Tác Giả
VŨ BẰNG
Nhà Văn Vũ Bằng (1913-1984)
Vũ
Bằng (3 tháng 6, 1913 – 7 tháng
4, 1984), tên
thật là Vũ
Đăng Bằng, là một nhà văn, nhà báo của Việt
Nam. Ông là người có sở trường về viết truyện
ngắn, tùy bút, bút ký. Ông đã vào Sài Gòn sau 1954 để làm
báo và hoạt động tình báo.
Ngoài bút hiệu Vũ Bằng, ông còn ký với các bút hiệu
khác: Tiêu
Liêu, Vịt
Con, Thiên
Thư, Vạn
Lý Trình, Lê
Tâm, Hoàng
Thị Trâm.
Nhà văn Vũ
Bằng sinh
ngày 3 tháng 6 năm 1913[1][2] tại Hà Nội và lớn
lên trong một gia đình Nho học,
quê gốc ở làng Lương Ngọc, huyệnBình
Giang, tỉnh Hải
Dương. Ông theo học Trường Albert Sarraut,
tốt nghiệp Tú Tài Pháp.
Cha mẹ
Vũ Bằng sinh sáu người con, ba trai ba gái. Cha mất
sớm, Vũ Bằng ở với mẹ là chủ một tiệm bán sách ở phố
Hàng Gai (Hà Nội),
nên không bị thiếu thốn. Ngay khi còn nhỏ ông đã say
mê viết văn, làm báo. Năm 16 tuổi ông đã có truyện
đăng báo, liền sau đó ông lao vào nghề văn, nghề báo
với tất cả niềm say mê, chứ không phải vì mưu sinh.
Năm 1935, ông
lập gia đình với bà Nguyễn Thị Quỳ, người Thuận
Thành, Bắc Ninh. Cuối năm 1946, Vũ
Bằng cùng gia đình tản cư ra vùng kháng chiến.
Cuối năm 1948, trở
về Hà Nội, bắt đầu tham gia hoạt động trong mạng
lưới tình báo cách mạng. Năm 1954, được
sự phân công của tổ chức, ông vào Sài Gòn, để lại vợ và
con trai ở Hà Nội (năm 1967, bà
Quỳ qua đời) và tiếp tục hoạt động cho đến 30
tháng 4 năm 1975. Vì
nhiều nguyên nhân, trong đó có sự đứt đoạn đường dây
liên lạc, mãi đến sau này, ông mới được công nhận là
người hoạt động cách mạng và được truy tặng huân
chương nhà nước [3].
Ở Sài Gòn, ông lập gia đình với bà Phấn.
Ông mất
lúc 4 giờ 30 phút ngày 7 tháng 4 năm 1984[1] tại Thành phố Hồ Chí Minh,
thọ 71 tuổi. Ngày 13 tháng 2 năm 2007, nhà
văn Vũ Bằng được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về văn
học nghệ thuật[4].
Năm 17
tuổi (1931), ông
xuất bản tác phẩm đầu tay Lọ
Văn. Trong lãnh vực báo chí, ngay từ trong thập
niên 30, thập
niên 40, nghĩa là lúc ông còn rất trẻ, ông đã
là chủ bút tờ Tiểu Thuyết Thứ Bảy,
thư ký tòa soạn tờ Trung Bắc Chủ
Nhật và
cộng tác với nhiều tờ báo ở Hà Nội, Sài Gòn... Và "có
thể nói trong lịch sử văn học từ những năm 30 cho
đến năm 1954,
Vũ Bằng là một trong những người hoạt động sôi nổi
nhất"(Triệu Xuân) [5].
Mặc cho
người mẹ cản ngăn, muốn ông du học Pháp để làm
bác sĩ y khoa, Vũ Bằng quyết chí theo nghiệp văn
chương [6].
Đến khi in được vài truyện ngắn và tiểu thuyết, ông
sa vào lãnh vực ăn chơi vào loại khét tiếng. Khoảng
năm 1934 - 1935, Vũ
Bằng nghiện á phiện rất
nặng suốt 5 năm. Nhờ người cô ruột và nhờ vợ là
Nguyễn Thị Quỳ thường xuyên săn sóc, khuyên nhủ,
cộng với sự quyết tâm của bản thân nên ông đã cai
được, rồi viết cả một cuốn tự truyện mang tên Cai.
Sau năm 1954, Vũ
Bằng vào Sài Gòn tiếp tục viết văn, làm báo. ông làm
việc tại Việt Tấn Xã và cộng
tác với nhiều tờ báo. Ông chuyên về dịch thuật nhiều
hơn sáng tác. Đặc biệt với "cái ăn" ông viết rất
tuyệt vời: Miếng
ngon Hà Nội (bút
ký, 1960), Miếng
lạ miền Nam (bút
ký, 1969) và trong Thương
Nhớ Mười Hai (hồi
ký, 1972).
Nhận
xét về Vũ Bằng
Trích
một số ý kiến của người trong giới:
- Tiểu
thuyết của Vũ Bằng rất gần với tiểu thuyết của Nguyễn Công Hoan về
lối tả cảnh và nhân vật, dù là họ ở vào cảnh
nghèo khổ hay cảnh giàu sang, bao giờ Vũ Bằng
cũng tả bằng ngọn bút dí dỏm, nhạo đời hơi đá
hoạt kê một chút; còn về cảnh, ông chỉ tả sơ sơ;
ông chú trọng cả vào hành vi ấy là động tác của
cuốn tiểu thuyết và gây nên những cảnh riêng
biệt cho nhân vật...[7]
- Những năm
ấy Nam
Cao đương
ở với tôi trên Nghĩa Đô. Chúng tôi mải mê đọc Vũ
Bằng… Nếu nhà nghiên cứu văn học nào lưu tâm đến
những truyện ngắn Vũ Bằng thời kỳ ấy với truyện
ngắn của Nam Cao và những truyện ngắn "Bụi ô
tô", "Một đêm sáng giăng suông"… của tôi trên
báo Hà Nội Tân văn có thể dễ dàng nhận thấy hai
ngòi bút này hơi hướng Vũ Bằng. Chính chúng tôi
vẫn thường thành tâm tự nhận xét ảnh hưởng ấy
với anh ấy…
- Anh có
lối tả chân thật đặc biệt và trào phúng chuyên
môn, có khi rất nhẹ nhàng khả ái như Alphonse
Daudet, có khi cầu kỳ lí thú như Courteline. Tôi
không nói Vũ Bằng là một văn hào, nhưng chắc
chắn anh là một nhà văn Việt Nam độc đáo trên
lĩnh vực tả chân trào phúng, trước kia và bây
giờ.[8]
- Nhà văn Võ
Phiến trong
tác phẩm Văn
Học Miền Nam:
- Vũ Bằng
có lúc tay nầy một tờ báo của Vũ Đình Long, tay kia một tờ khác
của Nguyễn
Doãn Vượng; có lúc một mình trông nom cả
ba tờ báo ở Sài Gòn là Đồng
Nai, Sài
Gòn Mai vàTiếng
Dân; lại có lúc vừa viết cho Dân
Chúng, làm tổng thư ký báo Tin
Điện, lại vừa hợp tác với người thứ ba làm báo
Vịt Vịt...
- Nhà văn Tạ Tỵ đã
gọi Vũ Bằng là Người
trở về từ cõi đam mê, và ông đã viết như
sau:
- Vũ Bằng
là một hiện tượng. Trong suốt dòng sông của cuộc
đời có mặt, Vũ Bằng đã đánh đổi tất cả chỉ để
xin lấy về phần mình hơi thở của nghệ thuật. Vũ
Bằng thích sống một đời sống nhiều đam mê, dù là
tội lỗi, hơn đạo đức. Theo anh, đã sống phải nếm
đủ mùi đời mới thực là sống, còn bôn ba theo
đuổi danh lợi rồi chết im lìm thì chỉ là sống
một cách què cụt, thiếu sót...Tuy nói vậy, chứ
Vũ Bằng còn ham làm việc lắm. Anh thường nói với
tôi, anh ước mong viết...Đó, chân dung Vũ Bằng
với ngần ấy ước vọng ở mức tuổi gần 60. Ước vọng
tuy không lớn lao nhưng thời gian và cơm áo có
cho phép Vũ Bằng thực thi dự định? Riêng tôi,
tôi cầu chúc cho ước vọng của Vũ Bằng thành sự
thực...
Tạ Tỵ thuật
tiếp:
- Nhưng khi
nhìn thẳng vào đời sống của Vũ Bằng dưới mái nhà
nhỏ bé bên chân cầu Tân Thuận, tự nhiên trong
lòng tôi thấy xót xa… Chính vì cần tiền nên cứ
vào khoảng 3 giờ sáng, Vũ Bằng một mình một bóng
vừa viết...vừa ngồi hứng từng chậu nước đổ vào
bể chứa cho vợ nấu cơm và giặt giũ. Trời vừa
hửng sáng, mặc quần áo đi làm, mang theo bản
thảo. Buổi trưa đến cây xăng Cống Bà Xếp ngồi
giữa hơi xăng và đống dầu mỡ mà viết, vì về nhà
con còn nhỏ, la hét um sùm không viết nổi. Có
lúc nhà in giục gấp quá, Vũ Bằng viết luôn tại
nhà in, được trang nào đưa sắp chữ ngay trang
ấy. Nhiều khi Vũ Bằng viết ở ghế đá công viên,
nghĩa là chỗ nào và lúc nào anh cũng viết được,
vì chữ nghĩa đã có sẵn, chờ dịp trút xuống.
Trong đời, tôi được biết có hai nhà văn viết bản
thảo một mạch ít khi sửa chữa. Đó là Vũ Bằng và Đào Trinh Nhất....[9].
Ngoài
ra, không ít nhà văn, nhà phê bình nghiên cứu văn
học cho rằng ngay
từ những năm Ba mươi, Vũ Bằng là một trong những
người có công lớn cách tân tiểu thuyết Việt Nam,
hiện đại hóa nền văn xuôi Việt Nam[10]
Tác
phẩm "Thương nhớ Mười Hai"
Ba tác phẩm chính
của Vũ Bằng
Trong số
trước tác của Vũ Bằng, Thương
Nhớ Mười Hai là tác
phẩm tiêu biểu cho tâm tư và phong cách viết của
ông. Nội dung sách ông viết về hình ảnh người vợ tên
Quỳ bên kia vỹ tuyến. Ông khởi sự viết từ tháng
Giêng 1960, ròng rã mười một năm mới hoàn thành tác
phẩm dày khoảng 250 trang vào năm 1971.
GS Hoàng
Như Mai đánh
giá:
- Dù phải
thích nghi với hoàn cảnh chính trị như thế nào
đấy, cuốn sách vẫn bày tỏ rất rõ tâm sự của một
người con miền Bắc nhớ da diết quê hương ở bên
kia "giới tuyến". Chính tấm lòng ấy đã cùng với
ngòi bút tài hoa của Vũ Bằng làm nên giá trị văn
chương của tác phẩm này. Nó hấp dẫn chúng ta
từng dòng, từng trang...[11]
Nhà văn Triệu
Xuân ca
ngợi:
- Có người
bạn thân, trong lúc đàm đạo văn chương, hỏi tôi:
"Sắp sang thế kỷ 21 rồi, nếu chỉ được phép mang
mười cuốn sách văn học vào thế kỷ mới, ông mang
những cuốn nào?". Tôi trả lời ngay: "Một trong
những cuốn tôi mang theo là Thương Nhớ Mười Hai
của Vũ Bằng!…
- Bởi viết
về Hà Nội, viết về đất nước quê hương, không ai
có thể hơn Vũ Bằng. Bởi Vũ Bằng yêu Hà Nội, yêu
đất nước quê hương khi mà ông đang sống ở Sài
Gòn, cách Hà Nội chưa đầy hai giờ máy bay mà vời
vợi ngàn trùng. Nỗi nhớ niềm yêu ấy là tuyệt
vọng! Hơn thế nữa, bà Nguyễn Thị Quỳ, vợ hiền
của ông, người đã góp phần quyết định làm nên
một Vũ Bằng nhà văn, nhà báo, là nguồn cảm hứng
văn chương của ông…[10]
Và trong Từ
điển văn học (bộ
mới):
- Văn hồi
ký của ông là loại văn trữ tình, giàu chất thơ,
hướng vào biểu hiện nội tâm, hướng về phong cảnh
thiên nhiên bốn mùa xứ sở. Các câu văn tràn đầy
cảm xúc, cảm giác tinh tế. Cùng với Thương
nhớ mười hai, Miếng
ngon Hà Nội…đã góp phần định hình kiểu hồi ký
trữ tình độc đáo. Có thể xem đây là một đóng góp
quan trọng của Vũ Bằng vào thể ký nói riêng và
nền văn học hiện đại nói chung[3].
Hoạt
động mật
Nhà văn
Triệu Xuân kể:
- Một thời
gian dài, Vũ Bằng và gia đình ông âm thầm chịu
tiếng là nhà văn "dinh tê, về thành", nhà văn
"quay lưng lại với Kháng chiến", là "di cư vào
Nam theo giặc"! Có lẽ vì thế mà trong sách giáo
khoa phổ thông cũng như ở bậc đại học, người ta
không giảng dạy về Vũ Bằng.
- Mặc dù
vào những năm 1932 - 1945,
Vũ Bằng đã nâng đỡ, hướng nghiệp, dìu dắt rất
nhiều nhà văn trẻ, sau này trở thành những nhà
văn tên tuổi lẫy lừng; và những người am hiểu Vũ
Bằng từ khi ông vào Nam mà tôi đã gặp đều khẳng
định: Vũ Bằng là một con người chân chính, một
nhà văn yêu nước, có tấm lòng son sắt với Hà
Nội.
- Khi ông
lâm bệnh cho đến lúc trút hơi thở cuối cùng, gia
cảnh ông vô cùng túng thiếu.
- Nhờ có
rất nhiều người yêu mến Vũ Bằng, đã bỏ công sức
tìm hiểu lai lịch cuộc đời ông, nên phát hiện
thêm nhiều bằng chứng cho thấy không phải ông
"dinh tê, di cư, phản bội", mà là ông đã nhận
nhiệm vụ hoạt động bí mật trong giới trí thức
nội thành từ năm 1952.
- Nhờ vậy,
vấn đề Vũ Bằng đã được Hội Nhà văn Việt
Nam cử
người xác minh.
- Tháng
3 năm 2000,
Cục Chính trị thuộc Tổng cục 2 - Bộ Quốc phòng Việt Nam đã
có văn bản xác nhận nhà văn Vũ Bằng là chiến sĩ quân báo.
Hy vọng rằng ở nơi chín suối, hương hồn nhà văn
Vũ Bằng sẽ thanh thản sau những năm dài buồn
tủi...[10]
Các tác phẩm
- Lọ văn (tập
văn trào phúng, 1931)
- Một mình trong
đêm tối (tiểu
thuyết, 1937)
- Truyện hai
người (tiểu
thuyết, 1940)
- Tội ác và hối
hận (tiểu
thuyết, 1940)
- Để cho chàng
khỏi khổ (tiểu
thuyết, 1941)
- Bèo nước (tiểu
thuyết, 1944)
- Ba truyện mổ
bụng (tập
truyện, 1941)
- Cai (hồi
ký, 1944)
- Ăn tết thủy
tiên (1956)
Miếng
ngon Hà Nội (bút
ký, 1960)
Miếng
lạ miền Nam (bút
ký, 1969)
- Bốn
mươi năm nói láo (hồi
ký, 1969)
- Mê chữ (tập
truyện, 1970)
- Nhà văn lắm
chuyện (1971)
- Những cây cười
tiền chiến (1971)
Khảo
về tiểu thuyết (biên
khảo, 1969)
- Thương
nhớ mười hai (bút
ký, 1972)
- Người làm mả vợ (tập
truyện ký, 1973)
- Bóng ma nhà mệ
Hoát (tiểu
thuyết, 1973)
- Tuyển tập Vũ
Bằng (3
tập, Nhà xuất bản Văn học, 2000)
- Những kẻ gieo
gió (2
tập, Nhà xuất bản Văn học, 2003)
- Vũ Bằng toàn
tập (4
tập, Nhà xuất bản Văn học, 2006)
- Vũ Bằng, Các
tác phẩm mới tìm thấy (Lại
Nguyên Ân sưu tầm. Nhà xuất bản. Văn hóa Sài Gòn,
2010)
- Hà Nội trong
cơn lốc (Nhà
xuất bản Phụ Nữ, 2010)
- Văn Hóa... Gỡ (Nhà
xuất bản Phụ Nữ, 2012).
và một
số sách dịch khác.
Một
triển lãm tác phẩm Vũ Bằng kỷ niệm 100 năm ngày sinh
của ông được ra mắt tháng 6 năm 2013 tại Nhã Nam thư
quán (TP. Hồ Chí Minh) với gần 40 đầu tài liệu gồm
sách, báo, thủ bút bản thảo của ông.[12]
Nguồn:https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C5%A9_B%E1%BA%B1ng
|