gandhi (1867-1948) đấu tranh bất bạo động với người Anh dành độc lập cho Ấn Ðộ, nhưng nước Việt Nam nhỏ bé thời ấy chí sĩ Phan Châu Trinh, đấu tranh dành độc lập với thực dân Pháp bất bạo động trước Gandhi. Chủ trương của Cụ Phan: «không nên trông người ngoài trông người ngoài là ngu, không nên bạo động, bạo động là chết. Tôi chỉ có một lời để nói với đồng bào, không gì bằng học...v.v. Chỉ nên đề xướng dân quyền, dân đã biết có quyền thì việc khác có thể làm» (13)

Tàu đến cảng Marseille, cụ Phan và con trai được đón lên tàu lửa về Paris, ở trọ trên đường Gay Lussac, sau về số 32 Vouillé quận 15. Cụ tiếp xúc với Messimy, Bộ trưởng Bộ Thuộc Ðịa và Albert Sarraut sắp sang làm Toàn quyền tại Ðông Dương. Ông Jules Roux đại úy từng làm việc tại Tòa án binh ở Bắc Bộ từ năm 1904-1909, rất ngưởng mộ cụ Phan đến tiếp xúc giúp đỡ và dịch các thư sang Pháp văn, gởi cho Bộ Thuộc Ðịa Pháp và ông Phan Văn Trường (1875-1933), nhỏ hơn cụ Phan 3 tuổi lúc ở Hà Nội làm việc cho tòa Khâm sứ Bắc Kỳ. Cuối năm 1908 được tuyển sang Paris làm phụ giảng tiếng Việt ở trường Ngôn Ngữ Phương Ðông và tiếp tục học đỗ cử nhân luật, có quốc tịch Pháp. Từ năm 1910 ông thuê nhà số 6 Villa des Gobelins. Nơi đây như trụ sở của người Việt yêu nước, cụ Phan cùng đến ở chung thời gian dài, Việt kiều, sinh viên sống tại Paris lúc bấy giờ khoảng hơn 100 người (14).

Cụ Phan và Phan Văn Trường trở thành cột trụ của phong trào Việt Kiều tại Pháp, Phan Châu Trinh viết các bản điều trần gởi cho chính phủ Pháp, nêu lý do Việt Nam được Pháp bảo hộ, nhưng không có tự do, công dân Việt Nam yêu nước chỉ trích chính sách cai trị, đều bị kết án tử hình và bỏ tù, vv.. Cụ viết "Trung Kỳ Dân Biến Thỉ Mạt Ký", Jules Roux dịch sang Pháp văn. Tài liệu nầy binh vực, kêu oan cho Trần Quý Cáp và nỗi oan ức của người Việt bi áp bức gây dư luận tại Paris (gởi kèm đến Albert Sarraut chuẩn bị sang làm toàn quyền tại Ðông Dương) gởi thư phản đối chính sách đô hộ tại Việt Nam. Khâm sứ Mahé muốn đào lăng vua Tự Ðức (1913) tìm vàng, cụ viết báo phản đối việc làm thiếu đạo đức, đi diễn thuyết trong tập thể Kiều bào, kêu gọi lòng yêu nước hướng về Quê hương và thường tiếp xúc với người Pháp có lòng nhân đạo, bác ái bày tỏ nỗi lòng và chỉ trích chính sách cai trị tàn ác của Pháp ở Ðông Dương của Sarraut: "Cách cai trị rộng rãi bên An Nam của ông ấy thế nào? Nói những sự cải cách giả dối, như viện tư vấn, pháp luật, học hành, sự đầu độc dân ta bằng rượu, bằng thuốc phiện, và sự đoạt quyền tự do của nhân dân ta..."

Tháng 9.1914 chiến tranh Ðức Pháp bùng nổ. Ðức tổng tấn công mặt trận La Somme, vua Duy Tân (Vĩnh San) nổi dậy chống Pháp ngày 6.5.1916 thất bại bị truất phế đày sang đảo Réunion... Pháp tình nghi Việt Kiều có tinh thần chống Pháp liên hệ với Ðức, Phan Văn Tường bị giam ở lao Cherchemidi và Phan Châu Trinh bị giam ngục Santé (Prison de la Santé). Bên quê nhà người vợ hiền bị bệnh qua đời ngày 12.5.1914. Cuộc đời của bà đã hy sinh lo gia đình để chồng hoạt động cách mạng. (Chúng ta cần phải vinh danh người đàn bà lý tưởng nầy!). Hai người con gái: Phan Thị Châu Liên (tức cô Đậu 1901- ?) chồng là ông đốc học Lê Ấm (1897-1976) ông bà Lê Ấm ở nhà thờ cụ Phan gần ngã năm Hoàng Diệu Ðà Nẵng. Ông bà Lê Ấm có con trai Lê Khâm (1930-1995) tập kết ra Bắc theo học Đại học tổng hợp Hà nội là một nhà văn đã qua đời) và người con gái là Lê Thị Minh. Phan Thị Châu Lan (tức cô Mè 1904 -1944) chồng là ông Nguyễn Ðồng Hợi làm tham tá công chánh (Agent technique) là thân sinh của bà Nguyễn Thị Bình (các cháu không theo thuyết Dân Quyền của ông ngoại, ngược lại theo cộng sản Marxismus).

Các ông Marius Moutet, Jules Roux bênh vực, cãi với viên đại lý Tòa án binh Ðệ nhất tại Paris đến tháng 7-1915 chính phủ Poincaré trả tự do cho cụ Phan. Các quan Bộ Thuộc Ðiạ coi về Ðông Pháp, cắt tiền phụ cấp 450 quan gây đời sống cụ càng khó khăn hơn. Cụ học nghề rửa hình mỗi ngày được 30 quan nuôi con trai là Phan Châu Dật học trung học, dù hoàn cảnh khó khăn không muốn lệ thuộc đồng tiền mua chuộc, cụ sống với lý tưởng cao đẹp : " Phú qúy không tham lam, nghèo khổ không thay đổi lòng dạ, sức mạnh không khuất phục"(15).

Năm 1917 Phan Châu Trinh bị bệnh nặng điều trị lâu, Phan Châu Dật (1897-1921) không muốn nhận giúp đỡ của gia đình ông Roux, tìm việc đưa hàng ở hãng Au Bon Marché để nuôi cha. Vì vất vả và thiếu thốn bị nhiểm bệnh, anh phải bỏ học về nước ngày 27.09.1919 và qua đời tại Huế 14.02.1921 thi hài được đem về mai táng cạnh mộ Mẹ tại Tây Lộc.

Vào khoảng cuối năm 1916 sang đầu năm 1917 Nguyễn Ái Quốc đến Paris được Phan Châu Trinh giúp đỡ. Nguyễn Ái Quốc viết: " Cụ Phan đã giúp mình rất nhiều, thực sự là người đỡ đầu cho mình trong một thời gian khi mình ở Paris" (16). Năm 1920 tư tưởng hoạt động Nguyễn Ái Quốc khác Phan Châu Trinh, ông ta theo chủ nghĩa cộng sản quốc tế, tham dự đại hội Tours và sang Liên Xô năm 1923 (?) Nếu Nguyễn Ái Quốc tiếp tục theo đường lối hoạt động của Phan Châu Trinh thì lịch sử Việt Nam đã khác hẳn rồi.

Pháp tổ chức cuộc triển lãm quốc tế tại Marseille năm 1922 vua Khải Ðịnh (1916-1925) sang tham dự, từ lối phục sức cho đến việc tiếp xúc ngoại giao những điều chướng tai gai mắt. Cụ viết bằng chữ Hán gởi đến vua Khải Ðịnh "Ký Khải Ðịnh Hoàng Ðế Thư "ngày 15-7-1922 kể bảy tội là "tôn bậy quân quyền, lạm hành thưởng phạt, thích chuộng sự qùy lạy, xa xỉ quá độ, ăn bận không phải lối, tội chơi bời, chuyến đi có ám muội ". Dịch ra Việt ngữ và Pháp văn đăng trên báo chí gây dư luận xôn xao tại Pháp, vua Khải Ðịnh nhận thư về nước thời gian ngắn rồi bị băng hà.

Phan Châu Trinh ở Paris 14 năm, gây ảnh hưởng lòng yêu nước sâu rộng trong giới Việt Kiều và sinh viên, người Pháp kính nể xem cụ Phan là chính trị gia, đại diện cho người Việt tại thủ đô Paris và các nhà cách mạng Việt Nam: "Ông vừa thể hiện tính kiên quyết, thẳng thắng, vừa biết thận trọng cân nhắc lời lẽ, thông minh nhạy bén trong việc hiểu và đoán ý người khác, có quan điểm đạo nghĩa sâu sắc, coi thường mặt vật chất kinh tế".

Phan Châu Trinh về nước bị bệnh mất

Phan Châu Trinh xuống tàu Fontainebleau, ngày 29.5.1925 sau một tháng, cụ Phan và Nguyễn An Ninh về tới Sài Gòn 26-6-1925. Nguyễn An Ninh đưa Phan Châu Trinh về thẳng khách sạn Chiêu Nam Lầu (*). Cho đến 29-6-1925 được Nguyễn An Ninh đưa về nhà cha của ông, là cụ Nguyễn An Khương, ở Mỹ Hoà để tiện việc tiếp đón bạn bè đến thăm hỏi, trao đổi công việc; đồng thời cũng để tiện cho cụ Nguyễn An Cư (Chú ruột của Nguyễn An Ninh, một lương y nổi tiếng ở Nam Kỳ) chăm sóc sức khoẻ cho Phan Châu Trinh đang thời kỳ suy yếu nhất. Thời gian ở Chiêu Nam Lầu và tại nhà cụ Nguyễn An Khương, Phan Châu Trinh tiếp xúc với các nhân vật như: Trần Quang Nghiêm, Nguyễn Kim Ðính, Khánh Ký, Lâm Hiệp Châu, De Jean de la Bâtre, Paul Monin, Malraux... Trong các cuộc tiếp xúc nầy, cụ Phan bày tỏ tâm tình: "Một khi đã trở lại sống trên quê hương xứ sở, tôi nguyện đem hết nghị lực bình sinh mà thức tỉnh dân khí ba miền đồng tâm, hiệp lực đạp đổ cường quyền áp chế".

Chính vì tâm quyết phụng sự cho dân quyền, nên dù sức khỏe còn yếu, cụ Phan cùng Nguyễn An Ninh (với vợ chồng người con gái là ông bà Lê Ấm) đi xuống các tỉnh Trà Vinh, Mỹ Tho... để vận động tài chánh cho việc tái bản tờ "La Cloche Fêlée". Nhờ vậy, ngày 26-11-1925, báo "La Cloche Fêlée" số 20 được tái bản. Thời gian bị bệnh nhưng cụ cố gắng diễn thuyết thêm hai đề tài

- Ðạo đức và luân lý Đông Tây
- Quân trị chủ nghiã và Dân trị chủ nghĩa

Bài diễn văn cuối cùng Phan Châu Trinh nói chuyện tại Hội Thanh Niên Sàigòn "Tôi nghĩ rằng vì cái độc quân chủ nó giết hẳn cái lòng ái quốc của dân tộc Việt Nam ta. Nói theo đạo Nho đó kỳ thật không có thi hành một chút đạo Nho nào, chỉ còn sót lại một hai điều trong gia đình mà thôi. Kỳ dư là những điều mấy ông Vua chuyên chế đựa vào đạo Nho để đè nén dân".

Về Ðạo Ðức và Luân Lý Ðông Tây

"Xem như thế thì xưa nay nước ta không có quốc gia luân lý, chỉ có một cái luật vua tôi bắt buộc dân phải theo vua với dân không có luân lý gì dính nhau, chẳng qua vua và tôi tớ của vua hiệp lại với nhau lấy sức mạnh để đè lên dân mà thôi. Nay muốn một ngày kia nước Việt nam được tự do độc lập thì trước hết dân Việt nam phải đoàn kết".

Các bài diễn thuyết của cụ Phan gây ảnh hưởng sâu xa đến thế hệ trẻ văn minh tại Sàigòn, tiêu biểu trong đó có nhà cách mạng Tạ Thu Thâu (1906-1945). Trong thời gian trở về Sài gòn cụ bị bệnh được cả gia đình nhà cách mạng Nguyễn An Ninh (1900-1943) lo giúp đỡ thuốc men, tiếp đón thân nhân và khách đến thăm và cho đến những ngày cuối cùng. Tình thần gia đình Nguyễn An Ninh thật đáng quý lưu danh cho hậu thế, nhưng thương tiếc thay. Phan Châu Trinh đang thoi thóp trên giường bệnh lại hay tin Nguyễn An Ninh đã bị bọn mật thám Pháp bắt tại nhà. Vào lúc 11 giờ 30 trưa 24-3-1926. Phan Châu Trinh trút hơi thở cuối cùng vào lúc 21 giờ 30 tối 24.3.1926 tại khách sạn Chiêu Nam Lầu và được đem quàn tại nhà số 54 đường Pellerin, nhà của ông Huỳnh Đình Điển (đường Pasteur trước 30-4-1975).

Ủy Ban tổ chức lễ quốc táng nhà yêu nước Phan Châu Trinh đã được hình thành ngay trong đêm 24-3-1926. Những thành viên của ủy ban tổ chức tang lễ nhà chí sĩ Phan Châu Trinh gồm nhiều nhân sĩ, trí thức. Tang lễ được đại diện thân hào nhân sĩ Sài Gòn tổ chức cử hành theo nghi thức quốc tang. Hai người con gái đã có mặt bên linh cữu của cha, tại Sài Gòn không phân biệt chính trị, đảng phái, tôn giáo đều tham dự, đưa linh cữu cụ Phan đến nơi an nghỉ cuối cùng lúc 6 giờ sáng 4.4.1926 tại nghĩa trang của hội Gò Công tương tế. Hàng ngàn câu đối, trướng, la liệt bàn phúng điếu các Sư chùa Nam Sơn tỉnh Sóc trăng gởi mấy câu đối:



Tiên sinh thật là vị cao tăng trong giác thế, gồm đủ từ bi và trí huệ.

Người đời sau ngưỡng trông tòa pháp Cộng Hòa, biết bao nhiêu công đức như cát sông Hồng Hà.

Hai mươi năm trống sớm chuông chiều, khua tỉnh ái hà con ma chuyên chế, nhìn muôn dặm mưa dòn gió dập, kêu gọi người ngủ mê trong biển trần.

Phan Bội Châu đang được an trí ở Huế thay mặt cho đồng bào Huế gởi 2 câu đối:

Thương hải vi điền, Tinh vệ hàm thạch
Chung Kỳ ký một, Bá Nha đoạn huyền (17)

Huỳnh Thúc Kháng thay mặt cho anh em Trung-Việt đã đọc một bài điếu văn mang ý nghĩa lịch sử rõ nét nhất về quan điểm chính trị.

"Một đoạn lịch sử của tiên sinh hơn hai mươi năm trời, nào bị tù đày, ở nước này sang nước khác, trải bao nhiêu phen nguy hiểm, trong giây phút này không thể lược thuật lại cho được; chúng tôi xin tóm tắt lại mà nói sơ: Chủ nghĩa tiên sinh đệ nhất là đánh đổ chuyên chế, làm cho dân quyền tự do, còn cái phương pháp tiến hành thì tiên sinh thường nói rằng:

- Tình hình trong nước ta bây giờ đang vào nguy ngập, nếu muốn cải cách thì cần liên lạc đoàn thể mới được. Tiếc cho người nước mình còn đang mê mộng, đồng chí với tiên sinh chẳng được mấy người . Vì vậy mà tấm lòng bị phân hóa ra uất ức, uất ức hóa nên đại bệnh huống gì những điều mắt thấy tai nghe dể làm cho tiên sinh cảm xúc mà đau được, chết được, thương ôi!

- Thôi, đất vàng một nắm, giấc mộng ngàn thu, sự nghiệp anh hùng, ngày nay hết cuộc. Chúng tôi chỉ mong mai sau này những người kế chí tiên sinh, làm cho vẻ vang dân tộc Việt Nam ta. Thì linh hồn tiên sinh sẽ được yên ổn mà ngậm cười nơi suối vàng.

Phan Châu Trinh tranh đấu bất bạo động với chủ thuyết Dân Quyền, Phong Trào Duy Tân làm thay đổi lịch sử Việt Nam dưới thời thuộc điạ, từ đó người Pháp phải thay đổi chính sách cai trị. Phan Châu Trinh một vì sao sáng trên vòm trời Việt Nam của đầu Thế kỷ 20.

Chủ trương chính trị của Phan Châu Trinh có thể được xem là nền tảng của hệ tư tưởng dân chủ Việt nam ngày nay. Trước Phan Châu Trinh, tại Việt nam chưa có ai nghĩ đến dân chủ, dân quyền..Chẳng những Phan Châu Trinh là người đầu tiên thổi một luồng gió mới vào chính trường Việt nam, Ông cũng là người Việt nam đầu tiên gây được uy tín lớn lao với chính trường nước Pháp là nước đang đô hộ Việt Nam (18).

Phan Châu Trinh sống phục vụ lý tưởng, chủ trương xây dựng đất nước vững chắc khai dân trí, giành lại độc lập. Mong ước Dân Quyền và Nhân Quyền chưa thành công cụ đã ra đi, nhưng để lại những tác phẩm văn chương, giá trị đạo đức và quan điểm hoạt động chính trị bất bạo động .

Đầu Pháp chính phủ thư (1906)
Hợp quần doanh sinh thuyết quốc am tự (1907)
Tỉnh quốc hồn ca I & II (1907)
Tuồng Trưng nữ Vương soạn chung với Hùynh thúc Kháng, Phan Thúc Duyện (1910)
Trong thời gian sống ở Paris và về nước viết các tác phẩm
Trung kỳ dân biến thỉ mạt ký (1911)
Giai nhân kỳ ngộ (1913-1915)
Tây Hồ và Santé thi tập ! (1914-1915)
Khải Ðịnh Hoàng Ðế thư (1922)
Bức thư trả lời cho người học trò tên Ðông (1925)
Ðông Dương Chính trị luận (1925)
Kỷ niệm ngày giỗ thứ 85 cụ PCT (24.4.1926-24.3.2011)

 

Nguyễn Quý Ðại
(cựu Học sinh Phan Châu Trinh Đà Nẵng)

1/  Quảng Nam trong lịch sử  tác giả Trần Gia Phụng

2/  Phong Trào Duy Tân tác giả Nguyễn Văn Xuân

3/  Phong Trào Duy Tân tác giả Nguyễn Văn Xuân

4/ Thành Thái người điên thế kỷ tác giả Thái Vũ trang 236

5/ Ðông Kinh Nghĩa Thục tác giả Nguyễn Hiến Lê trang 95

6/ Quân sử trang 333 xuất bản  Bộ tổng tham mưu QÐ VNCH

7/ Phan Bội Châu  Ngục trung thư  trang 50

8/ Phan Châu Trinh Thế Nguyên

9/ Ðông Kinh Nghĩa Thục tác giả Nguyễn Hiến Lê

10/  Phong Trào Duy Tân tác giả Nguyễn Văn Xuân

11/ Quân sử trang 338 xuất bản Bộ tổng tham mưu QLVNCH

12/ Phong Trào Duy Tân tác giả Nguyễn Văn Xuân

13/ Lam Giang trang 211

14/ Những hoạt động của Phan Châu Trinh Ts Thu Trang

15/ Phong Trào Duy Tân tác giả Nguyễn Văn Xuân trang 172

16/ Những hoạt động của Phan Châu Trinh Ts Thu Trang trang 125

17/ Phan Chu Trinh Thế Nguyên

18/ Quảng Nam trong lịch sử tác giả Trần Gia Phụng

Tài liệu tham khảo


Quảng Nam trong lịch sử tác giả Trần Gia Phụng Nxb Non Nước  Toronto 2000
Phan Châu Trinh (1872 - 1926) Tác giả Thế Nguyên tủ sách Tân Việt
Phong Trào Duy Tân tác giả Nguyễn Văn Xuân Nxb Lá Bối
Thành Thái người điên thế kỷ tác giả Thái Vũ Nxb Văn Học
Những hoạt động của Phan Châu Trinh tại Pháp 1911-1925 Tác giả Thu Trang Nxb Văn Học
Từ Hi Thái Hậu cuốn 2 tác giả Mộng Bình Sơn Nxb Xuân Thu
Bộ Quân sử do bộ tổng tham QLVNCH mưu xuất bản
Quảng Nam đất nước và nhân vật 1 &2 Nguyễn Quyết Thắng

Nguồn: http://www.lyhuong.net/uc/index.php/bandoc/571-571



Nhóm mạng Việt Nam Văn Hiến
Trang : Phan Chu Trinh
www.vietnamvanhien.net
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.info
www.vietnamvanhien.com

Email: thuky@vietnamvanhien.net

"Bất chiến tự nhiên thành" chi kế
Văn Hiến ngàn năm sử đã đề
  Giải trừ quốc nạn bằng Tâm Lực
"Nhân Chủ (tự chủ) - An Vi (an lạc)" khai lối về


Lấy Nhân Tâm làm phương tiện, dụng Dân Tâm làm kế sách "An Dân - Lạc Quốc" là kim chỉ nam cuả thể chế Dân Chủ Văn Hiến.


Trở Lại Trang Mặt