Được nhiều người
xem là một hình mẫu thiên tài trong lịch sử
văn nghệ Việt Nam,[1][13][14]tài
năng nghệ thuật đa dạng mang tính tổng hợp cao
giữa văn chương (thi ca) - âm nhạc - hội họa
của Văn Cao đã sớm có những thành tựu đột khởi
ngay từ độ tuổi mười tám đôi mươi.[15][16][17]Không
được đào tạo một cách thực sự chính quy,
chuyên sâu cả vềâm nhạcvàhội họa,
những thành tựu của Văn Cao trong hai lĩnh vực
này có thể nói là bắt nguồn chủ yếu từ thiên
năng nghệ thuật sẵn có của ông (nói theo lời
của nhà nghiên cứu âm nhạcNguyễn Thụy Khathì
"Văn Cao là trời cho"). Ông được nhiều người
xem là một hiện tượng hiếm có trong lịch sử
phát triển củavăn hóa Việt
Nam– ở nơi "dòng
chảy" của sáng tạo cá nhân một con người có sự
"hợp lưu" xuyên suốt của ba nhánh nhạc-họa-thơ
trong gần như toàn bộ những sáng tác đa dạng
của ông. Nhận định về sự nghiệp văn nghệ của
Văn Cao, nhiều người thường nhắc đến ông như
mộtnghệ sĩđa tài,
thích "lãng du" qua những "địa hạt" (lĩnh vực)
nghệ thuật khác nhau. Dù không gắn bó liên tục
quá lâu với một địa hạt nào trong số đó nhưng
đối với những "miền" nào ông đã bước qua thì
Văn Cao cũng đều lưu dấu không ít sáng tạo
mang tính khai phá - mở lối dành cho những
người đến sau ông. Như nhạc sĩPhạm Duysinh
thời đã nhiều lần xác nhận, sự nghiệp sáng tác
của ông chịu một ảnh hưởng lớn từ những khai
mở (về chuyên môn) và khích lệ (về tinh thần)
từ Văn Cao, với tư cách là một người bạn văn
nghệ tri kỷ của Phạm Duy. Dù những sáng tác
của Văn Cao (đặc biệt là về âm nhạc và thơ ca)
nói chung không thực dồi dào về số lượng nhưng
về mặt chất lượng chúng có ảnh hưởng mang tính
định hướng và đặt nền cho sự phát triển của
đời sống văn nghệ Việt Nam hiện đại. Một số ví
dụ điển hình là vai trò đặc biệt quan trọng
của ông trong sự định hình của thể loại tình
ca, hùng ca (trong đó nổi bật là dòngnhạc cách mạng)
vàtrường catrong
âm nhạc cũng như thể loạitrường ca trong
thơhiện đại Việt Nam.
Tuy nhiên những đóng góp về thơ ca và hội họa
của Văn Cao vì nhiều lý do khác nhau mà ít
được nhắc tới hơn rất nhiều so với những thành
tựu trong âm nhạc của ông.
Là một người tài
hoa vào loại bậc nhất trong lịch sử văn nghệ
Việt Nam, nhưng ngay từ thời còn niên thiếu ởHải
Phòngông đã là một
người có thiên hướng khép kín, trầm tư, ít bộc
lộ bản thân trước đám đông. Sau biến cốNhân văn – Giai phẩmcuốithập niên 1950,
ông lại càng có xu hướng sống khép kín và cô
độc hơn mặc dù luôn có gia đình (đặc biệt là
vợ ông) và một số bạn văn nghệ thân quen làm
chỗ dựa cho đến những năm cuối đời. Khác với
quan niệm truyền thống xưa nay về tài tử và
giai nhân, cuộc đời của Văn Cao ít có những
tiếp xúc mang tính lãng mạn với phái nữ vì như
ông từng bộc bạch trong một cuốnphim tài liệu
về mình rằng, "Tôi là một cái người luôn
luôn thất bại về tình yêu, cái thất bại này là
bởi vì tôi là người không giỏi về cách tôi
giao lưu với những người đàn bà, mà lại đối
với những người đẹp tôi lại càng bối rối, tôi
không bao giờ nói được với người ta, thì tôi
bèn nói trong thơ thôi."Lê
Thiếu Nhơntrong một
bài viết đăng trên báoBáo Công
an nhân dâncó tổng
kết: "Cuộc đời 72 năm của Văn Cao gắn bó trọn
vẹn với Việt Nam thế kỷ 20 nhiều biến động, để
lại cho thế hệ sau không ít câu hỏi không dễ
trả lời. Câu hỏi rộn ràng về cống hiến nhọc
nhằn, câu hỏi cồn cào về thế sự ngổn ngang, về
mệnh kiếp lênh đênh. Một Văn Cao đa tài không
thể che chở một Văn Cao lận đận. Một Văn Cao
danh vọng không thể bênh vực một Văn Cao cay
đắng. Một Văn Cao hào hoa không thể an ủi một
Văn Cao cô độc. Những ngày tháng Văn Cao đã
sống, cứ đổ cái bóng gầy hắt hiu và trắc ẩn
vào lòng công chúng, mà những bài hát của ông
không lý giải được, những bức tranh của ông
cũng không lý giải được. Chỉ còn lại thơ, xoa
dịu và tỏ bày giùm Văn Cao."[6]
Văn Cao tên đầy đủ
làNguyễn Văn Cao,
sinh ngày15 tháng 11năm1923tạiLạch Tray(nay
làphường Lạch Tray, quậnNgô Quyền),
thành phốHải Phòng, nhưng quê gốc ở thôn
An Lễ, xãLiên Minh,
huyệnVụ
Bản, tỉnhNam Định. Xuất thân trong một gia
đình viên chức, cha của Văn Cao vốn là giám
đốc nhà máy nước Hải Phòng[19]. Thuở
nhỏ, Văn Cao học ở trường tiểu học Bonnal (nay
làTrường
Trung học phổ thông Ngô Quyền, Hải Phòng),
sau lên học trung học tại trường dòng Saint
Josef, là nơi ông bắt đầu họcâm nhạc.
Năm 1938, khi mới 15 tuổi, vì gia đình sa sút,
Văn Cao bỏ học sau khi kết thúc năm thứ hai
bậc thành trung. Ông làm điện thoại viên ở sở
Bưu điện tại Hải Phòng, nhưng được một tháng
thì bỏ việc[20].
Cuối những năm
1930,tân nhạc Việt
Namra đời. ỞHải
Phòngkhi đó tập trung
nhiều nhạc sĩ tiên phong nhưĐinh Nhu,Lê
Thương,Hoàng Quý... Văn Cao tham gia vàonhóm Đồng Vọngcủa
Hoàng Quý cùngTô Vũ,Canh Thân,Đỗ Nhuận... và bắt đầu sáng tác
ca khúc đầu tay là "Buồn tàn thu" vào năm 16 tuổi[19]. Cùng
nhóm Đồng Vọng, Văn Cao còn sáng tác một số ca
khúchướng đạovui
tươi khác như "Gió núi", "Gò Đống Đa", "Anh em
khá cầm tay". Cũng trong thời gian ở Hải
Phòng, Văn Cao làm quen vớiPhạm Duy,
khi đó là ca sĩ tronggánh hát Đức Huy. Phạm Duy chính
là người đã hát "Buồn tàn thu", giúp ca khúc
trở nên phổ biến. Năm 1940, Văn Cao có một
chuyến đi vào miền Nam. ỞHuế, Văn
Cao đã viết "Một đêm
đàn lạnh trên sông Huế", được coi là bài
thơ đầu tay[20].
Năm 1942, nghe
theo lời khuyên củaPhạm Duy, Văn Cao rời Hải Phòng
lênHà
Nội. Ông thuê căn gác nhỏ số 171 phố
Mongrant - nay là 45Nguyễn Thượng
Hiền- và theo học dự
thính tạiCao đẳng Mỹ
thuật Đông Dương. Văn Cao còn làm thơ,
viết truyện đăng trênTiểu
thuyết Thứ Bảy[21]. Năm
1943 và 1944, Văn Cao hai lần xuất hiện trong
triển lãm Salon Unique tổ chức tại nhà Khai
trí Tiến Đức, Hà Nội với các bức tranh sơn
dầu: "Cô gái dậy thì", "Sám hối", "Nửa đêm".
Đặc biệt tác phẩm "Cuộc khiêu vũ những người
tự tử" ("Le Bal aux suicidés") được đánh giá
cao và gây chấn động dư luận[20]. Tuy
được báo chí khen ngợi, nhưng tranh của Văn
Cao không bán được. Ông trải qua một thời gian
dài ở Hà Nội trong thiếu thốn. Cùng bạn bè,
Văn Cao thường phải đứng bán các tác phẩm của
mình trên các đường phố Hà Nội, Hải Phòng.
Cuối năm1944,
Văn Cao gặp lạiVũ
Quý, một cán bộ Việt Minh mà ông đã quen
biết trước đó. Vũ Quý thuyết phục ông tham giaViệt Minh,
với nhiệm vụ đầu tiên là sáng tác một hành
khúc. Văn Cao đã sáng tác ca khúc đó trong
nhiều ngày tại căn gác số 171 phố Mongrant
(nay là phố Nguyễn Thượng Hiền, quận Hai Bà
Trưng, Hà Nội) và đặt tên cho tác phẩm là "Tiến quân ca". "Tiến quân ca"
được in trên trang văn nghệ của báo Độc Lậptháng 11năm1944.
Ngày13 tháng 8năm1945,Hồ
Chí Minhđã chính thức
duyệt "Tiến quân ca" làmquốc cacủa
nướcViệt Nam Dân
chủ Cộng hòa[22].
Năm1946,
Văn Cao được cử cùng Hà Đăng Ấn chuyên chở vũ
khí và tiền vào mặt trận Nam Bộ. Sau đó chính
thức được mời tham gia Hội Văn hoá Cứu quốc và
được bầu là Ủy viên Chấp hành, Văn Cao hoạt
động ở liên khu III, phụ trách tổ điều tra của
công an Liên khu và viết báo Độc Lập. Đầu năm
1947, ông được cử phụ trách một bộ phận điều
tra đặc biệt của công an Liên khu 10 ở biên
giới phía bắc. Tại đây ông được giao nhiệm vụ
kết nghĩa vớivua Mèođể lập
ra một phòng tuyến bảo mật chống sự tràn sang
của quânTrung
Hoa Quốc dân Đảngkhi
thua trận[19]. Ở
Lào Cai, Văn Cao còn mở một quán bar để làm
địa điểm theo dõi.[23]Tháng
3 năm 1948, Văn Cao được kết nạpĐảng Cộng sản
Đông Dương. Cuối năm 1949, Văn Cao thôi
làm báo Văn Nghệ chuyển sang phụ tráchĐoàn Nhạc
sĩ Việt Nam. Thời kỳ này, ông tiếp tục
sáng tác các ca khúc nổi tiếng khác như "Làng
tôi" (1947), "Ngày mùa" (1948), "Tiến về Hà
Nội" (1949)... và đặc biệt là "Trường ca Sông
Lô" năm 1947.
Năm 1944, Văn Cao
đượcVũ
Quýgiao nhiệm vụ
thành một lập đội vũ trang, nhiệm vụ của đội
chủ yếu làm công tác ám sát và bảo vệ an toàn
cho các đội viên tuyên truyền tại các nơi công
cộng do Văn Cao làm đội trưởng với tên gọiĐội danh
dự Việt Minh.
Đội danh dự Việt
Minh được thành lập vào cuối tháng 12/1944 tại
căn gác nhỏ của Văn Cao ở 45 phố Nguyễn Thượng
Hiền.[11]Những
đội viên trong đội đều do Văn Cao tuyển
chọn. Đa số là những người bạn hoạt động với
ông ởHải Phòng. Văn Cao thường xuyên
tổ chức những khóa huấn luyện ngắn ngày cho
đồng đội của mình về võ thuật, sử dụng vũ khí
và kỹ năng hóa trang... (Văn Cao học võ từ năm
9 tuổi. Thời trai trẻ ở Hải Phòng, Văn Cao đã
nhiều lần lên võ đài thi đấu và biểu diễn võ
thuật).
Chiến
công
Đội danh dự Việt
Minh của Văn Cao hoạt động rất hiệu quả ởHà NộivàHải
Phòng. Nhiều cơ sở của Việt Minh
tạiHà
NộivàHải
Phòngbị lộ, nhiều cán
bộViệt MinhbịNhậtbắt
đều do những người hợp tác với Nhật chỉ điểm.
Để ngăn chặn tối đa những tổn thất, bằng nhiều
biện pháp nghiệp vụ: viết thư cảnh cáo, gặp
trực tiếp răn đe… Văn Cao cùng đồng đội đã
khống chế, vô hiệu hóa và cảm hóa được nhiều
người chỉ điểm. Trong đó, có hai vụ do chính
Văn Cao thực hiện.
Vụ Võ Văn Cầm
tại Hà Nội
Võ
Văn Cầmcầm đầu tổ
chứcThanh
niên Đại Việt, có trụ sở đóng tại phố
Nhà thờ. Cầm thường xuyên tập hợp cấp dưới
cùng hiến binh Nhật vây bắt các cơ sở Việt
Minh. Mặc dù đã bị cảnh cáo nhiều lần, nhưng
Cầm vẫn tiếp tục hoạt động.
Võ Văn Cầm có một
cô vợ bé ởchợ Mơ.
Mỗi lần về thăm vợ, ông ta thường đi xe kéo,
còn Ba Mai làm bảo vệ đạp xe đi cùng. Tuyến
đường đi của ông ta từ trụ sở quaHàng
TrốngvềBà TriệuđếnNguyễn Durẽ
lênPhố Huếrồi vềchợ Mơ.
Theo kế hoạch, Mẫn bám theo Cầm từ trụ sở, một
đồng đội của Văn Cao là Đ.H.I đón ở góc phố Bà
Triệu. Khi Cầm đi qua Đ.H.I cũng bám theo, còn
Văn Cao sẽ đợi trước cửa hàng thuốcPhố Huếgầnchợ Hôm.
Khi nhận được tín
hiệu của Mẫn, Văn Cao sẽ tiến lên trực tiếp
bắn Cầm. Mẫn và Đ.H.I có nhiệm vụ hỗ trợ và
bảo vệ Văn Cao rút lui. Tuy nhiên đã xảy ra
một bất ngờ mà Văn Cao không lường trước được.
Đ.H.I mới được Văn Cao đưa vào hoạt động nên
khi cùng Mẫn bám theo Cầm đến đầu chợ Hôm, do
muốn lập công, Đ.H.I đã tự ý vượt lên rút khẩuBrowningbắn
Cầm khiến Mẫn không kịp trở tay. Đ.H.I bắn
trượt, Cầm hoảng sợ chui xuống gầm xe. Đ.H.I
đạp xe chạy. Ba Mai rút súng định đuổi theo
bắn Đ.H.I nhưng Mẫn đã rút súng bắn chết Ba
Mai.
Vụ Đỗ Đức
Phin tại Hải Phòng
Đỗ
Đức Phinnguyên là
giáo viên, giỏi tiếng Nhật nên thường mở lớp
dạy tiếng Nhật tại nhà. Sau khi Nhật đảo chính
Pháp, Đỗ Đức Phin ra làm thông ngôn cho Nhật.
Cuối tháng 6/1945,
được Phin chỉ điểm, Nhật tổ chức một chiến
dịch truy quét các cơ sở cách mạng trong thành
phố. Hàng loạt các cán bộ cách mạng bị bắt.Trần
Liễn, một người bạn và là đồng đội của
Văn Cao chạy thoát lên Hà Nội báo cáo tình
hình ở Hải Phòng cho Văn Cao biết và đề nghị
Văn Cao về Hải Phòng trừ khử Đỗ Đức Phin. Văn
Cao giao nhiệm vụ choTrần
Liễnvề Hải Phòng tổ
chức theo dõi quy luật của Đỗ Đức Phin. Được
phép của cấp trên, Văn Cao xuốngHải
Phòng. Trước khi vào thành phố, Văn Cao
vào một cơ sở cách mạng trong làngDo Nha,
hóa trang thành một ông lão, mượn xe đạp vào
thành phố.
Ông về nhàDoãn
TòngởLạc Viênlà
nơi ông vẫn thường lui tới mỗi khi về Hải
Phòng. Tại đây những người bạn cũng là đồng
đội của Văn Cao đều đã có mặt.Trần
Liễnbáo cáo cho Văn
Cao về địa điểm Đỗ Đức Phin thường lui tới
hàng ngày. Đó là một tiệm hút thuốc phiện tại
góc phố Phan Bội Châu, gần Vườn hoa đưa người.
Văn Cao lên kế hoạch hành động và phân công
việc cụ thể cho từng người.
Hôm sau đến giờ
hành động,Doãn
Tònglấy xe đạp đèo
Văn Cao đến hết đườngCát Cụt,
Văn Cao xuống xe bảoDoãn
Tòngtrở về. Văn Cao
lách cửa vào, bình tĩnh lên gác. Đứng đầu cầu
thang nhìn vào phòng, Văn Cao xác định được Đỗ
Đức Phin nằm hút thuốc sát tường trên sập, mặt
hướng ra cửa. Văn Cao rút khẩuColt.45tiến
vào tuyên bố xử tử Đỗ Đức Phin và bóp cò nhưng
súng bị kẹt đạn. Ông bình tĩnh giắt khẩu
Colt.45 vào thắt lưng rồi móc túi áo măngtô
rút khẩuBrowningbắn
2 phát đạn găm vào ngực Đỗ Đức Phin. Bắn xong,
Văn Cao bình tĩnh xuống gác lách cửa ra, nhảy
lên xe đạp hòa vào dòng người đi ra thành phố.
Giải tán
Mấy ngày sau Quốc
khánh năm 1945, theo chỉ thị của trên, Văn Cao
bàn giao lại vũ khí,Đội danh
dự Việt Minhgiải thể.
Văn Cao lại trở về với công việc làm báo.
Tham gia lực
lượng Công an
Tháng 12 năm 1946,Lê Giản-
Giám đốc Nha Công an Trung ương tìm gặp Văn
Cao tại quán cà phê Thiên Thai ở phốHàng Gaivà
đề nghị: "Tình hình Lào Cai hiện nay rất
phức tạp, bọn Quốc dân đảng cấu kết với thổ
phỉ chống phá chúng ta công khai, trong khi
lực lượng ta lại yếu. Mình muốn cậu sang
giúp ngành Công an. Cậu sẽ phụ trách Đội
điều tra Công an Liên khu 10. Với kinh
nghiệm hoạt động bí mật trước đây, lại có vỏ
bọc là nhạc sĩ, chỉ có cậu mới đủ khả năng
trong công việc khó khăn và phức tạp này".
Tháng 3 năm 1947,
Văn Cao cùng vợ lênLào Cai. Một địa điểm gần chợCốc Lếuđược
Văn Cao chọn làm cơ sở hoạt động của Đội điều
tra. Văn Cao mở quán cà phê ca nhạc lấy tên là
quán Biên Thùy và giao cho ông Minh - một cán
bộ của ngành Công an do ông Lê Giản điều lên
cộng tác giúp ông làm quản lý.
Tại đây, Văn Cao
có điều kiện gặp gỡ, tiếp xúc và kết nghĩa vớiVua MèoHoàng
A Tưởng. Trung tuần tháng 7 năm 1947, lễ
kết nghĩa được tổ chức long trọng tại dinh thự
củaHoàng
A Tưởng. Bên phía Văn Cao cóTrần Huy Liệu-
đại diện Chính phủ, cùng toàn bộ các nghệ sĩ
của quán Biên Thùy tham dự.Hoàng
A Tưởngvà toàn
thể gia đình họ hàng cùng rất đông bạn bè,
quan khách. Bằng uy tín của mình, Văn Cao đã
giác ngộ cácthổ tyhiểu
thêm về chính sách đoàn kết các dân tộc củaHồ Chủ tịchvà
Chính phủ. Theo lời khuyên của Văn Cao,Hoàng
A Tưởng,Nông Vĩnh Xương,Vương Chí Sình,Đèo Văn Longcó
nhiều hành động thiết thực giúp đỡ và ủng hộ
Chính phủ trong những năm đầu của cuộc kháng
chiến. Để động viên tinh thần,Hồ Chủ tịchgửi
thư khen, mời họ lên thăm chiến khu và gặpBác.Hồ Chủ tịchđã
tặng mỗi người một thanh kiếm và giao choHoàng
A Tưởnggiữ chức Chủ
tịch Ủy ban Hành chính tỉnh Lào Cai, đồng thời
cửNgô Minh Loanlàm
đặc phái viên của Chính phủ trực tiếp làm việc
cùngHoàng
A Tưởng.
Tháng 8 năm 1947,
Văn Cao hoàn thành nhiệm vụ, Đội điều tra giải
tán và bàn giao lại công việc cho ôngLê Giản.Lê Giảnmuốn
giữ Văn Cao ở lại công tác cho ngành Công an.
Văn Cao từ chối và nói: "Công việc này không
thích hợp với tôi".[24]
Sự kiệnNhân
Văn - Giai Phẩm
Sauhiệp
định Genève 1954, Văn Cao hồi cư về Hà
Nội, làm việc choĐài Phát thanh,
nhưng rất ít sáng tác. Năm 1955, ông cầm bút
trở lại, viết bài cho đặc san Giai Phẩm.Tháng 2năm1956,
bài thơAnh có nghe khôngđược
đăng trên Giai phẩm mùa Xuân. Bài thơ này bị
Xuân Diệu đánh giá là "lập lờ, ấp úng, bí
hiểm, hai mặt, tuy nhiên công chúng cũng hiểu
nó muốn nói gì"[25]. Văn
Cao cùng các nghệ sĩ của hai tờ báo Nhân Văn
và Giai Phẩm khi đó chủ trương đòi hỏi tự do
văn nghệ, sáng tác. Đếntháng 12năm1956thì
cả hai tờ báo đều bị đình bản.
Như những nghệ sĩ
khác của nhómNhân Văn-Giai Phẩm, tuy có muộn
hơn, đếntháng 7năm
1958, Văn Cao phải đi học tập chính trị[26]. Tên
tuổi của Văn Cao hầu như không còn xuất hiện
trên các tạp chí văn nghệ ở Hà Nội. Những năm
sau đó, Văn Cao tiếp tục bằng nhiều công việc,
như viết nhạc không lời cho các truyện phim và
truyện kịch, trang trí sân khấu cho các đoàn
kịch, vẽquảng cáocác
báo, vẽ nhãn diêm... Các tác phẩm của ông,
cũng như cácca khúc lãng
mạn tiền chiếnkhác
(trừ bàiTiến quân ca) không được
trình diễn ở miền Bắc. Giai đoạn này, Văn Cao
hầu như không còn sáng tác. Đến cuối năm 1975,
Văn Cao viếtMùa
xuân đầu tiên.TheoVnExpress"ca
khúc được đăng ngay lần đầu tiên trên
báo Sài Gòn Giải Phóng số
mừng xuân Bính Thìn, đồng thời lập tức được
dịch lời và in ở Nga"[27].
Nhưng các chương trình Việt Ngữ tạiMoskvavẫn
cho trình bày bài hát, và nhờ vậyMùa
xuân đầu tiênđã
không bị lãng quên[28]. Văn
Thao, người con trai của Văn Cao, tiết lộ tiếp
rằng: "Nhưng cũng thật bất ngờ (không hiểu
bằng con đường nào), trong cái năm 1976 ấyMùa
xuân đầu tiênđược
in ở nước Nga và được Liên Xô trả nhuận bút
cho tác giả 100 Rúp. Văn Cao phải viết giấy
uỷ quyền qua sứ quán để con gái ông đang học
bên đó lĩnh hộ. Ông bảo con gái: "Con cứ lấy
mà tiêu, ở nước mình bao lâu nay bố có được
biết đến đồng nhuận bút tác phẩm nào đâu."[29]
Năm 1981, Việt Nam
phát động phong trào cả nước thi sáng tác quốc
ca nhưng sau đó không công bố kết quả, cuộc
thi cũng không được nhắc lại. BàiTiến
quân cavẫn là
quốc ca của Việt Nam. Cho đến cuối thập niên
1980, nhờ chính sáchĐổi Mớicủa
Tổng bí thưNguyễn Văn Linh,
các tác phẩm của Văn Cao cùng những nhạc sĩ
tiền chiến khác được biểu diễn trở lại.
Hoạt động nghệ
thuật
Âm nhạc
So với hai nhạc sĩ
Việt Nam nổi tiếng khác làPhạm Duykhoảng
1000 ca khúc vàTrịnh Công Sơnvới
600 ca khúc, Văn Cao sáng tác không nhiều. Sự
nghiệp âm nhạc của Văn Cao được chia làm hai
mảng chính: tình ca và hùng ca. Ngoài ca khúc,
ông còn viết một số tác phẩm khí nhạc dành chopianonhưSông
Tuyến,Biển đêm,Hàng
dừa xa...Ông còn sáng tác nhạc phim như
"Chị Dậu" (1980), tổ khúc giao hưởng phimAnh
bộ đội cụ Hồcủa Xưởng
phim Quân đội Nhân dân...
Tình ca
Nhạc thời tiền
chiến
Bìa
bản nhạcBến
Xuândo nhà
Tinh Hoa tái bản lần thứ ba, năm 1954
Trong giai đoạn
sáng tác đầu tiên, giống như những nhạc sĩtiền chiếnkhác,
Văn Cao viết các nhạc phẩm trữ tình, nhưng ít
ảnh hưởng bởi chủ nghĩa lãng mạn Pháp mà mang
nặng âm hưởng phương Đông. Từ ca khúc đầu tayBuồn
tàn thu, Văn Cao đã sử dụngngũ cungđể
viết về một hình ảnh quen thuộc trong nghệ
thuật châu Á: người phụ nữ đan áo ngồi chờ
đợi. SauBuồn tàn thu,
ông còn viết hai ca khúc khác về mùa thu làThu
cô liêuvàSuối
mơ. Trong đóSuối
mơvốn là một đoạn của
bảnTrương Chi 1được
Văn Cao phát triển thêm và cùng Phạm Duy hoàn
tất[30]. BảnTrương
Chinổi tiếng
sau làTrương Chi 2[31].
Bên cạnh đề tài
mùa thu, Văn Cao cũng viết hai ca khúc nổi
tiếng khác về mùa xuân làCung
đàn xưavàBến
xuân. Nhạc phẩmBến
xuâncó sự tham gia
của Phạm Duy, nhưng về sau Văn Cao viết lại
lời mới cho ca khúc này và đặt tênĐàn
chim Việt. Ngay từ những ca khúc đầu
tiên, Văn Cao đã giành được thành công.Buồn
tàn thuđược biểu diễn
trên các sân khấu hát rong và trên Đài Phát
thanh Sài Gòn trong những năm 1944-1945, lúctân nhạccòn
mới phôi thai nên trở nên phổ biến.Suối
mơ,Bến xuânđược
Phạm Duy đánh giá là cực điểm của lãng mạn
tính trong ca nhạc Việt Nam[32].
Nhưng hai tình
khúc của Văn Cao được đánh giá cao hơn cả làThiên
ThaivàTrương
Chi[32]. BảnThiên
Thaiđược nhà xuất bản
Tinh Hoa ởHuếin
năm 1944, Văn Cao tự nhận mình là "Người sông
Ngự", ghi:"Ảnh hưởng
sông nước khúcThiên Thaicổ
trong khung cảnh huyền diệu củaĐường Thivới
hai truyện Thiên Thai và Đào Nguyên. Người
sông Ngự đã lạc mất cảm xúc rồi!". Lời
bài hát được đề là của Văn Cao, Hoàng Thoái và
Phạm Duy cho rằng Hoàng Thoái là bí danh của
Đỗ Hữu Ích, một người bạn của Văn Cao[32]. Sử
dụng ngũ cung để viết về một câu chuyện cổ,Thiên
Thaicó tới 94 khuông
nhạc, vừa mang tính trường ca, vừa mang tính
nhạc cảnh. Năm 2001, khi phimNgười
Mỹ trầm lặngđược
thực hiện,Thiên Thaiđược
sử dụng làm nhạc nền của bộ phim. Giống nhưThiên
Thai,Trương Chicũng
dựa trêntích chuyện cổnhưng
không phải là một truyện ca mà manh tính tự
sự. Ca khúc này còn một đoạn lời nữa mà các ca
sĩ thưởng không trình diễn:Từ
ngày trăng mơ nước in thành thơ, Lạc loài
hương thu thoáng vương đường tơ.... Hình
ảnh Trương Chi trong bài hát cũng thường được
so sách với hình ảnh của chính Văn Cao.
Ngay từ khi còn
trongnhóm Đồng VọngởHải
Phòng, Văn Cao đã viết các ca khúchướng đạokhoẻ
khoắn. Cũng giống như các nhạc sĩ tiến chiến
khác, Văn Cao sử dụng đề tài lịch sử để thể
hiện tình ái quốc trongGò
Đống Đa,Hò kéo gỗ
Bạch Đằng Giang... NgoàiTiến
quân ca, ông còn sáng tác các hành
khúc khác nhưTiến về Hà
Nội,Thăng Long
hành khúc ca. Tham gia Việt Minh, Văn
Cao sáng tác các ca khúcChiến
sĩ Việt Nam,Công
nhân Việt Nam,Không
quân Việt Nam...
Năm 1947, sau
chiến thắng sông Lô, Văn Cao viết trường caSông
Lô, ca khúc ghi dấu ấn trong lịch sử tân
nhạc.Phạm Duyviết:"Đó
là tác phẩm vĩ đại... chẳng thua bất cứ một
tuyệt phẩm nào của nhạc cổ điển Tây
phương... Bài này đánh dấu sự trưởng thành
của Tân nhạc". Cũng theo ý kiến của Phạm
Duy,Trường ca sông Lôphải
là đỉnh cao nhất củanhạc kháng chiếnnói
riêng, của tân nhạc Việt Nam nói chung và Văn
Cao là "cha đẻ" của hùng ca, trường ca Việt
Nam[33].
Sau năm 1954, các
ca khúc của Văn Cao, trừTiến
quân ca, không được trình diễn ở miền
Bắc. Nhưng ở miền Nam, các ca sĩ hàng đầu của
Sài gòn như Thái Thanh, Khánh Ly, Hà Thành vẫn
trình diễn và ghi âm nhạc phẩm của Văn Cao. Ca
khúcKhông
quân Việt Namđược
sử dụng làm bài hát chính thức củaKhông lực Việt
Nam Cộng hòamặc dù
chưa được phép của tác giả.
Hội họa
Cùng vớiThái Bá Vân,Tạ Tỵlà
một trong số ít những người bạn thân quen có
hiểu biết sâu về tài năng hội họa của Văn Cao.
Trong hồi ký của ông, Tạ Tỵ nhắc lại quãng
thời gian đầu khi Văn Cao đến với hội họa:
“Văn Cao khi ở Hải Phòng, khi lên Hà Nội, mỗi
lần có mặt ở thành phố, Văn Cao thường đến tìm
tôi mời lại căn nhà ở trong con ngõ nhỏ đường
Hàm Long để khoe tranh mới. Trong khoảng thời
gian từ 42 đến 45, tôi đâu biết Văn Cao đã dấn
thân vào cách mạng, hoạt động bí mật cho Mặt
Trận Việt Minh. Quả thật tôi không để ý đến
cách mạng và chính trị nên thường có những lập
luận đối nghịch với Văn Cao về sáng tác. Văn
Cao cho rằng nghệ thuật chỉ có ý nghĩa khi nó
phục vụ cho số đông và một bức tranh đẹp phải
truyền cảm, gây được ấn tượng tốt cho người
xem tranh. Còn tôi cho rằng nghệ thuật, bất cứ
ở bộ môn nào, trước hết, phải có bản sắc cũng
như đặc tính của nghệ phẩm. Một bức tranh đẹp
không cần sự giải thích, chỉ cần sự cảm thông
giữa người xem tranh và tác phẩm (...) Nhưng
tuy miệng nói vậy, chứ Văn Cao vẽ cũng mới
lắm; những bản nhạc như Buồn Tàn Thu, Suối Mơ,
Thiên Thai, Trương Chi, v.v... được in ra đều
do Văn Cao trình bày bìa đi rất gần với trường
họa lập thể, mà hồi đó chưa có một bản nhạc
nào, cuốn sách nào trình bày dưới hình thức
đó.”[34]
Một điều không may
mắn là do nhiều lý do (như trách nhiệm của
những người lưu giữ và điều kiện bảo quản hạn
chế trong nhiều năm chiến tranh ở Việt Nam) mà
danh mục các sáng tác trong sự nghiệp hội họa
của Văn Cao đã không được liệt kê chi tiết như
các tác phẩm âm nhạc và thơ của ông. Bởi vậy
nhiều người muốn tìm hiểu về tài năng hội họa
của Văn Cao không có mấy điều kiện tiếp xúc
trực tiếp với những sáng tạo hội họa của Văn
Cao, và hầu như chỉ có thể căn cứ vào những ý
kiến phê bình của các bạn văn nghệ đương thời
của ông như Tạ Tỵ vàThái Bá Vân.
Theo những người
thân và bạn bè kể lại thì sức khỏe của Văn Cao
suy yếu nhanh trong những năm cuối đời. Ông
không còn ăn được cơm mà chuyển sang ăn bột
ngũ cốc do các cơ quan nội tạng bị hư hỏng
nặng. Tuy nhiên, ông chưa bao giờ bỏ được thú
vui uống rượu có từ thời trẻ.
Văn Cao kết hôn
cùng bà Nghiêm Thúy Băng năm 1947, có với nhau
5 người con, 3 trai đầu và 2 gái.
Tính cách
Đoạn mở đầu băng
nhạcVăn Cao - Giấc Mơ
Một Ðời Ngườido đạo
diễn Đinh Anh Dũng thực hiện năm 1994, Văn Cao
từng thẳng thắn bộc lộ tính cách rụt rè của
ông trong giao tiếp với phụ nữ thời trai trẻ:
"Tôi là một cái người luôn luôn thất bại về
tình yêu, cái thất bại này là bởi vì tôi là
người không giỏi về cách tôi giao lưu với
những người đàn bà, mà lại đối với những
người đẹp tôi lại càng bối rối, tôi không
bao giờ nói được với người ta, thì tôi bèn
nói trong thơ thôi." Những người từng
tiếp xúc với Văn Cao, dù ở mức độ thân quen
hay nổi tiếng khác nhau, đều có ghi nhận khá
tương đồng về ông. Đó là một người thân hình
gầy nhỏ, thâm trầm, thường trầm tư một mình,
sâu sắc trong giao tiếp, không có xu hướng
thích lớn tiếng hay lên giọng bậc trên trong
những cuộc chuyện trò. Những người từng đối
thoại với ông, dù quen biết hay không quen,
nổi tiếng hay không nổi tiếng, đều ghi nhận ở
Văn Cao khả năng đưa ra những nhận định rất
kiệm lời nhưng với sự chính xác và sắc sảo của
ngôn từ đến độ ít ai nghĩ tới. Họ cũng ghi
nhận ở Văn Cao tính cách khiêm tốn, luôn biết
lắng nghe người đối thoại và cũng ít khi nói
đến những gì thuộc về thành tựu sự nghiệp cá
nhân ông, trừ khi người khác muốn tìm hiểu.
Người ta đôi khi vẫn lấyPhạm Duyvà
Văn Cao để so sánh những khác biệt đến mức
tưởng như đối lập trong cá tính giữa hai con
người thường được ví như đôi bạn tri kỷ hiếm
có trong nền âm nhạc Việt Nam hiện đại. Phạm
Duy vẫn là người có những đánh giá, phân tích
chuyên môn uy tín, toàn diện, sâu rộng hơn bất
cứ ai khác về tài năng, sự nghiệp sáng tác âm
nhạc của Văn Cao. Nhà nghiên cứu văn họcThụy Khuêtrong
tác phẩm nghiên cứu vềsự kiện Nhân Văn - Giai Phẩmcũng
từng nhận xét rằng "người viết hay nhất và
đầy đủ nhất về Văn Cao là Phạm Duy".
Điều này có được trước tiên bởi kiến thức và
tầm vóc của Phạm Duy trong lịch sử tân nhạc
Việt Nam, một người nổi tiếng không chỉ bởi sự
nghiệp âm nhạc mà còn cả bởi lòng tự tôn bản
thân. Và quan trọng nữa là mối thân tình đặc
biệt giữa ông và Văn Cao từ thuở hai người còn
ở độ mười tám đôi mươi. Trong hồi ký của ông,
Phạm Duy mô tả về người bạn kém mình 2 tuổi
như sau, "thấp bé hơn tôi, khép kín hơn
tôi, nhưng Văn Cao tài hoa hơn tôi nhiều.
Chắc chắn là đứng đắn hơn tôi. Lúc mới gặp
nhau, anh ta chưa dám mày-tao với tôi, nhưng
tôi thì có cái tật thích nói văng mạng (và
văng tục) từ lâu, kết cục, cu cậu cũng theo
tôi mà xổ chữ nho. Nhưng Văn Cao bản tính
lầm lỳ, ít nói, khi nói thì bàn tay gầy gò
luôn luôn múa trước mặt người nghe. Anh ta
thích hút thuốc lào từ khi còn trẻ, có lần
say thuốc ngã vào tay tôi. Về sau, anh còn
nghiện rượu rất nặng."[32]Ngoài
Phạm Duy, những người được coi là bạn gần gũi
lâu năm của Văn Cao làThái Bá VânvàNguyễn Thụy Kha.
Đối lập với một
Văn Cao thời trai trẻ có vẻ nhút nhát, rụt rè
trong giao tiếp với phụ nữ là một Văn Cao của
những hành động quyết đoán trong những năm sôi
động của lịch sử Việt Nam trướcCách
mạng tháng Tám. Văn Cao học võ từ năm 9
tuổi. Thời trai trẻ ở Hải Phòng, Văn Cao đã
nhiều lần lên võ đài thi đấu và biểu diễn võ
thuật. (...) Với Văn Cao việc phải trừ khử một
người là điều ông không hề muốn. Nhưng vì
nhiệm vụ cách mạng nên ông phải hành động. Ông
từng viết:
“
Giữa sự
sống và cái chết
Tôi
chọn sự sống
Để bảo
vệ sự sống
Tôi
chọn sự chết.
”
Trong Văn Cao có
hai con người. Con người của nghệ thuật và con
người chiến sĩ cách mạng. Nhiều người muốn tìm
hiểu phần con người thứ hai của ông. Nhất là
những sự kiện mọi người gọi là "thành tích phi
thường" ông đã làm trong thời gian phụ trách
Đội trừ gian. Ông thường né tránh và ít khi
nhắc đến. Có lần ông tâm sự với tôi: "… Bố
đã từng giết một con người… Ông ta nhìn vào
họng súng, nhìn bố với đôi mắt ngơ ngác như
muốn hỏi - Sao lại giết tôi. Cho đến giờ, bố
vẫn bị ám ảnh vì đôi mắt ấy…"."[11]Họa
sĩTạ
Tỵ, một người bạn văn nghệ thời trẻ của
Văn Cao, cũng nhận xét về những đối lập trong
tính cách của ông: “Văn Cao là mẫu người
đặc biệt. Với vóc dáng nhỏ nhắn. Với nụ cười
lắng chìm không thành tiếng. Với hàm răng
ngắn, đều. Với đôi mắt lạnh lùng dễ sợ lúc
giận dữ, và dịu hiền khi tâm hồn chìm du vào
dòng suy tưởng. (...) Chưa ai nghĩ tới và
tưởng tượng nổi một Văn Cao trước những đối
nghịch lớn, chứa đựng cái vóc dáng khiêm
nhượng ấy. Người ta có thể cho là huyền
thoại khi nói về một Văn Cao vẽ giấy bạc giả
để chi dùng trong khi hoạt động túng thiếu,
đến lúc hành vi bị lộ, đã rút súng Colt 45
chĩa vào những người có mặt, bắt họ giữ
nguyên vị trí, để mình rút lui, rồi sau ngày
19-8, mang giấy bạc thật đến hoàn lại số
tiền đã trả bằng bạc giả với đôi lời xin
lỗi. Cũng như ít ai biết tác giả Thiên Thai,
Trương Chi ở tổ chức ám sát nội thành Hà Nội
dưới thời Nhật. Bị hoàn cảnh xã hội lúc đó
đẩy vào con đường nghẽn, Văn Cao phải lao
tìm một lối sống đặc biệt. (...) Dù sao, Văn
Cao vẫn hiện diện trong tôi với hình dáng
của một tinh cầu giá lạnh, với cô đơn dằng
dặc ở cuối khung trời ngăn cách.”[35]
Trong giới văn
nghệ sĩ Việt, Văn Cao vẫn luôn nổi tiếng là
người "sành rượu" và thậm chí có người từng mô
tả Văn Cao đã nâng thú uống rượu thành một thứ
nghệ thuật của riêng ông, giống như cá tính
độc đáo của ông trong những lĩnh vực nhạc -
họa - thơ vậy. Họa sĩ, nhà vănTạ Tỵ(Mười
khuôn mặt văn nghệ, 1970) từng kể về
“khiếu uống rượu” của Văn Cao: “Đầu năm 1947,
nhân chuyến lên Việt Bắc cùng Phạm Duy, tôi
gặp Văn Cao ở Yên Bái, trong buổi chiều nắng
tàn xuân thoi thóp trên đầu núi ngọn rừng,
trên nỗi điêu tàn của một thành phố bắt đầu
tiêu thổ! Chúng tôi ngồi trong quán ăn giữa
trời. Bữa đó, tôi chứng kiến lần thứ nhất tài
uống rượu của Văn Cao. Văn Cao uống hai chai
đế, da mặt cứ tái đi và thái độ vẫn ung dung
hoà nhã như chưa uống giọt nào. Lúc trước, tôi
đã nghe nói về tửu lượng và sức hút thuốc
phiện của Văn Cao. Theo anh em, Văn Cao có thể
hút sáu, bảy mươi điếu liền trong một tối và
uống tối thiểu một chai “Cổ nhát” sếch. Lúc
vui, tôi hỏi. Văn xác nhận: “Đúng! – “Moa”
uống và hút như thế đó, nhưng không nghiện
thứ nào cả. Có cũng vui, không cũng chẳng
sao!”.
Người con trai cả
của Văn Cao là Văn Thao trong một bài viết choBáo Công
an nhân dân(2012) đã
không giấu nổi sự khâm phục về "khiếu ẩm thực"
của cha mình: Cha tôi cũng hay được mời đi ăn
vì vậy nếu thấy có món nào ngon và lạ miệng
ông đều tìm hiểu cách chế biến rồi về nhà đợi
khi có điều kiện là tiến hành nấu thử cho gia
đình thưởng thức trước. Có lần tôi hỏi ông:
"Làm thế nào mà bố lại biết nấu nhiều món ăn
ngon thế?". Trầm ngâm một lát, ông mới thủng
thẳng nói: "Ai chẳng thích ăn ngon! Nhưng
để nấu cho ngon thì không phải ai cũng nấu
được. Một miếng thịt cho vào chảo rán lên
rồi thái ra chấm nước mắm ăn sẽ không thể
bằng miếng thịt được tẩm ướp với một chút
muối, mì chính, tỏi và húng lìu rồi mới đem
rán. Khi ăn ta chấm với nước mắm chanh ớt,
tỏi và một chút hạt tiêu kèm theo vài cọng
rau mùi mới thấy hết được giá trị của gia vị
đã làm cho miếng thịt rán thơm ngon lên gấp
bội. Vì thích ăn ngon nên những khi có điều
kiện để mời bạn đến uống rượu là bố phải
"lăn vào bếp". Nhìn mọi người ăn ngon miệng
là bố thấy vui... Nấu ăn cũng là một nghề
đầy tính nghệ thuật".[36]Qua
những dòng mô tả từ chính người con trai của
ông thì có thể thấy Văn Cao thực sự là một
người "sành ăn uống", "sành ẩm thực". Ông
không chỉ tinh tế trong cách thưởng thức (bao
gồm cả cách uống rượu) mà cũng thành thạo
trong cách chế biến những món ăn ông ưa thích.
Câu nói
Đúng là
lớp trẻ bây giờ chỉ biết Văn Cao là tác
giả Tiến quân ca, còn Văn Cao thế nào thì
chịu.(1993)
Đầu đời
Văn Cao đã có một Kim Tiêu, không ngờ cuối
đời lại gặp một Ánh Tuyết.(lời
của Văn Cao nói với ca sĩÁnh
Tuyếtkhi nghe Ánh
Tuyết hát bàiTrương
Chicủa ông.
Theo như Ánh Tuyết thuật lại thì khi đó Văn
Cao đã không cầm được nước mắt.)
Ngồi đây
ta gõ ván thuyền, ta ca trái đất còn riêng
ta
Người đi
dọc biển/ Không để lại dấu chân.(trích
dẫn thơ Văn Cao)
Con
thuyền đi qua / để lại sóng / Đoàn tàu đi
qua / để lại tiếng / Đoàn người đi qua /
để lại bóng / Tôi không đi qua tôi / để
lại gì?
Giữa sự
sống và sự chết / Tôi chọn sự sống / Để
bảo vệ sự sống / Tôi chọn sự chết.(Chọn,
26.8.1957)
Có lúc /
một mình một dao trong rừng / không sợ hổ.
/ Có lúc / ban ngày nghe lá rụng sao /
hoảng hốt. / Có lúc / nước mắt không thể
chảy / ra ngoài được.(Có
lúc, 1963)
Tiếng kêu
ở trong tôi / Có xót xa có cả vui mừng /
Tiếng kêu của một khúc thép đỏ / Trong
chậu nước(Cạn)
Kỉ niệm
trong tôi / Rơi / như tiếng sỏi / trong
lòng giếng cạn(Thời
gian)
Tôi yêu
Hải Phòng như Việt Nam nhỏ lại / Tôi yêu
Việt Nam như tôi biết yêu tôi.(Những
ngày báo hiệu mùa xuân)
Tôi không
được làm trái đầu mùa / Những trái cây cao
giá / Tôi, Một trái cây muộn còn sót lại
cành.(Sự sống
thật, 1970)
Những bó
hoa mang tới / chúc tụng / Thành công một
con người / Hàng ngày hàng ngày / Xây
thành cái mồ chôn / Con người thành công
ấy / Đôi khi người ta bị giết / bằng những
bó hoa.(Những bó
hoa, 17.3.1974)
Tin tất
cả và hoài nghi tất cả / Chúng ta là những
kẻ chài quen biển / Thấy ngọn lửa quay đầu
/ Biết bão táp đang trở mình trên mặt sóng(Những
ngày báo hiệu mùa xuân)
Người ta
yêu những người cố mở đường mà thất bại,
yêu những người biết thất bại mà dám mở
đường… Hôm nay, con đường lớn nhất của
chúng ta là mở cho tất cả những giấc mơ,
những khát vọng thuộc về sự sáng tạo của
con người tự do phát triển bay đi xe mật
về ổ. Mở cho những giấc mơ, những khát
vọng tự do phát triển bao nhiêu là tập
trung tất cả giấc mơ và khát vọng của con
người làm thành mũi nhọn kéo lê đi phía
sau cái thực tế chậm chạp.(Mấy
ý nghĩ về thơ)
Cái mới
đâu phải là những cái không sẵn có. Sự làm
mới những cái sẵn có cũng là một phương
pháp sáng tạo.
Một trong
những hướng xây dựng nhân vật là đào tạo
cho xã hội những người biết khai thác,
khám phá, phân tích thực tế và mở đường
cho tương lai.(Mấy
ý nghĩ về thơ).
Cuộc đời
và nghệ thuật của nhà thơ phải là những
dòng sông lớn càng trôi càng thay đổi,
càng trôi càng mở rộng.
Ảnh hưởng
sông nước khúc Thiên thai cổ trong khung
cảnh huyền diệu của Đường thi với hai
truyện Thiên thai và Đào nguyên. Người
sông Ngự đã lạc cảm xúc rồi.(Lời
tựa cho bàiThiên Thai,
1944. Thời này Văn Cao thường tự gọi mình là
"Người sông Ngự".)
Tương
tiếnPhạm Duy, kẻ du
ca đã gieo nhạc buồn của tôi đi khắp chốn.(Đề
tặng dưới tựaBuồn Tàn Thu, 1939)
Tôi gọiTrịnh
Công Sơnlà người
thơ ca (Chantre) bởi ở Sơn, nhạc và thơ
quyện vào nhau đến độ khó phân định cái
nào là chính, cái nào là phụ. Và bởi Sơn
đã hát về quê hương đất nước bằng cả tấm
lòng của một đứa con biết vui tận cùng
những niềm vui và đau tận cùng những nỗi
đau của Tổ quốc mẹ hiền. (Lời bạt cho
tập nhạc “Em còn nhớ hay em đã quên”, Nhà
xuất bản Trẻ, TP. HCM, 1991)
Trong âm
nhạc của Sơn, ta không thấy dấu vết của âm
nhạc cổ điển theo cấu trúc bác học phương
Tây. Sơn viết hồn nhiên như thể cảm xúc
nhạc thơ tự nó trào ra. Nói như nhạc sĩNguyễn
Xuân Khoát, người bạn già của tôi,
“Trịnh Công Sơn viết dễ như lấy chữ từ
trong túi ra”. Cái quyến rũ của nhạc Trịnh
Công Sơn có lẽ chính là ở chỗ đó, ở chỗ
không định tạo ra một trường phái nào, một
triết học nào, mà vẫn thấm vào lòng người
như suối tưới. Với những lời, ý đẹp và độc
đáo đến bất ngờ hôn phối cùng một kết cấu
đặc biệt như một hình thức của dân ca hầu
như không thay đổi, Trịnh Công Sơn đã
chinh phục hàng triệu con tim, không chỉ ở
trong nước, mà cả ở bên ngoài biên giới
nữa. (Lời bạt cho tập nhạc “Em còn nhớ
hay em đã quên”, Nhà xuất bản Trẻ, TP. HCM,
1991)
Với bố,
phải ngồi lại để viết hồi ký có nghĩa là
cuộc đời sáng tạo nghệ thuật của mình đã
chấm hết. Để viết cho trung thực và khách
quan, khi nhìn lại cả cuộc đời mình, dám
nhận những sai lầm của mình trong các mối
quan hệ xã hội đã khó, tự đánh giá và
khẳng định được những tác phẩm của mình ở
tầm cỡ nào và bảo vệ những quan điểm nghệ
thuật của mình còn khó hơn. Còn viết hồi
ký để đề cao mình, thanh minh cho mình, có
khi dẫn đến việc nói xấu và hạ thấp vai
trò của người này người khác... thì bố
không làm được. Vì thế mà bố không viết
hồi ký. Theo bố hãy để mọi người nghĩ, tìm
hiểu và viết về bố thông qua chính những
tác phẩm của mình thì khách quan hơn... Mà
biết đâu con cũng sẽ là người viết cho bố?(trả
lời câu hỏi của con trai cả là họa sĩ Văn
Thao “Sao bố không viết hồi ký?”)[38]
Tôi là
tác giả “Quốc ca”, bao nhiêu năm tôi phải
giữ gìn, dù sao tên tuổi mình cũng đã gắn
với một cái gì của đất nước, tuy nhỏ bé
nhưng thiêng liêng. Ông cũng biết đấy, dân
nhạc tài hoa thường anh nào trong đời
chẳng có ba bốn cô xinh đẹp vây quanh. Còn
tôi, tôi phải giữ gìn, giữ gìn vì tên tuổi
mình phải trong sạch, hai nữa với gia
đình, phải xứng đáng với người vợ của
mình.(trong cuộc
trò chuyện với nhà nghiên cứu văn họcHà
Minh Đức)[39]
Sau triển
lãm Duy nhất 1944 (Salion unique), tôi về
một căn gác hẹp đầu phố Nguyễn Thượng
Hiền. Ba bức tranh sơn dầu của tôi, tuy
được trưng bày vào chỗ tốt nhất của phòng
tranh - Nhà Khai Trí Tiến Ðức - và được
các báo khen ngợi nhưng cũng không bán
nổi. Hy vọng về cuộc sống hội họa, tại Hà
Nội không thể thực hiện được. Anh bạn
nhường cho tôi căn gác ấy, là người đã
xuất bản mấy bản nhạc đầu tiên của tôi,
cũng không thấy nói đến việc trả tiền
nhuận bút. Tôi chưa bao giờ nhận được tiền
nhuận bút về các bản nhạc viết hồi đó, dù
đã trình diễn nhiều lần ở các tỉnh từ bắc
tới nam, tôi cũng không nhận được tiền
nhuận bút về thơ và truyện ngắn.(Trích
dẫn hồi kýTại
sao tôi viết “Tiến quân ca”)
Năm
ấyrét hơn mọi
năm. Tôi ngủ với cả quần áo. Có đêm tôi
phải đốt dần bản thảo và ký họa để sưởi.
Ðêm năm ấy cũng dài hơn mọi năm. Những
ngày đói của tôi bắt đầu.(Trích
dẫn hồi kýTại sao tôi
viết “Tiến quân ca”)
Tôi chưa
được cầm một khẩu súng, chưa được gia nhập
một đội vũ trang nào. Tôi chỉ đang làm một
bài hát. Tôi chưa được biết chiến khu, chỉ
biết những con đường phố Ga, đường Hàng
Bông, đường Bờ Hồ theo thói quen tôi đi.
Tôi chưa gặp các chiến sĩ cách mạng của
chúng ta trong khóa quân chính đầu tiên
ấy. Và tôi biết họ đang hát như thế nào. Ở
đây tôi đang nghĩ cách viết một bài hát
thật giản dị cho họ hát được.(Trích
dẫn hồi kýTại sao tôi
viết “Tiến quân ca”)
Tôi đang
chờ nhận một khẩu súng và được tham gia
vào đội vũ trang. Tôi đang chuẩn bị làm
bài hát. Thật khó nghĩ tới nghệ thuật lúc
này. Tôi đi mãi tới khi đèn các phố bật
sáng. Bên một gốc cây, bóng mấy người đói
khổ trần truồng, những bộ xương khô đét
loang trên mặt hồ lạnh. Họ đang đun một
thứ gì trong một ống sữa bò. Ngọn lửa tím
sẫm bập bùng trong những hốc mắt. Có một
đứa bé gái, nó khoảng lên ba, tôi ngờ như
đã gặp cháu tôi. Đôi mắt nó giống như mắt
mèo con. Cháu bé không có mảnh vải che
thân. Nó ngồi ở xa nhìn mấy người lớn sưởi
lửa. Hình như nó không phải là con cái số
người đó. Hình như nó là đứa trẻ lạc, cũng
không phải cháu tôi. Nó đã chết thật rồi.
Có thể nó đã nằm trong đám người chết đói
dọc đường Nam Định, Hải Phòng. Tôi bỗng
trào nước mắt và quay đi. Đêm ấy về căn
gác, tôi đã viết được nét nhạc đầu tiên
của bài “Tiến quân ca”.(Trích
dẫn hồi kýTại sao tôi
viết “Tiến quân ca”)
Bài
hát đã làmtrong
thời gian không biết bao nhiêu ngày, tại
căn gác hẹp số 45 Nguyễn Thượng Hiền, bên
một cái cửa sổ nhìn sang căn nhà hai tầng,
mấy làn cây và một màn trời xám. Ở đây
thường vọng lên những tiếng xe bò chở xác
người chết đói về phía Khâm Thiên. Ở đây
hằng đêm, mất ngủ vì gió mùa luồn vào từng
khe cửa, vì tiếng đánh chửi nhau của một
gia đình anh viên chức nghèo khổ, thiếu
ăn, vọng qua những khe sàn gác hở. Ở đây
tôi hiểu thêm nhiều chuyện đời.(Trích
dẫn hồi kýTại
sao tôi viết “Tiến quân ca”)
...Còn về
lời ca [của “Tiến quân ca”], có người bảo
tôi là tại sao có đoạn lại viết: “Thề
phanh thây uống máu quân thù!” Tôi lặng
người, sau đó trả lời: “Hoàn cảnh lúc đó,
nếu không có2 triệu người chết đóidần
mà tôi đã từng chứng kiến khi bắt đầu sáng
tác ca khúc này, tôi sẽ không viết như
vậy. (...) Thôi, giờ tôi có tiếc nuối cũng
chẳng thể làm gì. Dù sao Tiến quân ca cũng
chẳng phải là của riêng tôi, nó đã là của
một dân tộc Việt Nam độc lập kể từTổng
khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945đến
nay.”[40]
Huế là
một nguồn sáng tạo của tôi trong những năm
40. Thơ và nhạc là điều tôi tìm nguồn từ
ấy. Có lẽ lịch sử và cảnh vật của cố đô có
những điều gây cảm xúc cho sáng tác. Đối
với nơi đó người ta phải suy nghĩ nhiều
không vì lịch sử mà về một nền văn hóa.
Những người Huế sống tự hào và đầy sáng
tạo. Có lẽ sự sáng tạo của người dân Huế
tôi làm được âm nhạc và thơ.(trong
một lá thư gửi choTạp
chí Sông Hương, ngày 2/10/1986)
Tại sao
tôi nói đến Thiên Thai là bởi vì một nơi
một cõi nào đó người ta coi như đất hứa mà
cái đất hứa ấy thì không ai tìm được trên
cái cõi thế gian này, đi tìm mãi trong
những cái hoài niệm của mình tuổi thanh
niên thì nhớ ra rằng có lần tìm ra được.(Trong
phim tài liệu ca nhạcVăn
Cao - Giấc mơ một đời ngườicủa
đạo diễn Đinh Anh Dũng, 1992)
Tôi là
một cái người luôn luôn thất bại về tình
yêu, cái thất bại này là bởi vì tôi là
người không giỏi về cách tôi giao lưu với
những người đàn bà, mà lại đối với những
người đẹp tôi lại càng bối rối, tôi không
bao giờ nói được với người ta, thì tôi bèn
nói trong thơ thôi.(Trong
phim tài liệu ca nhạcVăn
Cao - Giấc mơ một đời ngườicủa
đạo diễn Đinh Anh Dũng, 1992)
...Có
người nói thẳng tới cái vô cùng tận của
trời xanh; có người nói cái vô cùng tận
của trời xanh qua cái rộng của biển. Cũng
có người thấy trời xanh vô cùng tận trong
bát nước và cũng có người chỉ nói tới một
giọt ánh sáng để thấy cái vô cùng tận của
trời xanh. Có người cần phải tìm con đường
lớn mới thấy dấu xe mà có người tìm thấy
dấu xe trong hạt bụi.(Tuyển
tập thơ, Nhà xuất bản Văn học, 1994)
Dấu ấn và di
sản văn nghệ
Trong lĩnh vựcâm nhạc,
Văn Cao là người có công khai phá và giúp hoàn
thiện một số thể loại củatân nhạc Việt
Namnhưnhạc trữ tình(nhạc tiền chiến),[41]hùng
ca (nhạc cách mạng,
nhạc kháng chiến),[42]vàtrường ca.[43]Trong
lĩnh vựcthi ca, ông
cũng là một trong ít người không ngừng đi tiên
phong với những cách tân mang tính đột
phá-sáng tạo trongthơ Việt Nam hiện đại.[44][45][46]Đã
có những quan điểm chuyên môn xem ông là một
trong những người đi khai phá, mở đầu cho sự
phát triển của thể loạitrường ca thơhiện
đại Việt Nam, đặc biệt kể từ nửa cuối thập
niên 1950 trở đi.[47][48][49][50][51]Tuy
nhiên, những đóng góp của ông cho thơ ca và
hội họa[5][52][53]dân
tộc ít khi được nhắc tới so với những cống
hiến to lớn vềâm nhạccủa
ông. Văn Cao được xem là một hiện tượng hiếm
có trong lịch sử phát triển củavăn hóa Việt
Nam– một con người mà
sự kết hợp nhạc-họa-thơ là xuyên suốt trong
gần như toàn bộ những sáng tác đa dạng của
ông. Trong địa hạt âm nhạc của ông, ngoài
những nét đẹp về giai điệu, ca từ cũng mang
nhiều tính thơ và họa. Còn trong địa hạt thơ
của ông, họa tính là rất đặc trưng.[54]
Ở Văn Cao, tầm vóc
không phải là thứlượng
hóa, tức là tính bằng con số những sáng
tác. Bởi xét về số lượng, những sáng tác của
Văn Cao (đặc biệt trong lĩnh vực nhạc và thơ)
còn ít hơn đáng kể ngay cả so với nhiềunhạc sĩhoặcthi sĩở
tầm trung tại Việt Nam. Đánh giá Văn Cao cần
nhìn xuyên suốt tư tưởng của ông trong cả ba
lĩnh vực là nhạc-họa-thơ. Xét về nhiều phương
diện, Văn Cao là mẫu nghệ sĩ hiếm có bởilịch sử Việt
Namkhông có khuynh
hướng tạo ra những nghệ sỹ có tinh thần dám
khai phá sáng tạo như ông. Mẫu người trí thức
hoặc nghệ sĩ điển hình trong xã hội Việt Nam
(từ chế độ phong kiến, tới phong kiến nửa thực
dân, rồi thời phân chia quốc cộng) thường là
con người biết nương theo hoàn cảnh, trở thành
viên chức tận tụy phục vụ chế độ chính trị anh
ta đang sống. Văn Cao chưa bao giờ nuôi tham
vọng chính trị. Ông tham gia Việt Minh chỉ vì
lòng yêu nước. Ông luôn là người nghệ sĩ có
tinh thần tự do sáng tạo. Ông là người nghệ sỹ
độc lập, phi chính trị. Đây cũng là nguyên
nhân khiến ông trở thành nạn nhân trong sự
kiện đàn áp phong trào Nhân văn Giai phẩm
khiến một thời gian dài ông không thể sáng
tác. Đây có thể xem là một đặc tính ít mang
tính truyền thống hơn cả trong con người của
Văn Cao. Có thể nó có ảnh hưởng ít nhiều từ
văn hóa phương Tây, cái mà ông có thể tiếp
nhận từ hệ thống giáo dục thuộc địa của Pháp.
Mặc dù là đôi bạn văn nghệ tri kỷ, nhưng về
nhiều phương diện Văn Cao trái ngược với Phạm
Duy. Văn Cao là người đi tiên phong, đặt nền
móng, gợi mở nhiều hướng phát triển mới cho
nhạc và thơ Việt hiện đại nhưng ông chưa bao
giờ thực sự thăng hoa về mặtlượng(so
với sự dồi dào về mặtchất)
ở cả hai lĩnh vực. Còn Phạm Duy là người kế
thừa nhiều khai phá từ Văn Cao và phát triển
chúng đến độ phì nhiêu.
Văn Cao đã được
nhiều người coi là một trong những danh nhân
văn hóa tiêu biểu của Việt Nam thời hiện đại.[55][56][57]Là
một bậc thầy của nghệ thuật sử dụng ngôn từ
phong phú và biến hóa trong các sáng tác nhạc
và thơ của ông, cống hiến của Văn Cao cho
riêng tiếng Việt - với tư cách một ngôn ngữ có
khả năng chuyên chở đầy đủ những sắc thái cảm
xúc và tư tưởng của người nghệ sĩ - đã thậm
chí được so sánh với cống hiến củaNguyễn Ducho
riêng ngôn ngữ thi ca dân tộc. Là người tài
hoa được thừa nhận trên nhiều lĩnh vực như
nhạc-họa-thơ[17]nhưng
cuộc đời và sự nghiệp của Văn Cao cũng được
xem là một điển hình của định mệnh "tài"[58]và
"tai"[59]trong
lịch sử văn hóa của Việt Nam. Ông không có
những quãng thời gian đủ dài và suôn sẻ trong
sáng tạo nghệ thuật so với những tên tuổi nhưPhạm DuyhayTrịnh Công Sơnbởi
bối cảnhchính trị,văn hóađặc thù
của miền Bắc so vớimiền Nam Việt
Namnhững năm chiến
tranh chia cắt. Đánh giá về Văn Cao, trong
nhiều bài viết các tác giả không ngần ngại gắn
cho ông mỹ từthiên tài,
trong đó cóPhạm Duy(2007),Thụy Khuê(2010),
Đỗ Ngọc Thạch (2013), hayTrần Mạnh Hảo(2013).
Đây mặc định có thể xem là đánh giá ở mức độ
cao nhất đối với bất cứ ai hoạt động trong
lĩnh vực văn hóa nghệ thuật ở Việt Nam. Trong
văn học nghệ thuật của dân tộc, trước Văn Cao
có lẽ chỉ cóNguyễn Dutrong
thi ca là thường được gắn với mỹ từthiên
tàinhiều hơn cả. ViệcPhạm Duydùng
mỹ từ đó cũng cho thấy sự trân trọng ông dành
cho Văn Cao lớn thế nào, bởi Phạm Duy với lòng
tự tôn của một cây đại thụ hàng đầutân nhạc Việtkhông
phải người dễ dãi trong đánh giá thành tựu của
đồng nghiệp. Với những kiến thức phong phú vềnhạc lývà
văn hóa dân tộc, Phạm Duy hơn ai hết có đầy đủ
thẩm quyền đánh giá về tài năng của Văn Cao.
Nhiều người nghiên
cứu sâu về Văn Cao (trong đó có bạn vong niên
của ông là nhà nghiên cứu âm nhạcNguyễn Thụy Khavà
con trai trưởng của Văn Cao là họa sĩ Văn
Thao) thường nhắc tới khả năng đưa ra nhữngtiên
trihay dự đoán đến
mức chính xác đáng kinh ngạc trong những sáng
tác âm nhạc của ông. Nhiều sự kiện đãxảy
ratrong các tác phẩm
của Văn Cao trước khi chúng được ghi nhận
trong thực tế lịch sử Việt Nam thế kỷ ông đã
sống.[60]Một
số tác phẩm điển hình làKhông
quân Việt NamvàTiến
về Hà Nội.[61]
Nhận xét
Về cuộc đời và
sự nghiệp
“
Thấp bé hơn
tôi, khép kín hơn tôi, nhưng Văn Cao tài
hoa hơn tôi nhiều. (...) Hình như Văn
Cao có đi học vẽ ởtrường
Cao đẳng Mỹ thuậtnhư
tôi, nhưng chắc chắn anh đã được hoạ sĩ
Lưu Văn Sìn dắt vào hội hoạ. Văn Cao vẽ
rất giỏi. Tôi giữ được bức tranh tự hoạ
của Văn Cao, tranh sơn dầu vẽ trên bìa
cứng cho tới ngày Pháp đánh Saigon vào
năm 1945 thì mất, tiếc quá! Văn Cao làm
thơ cũng rất hay. Vào năm 1941 mà anh đã
có những câu thơ nghe như thơHuy
Cận(...) Chưa
gặp Văn Cao nhưng tôi đã biết tài soạn
nhạc qua mấy bài nhạc hùng của anh
rồi...
Văn Cao nhập
cuộc không phải bằng tài năng đơn độc mà
bằng một thác lũ nghệ thuật, chùm lấp
vòm trời Kinh đô Văn nghệ. Từng bước
khoảng khoát, Văn Cao hiên ngang đi vào
lòng Mẹ Việt Nam và được tiếp nhận nồng
hậu. (...) Ở Văn Cao, mỗi lời thơ là một
hạt ngọc, mỗi tiếng nhạc là mỗi sợi tơ,
mỗi màu sắc là một vùng hào quang diễm
lệ. Sự vượt lên của Văn Cao trong một
thành phố đục lầm cát bụi, trong tiếng
khua rộn ràng của những sợi dây xích sắt
khổng lồ trong tiếng nấc nghẹn ngào
không thoát khỏi cổ họng, được coi như
cố gắng phi thường của một tâm hồn sung
mãn. Đối nghịch đã làm cho Văn Cao trở
thành con người có phong cách riêng
biệt.
Nguồn của dòng
sông mang tên Văn Cao là tâm hồn phong
phú của nhà nghệ sĩ tài ba, trong lãnh
vực âm nhạc cũng như thi ca. Sau khi ra
khỏi vùng lưu vực hoang vu của tiềm
thức, dòng sông tẻ ra ba nhánh trôi miên
man trong huyền ảo của khói trắng sương
mù.
Chắc hẳn một
nghệ sĩ như Văn Cao chưa hề được thẩm
định một cách xứng đáng về hội họa và
thơ. Chỉ một câu thơ như:Có
lúc / nước mắt không thể chảy ra ngoài
đượcđã là cả
một ám ảnh đọng lại mãi trong lòng
người. Tôi cảm thấy, ít nhất, những
người thuộc thế hệ chúng tôi còn mắc nợ
với một thiên tài của đất nước như Văn
Cao.
Cuộc đời 72
năm của Văn Cao gắn bó trọn vẹn với Việt
Nam thế kỷ XX nhiều biến động, để lại
cho thế hệ sau không ít câu hỏi không dễ
trả lời. Câu hỏi rộn ràng về cống hiến
nhọc nhằn, câu hỏi cồn cào về thế sự
ngổn ngang, về mệnh kiếp lênh đênh. Một
Văn Cao đa tài không thể che chở một Văn
Cao lận đận. Một Văn Cao danh vọng không
thể bênh vực một Văn Cao cay đắng. Một
Văn Cao hào hoa không thể an ủi một Văn
Cao cô độc.
Văn Cao sáng
tácBuồn
tàn thunăm
1939, lúc mới có 16 tuổi,Thiên
Thai(năm 1940),Trương
Chi,Thu cô
liêu,Bến
xuân,Suối mơ(năm
1941)… Thiên tài âm nhạc Văn Cao đã phát
lộ vào tuổi đôi mươi mơ mộng. Và đến
những bản hùng ca chứa đựng hào khí dân
tộc trong những ngày đầu độc lập và toàn
quốc kháng chiến:Bắc
Sơn,Làng tôi,Ngày
mùa,Trường ca sông Lô…
và đỉnh cao làTiến
quân ca, sau này trở thành
Quốc ca. Những thành công lớn đó của Văn
Cao trong âm nhạc đã nhanh chóng đưa Văn
Cao đến đỉnh vinh quang và trong ý niệm
của công chúng ông là một thiên tài âm
nhạc. Điều đó phần nào đã che lấp đi một
Văn Cao khác – Văn Cao thi sĩ và Văn Cao
họa sĩ.
Ở Việt Nam,
trường hợp tiêu biểu cho sự song hành ba
tài năng trong một con người là Văn Cao.
Ông là nhạc sĩ, nhà thơ, họa sĩ. Nhiều
đồng nghiệp đã gọi ông là “nghệ sĩ trên
nghệ sĩ”. Những ca khúc bất hủ của Văn
Cao đã nằm lòng nhiều lứa tuổi từ trướcCách mạng tháng Támđến
bây giờ. Tất cả những nhạc phẩm, ông đều
phổ từ thơ của ông hoặc tự viết ca từ
cho ca khúc của mình. Điều đặc biệt là,
những bài thơ, những ca từ ông viết ra
đều mang màu sắc hội họa, bởi ngoài tài
danh văn chương và âm nhạc, ông còn là
một họa sĩ đích thực. Từ những năm
1943–1945, những bức sơn dầu, bột màu
của ông đã được đánh giá cao trong triển
lãm mĩ thuật. Hiện nay một số tranh của
ông vẫn được lưu giữ trongBảo
tàng Mỹ thuật Việt Nam.
Giấc mơ một đời ngườiđến
từ giấc mơ của nhạc sĩ Văn Cao khi tôi
nghe ông kể về giấc mơ được biểu diễn
một đêm nhạc ởNhà hát lớn Hà Nội. Sau đó
tôi suy nghĩ hoài, một người như ông
không được một đêm nhạc như vậy thì quá
tội! Tôi nghĩ về ước mơ đó và đặt tựaGiấc
mơ một đời người. Phim bắt đầu
bằng cảnh ông mơ giấc mơ một đêm nhạc ở
nhà hát nhưng giật mình lại chỉ còn một
mình ông. Còn vớiVăn Cao - Buổi
sáng có trong sự thậtđến
từ buổi tôi cà phê bênhồ
Hoàn Kiếmngay
sáng sau ngày nhạc sĩ Văn Cao mất. Đó là
buổi sáng mùa hè nhưng mưa lắc rắc. Tôi
nhớ đến bài thơNăm
buổi sáng không có trong sự thậtcủa
Văn Cao và tôi làm phim bắt đầu từ bài
thơ, từ sự thật là ông đã mất thật và
cơn mưa là có thật. (...) Ông không phải
cô đơn với thời cuộc mà cô đơn với cuộc
đời; lúc nào ông cũng lặng lẽ, sống tự
tại, gần như ngồi một chỗ và mọi thứ cứ
trôi đi. Ông là người cô đơn giữa cuộc
đời này nhưng có lẽ chính sự cô đơn đó
làm ông vĩ đại.
”
— Đạo diễn
Đinh Anh Dũng, tác giả 2 phim tư liệu
ca nhạc về Văn Cao,Giấc
mơ một đời người(1992)
vàBuổi sáng có
trong sự thật(1995).[65]
Văn Cao là mẫu
người đặc biệt. Với vóc dáng nhỏ nhắn.
Với nụ cười lắng chìm không thành tiếng.
Với hàm răng ngắn, đều. Với đôi mắt lạnh
lùng dễ sợ lúc giận dữ, và dịu hiền khi
tâm hồn chìm du vào dòng suy tưởng.
(...) Chưa ai nghĩ tới và tưởng tượng
nổi một Văn Cao trước những đối nghịch
lớn, chứa đựng cái vóc dáng khiêm nhượng
ấy. Người ta có thể cho là huyền thoại
khi nói về một Văn Cao vẽ giấy bạc giả
để chi dùng trong khi hoạt động túng
thiếu, đến lúc hành vi bị lộ, đã rút
súng Colt 45 chĩa vào những người có
mặt, bắt họ giữ nguyên vị trí, để mình
rút lui, rồi sau ngày 19-8, mang giấy
bạc thật đến hoàn lại số tiền đã trả
bằng bạc giả với đôi lời xin lỗi. Cũng
như ít ai biết tác giảThiên
Thai,Trương
Chiở tổ chức ám
sát nội thành Hà Nội dưới thời Nhật. Bị
hoàn cảnh xã hội lúc đó đẩy vào con
đường nghẽn, Văn Cao phải lao tìm một
lối sống đặc biệt. (...) Dù sao, Văn Cao
vẫn hiện diện trong tôi với hình dáng
của một tinh cầu giá lạnh, với cô đơn
dằng dặc ở cuối khung trời ngăn cách.
Văn Cao thường
xuyên tổ chức những khóa huấn luyện ngắn
ngày cho đồng đội của mình về võ thuật,
sử dụng vũ khí và kỹ năng hóa trang...
(Văn Cao học võ từ năm 9 tuổi. Thời trai
trẻ ở Hải Phòng, Văn Cao đã nhiều lần
lên võ đài thi đấu và biểu diễn võ
thuật)... Với Văn Cao việc phải trừ khử
một người là điều ông không hề muốn.
Nhưng vìnhiệm
vụ cách mạng, vì sự sống của muôn
người nên bắt buộc ông phải ra tay tiêu
diệt những tênViệt
gianngoan cố.
Ta có thể hiểu ông qua những câu thơ ông
để lại: "Giữa sự sống và cái chết/ Tôi
chọn sự sống/ Để bảo vệ sự sống/ Tôi
chọn sự chết". Trong Văn Cao có hai con
người. Con người của nghệ thuật và con
người làm cách mạng. Nhiều người muốn
tìm hiểu phần con người thứ hai của ông.
Nhất là những sự kiện mọi người gọi là
"thành tích phi thường" ông đã làm trong
thời gian phụ trách Đội trừ gian. Ông
thường né tránh và ít khi nhắc đến. Có
lần ông tâm sự với tôi: "…Bố đã từng
giết một con người… Ông ta nhìn vào họng
súng, nhìn bố với đôi mắt ngơ ngác như
muốn hỏi - Sao lại giết tôi. Cho đến
giờ, bố vẫn bị ám ảnh vì đôi mắt ấy…"
Khi ông còn
sống, người ta rất dè dặt viết và đánh
giá về ông. Đó phải chăng là số mệnh của
những bậc văn nhân? Sau ngày ông mất mọi
người mới thực sự bàng hoàng nhắc và
viết về ông. Có người ca ngợi, tung hô
ông hết lời. Tôi tìm được và cảm nhận
được đâu là tình cảm chân thực dành cho
ông, đâu là những điều giả dối được che
giấu đằng sau những câu chữ rất hoa mỹ
sáo mòn (để làm gì nhỉ?). Và tôi nhớ
lại, có một lần tôi hỏi ông: “Sao bố
không viết hồi ký?”. Ông im lặng một lát
rồi mới nói: “Với bố, phải ngồi lại để
viết hồi ký có nghĩa là cuộc đời sáng
tạo nghệ thuật của mình đã chấm hết. Để
viết cho trung thực và khách quan, khi
nhìn lại cả cuộc đời mình, dám nhận
những sai lầm của mình trong các mối
quan hệ xã hội đã khó, tự đánh giá và
khẳng định được những tác phẩm của mình
ở tầm cỡ nào và bảo vệ những quan điểm
nghệ thuật của mình còn khó hơn. Còn
viết hồi ký để đề cao mình, thanh minh
cho mình, có khi dẫn đến việc nói xấu và
hạ thấp vai trò của người này người
khác... thì bố không làm được. Vì thế mà
bố không viết hồi ký. Theo bố hãy để mọi
người nghĩ, tìm hiểu và viết về bố thông
qua chính những tác phẩm của mình thì
khách quan hơn”.
Con viết cho
bố không cẩn thận sẽ trở thành chuyện
“mẹ hát con khen hay”. Nhưng đối với Văn
Cao đâu cần phải khen ngợi, ca tụng ông
ấy làm gì nữa. Ông ấy là Văn Cao! Và thế
đã là quá đủ, phải không? (...) Khoảng
thời gian 30 năm (1956-1986) là những
năm tháng cam go và buồn nhất trong cuộc
đời ông. Ông nhẫn nhịn, chịu đựng một
cách kiên cường. Ông tin những gì ông đã
làm là đúng, con đường ông đã chọn đã đi
là đúng. Và ông đã đúng. Tôi yêu quý
ông, đồng cảm được cùng ông và ngưỡng
vọng một nhân cách lớn nơi ông. Tôi thấy
mình phải có trách nhiệm viết lại toàn
bộ cuộc đời và sự nghiệp của ông. Ông là
một tài năng lớn của nền văn học nghệ
thuật Việt Nam thế kỷ XX.
Là con lớn
trong nhà nên tôi thường phải giúp mẹ
tôi quán xuyến công việc bếp núc trong
gia đình ngay từ khi mới lớn. Cha tôi
hay có khách nên thường chỉ bảo tôi nấu
một số món ngon cho bạn của ông uống
rượu. Tôi cũng lấy làm lạ, vì không ngờ
một người như ông lại có tài nấu ăn như
thế... Nhìn ông chế biến các món ăn một
cách thành thục như một đầu bếp thực
thụ, tôi vô cùng ngạc nhiên và khâm
phục. Những lúc như thế, hình bóng của
một người nhạc sĩ không còn hiện diện,
tôi chỉ còn thấy hình ảnh của một người
cha thân yêu đang hết lòng chăm chút nấu
những món ăn ngon cho một đàn con đang
tuổi ăn tuổi lớn, tronghoàn
cảnh bao cấpthiếu
thốn "ăn còn chưa đủ no, lấy đâu ra mà
dám đòi ăn ngon". Có lần tôi hỏi ông:
"Làm thế nào mà bố lại biết nấu nhiều
món ăn ngon thế?". Trầm ngâm một lát,
ông mới thủng thẳng nói: "Ai chẳng thích
ăn ngon! Nhưng để nấu cho ngon thì không
phải ai cũng nấu được... Vì thích ăn
ngon nên những khi có điều kiện để mời
bạn đến uống rượu là bố phải "lăn vào
bếp". Nhìn mọi người ăn ngon miệng là bố
thấy vui... Nấu ăn cũng là một nghề đầy
tính nghệ thuật.
...Ông là một
người tài hoa – cầm, kỳ, thi họa đều
giỏi cả, nhưng sống lặng lẽ, khiêm
nhường; dù có bị oan ức, thiệt thòi vẫn
im lặng chịu đựng và chứng minh mình
trong sạch, mình yêu đất, yêu thương
giống nòi. Ông cống hiến hết mình nhưng
không đòi hỏi điều gì cả. (...) Là một
nghệ sĩ tài hoa, được rất nhiều phụ nữ
xinh đẹp mến mộ, nhưng suốt đời ông chỉ
có một mối tình với người bạn đời của
mình là bà Nghiêm Thúy Băng. Ông là một
người cha nghiêm khắc và đầy trách nhiệm
đối với 5 người con của mình. (...) Sinh
thời ông gặp nhiều trắc trở trong con
đường công danh sự nghiệp, vì bị đồng
chí, đồng nghiệp ganh ghét, đố kỵ hay
đơn giản là không hiểu tầm cao tư tưởng
và tính nhân văn trong những sáng tác
của ông; song, ông không kêu ca, oán
thán gì cả.
Bên cạnhHoàng Quý, tại Hải Phòng,
còn có thêm các ca nhạc sĩ tài tử thuộc
loại tiền phong nhưPhạm
Ngữ,Canh
Thân,Hoàng
Phú(em của tác
giảCô Láng Giềng)
nhưng trong chặng đầu củaTân
nhạc này, họ chưa làm quen với
quần chúng qua các bản nhạc tình. Họ là
những ngôi sao trong xu hướng nhạc vui
khoẻ, đa số nhắm vào tình tự quê hương
mà tôi sẽ nói tới trong bài tới. Chỉ qua
tới thời kỳ sau, thời kỳ khởi đầu cho sự
phát triển âm nhạc mới, người ta mới
được thưởng thức một câu chuyện ái tình
rất ư lãng mạn qua một ca khúc tuyệt
diệu làEm Ðến Thăm
Anh Một Chiều Mưacủa
Hoàng Phú sau khi ông đổi tên làTô
Vũ. Nhưng ở Hải Phòng, đã có Văn
Cao! Ðã có Văn Cao trong nhóm Đồng Vọng
(của Hoàng Quý và bạn bè) với ít nhiều
bản nhạc vui khoẻ, nhưng ở đây, chúng ta
đang đả động tới nhạc tình. Và nói tới
nhạc tình thì... Văn Cao là nhất!
Phải đợi cho
tới khiTân
nhạcra đời vào
những năm cuối 30 và đầu 40 thì chúng ta
mới có được một loại nhạc tình lãng mạn
do các người tình tiền phong của thời
đại nhưDương
Thiệu Tước,Thẩm
Oánh,Lê
Thương,Văn
Chung,Dzoãn
Mẫn…tung ra (…) Tuy nhiên, loạinhạc
tìnhlãng mạn đó
chỉ có thể được gọi là đạt tới độ hoàn
mỹ khi nó được phát xuất ra từ một con
người tài hoa bật nhất của thế giới nghệ
sĩ trẻ lúc bấy giờ. Người đó là Văn Cao.
Người Sông
Ngự/Văn Cao đã thú nhận rằng mình bị ảnh
hưởng sông nước của hai truyệnĐào
Nguyên,Thiên
Thaicho nên đã
soạn ra một bài hát. Một bài hát, theo
tôi thật là tuyệt diệu! Nó vừa có tính
chất trường ca, vừa có tính chất nhạc
cảnh. Nếu hình thức ca khúc trong Tân
nhạc Việt Nam cho tới năm 1944 này vẫn
còn nằm trong khuôn khổ một đoản khúc
được ước định trong một số khuôn nhạc
nào đó, với một lối chuyển cung, chuyển
điệu công thức nào đó… thìThiên
Thaicủa Văn Cao
đã vươn lên một thức rất lớn, chia ra
nhiều đoạn, nhiều cảnh, gồm tới con số
chín mươi bốn khuôn nhạc, chan chứa
những giai điệu thần tiên và những lời
ca thần diệu.
Nếu đem so
sánh với những bản nhạc tình của 50 năm
Tân nhạc thì những bàiSuối
Mơ,Bến Xuânlà
cực điểm của lãng mạn tính trong ca nhạc
Việt Nam. Sẽ không bao giờ có những bài
ca lãng mạn như thế nữa ! Sẽ có
nhạc tình cảm tính, nhạc tình não tính,
nhạc tình nhục tính và ảo tính nhưng
không thể có thêm những bài nhạc tình
lãng mạn nào hay hơn nhạc Văn Cao.
BàiTrường
ca Sông Lôcủa
Văn Cao là một tác phẩm vĩ đại. Thằng
bạn này vẫn là một kẻ khai phá. Nó là
cha đẻ của loại trường ca. Về hình thức,
bài của nó chẳng thua gì bất cứ một
tuyệt phẩm nào của loại nhạc cổ điển Tây
Phương. Nét nhạc của trường ca rất mạnh
khỏe, rất tươi sáng. Nhịp điệu vô cùng
phong phú với những chuyển đoạn rất tài
tình. Bài này đánh dấu sự trưởng thành
của Tân nhạc.
NếuThiên
Thaichỉ
nằm trong một giọng Re (mineure và
majeure) vàTrương
Chichỉ
chuyển nhịp, chuyển điệu trong hai giọng
Re và Sol… thìTrường ca sông Lôcó
tới sáu lần chuyển âm (modulations) cũng
như chuyển tiết tấu (changing rythmes).Trường
ca sông Lôlà
bản hát dài đầu tiên của chúng ta là một
tuyệt phẩm mà những người đi sau Văn Cao
(như tôi) đã học hỏi được rất nhiều ở
ông để tiếp tục làm giầu cho âm nhạc
Việt Nam. Tôi muốn được công khai tỏ
lòng biết ơn thiên tài Văn Cao trong
buổi nói chuyện này.
Văn Cao là
người đẻ ratrường
ca, còn tôi chỉ là người thừa kế.Trường
ca sông Lôphải
là đỉnh cao nhất củanhạc
kháng chiếnnói
riêng, củatân
nhạc Việt Namnói
chung. Sự dài hơi trong những câu nhạc
trong bài chứng tỏ nhạc sĩ Văn Cao đã
trưởng thành ngay từ lúc tân nhạc vừa
mới ra đời.
Trong âm nhạc,
Văn Cao sang trọng như một ông hoàng.
Trên cánh đồng ca khúc, tôi như một đứa
bé ước mơ mặt trời là con diều giấy thả
chơi. Âm nhạc của anh Văn là âm nhạc của
thần tiên bay bổng. Tôi la đà đi giữa
cõi con người. Anh cứ bay và tôi cứ chìm
khuất. Bay và chìm trong những thân phận
riêng tư....
Hồi còn là một
cậu thiếu niên, tôi đã từng ngâm ngaSuối
mơ, một trong những sáng tác nổi
tiếng của nhạc sĩ Văn Cao, một ca khúc
trữ tình lãng mạn, bay bổng những ước mơ
cao đẹp. Nét nhạc nhẹ nhàng, duyên dáng
như nét bút uyển chuyển của một họa sĩ
tài năng vẽ nên những hình ảnh nên thơ
“bên rừng thu vắng, dòng nước trôi lững
lờ ngoài nắng”. Lời ca trau chuốt gọt
giũa như những câu thơ giàu nhạc điệu
với nhiều hình tượng đẹp về “con suối
róc rách”, “bóng cây thùy dương”, “đàn
nai đùa trong khóm lá”... Ca khúc với
hình thức ba đoạn đơn ABA’, giai điệu từ
giọng “la thứ” nhẹ nhàng thơ mộng từ từ
chuyển sang giọng “la trưởng” bay bổng
thiết tha, rồi lại trở về giọng “la
thứ”, tái hiện âm hình chủ đạo ban đầu
để rồi kết thúc trọn vẹn ca khúc.
Văn Cao và
Phạm Duy khác Trịnh Công Sơn. Trịnh Công
Sơn là một người “hát thơ”, một nghệ sĩ
tuyệt vời, ông là con người của đại
chúng, được người dân thành thị hâm mộ
nhất. Còn Văn Cao và Phạm Duy là con
người của âm nhạc, người sáng tạo âm
nhạc và cùng với một số bậc tiền bối
khác đặt nền móng cho âm nhạc Việt Nam
buổi đầu. Những người ấy ra đi nhưng âm
nhạc của họ còn sống mãi. Nghệ thuật
không chỉ có giá trị xã hội mà cái giá
trị chính yếu của nó là giá trị văn hóa.
Với văn hóa âm nhạc của ta, và cũng
không chỉ với âm nhạc, các ông ấy là
những người mở đường. Giá trị của họ cao
hơn sự nổi tiếng rất nhiều. Chúng tôi và
những người trẻ hơn đang kế thừa những
giá trị đó.
Văn Cao là một
nhạc sĩ lớn, một nghệ sĩ bậc thầy trong
nhiều lĩnh vực nghệ thuật: âm nhạc, thơ
ca, hội họa… Ông được tiếp xúc với âm
nhạc phương Tây từ nhỏ khi học tại
trường Bonnal, sau tại trường dòng Saint
Josef (Hải Phòng). Cuối những năm 30 của
thế kỷ XX,Tân
nhạc Việt Namđã
ra đời, cùng với các nhạc sĩ nhưLê Thương,Tô
Vũ,Canh
Thân,Hoàng
Quý… Văn Cao tham gia vàonhóm
“Đồng Vọng”của
Hoàng Quý. Bài hát đầu tiên làBuồn
tàn thu(1939),
lúc đó Văn Cao mới 16 tuổi. Điều đặc
biệt là tuy học nhạc phương Tây, nhưng
Văn Cao ít chịu ảnh hưởng của âm nhạc
lãng mạn Pháp, mà hướng giai điệu các
bài hát của mình gần vớiâm
nhạc dân tộc, màu sắcngũ
cung(khác với
bảy âm trưởng – thứ [major – minor] của
phương Tây), lấy chất liệu từchèo,quan
họ,xẩm,ca
trù… để sáng tác những ca khúc đầu
đời như:Thu
cô liêu,Suối mơ,Trương
Chi,Thiên
thai(1941)...
Thời trai trẻ
ở ông có hai mạch nguồn cảm xúc: trữ
tình lãng mạn, hùng tráng hào sảng thông
qua thực tiễn của hoạt động cách mạng,
Văn Cao đã kết hợp để cho ra đời tác
phẩm đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác
của mình, đó làTrường
ca sông Lô- một
thể loại mới trong âm nhạc Việt Nam (thể
loại trường ca - hùng ca). Cùng vớiNgười
Hà NộicủaNguyễn
Đình Thi,Du
kích Sông ThaocủaĐỗ
Nhuận,Bình
Trị Thiên khói lửacủaNguyễn
Văn Thương,Bộ
đội về làngcủa
Lê Yên (thơHoàng
Trung Thông), nhạc sĩ Văn Cao đã
vượt lên những hình thức âm nhạc thông
thường, ghi vào biên niên sử bằng âm
thanh những tác phẩm thể loại lớn, in
đậm dấu ấn sáng tạo, được công chúng đón
nhận và sống mãi với thời gian.
Trong dòng âmnhạc
cách mạng, Văn Cao là người đầu
tiên chắp những đôi cánh lãng mạn, những
ước mơ lớn vào các ca khúc,hành khúcchiến
đấu. (...) Từ năm 1944 đến năm 1946 là
một bước ngoặt lớn, một bước phát triển
nhảy vọt của Văn Cao. Từ dòng lãng mạn
lành mạnh – yêu nước hùng tráng, Văn Cao
chuyển ngay sang dòng âm nhạc cách mạng,
chuyển ngay sang dòng thác dữ dội của
cách mạng giải phóng dân tộc. Chuyển một
cách mau lẹ, tự nhiên, vững chắc, không
qua một giai đoạn quá độ, không qua một
giai đoạn mò mẫm “nhận đường”. (...) Với
“Tiến
quân ca”, lần đầu tiên Quân giải
phóng Việt Nam chính thức có một hành
khúc hùng tráng, trang nghiêm và lôi
cuốn. Với “Tiến quân ca”, lần đầu tiên
toàn thể các tầng lớp nhân dân Việt Nam
có chung một hành khúc trên đường ra
trận. Trước đó, chúng ta chỉ có những
nhạc phẩm yêu nước của tuổi trẻ thủ đô,
của thanh niên, học sinh, sinh viên vàhướng đạo sinh. “Tiến quân
ca” là cái mốc bằng vàng đánh dấu sự
toàn thắng của âm nhạc cách mạng về cả
tư tưởng lẫn về nghệ thuật.
Càng nhìn ông
tôi càng thắc mắc, làm sao trên đôi vai
gầy guộc nhỏ bé ấy lại chở đến cho đời
nhiều mùa xuân đầy ý nghĩa và đẹp đến
thế. Mùa xuân cổ tích củaThiên
thai, lãng mạn trongBến
xuân, hào hùng trongTiến
về Hà Nội, trongSông
Lô, và đoàn viên trongMùa
xuân đầu tiên... Cùng những mùa
thu man mác đẹp lung linh củaThu
trung du,Suối
mơ, buồn thấm thía trongBuồn
tàn thu,Thu
cô liêu,Trương
Chi... Âm nhạc của ông thật trong
lành như chính con người ông vậy.
Trong một
chuyến cùng đi làm phim chân dung với
nhà thơTế
Hanh, khi máy bay đã lẫn vào những
đám mây, Tế Hanh bỗng hỏi tôi: “Kha làm
công tác âm nhạc, Kha nghĩ thế nào về
bốn ông nhạc sĩ:Nguyễn
Xuân Khoát,Lưu
Hữu Phước,Đỗ
Nhuậnvà Văn
Cao?”. Vốn đã ngẫm nghĩ về tứ trụ này từ
lâu, tôi trả lời: “Văn Cao là trời cho.
Đỗ Nhuận là đời cho. Nguyễn Xuân Khoát
là người cho. Lưu Hữu Phước là thời
cho”. Tế Hanh cười: “Được. Hay lắm. Mình
đã từng nghĩ như thế, nhưng chưa rút ra
gọn như vậy”.
”
— Nhà
nghiên cứu âm nhạcNguyễn
Thụy Kha, một nhà “Văn Cao học”
và cũng là bạn vong niên của Văn Cao.[74]
“
Nếu chỉ cóTrịnh
Công Sơnthì âm
nhạc Việt Nam cũng có gì như còn méo mó
và ốm yếu. Nhưng nếu chỉ có âm nhạc hùng
tráng mà thiếu Trịnh Công Sơn thì nền âm
nhạc các anh vẫn không thể gọi là hoàn
thiện được, vì nó vẫn thiếu một mảng rất
cần thiết cho đời sống riêng tư của mỗi
con người... Nhưng cũng phải thành thật
mà nói rằng, nhạc Trịnh nghe lẻ từng bài
thì hay. Nhưng nghe cả một cuộn băng thì
lại thấy mệt vì đơn điệu. Ông Văn Cao
của các anh đa dạng hơn nhiều, phong phú
hơn nhiều, mặc dù so với Trịnh Công Sơn,
ông ấy viết rất ít.
Tôi rất phục
cách dùng chữ trong thơ Văn Cao, bởi vì
chữ ông dùng không câu nệ vần điệu,
không dùng những chữ quen mà toàn dùng
những chữ mới. Nó vừa dễ hiểu nhưng để
ngẫm hết ý thì lại khó. Có bàiChiếc
xe xác qua phường Dạ Lạcviết
năm 1945 về nạn đói khiến người ta nhớ
mãi. Còn những bài viết theo không khí
tiền chiến thì được xếp vào những bài
thơ hàng đầu của tiền chiến.
Tôi đã nhiều
lần nhìn ngắm Văn Cao ngồi im lặng: ông
có thể ngồi suốt ngày với một tư thế như
vậy, với một tâm thế như vậy. Những lúc
ấy, tâm tưởng ông liên tục du hành trong
thời gian, trong những không gian tưởng
tượng. Chính khả năng cô đặc thời gian,
khả năng "tích trữ lương thực" cho tinh
thần, cho tâm hồn đã đưa tới những bài
thơ cô đặc mà Văn Cao từng ủ bao nhiêu
năm trong những cuốn sổ tay nhỏ nhít của
ông. Ủ như người ta ủ những hạt mầm. Bản
thân những hạt mầm cũng là sự cô đặc
thời gian, sự kiên nhẫn với thời gian.
Đọc thơ Văn Cao giờ đây, tôi như thưởng
thức được từng chấm sáng lấp lánh của
thời gian qua từng con chữ. Nhiều khi,
thơ cũng phải biết tự dè sẻn như thế, tự
làm nhỏ mình lại như thế, biết kiên nhẫn
như thế. Như những hạt mầm. Những hạt
mầm của thời gian.
Đọc lại thơ
Văn Cao trong một ngày đông lạnh, tôi
thấy số phận thật đa đoan: người nghệ sĩ
ấy lại hóa thiệt thòi vì quá tài hoa.
Nếu sự nghiệp âm nhạc của ông không lớn
đến như thế, thì có lẽ người ta sẽ chú ý
hơn tới thơ ca để nghe thấy một tiếng
nói khác, giống như tiếng "người khổng
lồ kêu thét suốt ngày đêm", giống như
tiếng sóng biển từng ám ảnh suốt cả đời
ông... Ở ca khúc, mùa xuân trong sáng,
có thể nói là "trong suốt". Còn mùa xuân
trong thơ Văn Cao luôn mang một vẻ u uất
- có lẽ đó cũng là nét khác thường so
với cái "mã" của mùa xuân thông thường
được coi là khoảnh khắc tươi trẻ nhất
trong sự luân hồi của thời gian... Như
vậy, không thể đơn giản giải thích không
khí u uẩn bao trùm thơ xuân Văn Cao bằng
hoàn cảnh xã hội. Có thể nói vì nhạc của
Văn Cao chủ yếu được sáng tác thời trẻ,
còn sau này ông coi "Nhạc là mối tình
đầu bị phản bội" chăng? Cũng có thể vì
nhạc của Văn Cao hướng ngoại, còn thơ là
nơi "tôi đi qua tôi", là "một nửa mặt"
của thi nhân đầy mâu thuẫn như biển
trong thơ ông, tràn ngập mênh mông nước,
vậy mà vẫn "thành người khổng lồ kêu
khát suốt ngày đêm"?
Trường
calà một hiện
tượng lớn và cực kì phong phú. Và trường
ca không phải là độc quyền của thơ.
Trong văn xuôi cũng có trường ca, ví nhưNhững
linh hồn chếtcủaGogol, rồi
Trường ca bằng văn xuôi trước Cách mạng
củaXuân
Diệu,trong
nhạc, ở ca khúc, cũng có trường ca,
chẳng hạnSông
Lôcủa Văn
Cao,Người Hà NộicủaNguyễn
Đình Thi,Du
kích sông ThaocủaĐỗ
Nhuận,Bình
Trị Thiên khói lửacủaNguyễn
Văn Thương... (...) Trước kia chủ
thể trường ca hầu như không xuất hiện
với tư cách một cái tôi cá nhân, một
nhân vật được khách thể hóa trong văn
bản trường ca. Nhưng về sau đã có biến
đổi. Ở ta, có lẽ từNhững
người trên cửa biểncủa
Văn Cao trở đi, với cái câu mở đầu rất
tiêu biểu: “Tôi sinh ra đã có Hải
Phòng”, người ta thấy cái tôi của người
viết trường ca không chịu đứng ngoài,
nấp sau nữa, nó đã trở thành một “nhân
vật” trong trường ca. Nghĩa là người
viết không còn đứng ở bên trên như
“người kể chuyện toàn năng” nữa, mà tham
gia vào mạch trường ca như một “mảnh
ghép của lịch sử”, nghĩa là như một số
phận gắn bó với lịch sử, như một nhân
chứng, một kẻ trong cuộc, thậm chí người
tham gia làm nên những chấn động lịch sử
ấy, và giờ đây đang trực tiếp thụ hưởng
hoặc hứng chịu những chấn động ấy. (...)
Theo tôi, kể những tác phẩm trường ca mà
sự xuất hiện của nó gây thành ấn tượng
lớn, có tầm ảnh hưởng, hoặc cắm một cái
mốc nào đó đối với sự phát triển của thể
loại là phải kể:Từ
đêm 19củaKhương
Hữu Dụng,Những
người trên cửa biểncủa
Văn Cao,...
Nếu nhạc của
Văn Cao đưa con người vào cõi mộng, thì
thơ Văn Cao xoáy vào thực tại cuộc đời:
phần đời thực vớiChiếc
xe xác qua phường Dạ Lạc,Ngoại
ô mùa đông 1946,Những
người trên cửa biểnvà
phần nội tâm sâu xé của con người mất tự
do, trong các bài thơ ngắn, cô đọng và
đau thương,như
những giọt nước mắt không rơi ngoài
tim mìnhnhư lời
thơThanh
Tâm Tuyền... Cúi xuống những lầm
than của kiếp người, Văn Cao là người
duy nhất để lại những hình ảnh kinh
hoàng củatrận
đói tháng 3 năm Ất Dậu. Nếu không
cóChiếc xe xác qua
phường Dạ Lạc, thì chúng ta không
thể hình dung cảnh xe xác lăn trong xómcô đầucủa
một Hà Nội bán linh hồn...
Người ta biết
đến Văn Cao không chỉ có thơ, mà còn có
nhạc, hoạ, kịch... Thành công của Văn
Cao chưa hẳn là thơ nhưng chính thơ lại
góp phần hiển lộ tính chất đa tài của
Văn Cao. Và cũng chính thơ đã cho thấy
sự nhất quán trong tư tưởng nghệ thuật
của ông. Đó là tư tưởng của một nghệ sĩ
luôn phóng chiếu sự sáng tạo của mình
trên đôi cánh của chủ nghĩa siêu thực và
hiện thực. Tâm thức "trôi" trong Thơ Văn
Cao chính vì thế cũng chính là tâm thức
"trôi" trong hoạ, trong nhạc với những
tình khúc bất tử nhưBuồn
tàn thu,Bến
xuân,Trương
Chi,Suối mơ,Thiên
thai... Nhiều lời trong các bài
nhạc của ông cũng đầy chất thơ mà mỗi
khi hát lên luôn tạo cho ta cảm giác nao
lòng như đang trôi trong cõi phiêu bồng
vô định của cuộc đời... Song tâm thức
"trôi" trong thơ Văn Cao tuy nhuần thấm
lẽ vô thường và bồng bềnh trong hư vô
bất định nhưng không bao giờ lạc hướng.
Ngược lại ông luôn thể hiện chủ kiến của
mình trước cuộc đời. Với lẽ sống cao đẹp
của người nghệ sĩ, ông luôn nêu cao ý
thức trách nhiệm công dân trước xã hội
và nhân dân. Và đây chính là cảm hứng
chủ đạo để Văn Cao viết những bài thơ
mang hơi thở nóng hổi của hiện thực cuộc
sống như:Chiếc xe
xác qua phường Dạ Lạc,Ngoại
ô mùa Đông 1946,Quy
Nhơn 3, trường caNhững
người trên cửa biển...
Nếu như âm
nhạc Văn Cao đã được khẳng định ở vị trí
số một Việt Nam trong thế kỷ XX thì các
lĩnh vực sáng tác khác, là họa và đặc
biệt là thơ của ông dường như chưa có sự
nghiên cứu thấu đáo... Giờ nhìn lại sự
nghiệp thơ Văn Cao, ta không khỏi ngạc
nhiên, khi chỉ trong hơn 10 năm kể từ
khi có tác phẩm thơ đầu tiên, từ một nhà
lãng mạn cuối mùa, ông đã làm một hành
trình dài lao thẳng vào hiện đại như một
cánh chim xuyên qua bão táp của những
thành kiến trong thời đại mình để trở
thành một nhà tiên phong, mở ra một cánh
cửa mới cho thơ hiện đại Việt Nam, mà
cho đến nay chúng ta chưa đi hết cung
đường mà ông đã vạch ra. Ngọn lửa thơ
của Văn Cao sung sức và bùng cháy nhất
chính ở thời điểm ông viếttrường
caNhững
người trên cửa biểnnăm
1956. Cảm xúc sôi trào. Ý tứ sắc sảo.
Câu thơ hoạt. Hình tượng thơ gây nhiều
ám ảnh. Từ thời điểm này về trước, Văn
Cao thiên về cảm xúc, cảm giác và những
hình ảnh lãng mạn. Sau thời điểm này,
Văn Cao chuyển dần sang ẩn dụ, tượng
trưng với những hình ảnh biểu tượng hết
sức sâu sắc và những suy tư mang nhiều
cay đắng.
Cuối những năm
30, đầu những năm 40 thế kỷ trước, phong
tràoThơ
mớibắt đầu cạn
dần dòng chảy của nó. Những sáng tác đầu
tiên của Văn Cao (bài thơ đầu tiên giữ
lại được ghi sáng tác năm 1939) chịu ảnh
hưởng của tư duy Thơ mới, nhưng lối dùng
chữ vẫn còn nặng về Hán Việt, nhạc thơ
còn chưa thật nhuần nhuyễn. Nhưng, chỉ
khoảng 1 năm sau, khi ông viếtMột
đêm đàn lạnh trên sông Huế(1940)
thì độ điêu luyện, mượt mà đã không kém
các bậc đàn anh trong Thơ mới trước đó.
Và cũng chỉ mấy năm sau, ông viếtChiếc
xe xác qua phường Dạ Lạcthì
không chỉ độ điêu luyện đã lên đến đỉnh,
mà còn cho thấy một cách nhìn, cách miêu
tả hiện thực đến tận cùng trước thảm họa
khủng khiếp của dân tộc ta trongnạn đói năm 1945. Đó là
thời điểm Văn Cao đã hoàn toàn vượt qua
ảnh hưởng của Thơ mới và nghiêng theo
chủ nghĩa hiện thực. Nhưng rồi sau đó,
Văn Cao chủ yếu chuyển sang nhạc, liên
tiếp giành được những thành tựu lớn
trong âm nhạc, còn đường thơ thì dần trở
nên thưa thớt.
Trừ một số bài
thơ dài, mà trường độ cảm xúc và tính
khái quát không thua kém những trường
ca, về cơ bản, thời kỳ những năm 60, 70
của thế kỷ trước, thơ Văn Cao trở nên
ngắn gọn, cô đúc. Ông tìm sự liên kết
trong ý tứ, hình ảnh, trong nhạc điệu,
tức là sự liên kết từ bên trong chứ ít
khi sử dụng những vần điệu vang vọng.
Hình ảnh trong thơ ông thường biến
nghĩa, cấu trúc câu cũng linh hoạt khơi
gợi sự ngẫm ngợi. Hầu hết thơ ông quãng
sau nghiêng về nghĩa bóng, mỗi bài thơ
đặt ra những thách thức bí ẩn khiến
người đọc phải giải mã điều thực sự nhà
thơ muốn nói phía sau mỗi câu từ. Dù
không sáng tác nhiều thơ (khoảng 60 bài
thơ và 1 trường ca), Văn Cao cũng đã ôm
chứa trong ông bước dịch chuyển lớn lao
mang dấu ấn của hơn nửa thế kỷ tìm đường
của thơ Việt. Từ một nhà lãng mạn, Văn
Cao đã nỗ lực để trở thành một nhà thơ
hiện thực, từ một nhà hiện thực, Văn Cao
đã tiến thêm một bước vào lãnh địa của
thơ tượng trưng. Trong thơ ông người ta
tìm thấy cả dấu ấn thân phận nhà thơ,
lẫn nỗi cay đắng của một lịch sử đầy gấp
khúc.
Văn Cao quả là
một người tài hoa có một. Đến lúc Văn
Cao nổi tiếng về nhạc và vụ ám sát Đỗ
Đức Phin, người ta mới giở lại những bài
thơ anh đăng tải trênTiểu
thuyết thứ bảyvà
một loạt tờ báo khác, và đến lúc ấy
người ta mới thấy thơ Văn Cao cũng hay
như nhạc của anh. Chẳng qua chỉ vì Văn
Cao không quan niệm cái gì là quan
trọng, không kéo bè kéo đảng để đưa nhau
lên, suy tôn nhau là thi hào “lớn”, văn
sĩ “lớn” nên lúc bước vào làng văn nghệ
anh không được quảng cáo nhiều, do đó
thơ anh bị chìm.
Những ngày
tháng Văn Cao đã sống, cứ đổ cái bóng
gầy hắt hiu và trắc ẩn vào lòng công
chúng, mà những bài hát của ông không lý
giải được, những bức tranh của ông cũng
không lý giải được. Chỉ còn lại thơ, xoa
dịu và tỏ bày giùm Văn Cao. Từ những bài
thơ đầu tiên viết năm 1939 đến bài thơ
cuối cùng “Tôi ở” viết tháng 8-1994, Văn
Cao có di sản khoảng chừng 60 bài, nhưng
vẫn hiển lộ đầy đủ một chân dung nhà thơ
khắc khoải với khát vọng lớn lao “tới
bao giờ tôi gặp được biển?”. Trong sự
mến mộ của công chúng phổ thông, chân
dung nhạc sĩ Văn Cao luôn khỏa lấp chân
dung nhà thơ Văn Cao, bởi lẽ cảm giác
xao xuyến thường lấn lướt nhận thức sâu
xa.
Tuy nhiên, bài
thơ “Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc” và
bài thơ “Ngoại ô mùa đông 1946” chỉ tạo
đà cho khoảnh khắc nhảy vọt trong thơ
Văn Cao, đó là sự ra đời của trường ca “Những
người trên cửa biển” viết vào mùa
xuân 1956, giúp cán cân thơ – nhạc có
thành tựu tương đương. Với bốn chương
chia làm 16 khổ thơ, trường ca “Những
người trên cửa biển” được viết trên tinh
thần “Tôi yêu Hải Phòng như Việt Nam nhỏ
lại / Tôi yêu Việt Nam như tôi biết yêu
tôi”. (...) Thử thách thể loại trường ca
đòi hỏi sức cảm sức nghĩ phi thường,
cũng chính là cơ hội phô diễn một Văn
Cao tài năng cồng kềnh.
...Và cho đến
nay, công chúng vẫn chỉ biết đến Văn Cao
nhạc sĩ và Văn Cao họa sĩ, còn Văn Cao
thi sĩ thì chỉ những người quen thân và
trong làng văn biết rõ mà thôi! Thực ra,
Văn Cao đồng thời sáng tác cả nhạc, thơ
và hội họa. Người đời còn ít biết đến
thơ của Văn Cao vì nhiều nguyên nhân,
trong đó, nguyên nhân chủ yếu là trong
nhiều năm (có đến gần 30 năm, từ khoảng
1957 đến 1985), thơ Văn Cao không được
xếp vào “dòng chảy chính thống” của thơ
ca Việt Nam hiện đại. Phải chờ đến thời
kỳ “đổi mới tư duy”, những giá trị lớn
lao của thơ Văn Cao (cũng như nhạc Văn
Cao) mới được “hợp pháp hóa” !
Riêng về chuyện này, có thể nói Văn Cao
là một điển hình của một mẫu người nghệ
thuật đa tài, đa năng và đa nạn. Nhưng
chính qua sự “thử lửa” đó của cuộc đời,
cốt cách thi nhân của Văn Cao đã trở
thành vàng nguyên khối, bản lĩnh thi
nhân của Văn Cao càng lớn, sức sống của
thơ Văn Cao càng mạnh mẽ…
Văn Cao đã
viết trường ca “Những
người trên cửa biển” năm 1956. Sau
này trên thi đàn của ta một độ nở rộ
những trường ca. Nhưng có thể thấy Văn
Cao đã sớm là một người khai sơn phá
thạch ở thể loại này.
Ở Văn Cao
tiếng vọng hoài niệm như một vẻ đẹp có
thẩm mỹ siêu thực, theo tôi là một ẩn
hiện di truyền lác đác trong cả cuộc đời
nghệ sĩ đẹp đẽ của anh... Nhưng cái nhìn
hội họa ở anh có địa vị dẫn đường và chi
phối: Chính Văn Cao và vài ba người nữa
(Bùi
Xuân Phái,Sỹ
Ngọc,Dương
Bích Liên,Nguyễn
Sáng...) vào những năm 60 đã mở
hướng thẩm mỹ mới cho minh họa và đồ
họa... Có thể nói Văn Cao đã lập được
một trường phái minh họa và bìa sách.
Nhiều minh họa của anh trên báo Văn Nghệ
phải gọi là xuất sắc... Nếu âm nhạc, thơ
ca là một bản thể tươi tốt của anh, thì
hội họa là một tâm thức sâu sắc. Văn Cao
có cái nhạy bén về cảm xúc tinh tường
trong quan sát...
Tôi có duyên
may được ông trình bày cho bìa sách cuốn
"Nam
Cao, nhà văn hiện thực xuất sắc"
do Nhà xuất bản Văn hóa in năm 1961. Bìa
giản dị, đẹp, chữ sang trọng. Anh Văn
Tâm có lần khoe với tôi chân dung được
Văn Cao vẽ tặng. Tôi nói với anh: "Các
bậc tài hoa này nếu bớt đi tửu lượng thì
có thể tài năng phát triển nhiều hơn
chăng?".
Minh họa báo
chí là một loại hình rất phụ của mỹ
thuật và quy mô thường nhỏ lẻ không
thường xuyên liên tục. Thế nên để có
được một họa sĩ minh họa đều tay, có cá
tính là việc rất khó. Ngôn ngữ của loại
hình này bó buộc vì khuôn khổ bức vẽ, vì
sự thẩm thấu tác phẩm văn chương báo chí
thông qua việc đọc và hơn hết vì cá tính
sáng tạo mang nét đặc trưng riêng biệt.
Đã có một thời nhiều người bắt chước ông
Văn Cao, vẽ minh họa giống đến mức nếu
không có chú thích bên dưới thì rất khó
phát hiện. Ông Văn Cao là người vẽ minh
họa thành công nhất không phải bởi tay
nghề mà chính vì đặc thù bay bổng lãng
mạn và cách bố cục mảng miếng đen trắng
tạo mỹ cảm rất riêng biệt.
Năm 1989, tạp chíNational
Geographicđã đăng một
bức ảnh của nhạc sĩ Văn Cao đang ngồi trầm tư
bên chiếc đàn dương cầm của ông. Chính tấm
hình này sau đó đã tạo cảm hứng để nhà soạn
nhạc đương đại người MỹRobert Ashleysáng
tác nên bản nhạc solo cho piano mang tênVan Cao's Meditationvào
năm 1992, dù rằng cho đến tận khi Văn Cao qua
đời (1995) thì Robert Ashley vẫn chưa một lần
gặp mặt tác giả củaTiến
quân ca.
Trong lĩnh vực
điêu khắc, đã có một bức tượng bán thân của
Văn Cao được đặt trong khuôn viên trường Trung
học Văn hóa - Nghệ thuật Hải Phòng từ năm
2002. Cũng trong cuộc trò chuyện với báo chí
nhân dịp khánh thành bức tượng bán thân của
cha mình tại Hải Phòng năm 2002, họa sĩ Văn
Thao (con trai trưởng của Văn Cao) nói: “Năm
1985, điêu khắc gia Phạm Văn Hạng tặng cha tôi
bức tượng tạc khuôn mặt ông bằng thạch cao màu
đen, cao 20 cm. Bố tôi rất thích và đề từ:Bức
tượng cho tôi cảm giác tôi đang muốn nói một
câu gì đó. Hè vừa rồi, tôi mới có điều
kiện đi quyên góp từ bạn bè để phóng to bức
tượng của Phạm Văn Hạng bằng đất sét, rồi đổ
khuôn thạch cao, hết 1 tháng rưỡi. Rồi đưa
khuôn ấy cho nghệ nhân Nguyễn Văn Dũng. Bức
tượng hoàn thành cách đây 3 tháng, bằng đồng
hun, cao 1,2 m.” Văn Thao cũng thổ lộ với báo
chí về mong muốn lập một bảo tàng cá nhân cho
người cha nổi tiếng của ông: “Tôi chỉ muốn làm
cho được một bảo tàng về cha tôi. Đó là hoạt
động ý nghĩa nhất tôi phải làm bằng được trong
những năm tới. Cho đến nay, ở xã Liên Minh,
huyện Vụ Bản, Nam Định có một trường tiểu học
mang tên Văn Cao. Tôi đang cố gắng xin đất ở
huyện Vụ Bản, để Bảo tàng Văn Cao được tọa lạc
tại chính quê hương mình, cần vài nghìn mét
vuông để làm khu lưu niệm, vườn tược, vườn
Thiên Thai. Tôi còn phải lo sưu tập, phục chế,
tìm kiếm những bức vẽ, minh họa của cha và rất
nhiều bài thơ bị thất lạc. Đến giờ, ông mới
chỉ có 2 tập thơ Lá và Tuyển tập Văn Cao. Từ
lâu lắm, cha tôi đã có những bài thơ cô đúc và
rất hiện đại, tinh tế và sâu thẳm.”[85]
Hiện nay cũng đang
có một số đề xuất từ những người có vai trò
trong quản lý văn hóa ở Việt Nam về việc dựng
tượng đài Văn Cao ở một địa điểm công cộng
(như một công viên nhỏ) tại Hà Nội. Những
người ủng hộ đề xuất này bao gồm có nhà sử họcDương Trung
Quốc, họa sĩ Trần Khánh Chương (hiện là
Chủ tịch Hội Mỹ thuật Việt Nam), và nhạc sĩĐỗ Hồng Quân(hiện
là Chủ tịch Hội Nhạc sĩ Việt Nam).[86][87]
Trong lĩnh vực
nhiếp ảnh, nhà nhiếp ảnh Nguyễn Đình Toán là
người sở hữu một bộ ảnh với số lượng lớn về
Văn Cao do chính ông tự tay chụp, do có nhiều
điều kiện thời gian đến thăm Văn Cao những năm
nhạc sĩ - thi sĩ còn sống. Nguyễn Đình Toán
vốn quen biết và sống không xa nhà riêng của
gia đình Văn Cao.
Một năm sau ngày
nhạc sĩ Văn Cao mất, thành phốHải
Phòngđã đặt tên ông
cho một con đường ởquận Ngô Quyền.Huếcũng
đã có ngay đường "Văn Cao" ở phường Xuân Phú. Đà Nẵngđã có
đường "Văn Cao" ởquận Thanh Khê.Thành phố Hồ
Chí MinhvàNam Địnhcũng
đều có đường mang tên ông. Năm 2005, mười năm
sau ngày Văn Cao mất,Hà
Nộilấy tên "Văn Cao"
đặt cho một tuyến phố thuộc hàng đẹp nhất của
thủ đô nối từLiễu Giaiđến
đườngHoàng Hoa Thám.
ÔngNguyễn Quốc
Triệu, chủ tịch thành phố thời gian đó,
đích thân tới nhà gia đình Văn Cao vào hôm
trước ngày giỗ của nhạc sĩ để báo tin. Đường
Văn Cao sau đó đã được kéo dài xuyên qua đường
Hoàng Hoa Thám, ra tận sát Hồ Tây.
Các con đường ở
một số tỉnh thành tại Việt Nam có mang tên ông
bao gồm:
Đường Văn
Cao, phường Đằng Giang, quận Ngô Quyền,Hải
Phòng
Đường Văn
Cao, phường Thạc Gián và Vĩnh Trung, quậnThanh
Khê,Đà Nẵng
Phố
Văn Cao, phường Liễu Giai, quận Ba
Đình và phường Thụy Khuê, quận Tây Hồ,Hà Nội
Trong cuộc đời và
sự nghiệp của Văn Cao, những người là bạn văn
nghệ gần gũi và có nhiều ghi chép giá trị về
ông là nhạc sĩPhạm Duy(bạn
lâu năm và đồng thời là người có đánh giá
chuyên môn toàn diện nhất về sự nghiệp âm nhạc
của Văn Cao), họa sĩTạ
Tỵ(cùng vớiThái Bá Vân, là những người có
hiểu biết sâu về tài năng mỹ thuật của Văn
Cao), nhà nghiên cứu âm nhạcNguyễn Thụy Kha(tác
giả của cuốn tiểu sử - tiểu thuyết chân dung
đầu tiên về Văn Cao) và họa sĩVăn Thao(con
cả của Văn Cao).
www.vietnamvanhien.net(Tin tức cập nhật
thường xuyên)
www.vietnamvanhien.org (Thuần ngữ,
tải nhanh)
www.vietnamvanhien.com (Kinh tế & Tài chánh)
www.vietnamvanhien.info(Tủ Sách Văn
Hiến, có hơn 10700 Tác
phẩm )