Việt
Nam
Văn Hiến
Năm
Thứ 4888
www.vietnamvanhien.net
AN DƯƠNG VƯƠNG HỌ
GÌ ?
ĐỖ HUY
Đại Việt Sử Ký
Toàn Thư, Kỷ Nhà Thục viết về An Dương Vương như sau :
“Họ Thục, tên húy là Phán, người Ba Thục, ở
ngôi 50 năm, đóng đô ở Phong Khê (nay
là thành Cổ Loa)…”
Việt
Sử Tiêu Án viết : “An Dương Vương tên là
Phán, người Ba Thục ở ngôi 50 năm…”
Toàn
Thư
nói An Dương Vương họ Thục, còn Tiêu
Án không nói họ gì mà chỉ
nói tên là Phán. Cả Toàn
Thư và Tiêu Án đều nói
An Dương Vương là người Ba Thục.
Nguyễn Hiến Lê chú thích trong bản dịch Sử
Ký Tư Mã Thiên về Ba Thục :
“Ba Thục
là tên của nước Ba và nước Thục gộp lại.
Ba :
là một nước ở phía nam nước Tần, sau nhà Tần chiếm
và đổi thành Ba quận, nay là phía
đông tỉnh Tứ Xuyên.
Thục :
là một nước, sau Tần chiếm đổi thành Thục quận, nay
là tây bộ tỉnh Tứ Xuyên và một phần đất
Tây Khương cũ.”
Ba
Thục phía bắc có dãy Tần Lĩnh, núi non
trùng điệp, phía tây giáp cao nguyên
Thanh Hải, phía nam giáp tỉnh Vân Nam, phía
đông có Tam Giáp hay Tam Hiệp là ba quả
núi ở giáp bên sông Dương Tử : Cù
Đường Hiệp, Vu Hiệp và Tây Lăng Hiệp, dài tất cả
204 km. nay chỗ này xây đập Tam Hiệp, cho nên đường
vào Ba Thục rất hiểm trở khó khăn.
(Nơi bắt đầu Tam Hiệp có
thành Bạch Đế là điểm hiểm yếu thủy lục, cửa ngỏ
phía đông của Ba Thục, giáp với đất Sở. Thời Tam
Quốc, Bạch Đế thành là nơi Lưu Bị, sau khi thân
chinh đánh Đông Ngô bị thất bại, lui về cố thủ, năm
sau bị bệnh chết. Trước khi lâm chung Lưu Bị đã phó
thác con mình là Lưu Thiện cho tể tướng Khổng
Minh. Gần Bạch Đế Thành có “Bát Trận Đồ” bao gồm
Thủy bát trận và Hạn bát trận, tương truyền
là nơi Gia Cát Lượng Khổng Minh diễn tập binh
pháp, bài bố binh trận khi đem quân từ Kinh
Châu vào đất Thục để ngăn chặn quân Đông
Ngô đuổi theo.)
Từ Ba
Thục đến nước Văn Lang tức Bắc Việt ngày nay đường xá
diệu vợi, phải vượt qua tỉnh Hồ Nam, dãy Ngũ Lĩnh, qua Quế
Châu, Quảng Tây mới đến vùng thượng du Bắc Việt,
toàn là núi non trùng điệp. Khâm Định
Việt Sử Thông Giám Cương Mục nhận xét : “Nước Thục
từ năm thứ 5 đời Thận Tỉnh Vương nhà Chu (Chu Noãn, 316
tr CN) đã bị nước Tần (Huệ Công) diệt rồi còn
làm gì có vua nữa ? Huống chi từ Thục đến Văn Lang
còn có đất Kiện Vi (ngày nay thuộc Vân Nam),
đất Dạ Lang, Cùng, Túc, Nhiễm Mang v.v…, cách nhau
hàng hai ba ngàn dặm, có lẽ nào Thục vựot
qua được các nước ấy mà sang đánh lấy Văn Lang ?
Hoặc giả ngoài cõi Tây Bắc giáp nước Văn
Lang còn có họ Thục khác mà sử cũ nhận
là Thục Vương chăng ?”
Trần
Trọng Kim trong Việt Nam Sử Lược cũng đồng ý với nhận xét
của Cương Mục : “Huống chi lấy địa lý mà
xét thì từ đất Ba Thục (Tứ Xuyên) sang đến Văn Lang
(Bắc Việt) cách bao nhiêu đường đất và có
bao nhiêu núi sông ngăn trở, làm thế
nào quân nhà Thục sang lấy nước Văn Lang dễ
dàng vậy ?”
BA THỤC.
Ba Thục là
tên gồm nước Ba và nước Thục, ngày nay là
tỉnh Tứ Xuyên, xung quanh núi non trùng điệp bao
vây, có sông Dương Tử chảy qua.
Dân Ba và dân Thục đều thuộc chủng Thái (Sử
Ký Tư Mã Thiên gọi là Nhung, Địch).
Thái hay Tày là tên có từ thế kỷ 13
khi bị Hoa tộc lấn đất dữ dội, họ phải bỏ xứ mà Nam thiên
xuống các vùng phía Nam như Miến Điện, Vân
Nam, Lào, Xiêm, Bắc Việt. Thái có nghĩa
là “Thoát khỏi, Tự do, Thong thả”. Trước đó họ tự
gọi là Âu. Chi Âu cùng với chi Lạc trong
huyền thoại cha Lạc Long, mẹ Âu Cơ đẻ Trăm Trứng. Năm mươi con
chi Âu theo mẹ lên núi, năm mươi con chi Lạc theo
cha xuống biển. Bởi vậy người Thái (Âu) phần nhiều ở
núi, người Việt (Lạc) ở đồng bằng.
Phía bắc nước Ba Thục có dãy Tần Lĩnh núi
non cheo leo hiểm trở, muốn qua phải làm cầu, đường bằng
cây đan treo vào núi gọi là sạn đạo.
Phía bắc dãy Tần Lĩnh là nước Tần. Tần Hiến
Công nuôi mộng bá chủ chư hầu nên chuẩn bị
quân lương. Nước Tần thì khô khan ruộng nương
ít, cần tìm đất đai. Phía Đông có
nhiều ruộng tốt nhưng đã có chủ khó lòng
chiếm đoạt nên nhìn qua dãy Tần Lĩnh có Ba
Thục là vùng đất có sông Dương Tử chảy
qua, đất đai phì nhiêu, cần chiếm đoạt. Vào năm 316
tr. CN, tướng Thục là Tư Mã Thác vượt Tần Lĩnh, từ
Hán Trung vào đánh chiếm nước Ba rồi nước Thục.
Hai nước này không phòng bị, Tần chiếm dễ
dàng.
(Về đường sạn đạo, Sử Ký cùa
Tư Mã Thiên viết : “Đường Sạn đạo nghìn dặm
thông tới Thục Hán”. Hiện nay đường sạn đạo không
còn nhưng vẫn “còn nhiều lỗ khoan đục trên
vách núi, xếp thành ba tầng, trên, giữa
và dưới, lỗ đục tầng giữa là để cắm cọc gỗ, trên
cọc lát ván gỗ liền nhau để làm đường đi, tầng
dưới là lỗ để cắm giá đỡ, tầng trên là lỗ để
lắp đặt mái chống mưa. Mỗi lỗ rộng khoảng 30 centimét,
sâu khoảng 50 centimét. Sạn đạo trông xa như
gác hành lang lơ lửng, nên gọi là gác
mây. Lý Bạch làm bài “ Thục đạo nan “ có câu :
Y hư hi, nguy hồ cao tai,
Thục đạo nan nan ư thướng
thanh thiên !….
tạm dịch :
Ôi chao, ghê
thay! Nguy hiểm và cao làm sao!
Đường lên xứ Thục khó
đi, khó hơn cả lên trời xanh!….
Đường sạn đạo này để lại
nhiều truyền thuyết, Thục
Vương
Bản Kỷ viết rằng : “Tần Huệ Vương muốn đánh nước Thục,
liền tạc năm con trâu đá và để vàng sau
đuôi. Người Thục thấy vậy, cho rằng trâu ỉa ra vàng
được. Hơn nữa trâu lại có lính chăm sóc,
nên càng chắc mẫm là trâu nhà Trời, ỉa
ra được vàng. Vua Thục tin là thật, lập tức góp
một nghìn lính, cử đi năm lực sĩ, lôi kéo
trâu đá đi tạo thành đường, tới Tam Mai ở
Thành Đô. Tần có được đường đi tới Thục là
nhờ công sức của trâu đá. Sau cử Thừa tướng Trương
Nghi theo đường trâu đá đánh Thục”.
Hoa Dương quốc chí - Thục
chí lại có truyền thuyết năm cô gái
vào đất Thục : “ Thục có năm lực sĩ, dời được núi,
nâng được đỉnh vạn cân… Tần Huệ Vương biết vua Thục hiếu
sắc, hứa cho năm cô gái đẹp đến Thục. Thục sai năm lực sĩ
đi đón, trên đường trở về đến Từ Đổng, thấy một con rắn
lớn chui vào trong hang, một người túm lấy đuôi rắn
kéo nhưng không được, thế là cả năm người
cùng kéo, hò reo kéo rắn, núi
đá sụt lở đè chết năm người cũng như năm cô
gái nước Tần và những người đi theo. Núi lở
và chia thành Ngũ Lĩnh”.)
Đây có lẽ
là lần đầu tiên chi Âu bị Hoa tộc xâm lăng.
Chi Lạc thì đã bị Hoa tộc cướp đất từ lâu, mất phần
đất Hoàng Hà từ thời Thần Nông (2697 tr.CN.
Hiên Viên đánh Xuy Vưu, cướp ngôi, cướp nước
của Đế Du Võng). Hoa tộc kể từ đời Tần Thủy Hoàng sẽ
còn tiến chiếm chẳng những đất của chi Lạc mà cả của chi
Âu để thành lập đế quốc gọi là Trung Hoa hay Trung
Quốc, hình thành tộc Hán.
Chi
Âu còn giữ được phần đất ở Vân Nam gọi là Nam
Chiếu, lấy thành Đại Lý làm kinh đô
nên cũng gọi là nước Đại Lý.
( Nước Đại Lý. Vào thế kỷ
2, người Hán bắt đầu dòm ngó vùng Vân
Nam, một vùng gồm các giống dân Bách Việt,
đa số là người Thái, sống một cách biệt lập. Năm
120, người Hán mở được một đường thông thương sang Ấn qua
vùng Cửu Long Thượng (Lan Thương) Salween và Irrawaddy,
nhưng chẳng bao lâu sau, các bộ tộc Thái kết tụ lại
dần và kiểm soát được thung lũng Thái Hòa
(sau này là vùng hồ Đại Lý), nên
đường thông thương Hoa-Ấn bị tắc nghẽn. Bẵng đi mấy thế kỷ, tới
năm 648, nhà Đường lại tính mở lại đường này,
nên đem quân đến chiếm khu vực Thái Hòa.
Các bộ tộc Thái lúc ấy đã lập thành
6 tiểu quốc, cùng sát cánh đánh lui được
quân Đường.
Năm 713 (có
sách chép 730) thủ lãnh ở miền Nam là
Bì La Cáp (Piloko) thống nhất được 6 tiểu quốc lập
ra vương quốc Đại Mông. Đại Mông đổi là Đại Lệ
và sau cùng là Đại Lý. Ngày nay
thành Thái Hòa, thủ phủ của vương quốc này
vẫn còn được gọi là thành Đại Lý (Tali).
Thành Thái Hòa tọa lạc ở một vùng hồ
có núi bao bọc mặt tây và mặt đông
và là cửa ngỏ từ bắc xuống nam dọc theo triền sông.
Từ vị trí kiên cố ấy, Đại Lý đã chống đỡ
và đánh bại được hai cuộc tấn công cùa
quân nhà Đường vào năm 751 và 754.
Về nguồn gốc tập thể
Thái của vương quốc Đại Lý, có người cho là
“từ nhóm
Bách Việt sinh tụ chủ yếu ở miền nam sông Dương Tử,
thiên di theo hướng tây nam vào miền Vân Nam…”
vào khoảng thiên kỷ thứ nhất trước Công
nguyên. Thật ra thì từ trước, vùng Vân Nam
cũng vốn đã có những bộ tộc Bách Việt sống rải
rác nhưng chỉ sau khi đế quốc Nam Việt bị Hán thôn
tính thì vùng này mới quy tụ đông
đảo. Vì người Thái chẳng ai đâu xa lạ, chính
là bộ tộc Lý thuộc nhóm Âu Việt ở Quảng
Tây trong đế quốc Nam Việt cũ. Họ bỏ quê hương đi vì
không chịu sống dưới sự đô hộ của người Hán
và cũng bởi thế mới tự xưng là Thái, có
nghĩa là tự do, là thoát khỏi. Truyện Nam Chiếu
trong Lĩnh Nam Trích Quái cũng kể lại là sau khi
Nam Việt bị nhà Hán thôn tính, một phần
dân Nam Việt đã bỏ nước di cư lập ra nước Nam Chiếu
(Đại Lý). Tuy nhiên, trên phần đất cũ vẫn còn
nhiều người Lý ở và họ đã đóng góp
xương máu vào cuộc khởi nghĩa chống Hán của Hai
Bà Trưng. Khâm Định Việt Sử Thông Giám Triều
Biên đã ghi quân Hai Bà tới đâu như
gió lướt tới đó, các bộ tộc Man, bộ tộc
Lý ở Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng theo.
Khi quốc gia vững mạnh, Đại
Lý liền đem quân sang đánh quân Tàu
(nhà Đường) ở Giao Châu. Trận dánh này cũng
có quân địa phương nội ứng (Đỗ Trừng, Chu Cổ Đạo) Thủ phủ
Đaị La (Hànội) đã hai lần thất thủ. Lần thứ nhất
vào năm 860, quan đô hộ nhà Đường là
Lý Hộ phải bỏ thành mà chạy về Tàu. Lần thứ
hai năm 863, quan đô hộ Thái Tập phải tự tử, tướng
nhà Đường là Nguyên Duy Đức bị tử trận. Năm 866,
quân Đại Lý ở Giao Châu bị Cao Biền đánh bại
hẳn…)
(Phạm Việt Châu, Trăm Việt
Trên Đường Định Mệnh)
Đến
thế kỷ 13 (1253) Đại Lý bị tướng Ngột Lương Hợp Thái
(Wouleangotai) Mông Cổ đánh chiếm, rồi sau đó bị
nhà Minh của Tàu rồi nhà Thanh của Mãn
Châu rồi Cộng đảng sáp nhập vào đế quốc Trung Hoa.
Những người chi Âu không chịu ách đô hộ của
Hoa tộc đã Nam thiên xuống miền Đông Nam Á
và tự xưng là Thái, là Tày
nghiã là người Tự Do. Trong cuộc Nam thiên
này họ đã cất hát bài hành ca bi
tráng:
Phải
đi đường con don, con dím,
Đường
con trâu, con bò lẫn trong rừng.
Ai
có bò, bện thừng mà buộc,
Ai
có trâu làm xẻo mà lôi,
Ai
có con đeo địu, mang nôi…..
(Trăm
Việt trên đường Định mệnh, Trần Việt Châu)
Và họ đã lập nên nước Thái Lan, nước
Lào, vùng tự trị Shan, Karen ở Miến Điện,
vùng Xishuangbanna (12 bản ruộng) ở Vân Nam, vùng
Xịp Soong Châu Thái (12 châu Thái) ở Bắc
Việt, tỉểu bang Nagaland, Assam ở Ấn Độ….
Trở
lại đất Thục. Tả Truyện chép sau khi bị Tư Mã
Thác đem quân Tần chiếm nước Thục thì dân
Thục bỏ xứ chạy sang nước Ba rồi tràn vào nước Sở.
Dân Thục chạy sang nước Ba nhưng không ở lại đó
vì nước Ba cũng đã bị Tần chiếm rồi. Họ nhờ đường nước Ba
để sang nước Sở. Nước Sở là địa bàn của Việt tộc nhưng
đã Hoa hóa nhiều rồi, bởi thế dân Thục không
có ở lại đất Sở mà họ di cư xuống miền Nam, vượt Ngũ Lĩnh
xuống Quý Châu.
Quý Châu cũng là đất cùa người Thái
tuy có nhiều người Mèo ở. Đất Quý Châu
là đất núi non, khí hậu xấu mà
nghèo, nơi “trời không ba ngày sáng, đất
không ba thước bằng” nên họ không ở
đó. Họ lại đi xuống nữa đến vùng Quảng Tây. Quảng
Tây, Quảng Đông cũng là địa bàn của người
Thái sinh sống. Đám người Thục di tản đó ở lại
Quảng Tây, ngày xưa gọi là Tây Âu.
Có một nơi gọi là Đông Âu, ngày nay
là tỉnh Giang Tây cũng là địa bàn của chi
Âu tức Thái.
Cuộc
thiên di của người Thục tới Tây Âu (Quảng Tây)
hẳn là có vất vả và phải nhiều năm mới tới nơi
định cư. Đất Quảng Tây cũng là núi non, ít
đồng bằng. Những vùng ruộng nương thì người trước
đã chiếm cả rồi nên dân Thục đến sau đành
phải ở nơi triền núi, rừng hoang. Vì dân Thục đến
sau nên những người ở trước gọi họ là Khách
Trú tức Hakka hay Hecka tức người Hẹ.
Hakka, Khách Trú, Hẹ
Nước Tàu
luôn luôn có loạn lạc, từ các ông vua
ông chúa cướp ngôi của nhau, chiếm đất của nhau đến
bọn lục lâm thảo khấu cướp của giết người đốt phá
làng mạc. Bởi vậy từng thời, từng lớp người bỏ đi xuống phương
Nam lánh nạn. Những lớp người lánh nạn đó đến
thì đất đai đã do người địa phương chiếm hết cả rồi, họ
phải ở ngụ cư làm công việc lặt vặt, phu phen, có
khi làm nghề buôn bán, thày thuôc v.v…
Dân địa phương gọi họ là Khách Gia, tiếng Quảng
Đông gọi họ là Hạc Cá, người Pháp gọi
là Hakkas, người Việt miền Bắc gọi là Khách
Trú, người miền Nam gọi trại thành Cắc Chú.
Khách trú này có nhiều đợt, có nhiều
sắc tộc khác nhau. Phần nhiều họ là người phương Bắc gốc
Hoa xuống phương Nam là đất của dân Việt nên họ
không hòa nhập được, hoặc giả với tánh tự
kiêu họ sống riêng rẽ chờ một ngày kia trở về
khôi phục ngôi báu hay phục quốc.
Người
Hakkas trong thời hiện đại ở Trung Hoa đã có những người,
những gia đình nắm giữ vai trò trọng yếu trong
chính trường cũng như tài chánh, như gia
đình họ Tống, gốc người Hakkas ở Hải Nam : bà Tống
Khánh Linh vợ của Tôn Dật Tiên, quốc phụ Trung Hoa
Dân Quốc. Bà Tống Ái Linh, vợ nhà tài
phiệt Khổng Tường Hy cháu 75 đời của Khổng Tử, đã chi
phối nền tài chánh Trung Hoa. Bà Tống Mỹ Linh, vơ
Tưởng Giới Thach, Tổng Thống Trung Hoa Dân Quốc. Họ là ba
chị em của gia đình họ Tống, đã khuynh đảo lịch sử
và đời sống của cả dân tộc Trung Hoa cận đại.
Ông Lý Quang Diệu (Lee Kuan Yew), cựu Thủ tướng Tân
Gia Ba là người Hakka. Ông kể lai lịch gia đình
ông như sau : “Lịch sử gia đình tôi tại Singapore
bắt đầu với ông cố nội tôi, Lee Bok Boon, một người Hakka.
Người Hakkas là người Hán miền đồng bằng Hoa Trung
và Hoa Bắc di cư đến Fujian (Phúc Kiến), Guangdong (Quảng
Đông) và các tỉnh khác ở Hoa nam khoảng 700
đến 1000 năm trước và vì là kẻ đến sau, họ chỉ
có thể sống chen chúc trên những mảnh đất đồi
kém màu mỡ không có dân địa phương cư
ngụ. Theo văn bia trên mộ ông cố ở sau căn nhà của
ông tại Trung Quốc, Lee Bok Boon ra đời năm 1846 tại làng
Tangxi, quận Dabu, Guangdong. Ông theo tàu di cư sang
Singapore…” (Hồi Ký Lý Quang Diệu, Phạm Viêm Phương
và Huỳnh Văn Thành dịch)
Bà Han Suyin (Hàn Tố Anh), một nhà văn viết nhiều
truyện trong đó có cuốn “Mùa Hè Vắng
Bóng Chim” là người Hakka. Bà viết về gia
đình bà như sau :”Giòng họ Tchou của bà
(Hansuyin) gốc ở lưu vực Hoàng Hà di cư xuống các
tỉnh Phước Kiến, Quảng Đông nhưng tới nơi các miếng đất
đã có chủ phải đi làm thuê, lãnh
canh, gánh thuê, bán rong, buôn muối lậu,
làm giặc, nổi loạn. Vào thế kỷ XI chạy giặc Mông
Cổ. Thế kỷ XVII, Tứ Xuyên chống cự xâm lược Mãn
Châu, bị tàn sát, một phần bị dịch hạch, hầu như
không còn người nào. Nhà Thanh dùng
chính sách di dân bắt những người Hakkas lại lập
nghiệp ở các vùng hoang vu. Thế kỷ XIX họ tổ chức
các đoàn quân Hakkas để dẹp loạn trong miền. Người
Hakkas lúc đó rời Quảng Đông mà lên
miền Tứ Xuyên Tây Bắc, họ theo những chuyến chở muối đi
trên các kinh và những đường mòn trong
núi mà bọn buôn lậu vẫn thường dùng. Họ định
cư ớ các thung lũng phì nhiêu và cánh
đồng Thành Đô, trong đó có Pihsien
phì nhiêu, cách Thành Đô 12 km, phong
phú, mỗi năm có thể làm hai hoặc ba vụ mùa
lúa được”. (Nguyễn Hiến Lê dịch)
Người
Triều Châu cũng gọi là Tiều là dân Hakkas
đồng hóa với dân bản địa mà thành. Gia
đình họ Tống vốn là dân Hakkas từ Sơn Tây
xuống Hải Nam nay đồng hóa với dân bản địa trở
thành Triều Châu.
Còn
người Thục di cư xuống Quảng Tây thì họ cũng ở vào
trường hợp như các thứ dân Hakkas khác, tức
là họ không có đất để canh tác, họ trở
thành khách gia.
Ông Bình Nguyên Lộc trong “Nguồn gốc Mã
Lai của dân tộc Việt Nam”, viết về trường hợp dân Thục
ở Quảng Tây như sau : “Cách đây không
lâu, nhà bác học Trung Hoa, ông La Hương
Lâm, có nghiên cứu một nhóm người thiểu số ở
Quảng Tây mà người Tàu gọi là khách
gia và khám phá ra rằng khách gia
đích thị là người Ba Thục di cư xuống nước Tây
Âu, sau khi bị Tư Mã Thác diệt quốc… Từ Quảng
Tây sang Chợ Lớn, người khách gia, Quảng Đông đọc
là Hạc Cá, Pháp gọi là Hakkas, nhưng Nam
Việt gọi là Hẹ vì họ tự xưng là Hẹcka, tức
là nói tiếng Tàu sai giọng, Hẹcka bị thu lại
còn Hẹ”.
Hakkas, Khách Trú là những đám người chạy
loạn từ Hoa Bắc, Hoa Trung xuống Hoa Nam. Họ gồm nhiều chủng tộc
khác nhau. Họ có thể là người Hoa của nhà
Thương, nhà Chu ở vùng Hoàng Hà. Họ
có thể là người Việt ở vùng Dương Tử. Họ là
người Thái ở Ba Thục. Họ là người Mán, người
Mèo bị người Hoa săn đuổi.
Theo
ông Nguyên Nguyên (Truyền Thuyết Hùng Vương
17- Lạc Long Quân và người Hakka) trên mạng
Viendu.com thì người Hakka hay là người Hẹ
chính là người Cửu Ly hay Cửu Lê hay Bộc Việt
phát xuất từ sông Bộc, Sơn Đông. Lãnh tụ của
họ là Xuy Vưu bị Hiên Viên tức Hoàng Đế của
tộc Hoa đánh bại và họ phân tán đi Triều
Tiên và các nhóm xuống miền nam trở
thành người Hakka. Người Hoa gọi họ là Cửu Li, Bộc Việt
hay Đông Di.
Hakka
là âm của người Quảng Đông gọi họ mà tiếng
Việt đọc là Khách Gia. Từ thời cổ người Hoa dùng
một từ Luo tức Lạc bộ trãi, từ Luo này phát
âm rất giống Hẹ để gọi giống người này (Cửu Lê). Từ
Lạc trong Lạc Long Quân cũng phát âm Luo hay Hẹ. Luo
= Lạc = Hẹ.
Từ thời cổ
người Hẹ và người Miêu sống gần nhau người Hoa dùng
một từ là Lạc bộ trãi tức là Luo (Lạc) hay Hẹ hay
Đông Di để gọi họ. Họ gần nhau đến độ có thể Xuy Vưu
là nhà lãnh đạo chung cho cả hai nhóm, gọi
chung là Cửu Ly (Jiu Li).
Chỉ
có người Việt Nam gọi người Hakka là Hẹ, giống như thời
cổ vì người Hẹ là người Lạc Việt.
“Nhà
Lý do Lý Công Uẩn thiết lập (1010) có hậu
thuẫn là nhóm người Bộc Việt và Miêu sống
tập trung ở bình nguyên sông Hồng. Bởi lý do
đó Lý Thái Tổ lập tức dời kinh đô về
thành Đại La (Thăng Long), ra khỏi khu vực chủng Thái cổ
là vùng Hoa Lư (tỉnh Ninh Bình) ngày
nay. Đặc biệt để ý, vào năm Canh Thìn 1160 vua
Lý Anh Tôn cho xây đền thờ Hai Bà Trưng
và Thánh Tổ Miêu tộc là Xuy Vưu (Tsiu Yawg)
ở phường Bố Cái. Xuy Vưu là lãnh tụ chung cho
các nhóm rợ Đông Zi (cũng mang tên Cửu
Lê) bao gồm 2 tộc chủ lực Hẹ và Miêu. Xuy Vưu cũng
chính là Quốc Tổ của dân Triều Tiên y như
Hiên Viên của Hoa tộc và Thần Nông của
Thái-Việt cổ. Về sau, khi Lý Chiêu Hoàng
nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh thuộc Mân Việt
(Phúc Kiến, Triều Châu), triều đại nhà Lý
cáo chung. Một nhóm hoàng thân quốc
thích họ Lý sợ Trần Thủ Độ truy bắt và tận diệt,
lên tàu bôn đào về hướng Sơn Đông-Triều
Tiên, nơi chôn nhau cắt rún của tổ tiên họ.
Dòng nhà Lý lưu vong đó hãy
còn sinh tồn cho đến ngày nay. Có vị làm
đến chức tổng thống nước Đại Hàn, tức Nam Triều Tiên. Họ
Lý cũng là một họ rất phổ biền trong tộc Miêu-Dao.
Sau chính biến Lý-Trần rất nhiều người Việt họ Lý
đổi sang họ Nguyễn. Họ Nguyễn nhiều nhất ở người Việt cũng từ lý
do đó.
Ông
Nguyên Nguyên kết luận :
1-
Theo bộ Nhĩ Nhã, do các môn đệ của
Khổng Tử soạn, có miêu tả nhóm rợ du mục ở
phía bắc nước Tàu, viết theo chữ Lạc với bộ Trãi
đặt bên trái. Nhóm rợ này đặc biệt
nhuôm răng xâm mình. Cũng theo Nhĩ Nhã,
nhóm rợ này còn mang tên Đông Di (hay
Bộc Việt) có địa bàn ở sông Bôc thuộc tỉnh
Sơn Đông.
2-
Luo (Lạc) phát âm rất giống Hẹ tiếng Việt,
có nghĩa “nhóm rợ du mục ở phía bắc nước
Tàu”. Người Hakka tức Khách Gia là
nhóm người du mục xuất phát từ bắc nước Tàu
có tên gọi tiếng Việt là Hẹ. Chỉ có người
Việt gọi đó là người Hẹ.
3-
Do đó người Hẹ chính là người Lạc
Việt cổ xuất xứ từ nhóm Đông Zi với địa bàn quanh
khu vức Sơn Đông ngày nay. He = Lạc = Luo (Lạc bộ
Trãi).
THỤC VƯƠNG – AN DƯƠNG VƯƠNG.
Người
Ba
Thục sống trên vùng cao nguyên có
sông Dương Tử chảy qua tưới cho đất thêm màu mỡ. Họ
đã tiến bộ, văn minh lắm. “Nước Thục rất văn minh, ít lắm
cũng bằng Trung Hoa vào thuở đó và có
vài nét, họ hơn hẳn Trung Hoa, vì thuở đó,
họ đã biết nghề sơn mài, còn Trung Hoa thì
chưa. Món Tương Tàu, thật ra là phát minh
của dân Ba Thục. Đất cao nguyên của họ là quê
hương của đậu nành, chớ không phải đất Tàu.” (BNL.
Sđd)
Họ
sống thanh bình trên sự phồn thịnh của ruộng đất nên
có lẽ ít quan tâm đến võ bị, nhất là
xung quanh đất nước họ có núi non trùng điệp hiểm
trở, tưởng không ai dám vượt qua cướp nước. Thế mà
có bọn lăm le rình rập để xâm chiếm. Đó
là đám vua quan nhà Tần ở vùng Thiểm
Tây đất đai khô cằn luôn tìm cơ hội cướp đất,
cướp tài sản kẻ khác. Họ đã bất thần làm
sạn đạo để vượt dãy Tần Lĩnh như đoàn thiên binh từ
trời rơi xuống khiến quân dân Ba Thục đành
thúc thủ mất nước. Đó là năm 316 trước Công
Nguyên, đời Tĩnh Vương nhà Chu, chúa nước Tần
là Tần Huệ Công, thừa tướng là Trương Nghi, tướng
chỉ huy cuộc xâm lăng là Tư Mã Thác.
Họ Tư
Mã này trong nhiều thế kỷ sau, vào đời Tam Quốc,
lại một lần nữa xâm chiếm Ba Thục. Đó là Tư
Mã Ý, tướng nhà Ngụy đánh chiếm nước Thục
của Lưu Bị và Gia Cát Lượng.
Tư
Mã Thác đánh chiếm đất Ba Thục và giết vua
Thục cùng hoàng gia và dân chúng Ba
Thục. Việc giết vua Thục còn để lại một câu truyện trở
thành điển tích của các vua mất nước : Vua Thục bị
giặc giết và chiếm nước, chết đi hóa thành chim
quốc sáng ngày tối đêm cứ kêu “quốc
quốc” tỏ ý uất hận vì bị giặc cướp mất nước. Sự
tích này đã gợi hứng bà huyện Thanh Quan
viết thành bài thơ bất hủ :
…Nhớ
nước đau lòng con quốc quốc
Thương
nhà mỏi miệng cái gia gia…
Vua Thục
và một số quan lại triều đình cũng như hoàng gia
bị Tư Mã Thác giết thì cũng có một số
hoàng thân quốc thích, binh tướng cùng
dân chúng chạy thoát xuống phương Nam, trong
đó có thái tử con vua Thục, mới sanh hoặc một
bà phi nào đó đang mang thai.
“Tả Truyện có chép đám di cư tỵ nạn
này bị nước Sở đón đánh tại Hồ Nam là đất
Nam Sở. Đó là tài liệu cổ nhất về con vua Thục di
cư nhưng ít ai để ý tới. Họ chọn đường Hồ Nam cho dễ đi.
Nhưng gặp người Tàu lai Việt ở đó là Sở,
khác giống, họ bị đánh bật ra, mà dùng con
đường khó đi hơn, là đường Quí Châu”. (BNL,
sđd)
Đám di cư Ba Thục này từ Quí Châu xuống
Quảng Tây (Tây Âu), được ít lâu
thì Tần Thủy Hoàng gồm thâu lục quốc rồi cho tướng
Đồ Thư đem năm mươi vạn (500 ngàn) quân xuống chiếm đất
Lĩnh Nam. Đồ Thư chiếm Quảng Đông (Nam Hải) dễ dàng
và đặt bản doanh tại Phiên Ngung gần thành phố
Quảng Châu ngày nay.
Đồ
Thư tiến đánh Tây Âu tức Quảng Tây ngày
nay. Đồ Thư bị dân Tây Âu do Trạch Hu Tống
lãnh đạo chống cự mãnh liệt. Trạch Hu Tống bị Đồ Thư
giết. Dân Tây Âu mất chủ tướng nhưng không chịu
hàng, họ rút vào rừng núi sống cùng
cầm thú, đêm ra đánh giặc Tần, ngày
rút vào rừng nghỉ ngơi, khiến quân Tần mất tinh
thần. Sau quân Tần bị chết nhiều, tướng Đồ Thư bị giết,
quân Tần hao tổn tới vài trăm ngàn, phần bị giết,
phần vì không chịu được lam sơn chướng khí.
Quân Tần phải ngừng lại không tiến đánh Tây
Âu nữa mà chỉ thiết lập bộ máy cai trị ở phần
đãt đã chiếm được là Nam Hải, Quế Lâm, Tượng
Quận. Vì quân Tây Âu chống cự mãnh liệt
quá, quân Tần không tiến chiếm được, nên vua
Tần gọi dân Tây Âu là Lục Lương, có
nghĩa là bọn cứng đầu cứng cổ, cho bõ ghét !
Dân Tây Âu này có lẽ là
dân tộc Choeng (Tráng) của tỉnh Quảng Tây
ngày nay)
Dân Tây Âu sau khi Trạch Hu Tống bị giết, ai
đã đứng ra lãnh đạo cuộc kháng chiến khiến
quân Tần phải thất bại, Đồ Thư bị giết ?
Theo Hoài
Nam
Tử thì trong lúc tù trưởng Trạch Hu
Tống bị hại, nhóm Tây Âu vô chủ thì
người kiệt tuấn được dân Tây Âu cử ra
lãnh đạo công cuộc chống Tần là Thục Phán
vào khoảng năm 219 đến 207 trước Công Nguyên.
Theo
đó thì người lãnh đạo cuộc kháng chiến của
dân Tây Âu là Thục Phán. Đám
vong quốc Ba Thục bị quân Tần chiếm nước, mới xuống định cư ớ
Tây Âu chưa được bao lâu thì quân Tần
lại theo bén gót đánh phá. Dân Ba
Thục đang căm giận mất nước thì nay có dịp mặt đối mặt
với kẻ thù, ắt hẳn mọi người đều liều chết cùng dân
Tây Âu đánh giết quân Tần. Thục Phán,
con của Thục vương vừa mới mất, được dân Ba Thục cử lên nối
ngôi (vua lưu vong) và với tinh thần dũng cảm, nhiều mưu
mô nên cũng được dân Tây Âu đồng
lòng tôn xưng làm thủ lãnh.
Khi
Thục Phán giết được Đồ Thư và làm thiệt mạng đến
vài chục vạn quân Tần thì nhà Tần
không còn nuôi mộng chiếm Tây Âu nữa.
Thục Phán và dân Tây Âu có được
một khoảng thời gian nghỉ ngơi.
Thời
gian này, Thục Phán nhớ lại lời trăn trối của cha
là Thục Vương, phải trả thù cái nhục bị vua
Hùng Vương nước Văn Lang từ chối gả công chúa Mỵ
Nương cho. Thục Phán kéo quân qua đánh nước
Văn Lang.
Thủy
Kinh
Chú viết : “Về sau, con vua nước Thục cầm đầu ba vạn
quân, đến diệt Lạc Vương, Lạc Hầu và chế phục tất cả
các Lạc Tướng rồi con vua nước Thục tự xưng An Dương Vương.
Đó là đất Âu Lạc vậy”.
Đất
Âu Lạc tức là đất của chi Âu và chi Lạc của
đại tộc Việt. Chi Âu tức Thái của mẹ Âu Cơ. Chi Lạc
của cha Lạc Long Quân. An Dương Vương đặt tên nước
là Âu Lạc với tham vọng thống nhất hai chi Âu
và Lạc, kể từ thời mẹ Âu Cơ đem 50 con lên
núi và cha Lạc Long đem 50 con xuống biển. Tiếc rằng cuộc
họp chưa lâu thì đã bị chia lìa vì
Hoa tộc xâm lăng cướp nước !
Thục
Phán đem ba vạn quân đánh Hùng Vương. Thục
Phán lấy quân ở đâu mà nhiều thế ? Dân
Thục lưu vong tị nạn tính cả đàn ông, đàn
bà, người già, người trẻ chưa chắc đã có
được con số đó, nói chi tới quân lính. Chắc
là Thục Phán đã mượn quân của Tây
Âu để đánh Văn Lang. Khi chiếm được Văn Lang rồi
thì Thục Phán không có sáp nhập
Tây Âu vào Văn Lang vì từ nay Thục
Phán đã có một nước để cai trị, không muốn
chiếm nước Tây Âu là nơi đã đãi ngộ
Thục Phán và dân Ba Thục lưu vong.
Về
việc Thục Phán đánh chiếm Văn Lang, Toàn Thư viết
:
“Vua (Thục Phán) đã thôn tính được nước
Văn Lang, đổi quốc hiệu là Âu Lạc. Trước kia vua nhiều lần
đem quân đánh Hùng Vương, nhưng Hùng Vương
binh hùng tướng mạnh, vua bị thua mãi. Hùng Vương
bảo vua rằng : “Ta có sức thần, nước Thục không sợ ư ?”
Rồi Hùng Vương bỏ không sửa sang võ bị, chỉ ham ăn
uống vui chơi. Quân Thục kéo sát đến nơi,
hãy còn say mềm chưa tỉnh, rồi thổ huyết nhảy xuống giếng
chết, quân lính quay giáo đầu hàng Thục
Vương.”
Nhưng
truyền thuyết “Sơn Tinh Thủy Tinh” lại cho thấy Hùng Vương
truyền ngôi cho Thục Phán. Hùng Vương có con
gái là Mỵ Nương Ngọc Hoa, vua muốn kén rể để
truyền ngôi báu cho. Sơn Tinh và Thủy Tinh
cùng đến xin được cưới Mỵ Nương (công chúa Ngọc
Hoa). Hùng Vương thách cưới, ai đem đồ xính lễ đến
trước sẽ được cưới công chúa. Xính lễ là : Voi
chín
ngà, gà chín cựa, ngựa chín
hồng mao”. (Phan Kế Bính, Nam Hải Dị Nhân) Sơn Tinh
là Sơn Thánh Tản Viên đem đồ lễ đến trước được cưới
Mỵ Nương. Thục Phán là Thủy Tinh tức giận đem binh
đánh Văn Lang. Sơn Thánh Tản Viên coi nhẹ
công danh muốn thảnh thơi ngao du sơn thủy, theo gót Chử
Đồng Tử tu tiên, nên khuyên Hùng Vương truyền
ngôi cho Thục Phán. Thục Phán được truyền
ngôi, lấy hiệu An Dương Vương, đặt tên nước Âu Lạc
và dựng cột đá thề, nguyện gìn giữ cơ nghiệp
và giá trị nền văn hiến Việt tộc. Bia đá ấy đến
nay vẫn còn dấu tích tại đền Hùng ở Phú
Thọ.
(Hùng Vương thách cưới thực
ra là khảo sát xem ai thấu hiểu bản “Hồng Phạm Cửu
Trù” do đức Kinh Dương Vương sáng lập ra để các vị
vua thừa kế tuân theo trong việc trị nước. Hống Phạm Cửu
Trù có nghĩa là quy tắc của họ Hồng Bàng
có 9 phạm trù phải tuân theo trong việc trị nước,
nói theo ngày nay đó là bản Hiến
Pháp đầu tiên của Đại Tộc Việt.
Voi chín ngà : Trù
thứ
nhất nói về Âm Dương Ngũ Hành : Kim Mộc Thủy
Hỏa Thổ, 5 hành cộng với 4 trạng thái tương tác
là Tương Sinh, Tương Khắc, Tương Thân, Tương Cụ, cộng
chung là 9 .
Gà chín cựa : Trù
thứ
7 nói về Kê Nghi : Trong việc trị nước, khi
có hồ nghi không quyết định được thì hỏi ý
kiến của quan, dân, nếu còn do dự thì xin ý
trời bằng bói toán dựa theo Kinh Dịch.
Ngựa chín hồng mao :
Ngựa là phương tiện chiến tranh, lúc thái
bình phải chuẩn bị chiến tranh, không được ỷ lại ăn chơi
mất cảnh giác. Tất cả đều đưa ra con số 9 có ý
nói Hồng Phạm Cửu Trù có 9 trù tất cả.
Hồng Phạm Cửu Trù được
cháu đức Khổng Tử chép lại trong Kinh Thư và
gán cho vua Đại Vũ đi trị thủy ở sông Lạc thấy rùa
nổi lên có vòng đen trắng gọi là Lạc Thư
mà làm ra. Lạc thư là sách của dân
Lạc Việt, nếu vua Đại Vũ có chép lại thì cũng
là sao lại của đức Kinh Dương Vương thủy Tổ họ Hồng Bàng.
Hồng Phạm Cửu Trù là Chín Phạm Trù của họ
Hồng Bàng lập ra cho con cháu tuân theo trong vịệc
cai tri đất nước.
An Dương Vương đã
không giữ được nước để mất vào tay Triệu Đà của tộc
Hoa. An Dương Vương chạy ra biển được thần Kim Quy đưa xuống thủy cung.
Kim Quy là Rùa Vàng. Rùa có
liên hệ mật thiết với dân Lạc Việt: căn cứ vào
các dấu hiệu trên lưng rùa mà làm ra
Hồng Phạm Cửu Trù, Quy Lịch được khắc trên lưng
rùa, Mu rùa dùng vào việc bói
tóan, Rùa vàng đả giúp An Dương Vương
xây thành Cổ Loa, Rùa thần lại đưa An Dương Vương
vể thủy cung. Từ khi An Dương Vương đứng trên lưng rùa
xuống biển thì nền Văn Hiến Lạc Vịệt cũng khép lại để
ngàn năm bị đô hộ, bản quyền Văn Hiến bị kẻ thống trị cướp
mất.)
Thành CỔ LOA
Thục Phán chiếm
Văn Lang rồi đổii tên nước là Âu Lạc, xưng vương
hiệu là An Dương Vương, xây thành Cổ Loa làm
kinh đô. Thành Cổ Loa lại có tên là
Trung Quy thành, người nhà Đường gọi là Côn
Lôn thành, có ý nói thành ấy
rất cao (so sánh với núi Côn Lôn ở
vùng Tây Tạng – Tân Cương).
“Thành Cổ Loa ở làng Cổ Loa (Phúc Yên),
cách Hà Nội độ 15 km về phía Bắc. Tục truyền rằng
nhà vua xây thành nhiều lần không xong, sau
có thần Kim Quy hiện lên giúp mới hoàn tất.
Thành xây hình con ốc nên gọi là Loa
thành. Theo vết tích còn để lại thì
thành ngoài hình bầu dục, bề dài 2,8 km, bề
rộng 2 km, chu vi độ 8 km. Thành giữa hình đa
giác, chỗ lồi chỗ lõm. Thành trong hình chữ
nhật bề dài 500 mét, bề rộng 350 mét, chu vi độ
1,7 km.
Chân
thành xây bằng đá tảng lớn, có tảng to bằng
mặt bàn. Thành đắp bằng đất, phía chân dầy
từ 20 mét đến 39 mét. Người ta đoán rằng
thành có thể cao đến 4,5 mét, mặt thành
rộng đến 12 mét.
Ngoài thành là hào sâu. Hào
này thông với các sông chẩy chung quanh
nên lúc nào cũng có nước.
Trong
thành còn nhiều vết tích của thời An Dương Vương
như giếng Ngọc (giếng Trọng Thủy), mộ Mỵ Châu, đền An Dương
Vương, gò diễn binh v.v…
Đặc điểm
của thành Cổ Loa là bố trí rất khéo để việc
phòng thủ được dễ dàng :
1- Chung
quanh thành có nhiều vực sâu, đầm lớn như vực
Dê, vực Tó, đầm Cả, đầm dài chứng tỏ rằng nhiều
ngàn năm trước đây thành đắp giữa một vùng
đầm lầy. Do đó mới có tích thành xây
lên và bị đổ nhiều lần.
2-
Các cửa thành ngoài, giữa và trong,
không nằm trên một đường thẳng. Đường nối giữa các
cửa thành là đường quanh co, hai bên có
các ụ phòng thủ.
3- Trong
thành có 18 ụ cao đắp nhô ra khỏi chân
thành vài chục mét khiến cho thành
trông như hình con nhím, trên đó
các xạ thủ nỏ thần có lợi thế để tiêu diệt địch
trước khi chúng tiến lại gần chân thành. (Nguyễn
Khắc Ngữ, Mỹ thuật cổ truyền Việt Nam)
Nơi
An Dương Vương xây thành Cổ Loa là vùng đất
đầm lầy lại chưa phát minh ra gạch mà chỉ dùng đất
đắp lên nên dễ bỉ sạt lở. Sau có xứ giả Thanh Giang
là thần Kim Quy chỉ cho cách đặt móng thành
bằng đá cho vững để khỏi bị đất trùi nên công
việc xây thành mới xong. Xứ giả Thanh Giang Kim Quy
này có lẽ là một nhân vật thuộc tộc
Môn. Người Môn vốn là dân rất giỏi về
xây cất, thời đó họ đã lập quốc ở vùng Miến
Điện và Thái Lan ngày nay, tên nước
là Dvaraveti, kinh đô là Lavo, phía bắc vịnh
Thái Lan. Nước người Môn này sau bị người Khmer từ
vùng Tây Tạng tràn xuống chinh phục. Chính
những thợ người Môn đã xây cất đền Angkor Wath,
Angkor Thom cho người Campu chia.
Dọc theo bờ
biển Nghệ An, Thanh Hóa có dấu tích huyền thoại An
Dương Vương, Mỵ Châu, Trọng Thủy, thần Kim Quy. Tại Nghi Sơn,
Nghệ An có đền Cuông thờ An Dương Vương và truyền
thuyết nói An Dương Vương chạy đến đây thì
chém Mỵ Châu rồi theo thần Kim Quy xuống thủy cung. Tại
Biện Sơn, Tĩnh Gia, Thanh Hóa có Giếng Ngọc nơi Trọng
Thủy tự trầm. Theo dấu vết đó, ta có thể cho rằng Thanh
Giang sứ giả Kim Quy đã đến nước Âu Lạc từ bờ biển
Thanh-Nghệ và ngoài công trình xây
thành Cổ Loa lại còn xây nhiều công
trình khác dọc bờ biển Âu Lạc.
An Dương
Vương lại được thần Kim Quy cho móng làm lẫy nỏ bắn một
phát ra hằng trăm mủi tên khiến Triệu Đà phải lui
binh và cho Trọng Thủy sang Âu Lạc làm con tin.
Thời
đó có hai loại võ khí lợi hại là
cung và nỏ. Cung là thanh tre hay gỗ uống cong buộc
giây hai đầu để bắn tên. Nỏ hay Ná là thứ vũ
khí có cán bằng gỗ xẻ rảnh để lắp tên,
cánh nỏ bằng tre có giây hai đầu kéo
vào để trên lẫy nỏ rồi bật lẫy cho tên bay đi. Thứ
nỏ này còn thông dụng ở các dân tộc
miền núi Việt Nam, dùng để săn bắn chim muông.
Ông
Cao Lỗ (Ông Nỏ) là người sáng chế ra nỏ, đã
giúp An Dương Vương đánh lui quân Triệu Đà
và trước đó đánh lui quân Tần, giết Đồ Thư.
Triệu
Đà cho con là Trọng Thủy sang làm con tin
và được An Dương Vương gả con gái là Mỵ Châu
cho. Ông Cao Lỗ thấy mưu gian của Triêu Đà có
ý dùng nội gián để phá thế trận của
quân Âu Lạc nên can gián An Dương Vương
không nên gả con gái cho Trọng Thủy. An Dương Vương
không nghe lại còn giết chêt Cao Lỗ. Võ
khí lợi hại là nỏ mất người điều khiển, lại bị Trọng Thủy
phá lẫy nỏ, khi hữu sự đem bắn thì lẫy bị gẫy. Triệu
Đà tiến đánh, An Dương Vương mất nước.
Ngày
nay người ta đào được tại Cổ Loa hàng ngàn mủi
tên đồng. Có lẽ tên được bịt bằng đồng đã bắn
thủng áo giáp của lính Triệu Đà. Các
ụ phòng ngự ở thành Cổ Loa được lắp đặt các cổ nỏ
khổng lồ có thể bắn ra hàng loạt các tên
được bịt đồng và bắn đi rất xa làm chết rất nhiều
lính Triệu Đà, chận đứng cuộc xâm lăng.
THỤC PHÁN AN DƯƠNG
VƯƠNG HỌ GÌ ?
Ngô Sĩ Liên
trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư viết rằng “An
Dương Vương tên Phán, họ Thục”.
Nhiều
người không tin An Dương Vương họ Thục. Ông Bình
Nguyên Lộc viết : “Ông vua Thục lưu vong nầy chết đi,
có thể để lại một đứa con trai, có thể quả tên
là Phán, như Ngô Sĩ Liên đã
chép, nhưng không phải họ Thục như họ Ngô đã
lầm”.
Nói Thục Vương hay vua Thục không có nghĩa
là ông vua ấy họ Thục mà chỉ có nghĩa đơn
thuần là ông vua nước Thục. Các ông vua
nhà Hán không phải họ Hán mà
là họ Lưu, Lưu Bang. Ông vua nhà Minh không
phải họ Minh mà là họ Chu, Chu Nguyên Chương. Đa số
các ông vua Tàu đều đặt tên triều đại
khác với họ thật. Cũng như họ viết về ông vua của
dân Lạc Việt là Lạc vương, không có nghĩa
là ông vua ấy họ Lạc hay hiệu Lạc Vương mà
là ông vua của dân Lạc Việt hiệu Hùng Vương,
họ Hồng Bàng.
Vua
Thục cũng vậy. Thục là tên nước không phải họ
nhà vua. Vậy vua Thục họ gì ? Sử Tàu, sử ta đều
không nói đến.
Tuy
nhiên “Sách Hoa Dương Quốc Chí
chép : Vua Đỗ Vũ nước Thục mất nước chết hóa ra chim Đỗ
Quyên. Chim Đỗ Quyên hay là Đỗ Vũ là con chim
giống chim ô hộ, Tu hú thường kêu suốt ngày
đêm”. ( Cung Oán Ngâm Khúc, Vân
Bình Tôn Thất Lương chú giải )
Chim
quyên xuống đất ăn trùng,
Anh
hùng lỡ vận lên rừng đốt than !
Tự
điển Lê Văn Đức cắt nghĩa chim quyên là con cuốc
trong điển tích vua Thục mất nước hóa ra chim Đỗ
Quyên. Bà Huyện Thanh Quan làm thơ tả con chim
Quyên kêu cuốc cuốc để tỏ lòng nhớ nước. Ông
Bình Nguyên Lộc nói chim Quyên là
totem của dân Ba Thục. Ông cho rằng một vài người
Mường ngày nay là hậu duệ của An Dương Vương vì họ
thờ vật tổ là chim quyên.
(Ông
Vân Bình Tôn Thất Lương cho chim quyên
là giống chim ô hộ, tu hú. Tu hú là
giống chim không biết làm tổ, chuyên môn đẻ
trứng trong ổ quạ, “nuôi như quạ nuôi tu hú”. Tự
điển Lên Văn Đức cắt nghĩa con cuốc hay quốc cũng gọi là
quấc là giống chim hễ mùa hè thì lìa
rừng xuống đồng kiếm ăn. Bà Huyện Thanh Quan gọi chim
quyên là con cuốc “Nhớ nước đau lòng con cuốc
cuốc”. Con cuốc hay quốc thật ra là con gì ? Ông
Nguyễn Xuân Quang trong Khai Quật Kho Tàng Cổ
Sứ Hừng Việt cho “chim cuốc họ nhà gà, Việt ngữ cũng
cho biết con cuốc giống con gà qua câu ví
“trông gà hóa cuốc”.Nhưng cuốc sống ờ bờ nước
nên là loài gà nước đúng như tiếng
bình dân Anh ngữ gọi là Water-hen (gà nước)
(…) có đặc tính là chân dài,
ngón rất dài để có thế đi trên mặt lá
cây ở mặt nước nhưng mỏ rất ngắn. Cuốc liên hệ với Anh ngữ “coot”,
một loài chim cùng họ với cuốc; “common
coot” là chim cuốc.”)
Chim
Quyên tức Đỗ Quyên hay Đỗ Vũ, là do ông vua
nước Thục mất nước uất ức chết hóa thành, tối ngày
sáng đêm kêu quốc quốc. Con chim đó dân
ta gọi là chim cuốc.
Vua
Thục Đỗ Vũ hay Đỗ Quyên mất nước bị giết đó có phải
là ông vua bị Tư Mã Thác nhà Tần giết
khi xâm chiếm nước Thục không ? Nếu đúng thì
Thục Phán An Dương Vương là hậu duệ phải mang họ Đỗ. An Dương Vương, họ Đỗ,
tên Phán.
An Dương
Vương chém Mỵ Châu rồi được thần Kim Quy dâng
sừng tê bảy tấc mà rẽ nước xuống thủy cung. An Dương Vương
có con trai nối dòng không hay chỉ có
mình con gái Mỵ Châu ?
Sau khi
diệt An Dương Vương chiếm nước Âu Lạc rồi thì Triệu
Đà vẫn cho các Lạc Tướng cai trị phần đất của mình
dưới sự giám sát của các điền sứ do ông ta
phái qua. Tại vùng Tây Vu gồm các tỉnh Vĩnh
Yên, Phúc Yên, Bắc Ninh, Sơn Tây, Phú
Thọ mà trung tâm là Cổ Loa, có một tiểu
vương cai trị gọi là Tây Vu Vương. Ông Tây Vu
Vương này có lẽ là con hoặc cháu của An
Dương Vương mà Triệu Đà nghĩ tình suôi gia
vả lại thấy An Dương Vương và con dâu là Mỵ
Châu chết một cách thảm thương nên tha chết cho con
cháu và ban cho một vùng để hưởng lộc. Khi Triệu
Đà bị Lộ Bác Đức nhà Hán diệt thì
Tây Vu Vương định nổi loạn chống cự nhưng bị tùy tướng
là Hoàng Đổng giết. Hoàng Đổng này
là người Hán do Triệu Đà gài để kiểm
soát Tây Vu Vương. Vì ông này
có công nên được nhà Hán thưởng,
có ghi trong biểu Công thần trong Hán Thư,
vì vậy ta mới biết sự kiện lịch sử này.
Sau vụ
Tây Vu Vương bị giết, hẳn là con cháu dòng
họ An Dương Vương cũng bị hại nhiều, ai còn sống sót cũng
bị tứ tán phân ly.
Dòng
họ Đỗ ở Việt Nam có quan hệ huyết thống gì với An Dương
Vương không ?*
------------------------------------------------------------------------------Hết
---------------------------------------------------------------------------------------
Nguồn:
http://www.taphopdongtam.org
|