Viễn Châu (tên
thật Huỳnh
Trí Bá, 1924 - 1 tháng 2 năm 2016), là một
danh cầm đàn tranh và
soạn giả cải lương người Việt Nam. Ông được cho là
người đã khai sinh ra thể loại cải lương tân cổ
giao duyên và đã có công đào tạo ra nhiều thế hệ
nghệ sĩ cải lương danh tiếng một thời. Ông được
Nhà nước Việt Nam trao danh hiệu Nghệ
sĩ Nhân dân.
Thân
thế và khởi nghiệp
Ông sinh năm 1924 tại xã Đôn
Châu, huyện Trà Cú, tỉnh Trà
Vinh. Ông xuất thân trong gia đình vọng tộc,
thân phụ là Hương cả[1], là con thứ sáu trong gia
đình, ông còn có tên là Bảy
Bátheo thông lệ người miền Nam.
Thuở nhỏ, ông học quốc văn ở
trường làng và học Hán văn với những bậc túc nho ở
tại nhà. Ngoài ra, khi còn học ở trường, ông đã mê
đờn ca, cả tân lẫn cổ, thường có mặt trong các
buổi đờn ca tài tử, hoặc cùng bạn bè tổ chức đờn
ca. Ông mày mò những ngón đờn học lỏm qua đĩa hát
nhựa cũng như các nhóm đờn ca tài tử ở làng quê[1]. Đến năm 19 tuổi, ông đàn
thạo các loại đàn tranh, vĩ cầm, guitar và được
nhiều người khen ngợi.
Năm 1942, ông tham gia Ban cổ
nhạc Ðài Phát thanh Pháp Á Sài Gòn. Tuy nhiên, dấu
ấn đầu tiên trong sự nghiệp văn hóa nghệ thuật của
ông là truyện ngắn đầu tay "Chàng trẻ tuổi" được
đăng trên báo Dân Mới và bài thơ "Thời mộng" được
đăng trên báo Tổng
xã mới trong
năm đó.
Cuối năm 1943, ông theo đoàn
Tố Như lưu diễn. Hai tháng sau, ông tham gia gánh
ca kịch của Năm Châu ra Hà Nội lưu diễn. Trên bước
đường nghệ thuật của mình, ông có cơ hội tiếp xúc
với các nghệ sĩ tài danh bấy giờ như Năm
Châu, Lê Hoài Nở, Trần
Hữu Trang, Duy Lân,...
và học hỏi được nhiều kỹ năng về tư duy sáng tác.
Tuy nhiên, "chuyến lưu diễn"
của ông nhanh chóng kết thúc khi đoàn vừa về tới Sài Gòn thì
một người anh kế của ông là Huỳnh Thanh
Tòng bắt
ông về quê, không cho theo đoàn hát nữa.
Bước
gian truân của người nghệ sĩ
Cuối năm 1945, Pháp nổ súng tái chiếm
Đông Dương. Bấy giờ, ông đã viết vở cải
lương đầu tay "Hồn chiến sĩ", với nội dung cổ vũ
cho cuộc kháng chiến chống Pháp.
Vở tuồng đã được Ủy ban Kháng chiến hành chánh
quận Trà Cú (lúc bấy giờ là quận Trần Chí Nam) tổ
chức biểu diễn bán vé để góp quỹ kháng chiến.
Năm 1946, quân Pháp kiểm soát
phần lớn vùng Trà Vinh. Người anh Huỳnh Thanh Tòng
của ông bị quân Pháp bắt và bị bức tử ở đồn Long
Toàn (Trà Vinh). Để tránh bắt bớ do từng cầm súng
chống Pháp, ông bỏ xứ Đôn Châu lên Vĩnh Long tá
túc trong nhà một người bạn rồi sau đó phiêu bạt
lên Sài Gòn, tìm đến đoàn Năm Châu (lúc này đổi
tên là đoàn Con Tằm) để nương nhờ và theo nghiệp
nghệ thuật cải lương từ đó.
Tại Sài Gòn, ông bí mật hoạt
động cho Ban công tác thành ở Sài Gòn. Không lâu
sau, ông bị người Pháp bắt giữ cùng với 4 người
khác để khai thác. Mặc dù không đủ bằng chứng kết
tội, ông vẫn bị giam giữ mà không xét xử, sau đó
bị đày đi an trí ở Cẩm Giang (Tây
Ninh).
Mãi đến cuối năm 1949, ông
mới được trả tự do. Ông mới trốn thoát và trở lại
Sài Gòn, lại tìm đến đoàn Con Tằm với cái tên mới Trương
Văn Bảy. Năm 1950, ông viết vở cải lương
"Nát cánh hoa rừng" với bút danh Viễn
Châu[2], phóng tác từ truyện
đường rừng của Khái Hưng.
Đây là vở cải lương đầu tiên của ông được đoàn
Việt kịch Năm Châu trình diễn trên sân khấu đại
ban tại Sài Gòn cũng trong năm 1950, được công
chúng hoan nghênh nhiệt liệt.[3]
Từ đó, tên tuổi Viễn Châu bắt
đầu được giới mộ điệu chú ý. Các tác phẩm biểu
diễn đàn tranh của ông được nhiều hãng đĩa thu
thanh và phát hành liên tục. Đương thời, ngón đờn
tranh Bảy Bá được xem là một trong 3 ngón đờn cổ
nhạc đã được giới mộ điệu đánh giá cao và coi như
bậc thầy là Năm Cơ (đàn sến) - Bảy Bá (đàn tranh)
- Văn Vỹ (guitar phím lõm)[4][5]. Ngoài đoàn Việt kịch Năm
Châu, ông còn cộng tác với các đoàn hát: Kim Thanh Út
Trà Ôn (1955),
Thanh Tao (1958), Thanh
Nga (1962),
Dạ Lý Hương (1969), Tân Hoa Lan (1969). Đồng thời,
ông còn cộng tác với các hãng đĩa Việt Nam (1950),
Kim Long (1951), Việt Hải (1953), Thăng Long
(1954), Sống Mới (1968), Nhạc ngày xanh (1969),
Hồn nước (1973, của Ngọc Chánh sản xuất băng từ),…
Sau năm 1975, ông cộng tác
với Đoàn Văn công (1975), hãng băng Sài Gòn Audio
(1978) và nhiều đoàn hát ở các tỉnh. Năm 1984, ông
cùng đoàn nghệ thuật 284 lưu diễn ở các nước Tây
Âu như: Đức, Bỉ, Pháp, Ý.
Cả cuộc đời ông từ năm 1950
trở đi toàn tâm ý dồn hết cho nghệ thuật cải
lương. Mặc dù tuổi cao và bệnh trọng, nhưng ông
vẫn miệt mài sáng tác. Ông đang hoàn tất quyển hồi
ký về cuộc đời và sự nghiệp của mình[6]. Theo một học trò của ông
là Nghệ
sĩ Ưu tú Phương
Quang, ông từng dặn con trai mình là nhạc sĩ
Trương Minh Châu[7]: "Ba
chết, nhớ bỏ vô quan tài một mớ giấy, bút để
xuống đó ba viết bài vọng cổ".[8]
Ông mất ngày 1 tháng 2 năm
2016 tại nhà riêng, sau đó hỏa thiêu tại Bình Hưng
Hòa, thành phố Hồ Chí Minh[9]
Người
khai sinh tân cổ giao duyên
Ông được mệnh danh là vua của
các vị vua cải lương, "là người tạo danh cho các
nghệ sĩ", bởi qua nhiều sáng tác của ông, nhiều
nghệ sĩ khi thể hiện đã được cái ưa thích để đông
đảo người xem chú ý hơn, ví dụ như: Mỹ Châu với
bài "Hòn vọng phu", Út
Trà Ôn với
"Tình anh bán chiếu",... Bên cạnh đó, ông cũng
sáng tác ra nhiều bài vọng cổ hài hước mà sau này
được nhiều gương mặt nổi danh như nghệ sĩ Văn
Hường, Hề Sa,...
“ |
- "Không có Viễn
Châu là không có Ngọc Giàu cũng như
gần hết các tên tuổi cải lương nổi
tiếng của cải lương thời hoàng kim."
|
” |
|
“ |
- "Nhờ bài vọng cổ
"Tình anh bán chiếu" mà Ngã Bảy Phụng
Hiệp được nổi danh khắp vùng Nam bộ
nên địa phương rất biết ơn soạn giả
Viễn Châu!"
|
” |
— Lê Phú Khải,
dẫn lời một lãnh đạo Huyện ủy Phụng Hiệp
(Báo Cần Thơ)[11]
|
Một sáng tạo của Viễn Châu có
ý nghĩa đặc biệt trong lĩnh vực nghệ thuật là việc
ghép tân nhạc vào bản vọng cổ mà ông gọi là "Tân
cổ giao duyên". Bản tân cổ giao
duyên đầu
tiên của ông có tựa "Chàng là ai" (tân nhạc của Nguyễn
Hữu Thiết), sáng tác từ năm 1958, do Lệ Thủy ca
vào năm 1964[1]. Dù thể loại mới này đã
gây ra nhiều tranh cãi trên báo chí thời bấy giờ,
nhưng sức tồn tại của nó cũng như sự hâm mộ của
công chúng là bằng chứng cụ thể nhất đối với tân
cổ giao duyên.
Vinh danh
Năm 1988, Nhà nước Việt Nam
phong tặng danh hiệu Nghệ
sĩ Ưu tú
Năm 2012, ông được phong tặng Nghệ
sĩ Nhân dân để
tôn vinh những đóng góp và thành tựu nghệ thuật
của ông.
Năm 2014, Nhà
nước trao tặng Huân chương Lao động hạng
3 cho những đóng góp xuất sắc đối với nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam
Bộ.[12]
Một
số tác phẩm tiêu biểu
Hơn 50 năm sáng tác, ông đã
để lại một kho tàng tác phẩm đồ sộ. Trên 50 vở cải
lương đã được trình diễn trên các sân khấu đại ban
và trên 2000 bản vọng cổ đã được các hãng đĩa,
băng thu thanh và phát hành. Toàn bộ tác phẩm đều
đã được đăng ký bản quyền.[13] Dưới
đây là một số tác phẩm tiêu biểu:
Tuồng
cải lương
- Nát cánh hoa
rừng
- Tình mẫu tử
- Đời cô Nga
- Sau bức màn
nhung
- Bông ô môi
- Chuyện tình Hàn
Mặc Tử
- Chuyện tình Lan
và Điệp
- Quân vương và
thiếp
- Qua cơn ác mộng
- Nợ tình
- Hoa Mộc Lan
- Con gái Hoa Mộc
Lan
- Hai nụ cười xuân
- Ai điên ai tỉnh
Bản
vọng cổ