Năm
Thứ
4888
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.net

Bài
Học
Mậu
Thân
1968
Chính
Đạo
o
LTS: Với
nhiều người dưới phố, chuyện đã qua,
hãy coi như dĩ
vãng, phải cố quên đi, sống cho thoải
mái. Văn
chương, lịch sử không quan trọng bằng
miếng cơm, manh áo,
nhà cao, cửa rộng. Ðiều này cũng dễ
hiểu thôi.
Nhưng thiết nghĩ để có thể vững mạnh
đi vào đường sạn đạo
hiện đại hóa xứ sở, tuổi trẻ Việt của
thế kỷ XXI cần được trang
bị bằng những kiến thức sử học nghiêm
túc, khoa học; để
có thể rút ra những bài học hữu dụng.
Nhu cầu
tìm hiểu sử học càng cấp thiết hơn khi
cuộc cách
mạng truyền thông của thế kỷ XX đã
giúp phổ biến đủ
loại “ngụy sử” qua các dạng thức tuyên
truyền trắng, đen
hoặc xám của các chính phủ, chế độ và
phe
nhóm, tôn giáo. Một nữ sinh viên ban
Thạc sĩ
Việt du học ở Liên bang Mỹ mới đây–khi
được đọc những tư
liệu văn khố về Hồ Chí Minh–đã vội vã
phản
kháng là xin đừng “phá hoại lịch sử.”
Thứ lịch sử
mà người nữ sinh viên trên nói đến,
thực ra,
chỉ là những bài giảng lịch sử giáo
điều,
đúc khuôn. Một thứ truyền đơn, khẩu
hiệu, không hơn
không kém, của phe thắng cuộc–nên đã
tạo ra
hiện tượng đáng buồn về tình trạng
giảng dạy môn sử
tại Việt Nam hiện nay; cũng như những
lập luận “giẻ rách
sinh con chuột” hay hờn oán, trách
móc, ở hải
ngoại.
Mậu
Thân 1968:
Thắng
Hay Bại?
Chính
Đạo
Trong
số
những
trận
đánh
có
tầm
chiến lược quan trọng từ 1959
tới 1975, cuộc tổng tấn công vào các thành
phố và tỉnh lỵ miền Nam đúng dịp Tết Mậu Thân
(1968) được liệt vào hàng đầu. Ðây là
một chuyến “làm ăn” táo bạo của Lê Duẩn
(1908-1986), Bí thư thứ nhất Ðảng Lao Ðộng
Việt Nam, đưa
đến những thiệt hại to lớn về nhân sự cho Bắc
quân. Nhưng
về mặt chính trị và ngoại giao–dù có dự
đoán trước hay chăng–ba đợt tấn công vào Sài
Gòn-Chợ Lớn trong năm 1968 tạo một ảnh hưởng
sâu đậm tại
chính nước Mỹ. Bộ trưởng Quốc Phòng Robert S.
McNamara,
và rồi Tổng thống Lyndon B. Johnson cùng đa số
thành phần chủ chiến đều nghiêng về phía tìm
một giải pháp chính trị. Mặc dù hòa
đàm Paris, nhóm họp từ mùa Xuân 1968, chưa
giải quyết được ngay cuộc chiến Việt Nam, tình
trạng vừa
đánh vừa đàm kéo dài hơn bốn năm nữa, chiến
dịch Mậu Thân đánh dấu một khúc quanh quan
trọng.
Ít nữa, nó cũng giảm hẳn cường độ cuộc chiến ở
phía Bắc vĩ tuyến 17, chiến dịch Rolling
Thunder [Sấm Rền] hầu
như chấm dứt từ đầu tháng 11/1968–một cuộc
xuống thang rõ
ràng sau gần 5 năm “leo thang.”
Ðể có thể cân nhắc lẽ
thắng-bại của cuộc Tổng Tấn Công-Tổng Khởi
Nghĩa [TTC-TKN] Mậu
Thân 1968, không thể chỉ dựa trên thứ thông
tin
mạo hóa, sản phẩm của các hệ thống tuyên
truyền,
chiến tranh chính trị của cả hai phe. Cũng
không thể chỉ
căn cứ vào số xác chết, bị thương, hay số vũ
khí
tịch thu ở trận địa. Trước hết, cần minh định
bản chất cuộc chiến Việt
Nam và nhìn lại diễn tiến của giai đoạn 2 của
cuộc chiến
30 năm (1945-1975).
Cuộc
chiến
Việt
Nam
là
một
trong
những điểm nổ của thế “chiến tranh
lạnh” giữa hai khối Tư Bản và Cộng Sản
(1947-1991). Trên
cơ bản, đó là một cuộc chiến “tiền đồn” mà sự
thắng bại không có yếu tố quyết định
đến
đại thể.
Cuộc chiến “tiền đồn
Việt Nam” đã khởi
đầu không do chính người Việt. Tham vọng thực
dân
Pháp-Bri-tên đã bóp tắt mọi hy vọng cho nền
hòa bình tại bán đảo Ðông Dương sau khi
Thế chiến thứ hai (1939-1945) vừa chấm dứt.
Thủ tướng Winston Churchill
của Bri-tên–tác giả thuật ngữ “bức màn sắt” từ
năm
1946–không chỉ cực lực chống đối kế hoạch Quốc
tế quản trị
[International Trusteeship] cho Ðông Dương của
Tổng thống
Franklin D. Roosevelt (1933-1945) mà còn tiếp
tay cho
chính phủ Charles de Gaulle (1944-1946) đặt
một đầu cầu viễn
chinh ở India để tái chiếm Ðông Dương từ năm
1944.
Người kế vị của Churchill còn công khai cho
liên
quân Pháp-Bri-tên đánh chiếm Sài
Gòn từ cuối tuần 22-23/9/1945, và rồi ép buộc
tù binh Nhật tham gia vào việc mở rộng vùng
kiểm
soát suốt miền Nam vĩ tuyến 16, đưa đến những
cuộc tắm
máu giữa các phe bản xứ.(1) Trung Hoa, trong
thời gian
giải giới quân Nhật ở phía Bắc vĩ tuyến 16,
cũng
góp phần vào việc đảng tranh tanh máu của
người
Việt. Nhưng phe chống Cộng, dù nhân số thắng
vượt, cuối
cùng bị thua. Từ cuối năm 1946, phe Hồ chí
Minh dưới danh
nghĩa Việt Minh–giành được độc quyền kháng
Pháp.
Vì lý do này hay lý do khác, phe
chống Cộng phải nương dựa vào Trung Hoa, Pháp,
và
rồi Liên bang Mỹ cho chính sự sinh tồn của
mình
và gia đình; với hy vọng sẽ giành được độc lập
một
cách ôn hòa. Chua chát là người Hoa
hay Pháp đều có hậu ý riêng khi lập ra những
tổ chức chính trị hay các đơn vị tiền tiêu
chống
Cộng bản xứ. Qua các thí nghiệm Nam Kỳ tự trị,
Tây
kỳ tự trị, hay Tây Bắc tự trị, v.. v... trên
thực tế người
Pháp đã biến Việt Nam thành một xứ lâm chiến
“phong kiến mới,” với Pháp và Việt Minh thủ
diễn vai
trò hai đại lãnh chúa [war-lords]. Từ năm
1948,
Pháp khởi đầu thí nghiệm Bảo Ðại (1913-1997),
hy vọng
lấy bớt ngọn gió “độc lập” khỏi cánh buồm
kháng
chiến của Việt Minh, và gom các sứ quân chống
Cộng
(Ki-tô, Bình Xuyên, Cao Ðài, Hòa
Hảo, Nùng, Thái, Rhadé, v.. v...) dưới lá
cờ “quốc trưởng” của cựu hoàng Bảo Ðại để xin
viện trợ Mỹ.(
2)
Chiến thắng của Mao Trạch Ðông tại
Hoa lục trong hai năm 1948-1949 làm thay đổi
hẳn cán
cân quyền lực tại Ðông Dương. Hồ Chí Minh
(1892-1969) và Việt Minh chẳng còn lựa chọn
nào
khác hơn ngả về phía tân Quốc Tế Cộng Sản
(Cominform) do Josef V. Stalin cầm đầu, với
sự phụ tá của Mao.
Từ tháng 1/1950, Stalin ủy thác cho Mao và
Lưu
Thiếu Kỳ [Liu Shaoqi] giúp đỡ HCM thành lập
các
đại đơn vị bản xứ và cung cấp cố vấn tới cấp
Sư đoàn.( 3)
Ðối lại, các chính phủ Mỹ can thiệp sâu hơn
vào Ðông Dương, đặc biệt là Việt Nam–cung
cấp
viện trợ cho Pháp tiếp tục tham chiến ở Ðông
Dương
(NSC 68) sau ngày chiến tranh Triều Tiên
bùng nổ.
Năm 1954-1955 chính phủ Dwight D. [“Ike”]
Eisenhower (1953-1961)
còn trực tiếp can thiệp vào Nam Việt Nam,
quyết biến phần
đất phía Nam vĩ tuyến 17 thành một “tiền đồn
chống Cộng”
của Thế Giới Tự Do.
Từ năm 1950, sự nhập
cảng chủ thuyết Mao
vào Bắc Việt–qua các đợt chỉnh cán, chỉnh
quân, cải cách ruộng đất–gây hoang mang, sợ
hãi trong mọi giới. Chính các cán bộ
dày công kháng chiến cũng bị hạ tầng công
tác, tù đày hay xử tử.
Nhưng dư luận thế
giới cho rằng Mỹ đã
vi phạm Hiệp định Geneva 20-21/7/1954 giữa
Pháp và Việt
Minh–Hiệp ước này qui định rằng sự phân chia
nước Việt
thành hai vùng tập trung quân đội Bắc và Nam
vĩ tuyến 17 chỉ có tính cách tạm thời, và
vấn đề thống nhất sẽ được quyết định bằng một
cuộc tổng tuyển cử trong
vòng hai năm.( 4)
Cơ quan tuyên truyền của khối Cộng
Sản
đã khai thác triệt để khía cạnh bất hợp
pháp này của các chính phủ Mỹ–dù sau
hậu trường chính trị, chính Viacheslav
Molotov và
Chu Ân Lai (1898-1976) mở cửa cho việc phân
chia Việt Nam
theo vĩ tuyến 17 trong một thời gian vô hạn
định. Cả Mat-scơ-va
và Bắc Kinh đều khuyến khích Hà Nội nên
dùng khẩu hiệu thống nhất đất nước theo qui
định của Hiệp ước
Geneva như một chiêu bài chính trị và ngoại
giao, để củng cố miền Bắc theo chế độ chuyên
chính
vô sản (“dân chủ nhân dân” hay “dân chủ
tập trung”). Mat-scơ-va không đồng ý việc
đánh
chiếm miền Nam. Bắc Kinh cũng đã tạm hài
lòng với
sự an toàn của cửa ngõ chiến lược Ðông Nam
qua
sự thành hình của một nhà nước hữu nghị ở
Bắc
Việt. Những người cầm đầu Trung Nam Hải
chẳng muốn có một cuộc
chiến Triều Tiên thứ hai; trong khi đại lục
Trung Hoa còn
ngổn ngang trăm ngàn khó khăn về chính trị,
kinh
tế, xã hội.
Ðó là chưa nói đến
sự rạn nứt khó tránh của cái gọi là khối
Cộng Sản Quốc Tế, dựa trên chủ thuyết Karl
Marx–một chủ thuyết
Tân Trung Cổ đã y cứ trên tư duy từ giòng
lịch sử phương Tây, đặc biệt là các nước
đang kỹ
nghệ hóa Âu châu, thiếu bề rộng toàn cầu
(như
Mỹ châu, Á châu và Phi châu). Ðồng
thời, cũng thiếu chiều sâu về các nền văn
hóa
nông nghiệp cổ thời và hiện trạng văn hóa-xã
hội-kinh tế của Á châu–những nền văn minh
không
Ki-tô. Bởi vậy, thuyết của Marx bị Nga hóa
thành
thuyết Marxist-Leninism, rồi bị Hán hóa
thành tư
tưởng Mao Trạch Ðông (và, sau 1978, thêm vĩ
ngữ
“lý luận Ðặng Tiểu Bình”), trước khi bị sụp
đổ tại
các nước Ðông Âu và Nga.
Sự hiềm khích Nga-Hoa ngày một
trầm trọng từ khi Nikita S. Khrushchev hạ bệ
Stalin năm 1956 và
chủ trương “sống chung hòa bình” với khối Tư
Bản. Tuy
vậy, Bắc Kinh cũng chỉ muốn được sinh tồn,
hiện đại hóa Hoa Lục,
đưa Trung Hoa lên hàng cường quốc Á châu,
tránh những cuộc đương đầu không cần thiết
với Liên
bang Mỹ. Bởi thế, Mao có lần đưa ra “Mao
ngữ” “cái chổi
và đống bụi”–chổi chưa quét tới, đống bụi
được nằm
yên. Mao và giới lãnh đạo Trung Hoa ngầm
muốn cho
Nam Việt Nam hưởng tình trạng như Ðài Loan
hay Nam
Hàn.
Pháp–phần vì quyền lợi kinh tế
và văn hóa, phần vì niềm bi phẫn bị ép buộc
rời Nam Việt Nam–và một số nước Á Phi
không-liên-kết nghiêng thiện cảm về chính
phủ
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà [VNDCCH] ở Hà Nội.
Dĩ nhiên, HCM, LD và giới
lãnh đạo Ðảng LÐVN không đành lòng
trước hiện trạng hai “nước” Việt Nam. Nhưng
trong giai đoạn 1954-1958
phe cầm quyền Miền Bắc chỉ có thể giữ thế
“phòng thủ
chiến lược” ở miền Nam, trong khi thực hiện
những biện pháp củng
cố uy quyền ở miền Bắc–qua 5 đợt cải cách
ruộng đất, hợp
tác xã nông nghiệp, và công thương
nghiệp. Cuộc đấu tranh chính trị đòi thi
hành Hiệp
định Geneva, tức tổ chức tổng tuyển cử để
thống nhất đất nước, chỉ
là những chiến dịch tuyên truyền cho có.
Tại miền Nam,
chính phủ Ngô Ðình Diệm không đủ khả năng
thiết lập một chính quyền mạnh. Trong hai năm
1954-1956, nỗ lực
thu hồi quyền chỉ huy quân đội và cảnh sát,
song
song với tham vọng tiêu diệt các sứ quân Bình
Xuyên, Hòa Hảo, Cao Ðài, cùng các
đảng phái chống Cộng, khiến họ Ngô không thực
hiện
được những cải cách cần thiết tại mặt trận
nông
thôn–mặt trận có tính cách chiến lược, sống
còn của miền Nam.( 5) Ngay tại các quận lỵ,
tỉnh lỵ hay
thị xã, thành phố, chế độ công an trị và
giáo phiệt của họ Ngô chỉ đủ khả năng kềm chế
các
thành phần chống đối hoặc không theo Miền Bắc.
Quốc
sách “diệt Cộng” tương đối thành công ở miền
Trung,
trong khi miền Nam hơn 10.000 cán bộ Miền Bắc
(trong số 40,000
cán bộ được gài lại) vẫn sống tiềm sinh tại
các
mật khu hay dưới giả túc Bình Xuyên và
giáo phái.( 6)
Từ đầu năm 1959, tại Hội Nghị thứ 15
(mở
rộng) Ban Chấp Hành TƯ Ðảng LÐVN (khóa II)
đã có nghị quyết thống nhất đất nước (chiếm
miền Nam bằng
võ lực) và đưa miền Bắc “tiến lên” xã hội
chủ nghĩa. Theo báo Nhân Dân, Nghị quyết này
ban hành ngày 13/5/1959, sau khi HCM từ Bắc
Kinh trở về.
Thực ra, Hội nghị 15 đã nhóm họp từ ngày 12
tới
22/1/1959. (Hai Xứ ủy viên miền Nam là
Nguyễn Văn
Xôạ và Phan Văn Ðáng tham dự). Tiếp đó,
tháng 3/1959, Bộ Chính trị [BCT] Ðảng LÐVN
ra chỉ
thị về việc tổ chức xây dựng căn cứ cách
mạng ở Cao
nguyên Trung phần (Tây nguyên bao gồm miền
rừng
núi Liên khu V và vùng Ðông Bắc
Nam bộ). Rồi cho thành lập các đơn vị vũ
trang ở Quảng
Ngãi (3/1959), Bình Ðịnh (7/1959), Khánh
Hòa, Phú Yên, v.. v... Ðồng thời, gia tăng
cường độ các vụ khủng bố, ám sát viên chức
xã, ấp tại quận Trà Bồng, Quảng Ngãi của sắc
dân Cor, Ba Tơ, Sơn Hà, Minh Long v.. v....
Ngày
7/5/1959, BCT cũng chỉ thị cho xứ ủy Nam bộ
“Cần phát động một
phong trào đấu tranh chính trị rộng rãi
trong quần
chúng, đồng thời tùy từng nơi, từng lúc ra
sức
phát triển hoạt động vũ trang tuyên truyền
để đưa địch
vào thế thụ động, cô lập hơn nữa về chính
trị.” (7)
Mãi tới trung tuần
tháng
5/1959, Ðảng LÐVN mới có cơ hội để công bố
chính sách mới. Cơ hội thứ nhất là ngày
6/5/1959, chính phủ NÐD ban hành Luật 10/59
nhằm
“diệt Cộng” và thiết lập tòa án quân sự lưu
động để xét xử cán bộ Miền Bắc. Toà Mặt Trận
này có quyền chung thẩm; dùng Dụ số 47 năm
1956 để
trừng trị “Việt Cộng.” Ngay trong ngày
7/5/1959, Ban Bí
thư [BBT] Ðảng LÐVN chỉ thị cho XUNB về những
biện pháp
đối phó với Luật 10/59. Một tuần sau, ngày
14/5,
Võ Nguyên Giáp cũng gửi điện văn cho Ủy Ban
Quốc tế
Kiểm soát đình chiến phản đối Luật trên.( 8)
Cơ hội thứ hai là đột
biến
chính trị ở Lào, một vương quốc trung lập, nơi
Hà
Nội có ảnh hưởng lớn trên tổ chức Pathet Lào
tức
Neo Lao Hak Sat (Mặt trận Yêu Nước Lào). Ngày
11/5/1959, Phoui Sananikone bắt giữ các lãnh
tụ Pathet
Lào, kể cả Souphanouvong, Phoumi Vongvichit và
Ðại
tá Singkapo. Việc bắt giữ này đưa Kaysone
Phomvihane
lên cầm đầu Pathet Lào. Rồi ngày 17/5, quân
Pathet Lào rời Cánh Ðồng Chum [Plaine de
Jarres]
rút qua lãnh thổ Việt Nam, từ chối sát nhập
vào quân đội Hoàng Gia. Sau đó, phát
động du kích chiến ở vùng Sầm Nứa, với sự giúp
sức
của các “chuyên gia” Hà Nội. Chu Huy Mân
và Trần Văn Trà (1919-1996) nhận lãnh “nghĩa
vụ
quốc tế” của “Ðoàn 100” và “Ðoàn 959” [thứ
nhất] trong cuộc nổi loạn này.
Mặc dù Mat-scơ-va không đồng
ý cho Hà Nội tấn công miền Nam, và Bắc Kinh
thì chỉ muốn HCM “trường kỳ mai phục,” Hà
Nội vẫn
làm ăn theo ý mình. Liên Xô và
Trung Hoa miễn cưỡng xuôi theo, tiếp tục
viện trợ cho Hà
Nội để gây thiện cảm giữa lúc rạn nứt giữa
Mat-scơ-va
và Bắc Kinh ngày càng trầm trọng, và
tránh tiếng thiếu tinh thần nghĩa vụ quốc
tế.( 9)
Cách nào đi nữa, từ
tháng 5/1959, Thượng tá CS Võ Bẩm được lệnh
lên đường vào Nam, khai mở đường giây liên
lạc, sau này được biết như Binh Ðoàn 559.
Bẩm người
Quảng Ngãi, trước đó đã được Trần Lương, Bí
thư Khu V, và Tướng Nguyễn Văn Vịnh, Phó Chủ
nhiệm Ủy ban
Thống Nhất, giao nhiệm vụ chuyển thuốc men
và một số súng
đạn cho Khu V. Qua tháng 7/1959, Hà Nội còn
tổ
chức một đường giây hải thuyền 759 hay 125
để chuyển vận
khí giới vào Nam dọc theo duyên hải.
Từ tháng 11/1959, Xứ Ủy Nam Bộ
và Khu V (Trung bộ) bắt đầu phát động chiến
dịch “khởi
nghĩa” hay “đồng khởi” khắp miền Nam (Nghị
quyết 4). Những ngày
gần Tết Canh Tí (1960) chính phủ NÐD bị
choáng
váng vì những đợt đột kích vũ trang của đối
phương
khắp nơi, từ Cà Mau tới Bình Dương. Chấn
động dư luận
nhất là cuộc đột nhập Bộ Chỉ huy Trung đoàn
32 của Sư
đoàn tân lập 21 (nguyên là Trung đoàn
39, Sư đoàn 13 Khinh chiến) ở Trảng Sụp, Tây
Ninh
đêm 25 rạng 26/1/1960. Khoảng 200 Bắc quân
vượt các
trạm gác, xuyên qua doanh trại các Tiểu
đoàn. Giao tranh diễn ra trong khoảng 1
tiếng đồng hồ. 23
quân nhân VNCH chết, 43 bị thương, mất một
số lớn vũ
khí trong kho (2,000). Bộ Chỉ huy Trung
đoàn, hai doanh
trại bị phá hủy và 4 doanh trại khác bị hư
hại.
(10)
Chiến lược của Bắc Việt thời gian này
là lập căn cứ, đấu tranh võ trang ở vùng
rừng
núi, đấu tranh chính trị và bán quân
sự ở nông thôn, và đấu tranh chính trị tại
các thị trấn và thành phố. Những hành vi
khủng bố, ám sát viên chức hành chính
và an ninh cấp thôn, xã ngày một gia tăng.
“Phiến Cộng” cũng không ngừng đánh phá các
trung tâm dinh điền hay Khu Trù Mật ở cao
nguyên
Trung phần và miền Tây đồng bằng Cửu Long,
kể cả việc sử
dụng “đạo quân tóc dài.” “Bức tường người”
của
NÐD xây dựng từ năm 1955-1956 bị lung lay
tận rễ gốc. Tuy
nhiên, Hà Nội vẫn giữ bề ngoài hợp pháp, chờ
đợi thời cơ. (11)
Tình hình suy thoái an
ninh miền Nam khiến viên chức Mỹ không ngớt
báo động
về Oat-shinh-tân. Thêm vào đó, sự bất
mãn và chống đối chính phủ ngày một gia
tăng. Tại Sài Gòn, chế độ bị choáng váng
vì một bức tranh bìa đặc san Xuân nhật báo
Tự Do–tờ báo chịu ảnh hưởng của Sở Nghiên
Cứu Chính
Trị và Xã Hội của Trần Kim Tuyến. Chẳng hiểu
họa sĩ Phạm
Tăng muốn vẽ gì mà được diễn dịch thành “6
con
chuột đang gậm nhấm trái dưa hấu Việt Nam”
và người ta
liền truyền tụng rằng 6 con chuột đó tiêu
biểu anh chị em
họ Ngô. Hai tháng sau, thêm một trái bom
chính trị nổ tại Sài Gòn, tức Bản kháng thư
(manifesto) phản đối chế độ độc tài NÐD được
phân phối
trong cuộc họp báo của 18 nhân vật tên tuổi
tại
khách sạn Caravelle ngày 26/4/1960. Hầu hết
các
chính khách này từng hợp tác với chế độ.(
12)
Tháng 9 năm 1960, tại Ðại hội thứ
III của Ðảng LÐVN, HCM và Bộ Chính Trị lại
ra
nghị quyết “giải phóng miền Nam bằng võ
lực.”( 13) Theo
Hà Nội, miền Nam đã trở thành thuộc địa của
đế
quốc Mỹ, và đánh chiếm miền Nam là cuộc
chiến
tranh “chống Mỹ cứu nước,” một cuộc thánh
chiến giải
phóng. Chính quyền miền Nam bị hạ giá thành
“Ngụy quyền,” “ tay sai đế quốc Mỹ.” Vì áp
dụng triệt để
lẽ phải của họng súng, Hà Nội chẳng cần nhắc
nhở
gì đến những mưu toan chiến lược của Nga –
Hoa, mà chỉ ca
ngợi Liên Xô và Trung Quốc vĩ đại, nhiệt
liệt hoan
hô bất cứ ai đang cầm quyền ở hai nước đàn
anh và
không tiếc lời “ngàn đời nhớ ơn” viện trợ
của “phe ta.”(
14) Và, dĩ nhiên, luôn luôn có
thành kiến tiên thiên: Bất cứ ai chống lại ý
thức hệ Cộng Sản đều là phản động, phản cách
mạng, phải
ngừng hiện hữu.
Nghị quyết của Hà Nội
năm 1960
và tình hình suy thoái an ninh ở miền Nam
khiến Ðại sứ Elbridge Durbrow phải đề nghị với
Oat-shinh-tân
áp lực Tổng thống NĐD cải cách chính trị, kể
cả
việc nghiên cứu cho hai vợ chồng Cố vấn Ngô
Ðình
Nhu rời nước và giải tán hoặc ra công khai
Ðảng
Cần Lao.( 15) Nhưng ngọn lửa tiếp sức cho Nghị
quyết trên
là cuộc đảo chính hụt của Nhảy Dù và Thủy
Quân Lục Chiến trong hai ngày 11-12/11/1960.
Ðúng lúc cuộc đảo chính vừa diễn ra ở
Sài Gòn, Bộ Chính Trị Ðảng LÐVN quyết định
cho Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam
[MTDTGPMN] ra
công khai.( 16)
Mặc dù là con đẻ của Miền Bắc,
tổ chức quần chúng này (giống như các tổ
chức Việt
Minh hay Liên Việt) lôi kéo được một số
người
không Cộng Sản, nhưng chán ghét hoặc là nạn
nhân của chính quyền Miền Nam.( 17) Chính vì
thế đã có nhiều người cả đoan rằng cuộc xâm
lăng
miền Nam của Miền Bắc chỉ là “cuộc nội
chiến” giữa những phe
phái miền Nam.( 18)
Nhờ có cán bộ và
khí giới xâm nhập từ miền Bắc, và sự chỉ đạo
chặt
chẽ từ Hà Nội, tổ chức MTDTGPMN ngày một lớn
mạnh. Cơ cấu
hành chính nông thôn của chính phủ NĐD
ngày một suy sụp. Năm 1960, tỉnh trưởng Vĩnh
Long là Khưu
Văn Ba bị ám sát. Năm sau, tỉnh trưởng Phước
Thành
bị đấu tố ngay giữa nhà lồng chợ trước khi bị
treo cổ. Chiến
trận rộ lên ở vùng cao nguyên vào đầu
mùa khô 1961, khiến chính phủ NÐD phải
tuyên bố tình trạng lâm nguy, kêu gọi Thế Giới
Tự Do cứu giúp–và chính NĐD ngầm yêu cầu
Liên bang Mỹ gửi quân tác chiến vào Nam. Tuy
nhiên, trước sự chống đối của dư luận Mỹ và
thế giới,
chính phủ John F. Kennedy (1961-1963) chỉ hứa
sẽ giúp
Miền Nam bằng mọi phương tiện, ngoại trừ
việc trực tiếp tham chiến.
Quyết định này của Kennedy tạo nên những căng
thẳng trong
liên hệ Mỹ-Việt vào cuối năm 1961, và báo
chí Sài Gòn–theo lệnh của Ngô
Ðình Nhu–mở một chiến dịch bài Mỹ xâm phạm chủ
quyền và nền độc lập của miền Nam. Dẫu vậy,
cuối cùng,
hai bên đồng ý thực hiện “kế hoạch chống phản
loạn” [CIP],
với điều kiện Mỹ ngưng đòi hỏi NĐD cải cách về
chính trị. Từ cuối năm 1961, miền Nam bắt đầu
kế hoạch
bình định nông thôn qua việc chấn chỉnh các
khu trù mật và dinh điền cũ thành những thí
điểm “xóm chiến đấu” ở Tây Ninh, Quảng Ngãi
và Vĩnh Long, theo nguyên tắc “vết dầu loang”
[oil spot].
Tiếp đó, tháng 3/1962, chính phủ phát động
quốc sách Ấp Chiến Lược [ACL], theo kế hoạch
của Robert [“Bob”]
Thompson, một chuyên viên chống phản loạn
Bri-tên.
Tuy nhiên, đã qua trễ. Đối phương tìm đủ mọi
phương
cách bẻ gãy quốc sách ACL–qua việc tấn công,
phá vỡ các ACL bằng quân sự, chính trị
và binh vận–đồng thời gia tăng xâm nhập cán
binh từ
Bắc.( 19)
Cuộc
đánh bom Dinh Ðộc Lập vào tháng 2/1962, rồi
đến cuộc đảo chính 1/11/1963 và những năm
tháng
hỗn loạn chính trị sau đó–với nhiều cuộc đảo
chính, chỉnh lý, bất ổn chính trị qua các
cuộc xuống đường biểu tình ở các thị xã và
tỉnh lỵ lớn(20)–khiến từ năm 1964 chính phủ
Lyndon B. Johnson
quyết định oanh tạc “trả đũa” miền Bắc, và
rồi đưa quân
tác chiến Mỹ vào Nam Việt Nam để cứu vãn
tình thế. Lê Duẩn không chịu lùi, quyết leo
thang “tiến công,” xâm nhập từng đại đơn vị
chính
qui vào Nam. Ðại tướng Nguyễn Chí Thanh
(1914-1967),
Ủy viên Bộ Chính Trị, Chủ Nhiệm Tổng Cục
Chính Trị,
được giao quyền chỉ huy khoảng 200,000 bộ
đội “sinh Bắc tử Nam” để
chống lại “cuộc chiến cục bộ” (tự giới hạn)
của Mỹ. Vào Nam (“đi
B”) từ mùa Hè 1964, Nguyễn Chí Thanh được
chỉ định
làm Bí thư Trung Ương Cục Miền Nam (mới được
tái
lập, hoạt động dưới danh nghĩa Ðảng Nhân Dân
Cách Mạng Việt Nam trong MT/ GPMN), kiêm
Chính ủy
B-2.
Sau ngày Thanh vào Nam, tổ chức
lãnh thổ phía Nam vĩ tuyến 17–với hai chiến
trường B-1
và B-2 từ năm 1961–cũng thay đổi.
“B-2”
gồm 5 tỉnh phía Nam Trung bộ và
toàn miền Nam, chia làm 4 Quân Khu: Khu 6 (Nam
Trung bộ), Khu 7 (Ðông Nam bộ), Khu 8 (Trung
Nam bộ)
và Khu 9 (Tây Nam bộ), cùng Ðặc khu Sài
Gòn/Gia Ðịnh (T-4).
Khu V (B-1) chia ra
làm hai: “B-1,”
gồm 8 tỉnh duyên hải miền Trung, từ Quảng Trị
vào
Khánh Hòa; B-3, tức Mặt Trận Tây Nguyên gồm 3
tỉnh Pleiku, Kontum, Ban Mê Thuột, với Nguyễn
Chánh
làm Tư lệnh, Ðoàn Khuê làm Chính
ủy. Tháng 9/1965, Chu Huy Mân làm Tư lệnh
kiêm Chính ủy B-3. Tháng 4/1966, lập thêm
Quân khu Trị-Thiên (B-4), do Lê Chưởng làm Tư
lệnh kiêm Chính ủy. Hai tháng sau, 6/1966, lập
Mặt
Trận Ðường 9 (tức B-5), do Vũ Nam Long (Ðoàn
Văn Ưu,
1921-?) làm Tư lệnh; Nguyễn Xuân Hoàng,
Chính ủy.
Mặt Trận Tây Nguyên
đặt trực
thuộc Bộ Tổng Tham Mưu ở Hà Nội, là nơi hoạt
động của
các đơn vị từ Bắc xâm nhập. Cuối năm 1967,
“B-3” có
hai đại đơn vị Nông trường (SÐ 1) và Nông
trường
10 (SÐ 325B), cùng Trung đoàn 24, các đơn vị
pháo, phòng không, quân y, vận tải, v.. v...
Các
đơn vị vũ trang tại
các quân khu khác cũng được tổ chức lên cấp
sư đoàn (công trường): Sư Ðoàn 2, Sư
Ðoàn 3 “Sao Vàng” thành lập ngày
2/9/1965 tại Bình Ðịnh (Quân khu 5); Tư
lệnh,
Giáp Văn Cương; Chính ủy, Ðặng Hòa; Sư
Ðoàn 9 thành lập ngày 2/9/1965 tại Phước
Thành, Bình Long; tham gia chiến dịch Dầu
Tiếng (1965);
Tư lệnh, Hoàng Cầm; Chính ủy, Lê Văn Tưởng;
Sư
Ðoàn 5 thành lập ngày 23/11/1965 tại Bà
Rịa (Căn cứ Mây Tầu); Tư lệnh, Nguyễn Hoà;
Chính
ủy, Lê Xuân Lựu; Sư Ðoàn 7 thành lập
ngày 13/6/1966 tại Phước Long; tư lệnh,
Nguyễn Hòa;
Chính ủy, Dương Cự Tẩm.
Thanh áp dụng chiến
lược đã
quen thuộc của Mao Trạch Ðông: Lấy nông thôn
bao
vây thành thị cho tới lúc ung thối, rồi sẽ dứt
điểm.( 21) Nhưng đối thủ của Thanh là William
C. Westmoreland,
một cựu Tướng Nhảy Dù. Ngoài ra, còn có cả
một đạo quân cơ giới tối tân bậc nhất thế
giới.
Ðó là chưa nói đến oanh tạc cơ chiến lược B-52
(lần đầu tiên yểm trợ chiến thuật tại Bến Cát
ngày18/6/1965) mà chỉ những bộ đội “sinh Bắc
tử Nam” mới
đầy đủ kinh nghiệm nói về mức tàn phá. Bởi
thế,
bày ra trận đánh nào, Thanh thua trận đó–từ
Ðức Cơ (Pleiku, 8/1965), An Khê (9/1965), tới
Pleimei
(10/1965), Ia Drang (10-11/1965), Ia Drang 2
(Sa Thầy, 10-12/1966),
Tây Ninh (11/1966), v.. v...
Với chiến lược “truy diệt
[search-and-destroy],” Westmoreland đã có
thể tảo thanh
cả những chiến khu bất khả xâm phạm trong
giai đoạn 1945-1954:
Tam Giác Sắt, Chiến khu C, Chiến khu D
(chiến dịch Cedar Falls,
Junction City, v... v...).
Song
song với chiến lược “truy diệt” này là
một chương trình bình định (xây dựng) nông
thôn. 54 tiểu đoàn chính qui VNCH, kể cả Nhảy
Dù và Thủy Quân Lục Chiến, được giao nhiệm vụ
yểm
trợ cho 555 toán cán bộ XDNT bình định và
cải tổ dần từng thôn ấp. Trên lý thuyết, đây
là một chiến lược lý tưởng nhất: sử dụng hơn
500,000
quân Mỹ và Ðồng Minh để bẻ gẫy các lực lượng
chính qui của Bắc quân, trong khi thanh lọc
dần những
cán bộ hạ tầng của đối phương, theo chính sách
vết
dầu loang. Trên thực tế, dẫu có nhiều khiếm
khuyết–như
lãnh đạo yếu kém, tệ nạn phe đảng, tham nhũng,
hối lộ
tràn lan–“chiến lược hai gọng kìm” này khiến
chính quyền miền Nam ngày thêm vững mạnh. (22)
Ít nữa, cũng vững mạnh hơn giai đoạn “kiêu
binh”
1963-1966. Ðồng thời, chính phủ Johnson bắt
đầu hợp hiến
hoá chế độ miền Nam; đưa Nam Việt Nam trở lại
tình trạng
một quốc gia có hiến pháp (1/4/1967), quốc
hội, v.. v...
Từ tháng 5/1967, Nguyễn Chí
Thanh có ý định thay đổi chiến lược: đưa
chiến tranh
vào thành phố để gỡ rối cho hạ tầng cơ sở
nông
thôn. Thanh muốn tung ra những đợt đột kích
kéo
dài ít ngày, rồi triệt thoái. Nhưng
cái chết đột ngột của Thanh vào mùa Thu 1967
khiến
Hà Nội–đúng hơn, Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ
và Văn Tiến Dũng–cải tiến kế hoạch đột kích
thành
phố và thị xã thành một cuộc Tổng Tấn Công.
Có lẽ vào thời gian này, yếu tố “ngoại giao”
hay
“mặt trận chính trị” mới được thêm vào, giúp
kế hoạch “Tổng Tấn Công” có kích thước lớn
lao
hơn.( 23)
Sự thay đổi chiến lược này được thực
hiện trước tiên bằng việc tăng cường nhân sự
cho miền Nam.
Phạm Hùng (Phạm Văn Thiện, 1912-1988), một
cộng sự viên
đắc lực của Lê Duẩn trong thời chiến tranh
Pháp-Việt ở
miền Nam, Ủy Viên Bộ Chính Trị, được chỉ
định làm
Bí thư Trung Ương Cục Miền Nam, kiêm Bí Thư
“B-2”.
Hoàng Văn Thái (tức Xiêm, 1915-1986), thân
tín của Giáp, vào nắm toàn bộ lực lượng
võ trang B-2. Vũ Nam Long (Ðoàn Văn Ưu, sinh
1921)
được điều từ Quân Khu IV Bắc Việt vào Ðặc
khu
Trị-Thiên (B-4) (thành lập từ tháng 4/1966)
để phụ
tá Trần Văn Quang.
Tiếp đến việc cải tổ
lại khu vực lãnh
thổ Huế và Sài Gòn. Ðồng thời, để gây
tiếng vang và nhắm mục đích lôi kéo
quân Mỹ ra xa các thành phố, Bắc quân mở năm
mặt trận lớn: Trận Cồn Tiên ở vùng vĩ tuyến 17
từ cuối
tháng 6/1967 tới tháng 9/1967; trận Lộc Ninh
(Phước Long)
ở gần biên giới Miên từ 27/10 tới 5/12/1967;
trận Dak To
(Kontum) (11/1967); và, đặc biệt, chiến dịch
Khe Sanh-Ðường
9 sát ranh giới Lào từ ngày 20/1 tới
15/7]/1968.
Mặc dù các đơn vị Bắc quân thiệt hại nặng nề,
quyết
tâm đánh lớn, đánh lâu của Hà Nội
khiến các chiến lược gia Ðồng Minh và VNCH
phải gợi
nhớ đến bài học quân sử Ðiện Biên Phủ (1954).(
24) Chính vì thế, mặc dù phát hiện nhiều
bằng chứng khả tín, ít ai tiên đoán được,
hoặc công khai cảnh cáo dư luận thế giới về
một cuộc Tổng
Tấn Công trên toàn lãnh thổ miền Nam–một cuộc
tự sát tập thể (kamikaze) trông thấy trước
mắt.( 25)
Cho đến hiện nay, Hà
Nội vẫn chưa
công bố hết động lực khiến Lê Duẩn, Lê Ðức
Thọ,
Phạm Văn Ðồng, Võ Nguyên Giáp và Văn
Tiến Dũng đã có quyết định lạ lùng trên.
(Vai trò của HCM trong lối đánh “cách mạng”
kiểu
Việt Nam này còn là một dấu hỏi: Ở số tuổi 76,
thường xuyên đau yếu, sống tại Hoa Nam nhiều
hơn Hà Nội
đang “sơ tán”, HCM có tiếng nói nào chăng?)
Theo nội dung bài nói
chuyện
của Lê Duẩn tại Hội nghị TW lần thứ 14, vào
đầu năm 1968,
Miền Bắc đã mạnh hơn Mỹ và Ðồng Minh về phương
diện
quân sự. Mặc dù về quân số, tỉ lệ là 3/1,
nhưng lực lượng cơ động Bắc quân 2, phe Mỹ và
Ðồng
Minh chỉ có 1. Duẩn khẳng định: “Ðịch chưa bao
giờ diệt ta
một đại đội [sic]; Ta diệt từng tiểu đoàn
địch.” “Về quân
sự nó thua rồi.” Bởi thế phải nắm lấy “thời
cơ,” tiến
công” (Tổng tấn công) theo đúng lời Karl Marx
và Lenin chỉ dạy: “Cách mạng là tiến công;
không tiến công là thất bại.” Trong khi đó, những
chuyển
biến
chính
trị
trong
hai
năm
1966-1967 cho thấy chế độ
miền Nam sắp suy sụp, phe Miền Bắc sẽ thay
Phật Giáo làm
chủ tình hình chính trị các tỉnh lỵ
và thị xã. Duẩn giải thích thêm: Từ
khi Phật Giáo thất bại (“tự thiêu là bạo
lực”),
“quyền lãnh đạo thuộc về ta;” Sài Gòn
có vài ba vạn [20,000-30,000] đảng viên đang
nằm
im; “Ta làm chủ Ðà Nẵng 70 ngày;” “cuối năm
1967, ta đã chỉ đạo quần chúng đô thị;” “Quần
chúng đã chín muồi, muốn nắm chính quyền;”
“hầu hết đô thị đều sôi nổi, coi như bây giờ
không có con đường nào khác, phải khởi
nghĩa, phải đánh đổ Mỹ.” Vấn đề quan trọng là
“làm
sập chính quyền của nó;” “phải phá hết, phá
rất dữ hậu cứ của nó;” “Phải chuyển qua tổng
công
kích, tổng khởi nghĩa.” Mỹ thua, sẽ phải ngồi
vào
bàn hội nghị. Rồi Duẩn hy vọng “300,000 người
Sài
Gòn cầm súng đánh Mỹ;” “Ta mạnh lên,
chúng vọt xuống;” “tất cả các lực lượng phản
chiến sẽ ngả
về ta.” Duẩn cũng nhấn mạnh: Tổng tấn công là
“một chiến
dịch”, “một giai đoạn”, 3 tháng, 6 tháng, còn
kéo dài. Và tiết lộ “đã bàn với
TWC;” “thấy nhu cầu của quần chúng thực sự,
nguyện vọng quần
chúng thực sự;” “Ta không bàn với ai, bí mật
lắm.” Chủ trương lớn, đã đề ra từ nghị quyết
11, 12 [năm 1965];
Duẩn từng nói với Lưu Thiếu Kỳ và Leonid
Brezhnev. “Ta
khởi đầu, ta sẽ kết thúc. Ðộc lập, không nghe
ai cả.”
(26)
Trung
tướng Trần Ðộ–tức Tạ Ngọc Phách
(1923-2002), Phó Chính ủy B-2, người được giới
tình báo, truyền thông phong (một cách lầm
lẫn) là cấp chỉ huy của mặt trận Sài Gòn–tiết
lộ
với một ký giả vào năm 1981 rằng Miền Bắc tin
tưởng
có thể thắng lợi, chiếm giữ được một số thành
phố.
Riêng về phản ứng chính trị ở Mỹ chỉ là điều
may
mắn, không trù liệu trước.( 27) Nhận xét này
phản ánh nội dung bài nói chuyện dẫn trên
của Lê Duẩn. Tuy nhiên, còn quá ít
tài liệu để phán xét mức độ sâu sát
của lời chứng trên. Dù ở cương vị Phó Chính
Ủy B-2 chưa hẳn Trần Ðộ biết rõ hết những lý
do thầm
kín của cuộc Tổng Tấn Công-Tổng Khởi Nghĩa Mậu
Thân
1968.
Y sĩ
Dương Quỳnh Hoa–một cán bộ MTDTGPMN, từng
bí mật vào Sài Gòn “công tác”
trong trận Mậu Thân, và từng có chân trong
Chính phủ Lâm thời Cộng Hòa miền Nam– cũng
than
van, vào năm 1981, rằng Hà Nội đã “tính
toán sai lạc” một cách thảm hại, khiến suy yếu
cuộc nổi
dậy ở miền Nam (Karnow 1984:545). Giống như
trường hợp Trần Ðộ,
nhận xét này phần nào hữu lý, nếu chỉ dựa
trên những lời tuyên bố của Lê Duẩn tại Hội
nghị
trung ương thứ 14; đặc biệt là “nguyện vọng”
nổi dạy lật đổ
chính quyền của dân chúng miền Nam (Tổng Khởi
Nghĩa).
Y sĩ
Hoa, cùng nhiều thành viên
MT/GPMN, cũng hàm ý rằng Hà Nội đã
nhân cơ hội Mậu Thân làm suy yếu lực lượng võ
trang của MT/GPMN, hầu có thể chi phối hoàn
toàn
tình thế. Từ Hội nghị 14 (khóa III), Hà Nội
đã dự trù cho khai sinh một Măt Trận II, chuẩn
bị
thành lập một chính phủ trung ương lâm thời
cho
miền Nam Việt Nam, với những khuôn mặt mới mẻ
hơn, kể cả
vài khuôn mặt thân Pháp.( 28)
Tuy nhiên, nếu khách quan
phân tích, khi tung ra cuộc tự sát tập thể
Mậu
Thân 1968, Hà Nội đã nhắm vào ba mục
tiêu chính: gỡ rối về quân sự, mở mặt trận
chính trị ở quốc ngoại, và làm suy yếu tiềm
lực
chống Cộng của thị dân miền Nam.
Một
trong những mục đích chính của Hà Nội nhằm
khích động tinh thần cán binh. Như chúng ta
đã biết, từ năm 1965, cường độ các trận đánh
giữa
Bắc quân và lực lượng Ðồng Minh ngày thêm
gia tăng. Số tổn thất của Bắc quân về phi pháo
rất cao.(
29) Ðáng lưu ý hơn nữa là cái chết của
Nguyễn Chí Thanh vào mùa Thu 1967.( 30)
Trong khi đó, kế
hoạch phong tỏa kinh
tế và những cuộc hành quân bình định của
VNCH–do 555 toán Xây Dựng Nông Thôn phụ
trách dưới sự bảo vệ của các đơn vị chủ lực,
cùng
tài trợ, cố vấn của Bộ Tư lệnh MACV và các nha
sở
liên hệ, dưới sự phối hợp của Robert W.
Komer–khiến tinh thần
cán binh đối phương xuống rất thấp.( 31) Số
cán bộ hồi
chính ngày một lên cao (20,242 cho cả năm
1966,
13,551 người trong 4 tháng đầu năm 1967, và
lên tới
trên 27,000 cho trọn năm). (The Pentagon
Papers (Gravel),
I:15) Tình trạng “lạc ngũ”–tức bỏ đơn vị, lang
thang trong
rừng–cũng xuất hiện. Ðánh vào thành phố, bởi
thế, là đi vào cửa chết để tìm cái sống.
Trước hết, tấn công vào
các thành phố sẽ khiến Ðồng Minh và quân
VNCH phải cắt giảm các cuộc hành quân truy
diệt,
rút về thế thủ, bảo vệ các vòng đai an ninh.
Các đoàn Xây Dựng Nông Thôn sẽ mất lực
lượng quân sự yểm trợ, dễ bị thanh toán. Lực
lượng Nghĩa
quân (Dân vệ) hay Ðịa Phương quân (Bảo An)
cũng
bị xuống tinh thần. Tại vùng IV, chẳng hạn,
khoảng 400 tiền đồn
đã rút lui không một tiếng súng kháng
cự trong dịp Tết Mậu Thân. Những viên chức
hành
chính địa phương cũng mất điểm tựa cần
thiết. Các cơ sở
nông thôn của đối phương sẽ có cơ hội khôi
phục.
Dĩ nhiên, một cuộc
tấn công qui
mô như thế phải tổn thất lớn lao về nhân mạng
và vũ
khí.( 32) Chưa tài liệu khối Nga-Hoa hay Miền
Bắc
nào cho biết yếu tố tổn thất có được nghiên
cứu hay
chăng. Sự im lặng này–dù đã gần 40 năm trôi
qua–chứng tỏ hành động thí quân của giới
lãnh đạo Miền Bắc: Chẳng những thản nhiên ném
hơn
80 chục ngàn cán binh vào tử địa–mà một số
không nhỏ còn dưới 18 tuổi–Lê Duẩn, Lê Ðức
Thọ cùng các cán bộ cao cấp còn làm
cho họ tin là nhất định sẽ chiến thắng, giải
phóng trọn
vẹn được miền Nam, dân chúng các đô thị đang
trông chờ họ, và nhất định sẽ có tăng viện cho
các đoàn quyết tử tiền phong. Ba tiếng “Tổng
Khởi Nghĩa”
được điền thêm vào kế hoạch Tổng Tấn Công
nguyên thủy có lẽ phần nào mục đích
tác động (động viên) tinh thần này, hơn thực
tâm tin tưởng rằng Miền Bắc đủ khả năng lật đổ
chế độ có
vẻ suy yếu sau nhiều biến loạn chính trị tại
miền Nam từ năm
1963. Lê Minh, người chỉ huy mặt trận Huế,
cũng thú nhận
và ngầm chỉ trích sách lược thí quân
của Hà Nội.
Song
song
với
ý
niệm
thí
quân
để giải tỏa áp lực
của Ðồng Minh tại nông thôn–nguồn cung cấp tài
nguyên nhân, vật lực–là một mặt trận ngoại
giao vừa
hé mở.
Từ năm 1962, đã bắt
đầu có
những cuộc tiếp xúc bí mật giữa Mỹ và Bắc
Việt.
Chiều ngày 22/7/1962, nhân dịp ký Hiệp ước về
Lào, Ngoại trưởng Ung Văn Khiêm gặp W. Averell
Harriman
tại khách sạn Hotel Suisse, Geneva. Harriman
cho Khiêm
biết rằng Kennedy đã quyết định tăng viện cho
Nam Việt Nam
vì cuộc chiến tranh du kích tại miền Nam do
miền Bắc điều
khiển (bằng chứng là báo cáo của UBQT/KSÐC),
và Mỹ sẽ chấm dứt sự hiện diện quân sự nếu Hà
Nội
trở lại tình trạng Hiệp định Geneva qui định.
Khi Khiêm
biện bạch đây thuần chỉ là cuộc nổi dậy của
dân
chúng miền Nam, không hề có lính miền Bắc
tham chiến, Harriman nói không muốn thảo luận
nhiều về vấn
đề này, và tuyên bố sự can thiệp của Mỹ chỉ
chấm
dứt khi nào Bắc Việt ngừng xâm lăng miền Nam.
Từ
ngày này, có nhiều nỗ lực bí mật của phe
“chủ hòa” miền Bắc, qua trung gian nhiều chính
phủ
và tổ chức–đặc biệt là Liên Xô, Liên
Hiệp Quốc, Pháp và Vatican–để tìm giải pháp
hòa bình. Tuy nhiên, mãi tới đầu năm 1967,
Phó Thủ Tướng kiêm Ngoại Trưởng Nguyễn Duy
Trinh mới
nêu lên điều kiện để hòa đàm: ngưng oanh tạc
Bắc Việt và triệt thoái quân viễn chinh Mỹ
khỏi
Việt Nam vô điều kiện. (33)
Ngày 8/2/1967, TT
Johnson viết thư cho
HCM, và được phúc đáp tương tự. Bảy tháng
sau, ngày 26/9, Johnson đồng ý ngưng oanh tạc
có
điều
kiện (thường được biết như Phương
thức San Antonio).
Cuối
năm 1967, sau những chuyến xuôi ngược của đại
diện Vatican giữa
Roma và Hà Nội (Johnson 1971:268-269), Trinh
lại
thêm một lần đề cập đến vấn đề “điều kiện” hòa
đàm.
Cơ hội cho hòa đàm đã hé mở.
Tuy nhiên, hòa đàm ở thế
nào, mạnh hay yếu? Muốn thắng lợi ở bàn hội
nghị, cần
mạnh ở chiến trường. Hoặc, phải tạo được
chứng cớ để thổi phồng sức
mạnh của mình ở chiến trường. Thực tế, về
trang bị, vũ
khí hay khả năng tác chiến, Miền Bắc khó thể
đương
đầu một đạo quân hùng mạnh, cơ giới tối tân
như lực
lượng Mỹ và Ðồng Minh. Dẫu vậy, đạo quân Mỹ
cũng
có nhược điểm: cần một thời gian khá dài để
ổn
định tình hình, và nhiều quân số hơn nữa để
chiến thắng. Nhưng Johnson từng tuyên bố
cuộc tham chiến của Mỹ
sẽ ngắn hạn, ánh sáng ở cuối đường hầm không
xa,
và để chiến thắng tổng số quân Mỹ cần thiết
chỉ lên
tới 525,000 người vào giữa năm 1968. Ðáng lo
hơn nữa,
cứ bốn năm nước Mỹ có một cuộc tranh cử Tổng
Thống cùng
một nửa số ghế trong Thượng Viện; và, một
Tổng Thống chỉ
có thể giữ chức vụ tối đa trong hai nhiệm
kỳ, tức 8 năm.
Ðó là chưa nói Việt Nam–ngoài
công dụng ngăn chặn sự bành trướng ảnh hưởng
của
Liên Xô xuống vùng Ðông Nam Á–chẳng
có gì quyến rũ. Mỹ tiếp tục giữ quân chiến
đấu ở
Việt Nam phần lớn vì niềm kiêu hãnh của một
siêu cường, vì an ninh, thịnh vượng chung
của toàn
vùng Ðông Nam Á, và vì những cuộc
bầu cử tại chính nội địa Mỹ–tức không một
Tổng thống hay
một chính đảng nào, dù Dân Chủ hay Cộng
Hòa, muốn đi vào lịch sử như đã bại trận tại
Việt
Nam–hơn quyết tâm biến miền Nam Việt Nam
thành một tiền
đồn đích thực của tự do, dân chủ. Nói cách
khác, mục đích công khai của Mỹ là ngăn chặn
sự bành trướng của khối Cộng Sản xuống vùng
Ðông Nam Á, và như một hệ luận, chỉ muốn
có một chính phủ “thân hữu” ở miền Nam, tức
một
tiền đồn chống Cộng.
Cuộc tấn công của Bắc quân
vào Sài Gòn, Huế và các thành
phố miền Nam có lẽ còn nhằm mục đích ngoại
giao
này. Từ tháng 1/1967, Bộ Chính trị, Quân ủy
TW và rồi Hội nghị TW lần thứ 13 (khóa III)
đã
quyết định chấp nhận vừa đánh, vừa đàm–mở
đường cho
tuyên ngôn của Nguyễn Duy Trinh ngày
27/1/1967.
Tháng 6/1967, tại Hội nghị Trung ương lần
thứ 14 (thứ nhất),
Lê Duẩn đã công bố quyết định tổng tấn công
để
khai thác cuộc tranh cử năm 1968 tại Mỹ.
(34) Những nỗ lực
dàn xếp một giải pháp chính trị của nhiều
quốc gia
và tổ chức quốc tế–kể cả Liên Xô, Pháp,
Vatican và đường giây “Pennsylvania” của
Kissinger-Sainteny (hay Aubrac-Mai Văn
Bộ)–khiến Hà Nội chưa
có quyết định dứt khoát. Cái chết của Nguyễn
Chí Thanh cũng có thể là một yếu tố gây
nên sự đình trễ này.
Hiện chưa đủ tài liệu để xác
định vai trò của Nga – Hoa trong cuộc Tổng
Tấn Công 1968.
Theo Lê Duẩn, kế hoạch Tổng tấn công được
hoàn
toàn bảo mật, và là quyết định riêng của Bộ
Chính Trị. Tuy nhiên, chính sách đối với Mỹ
của hai đàn anh trong khối XHCN ít nhiều ảnh
hưởng đến
quyết định của Hà Nội. Tưởng cũng nên lược
thuật qua thế
“một cổ hai tròng” của Hồ Chí Minh và Lê
Duẩn trong giai đoạn 1954-1967 để có thể
phân tích
sâu sát hơn vai trò của Mat-scơ-va và Bắc
Kinh.
Từ năm 1954,
và nhất là sau khi Nikita S. Khrushchev lên
chức
Bí thư thứ nhất năm 1957, điện Kremli phát
động
chính sách sống chung hoà bình.
Tháng 10/1959, khi thăm Bắc Kinh, Khrushchev
đề nghị Mao
không nên dùng võ lực để trắc nghiệm sự vững
chãi của chế độ tư bản. Bắc Kinh, từ Hội nghị
Geneva 1954,
và rồi Hội nghị Bandung 1955, cũng khẳng định
lập trường sống
chung hòa bình. Nhưng sau khi Khrushchev hạ bệ
Stalin năm
1956, rạn nứt Nga-Hoa bắt đầu. Tháng 4/1960,
Nhân
Dân Nhật Báo [Renmin Ribao] đăng bài “Chủ
thuyết
Lenin vạn tuế,” gián tiếp tấn công Khrushchev.
Từ
đó, những cuộc trao đổi lời nhục mạ không
ngừng leo thang.
Liên Xô chỉ trích kế sách “Bước Ðại Nhảy
Vọt” của Mao là “khùng” và đi theo “đường lối
Trotskyite.” Trung Hoa thì chê Khrushchev “xét
lại.” Sau Ðại hội thứ XXII của Ðảng CS Liên
Xô, Mao
lên án Khrushchev đã phản bội sử mệnh đấu
tranh
giai cấp. Mao còn đưa ra thuyết “thế giới thứ
ba,” tức
các nước nghèo và kém phát triển,
như một đối lực với hai siêu cường Nga-Mỹ. Rạn
nứt Nga-Hoa
lên cao điểm sau những cuộc chạm súng ở biên
giới,
dài theo sông Ussuri (1969).
Hồ Chí Minh và Ðảng
LÐVN phải nỗ lực đi giây giữa hai đàn
anh–nguồn cung
cấp quân và kinh viện cần thiết. Hồ còn muốn
đứng
ra hòa giải hiềm khích giữa Mat-scơ-va và
Bắc
Kinh, nhưng thất bại.
Về trường hợp thống nhất Việt Nam,
Mat-scơ-va
nhấn mạnh vào nỗ lực tìm một giải pháp hòa
bình. Vì vậy, năm 1956, Nga đồng ý với
Bri-tên giúp Pháp cởi bỏ trách nhiệm về hiệp
định Geneva. Mat-scơ-va cũng khuyên nhủ Hà
Nội chấp nhận
nền trung lập ở Lào và Miên; và, chống đối
việc đánh chiếm miền Nam bằng võ lực. Tại
Ðại hội kỳ
III của Ðảng LÐVN (9/1960), các viên chức
Nga vẫn
khuyên Hồ tìm đường thống nhất đất nước một
cách
hòa bình, theo tinh thần Hiệp định Geneva.
(Zhai 2000:89)
Ðể lôi kéo Hà Nội về
phe mình, Bắc Kinh–song song với những nỗ
lực khai thác
sự mâu thuẫn giữa Ðảng LĐVN và
Nga–bí
mật tiếp tay Hồ chí Minh và Lê Duẩn trong
việc đấu
tranh chính trị và võ trang giới hạn ở miền
Nam.
Tháng 10/1959, khi
Phạm Văn Ðồng
qua Bắc Kinh xin quân viện và cố vấn, Chu Ân
Lai gửi
một phái đoàn chuyên gia xuống Bắc Việt, do
Ðại
tướng La Thụy Khanh [Luo Riqing] cầm đầu. La
Thụy Khanh nhận lệnh
là Bắc Kinh, trong khả năng, sẽ thỏa mãn tất
cả những
yêu cầu của Hà Nội. Tới Hà Nội ngày
10/11/1959, Khanh đi khảo sát cả 5 quân khu,
phi trường,
hải cảng và các nhà máy của Miền Bắc. Thủ
tướng Ðồng ba lần bày tỏ hy vọng lớn lao ở
viện trợ của Bắc
Kinh. Bắc Việt cũng xin được xây dựng một số
kho tiếp liệu ở
sát biên giới và trong lãnh thổ Trung Hoa.
Tháng 3/1960, Bắc Kinh bắt đầu gửi chuyên viên
qua
Bắc Việt. (Zhai 2000:82-83)
Tháng 5/1960, khi thảo luận về chiến
lược tại miền Nam, Chu Ân Lai và Ðặng Tiểu
Bình
đề nghị áp dụng một chiến lược linh động:
tranh đấu chính
trị tại các đô thị và quân sự tại nông
thôn; nhưng không muốn leo thang chiến
tranh. Tháng
12/1960, sau khi MTDTGPMN thành lập, Bắc
Kinh công nhận
ngay. Khi Lê Duẩn hỏi Chu Ân Lai về kinh
nghiệm “công
xã nhân dân” của Bước Nhảy Vọt, Chu khuyên
chỉ
nên chú trọng vào hợp tác xã
nông thôn và kỹ nghệ nhẹ. Chu cũng đề cập
đến thuyết
“thế giới thứ ba” và yêu cầu Hà Nội ủng hộ
cuộc
tranh chấp biên giới của Trung Hoa. Tuy
nhiên Hà Nội
muốn đứng ngoài mọi tranh chấp giữa các nước
anh em.
(Zhai 2000:83-89)
Từ năm 1962,
Bắc Kinh và Hà Nội xích lại gần nhau hơn.
Bắc Kinh
tiếp viện cho MT/GPMN 97,000 vũ khí đủ loại.
Bắc Kinh cũng nhấn
mạnh vào giải pháp trung lập miền Nam. Ðầu
năm 1963,
nhiều nguồn tin Pháp ghi nhận số cố vấn Liên
Xô giảm
từ 60 tới 15% trong hai năm 1960-1961; trong
khi cố vấn TH tăng từ 28%
tới 80%. (FRUS, 1961-1963, III:271)
Trong khi
đó Liên Xô vẫn theo đuổi lập trường “sống
chung
hòa bình” với khối tư bản. Năm 1963,
Khrushchev
còn ký với Mỹ và Bri-tên Hiệp định hạn chế
thí nghiệm bom nguyên tử. Việc này khiến Hà
Nội nghiêng hẳn về Bắc Kinh. Sau khi Mao
Trạch Ðông
lên tiếng chống đối ngày 31/7/1963, báo Nhân
Dân trong hai ngày 6 và 9 tháng 8/1963,
và tạp chí Học Tập số tháng 9/1963 nhiệt
liệt ủng
hộ. Tháng 10/1963, Nhân Dân lại đả kích
Yugoslavia theo đúng lập luận của Bắc Kinh,
lên án
Tito là dụng cụ của đế quốc Mỹ, và đang phản
bội
Marxist-Leninism, trở lại với tư bản. Tháng
11/1963, Học Tập chỉ
trích việc Liên Xô bảo vệ Tito, và bênh
vực cho những điều mà Liên Xô lên án
là “giáo điều.”
Tuy
nhiên, Hà Nội vẫn giữ bề ngoài trung lập
trong cuộc
đương đầu Nga-Hoa. Khi Chu Ân Lai triệu tập
một buổi họp với
các lãnh tụ CS Ðông Nam Á tại Quảng
Ðông vào hạ tuần tháng 9/1963 để bàn
việc thành lập một liên minh 11 đảng “chống
lại bọn
xét lại Nga Sô,” Lê Duẩn không đồng ý.
Duẩn cũng không tán thành đề nghị viện trợ
một tỉ
Mỹ Kim của Ðặng Tiểu Bình, nếu Hà Nội ngưng
nhận viện
trợ của Mat-scơ-va.( 36)
Bắc Kinh vẫn
không ngớt tiếp tục khoét sâu mâu thuẫn giữa
Hà Nội và Mat-scơ-va. Nhân cơ hội Mat-scơ-va
đòi Hà Nội trả nợ, ngày 4/6/1963, Mao Trạch
Ðông nói với một đại biểu của phái đoàn
Hà Nội tại Vũ Hán là Trung Hoa thì
khác, khi các đồng chí vay của Trung Hoa,
bao giờ
muốn trả cũng được, mà không trả cũng chẳng
sao.( 37)
Hội nghị TW
lần thứ 9 khóa III của Ðảng LÐVN (12/1963)
có thể
coi như dấu mốc tách biệt chính sách miền
Nam giữa
Mat-scơ-va và Hà Nội. Tháng 12/1963, Tướng
Lý Thiên Hữu [Li Tianyou], Phó Tổng Tham Mưu
trưởng
QÐGPND, dẫn một phái đoàn qua Bắc Việt. Lý
Thiên Hữu ở lại miền Bắc tới 2 tháng và trao
cho
Hà Nội một kế hoạch chống kế hoạch chống
phản loạn của Mỹ. (Zhai
2000:120) Ngày 27/12/1963, Mao còn viết thư
cho Hồ, khen
ngợi là đã có một buổi hội kiến xuất sắc với
Mao.
(38)
Việc Mỹ bắt đầu oanh
tạc trả đũa Bắc vĩ tuyến
17 từ ngày 8/2/1964, khiến Lê Duẩn và nhóm
chủ chiến mạnh hơn. Nỗ lực vận động tìm giải
pháp
chính trị cho miền Nam Việt Nam của Liên Xô,
và nhất là Thủ tướng Alexi N. Kosygin, khiến
Hà
Nội thân thiết hơn với Bắc Kinh. Ngày
7/2/1964, có
tin cán bộ cao cấp của Trung Hoa và Bắc Việt
họp tại
Mông-tự (Mengtzu), gần biên giới Hoa-Việt. Phi
cơ chiến đấu
của Trung Hoa tập trung tại khu vực này.
(FRUS, 1964-1968, I:64)
Ngày 30/8/1964, Bắc Kinh lên
án Liên Xô yểm trợ Mỹ can thiệp vào Việt
Nam,
qua Liên Hiệp Quốc. Tuy nhiên, sau khi Hà
Nội đưa ra
đề nghị ngày 22/2/1965 là các nước anh em
XHCN
công khai lên án Mỹ gia tăng chiến tranh xâm
lược ở miền Nam, sáu ngày sau, 28/2, Bắc
Kinh từ chối.
Trong năm 1965, Bắc Kinh còn bốn lần bác bỏ
đề nghị của
Liên Xô phối hợp hành động ủng hộ Miền Bắc,
lập cầu
không vận qua Trung Hoa, hay thành lập phi
trường
trên lãnh thổ TH để chuyển tiếp vận cho Bắc
Việt.
(Sách Trắng, 1979:48) Năm 1966, Mao hai lần
phản đối việc
thành lập Mặt trận Quốc tế ủng hộ Việt Nam
do Hà Nội
và đại diện Ðảng Cộng Sản Nhật Bản đề nghị,
vì
không muốn Liên Xô tham dự. (Sách Trắng,
1979:48-49) Dụng tâm của Bắc Kinh là muốn Hà
Nội
cùng hai nước Miên và Lào phải nằm trong
vùng ảnh hưởng của mình. Ðể lôi kéo
Hà Nội, Bắc Kinh khôn khéo sử dụng viện trợ
như
những sợi giây cương.
Ngày
8/4/1965, Lưu Thiếu Kỳ nói với Lê Duẩn là
Bắc Kinh
sẵn sàng giúp Bắc Việt bất cứ những gì Hà
Nội cần. Duẩn và Giáp xin tăng viện trợ và
quân chiến đấu Trung Hoa. Duẩn nói cần “phi
công
chí nguyện, bộ binh chí nguyện, cùng tất cả
các chuyên viên cần thiết.” Duẩn còn muốn
quân Trung Hoa thực hiện 4 nhiệm vụ: giới
hạn việc Mỹ oanh tạc
phía Nam vĩ tuyến 19 hoặc 20; bảo vệ Hà Nội;
bảo vệ
vài trục lộ tiếp vận chiến lược; và, giúp
lên tinh thần [to boost morale]. (Zhai,
2000:133)
Trong hai
ngày 21-22/4/1965, Võ Nguyên Giáp thảo luận
với La Thụy Khanh và Dương Thành Vũ, Ðệ nhất
Phó T/TMT, tại Bắc Kinh việc gửi quân Trung
Hoa qua Việt
Nam. Chu Ân Lai cũng thành lập hai bộ phận
để điều khiển
việc viện trợ cho Hà Nội. Một Ủy ban Viện
trợ Việt Nam tại Hội
đồng Trung ương Nhà Nước, do Dương Thành Vũ
và
Lý Thiên Hữu cầm đầu; và Ðoàn Chỉ huy
Viện Trợ Việt Nam, do La Thụy Khanh trách
nhiệm tại Ban Trung
ương Ðảng. (Zhai, 2000:134)
Tháng
5/1965, khi HCM qua Bắc Kinh cầu viện, được
Mao tiếp ở Trường Sa
[Changsa]. HCM yêu cầu TH giúp tu bổ 12 trục
lộ
phía Bắc Hà Nội. Tháng 6/1965, Văn Tiến Dũng
đạt
thỏa ước viện trợ với La Thụy Khanh. Nhưng
ngày 16/7/1965, Bắc
Kinh thông báo cho Hà Nội biết là chưa tiện
gửi phi công chí nguyện qua Bắc Việt. ( Sách
Trắng,
1979:47-48; Zhai, 2000:134-135)
Trong hai năm 1966-1967–dù Hoa lục
đang xáo trộn vì cuộc “cách mạng văn hóa”
(văn cách), khiến gần 100 cán bộ lãnh đạo,
kể cả
Chủ tịch Nhà Nước, Phó Chủ tịch Ðảng CSTH
Lưu Thiếu
Kỳ, Tổng Bí thư Ðặng Tiểu Bình, Bí thư Bắc
Kinh Bành Chân, Ðại tướng La Thụy Khanh,
Tổng Tham Mưu
trưởng, v.. v... bị hạ bệ, nhục mạ–Bắc Kinh
vẫn đều đặn viện trợ cho
Hà Nội. Tổng số viện trợ của Bắc Kinh lên
tới 20 tỉ Mỹ
kim–từ trang bị khí giới, đạn dược cho 2
triệu người, tới vải
vóc, vật dụng xây cất đường xe lửa, cầu cống
tới loại
lương khô chế biến đặc biệt từ một xưởng sản
xuất ở Thượng Hải.
Bắc Kinh còn gửi qua Bắc Việt trên 20,000
chuyên gia
cùng trên 300,000 chí nguyện quân phụ
trách việc giao thông vận tải, và nhất là
phòng không, trú đóng tại Yên
Bái, Thái Nguyên, v.. v... (39) Bắc Kinh
cũng thiết
lập một Bộ Tư lệnh Tây Nam, đề phòng Mỹ tấn
công.
Thống chế Bành Ðức Hoài được cử làm Phó
Tư lệnh.
Tuy
nhiên, Hà Nội vẫn luôn e ngại tham
vọng “bá quyền nước lớn” của Trung Hoa, sợ Bắc
Kinh sẽ
dùng xương máu trai tráng Việt để mặc cả với
Mỹ
trên đầu cổ mình. Nỗ lực của Bắc Kinh mở rộng
ảnh hưởng
tại Lào và Miên càng khiến Lê Duẩn
và các lãnh đạo Hà Nội thêm
hoài nghi. (Sách Trắng, 1979:49-51)
Dẫu
vậy, ở thời điểm cuối 1967, đầu 1968, Lê Duẩn
vẫn giữ bề ngoài thuần phục Bắc Kinh, và
nghiêng
dần về chính sách “vừa đánh, vừa đàm” của
Mat-scơ-va. Tháng 12/1967, Bộ Chính trị Ðảng
LÐVN
quyết định mở cuộc tổng tấn công. (Hiệp,
2002:197-198) Nhưng
mãi đến ngày 21/1/1968 mới chọn Giao Thừa Mậu
Thân
làm giờ G.
Ngày
Tết Mậu Thân 1968 là thời điểm
lý tưởng nhất, vì mùa tranh cử sơ tuyển (giữa
những ứng cử viên của mỗi đảng, Dân Chủ hoặc
Cộng
Hòa) tại Mỹ sắp bắt đầu. Cho dẫu thất bại về
quân sự cũng
đủ gây tiếng vang trong dư luận Mỹ. Và, qua hệ
thống
tuyên truyền cùng tình báo tinh vi, cuộc tấn
công có thể giúp mở ra một mặt trận chính
trị ngay trong nội địa Mỹ–mặt trận có tính
cách
quyết định.
Ðã dầy
kinh nghiệm về việc mở mặt trận
chính trị tại nội địa Pháp những năm đầu thập
niên
1950, Liên Xô và Hà Nội chỉ thay đổi
chút ít chiến thuật cho phù hợp với “những
túi khôn nhân loại” ở Mỹ–đại diện bằng những
người
viết tham luận (editorials) trên các tờ báo
có nhiều độc giả, hay các nhà “thông
thái” của ba đài truyền hình–những cá
nhân chẳng có nhiều kiến thức về Việt Nam nói
chung, và nhất là lối “lý luận” của những
“người
Cộng Sản Việt Nam” nói riêng. Thủ thuật của Hà
Nội,
bởi thế, trước hết muốn chứng tỏ được sự lì
lợm và quyết
tâm chịu đựng để kéo dài cuộc chiến (theo kiểu
Việt
Nam). Ðồng thời, khéo léo và tỉ mỉ khai
thác mâu thuẫn giữa các nước Tây phương với
Mỹ, và giữa các phe nhóm Mỹ, phát động
phong trào phản chiến ở Mỹ.
Những ai đã sống ở
“lục địa đã
mất” (lost continent), hẳn biết rõ người dân
Mỹ
bình thường dưới phố chẳng mấy quan tâm, và
cũng
không có thì giờ để quan tâm, đến tình
hình thế giới. Cuộc mưu sinh nghiệt ngã và nếp
sống của một xã hội hậu kỹ nghệ hoá khiến chủ
nghĩa
cá nhân lên cao cùng độ. Một trận football
(bóng bầu dục), baseball (khúc côn cầu),
basketball
(bóng rổ), hay một buổi đại nhạc hội lôi kéo
số
người xem nhiều hơn một bài diễn văn của Tổng
thống Mỹ hay
chuyến viếng thăm của một quốc trưởng nước
bạn. Nước Mỹ quá rộng
lớn–bờ biển Ðông (Ðại Tây Dương) và
Tây (Thái Bình Dương) khác biệt nhau tới ba
giờ, tức một phần tư khoảng cách từ Mỹ sang
Việt Nam–nên
truyền hình, truyền thanh và báo chí
đóng một vai trò quan trọng trong việc hướng
dẫn dư luận.
Và, những nhân vật ảnh hưởng mạnh mẽ các tổ
hợp
truyền thông này không phải là chính
quyền, mà chính giới đại tài phiệt, tức những
người cung cấp tiền quảng cáo. Nước Mỹ, dù
không
còn giàu có như xưa, vẫn là đại siêu
cường kinh tế. Ðời sống ở Mỹ, dù chưa và sẽ
chẳng bao
giờ là thiên đường, nhưng hòa bình, sung
túc nhất trần gian. Nên ít thanh niên Mỹ muốn
đi lính, nhất là phải thiệt mạng ở một xứ nhỏ
bé
nhiệt đới như Việt Nam. Và, chẳng có gì ngạc
nhiên khi khối Liên Xô-Bắc Việt đã đưa tinh
thần phản chiến và phong trào hòa bình
lên hàng đầu tại Mỹ.
Ðể tiếp tay cho các
phong
trào phản chiến Mỹ, Liên Xô còn vận động
các phong trào chống đối việc Mỹ tham chiến
tại Việt Nam
trên khắp thế giới. Cũng chính từ thời điểm
này,
xuất hiện một loại văn chương tuyên truyền ca
ngợi lòng
ái quốc của Hồ Chí Minh và những đảng viên
CSVN. Ðồng thời là những nỗ lực bôi bẩn chế độ
miền
Nam, nhấn mạnh sự độc lập và tính chất “tự
phát”
của MTDTGPMN; hoặc, loan tin một chiều, chỉ
nói lên những
nửa sự thực ở miền Nam, quên bẵng đi những sự
thực tồi tệ, sắt
máu hơn ở miền Bắc. Tác phẩm đầy lỗi lầm của
những
cây bút phản chiến Pháp như Jean Lacouture,
Philippe Devillers, Paul Mus, v.. v... được
chuyển dịch qua Mỹ ngữ, hay
trích dẫn trong các tác phẩm nghiên cứu nặng
mùi chính trị của nhiều học giả Mỹ. Ngay đến
hồi
ký của Jean Sainteny cũng được dịch qua Mỹ
ngữ. Dù phải
ít năm sau mới sản xuất ra những trí thức phản
chiến
David G. Marr, Gareth Porter hay Frances
Fitzgerald, tất cả đã
khởi đi và phát triển từ cuộc Tổng Tấn Công
Mậu
Thân 1968.( 40)
Ngay
sau khi cuộc Tổng tấn công vừa bắt đầu, giới
truyền thông Mỹ nghiêng hẳn về phía Miền Bắc,
khích động những xúc động và tinh thần chủ
hòa. Chuyến viếng thăm miền Nam của Walter
Cronkite, trưởng ban
tin (anchor) của tổ hợp truyền hình CBS, trong
tháng
2/1968 đánh dấu sự thay đổi lập trường này.
Ngay đến một
số công chức cũng bị ảnh hưởng. Bởi thế, trong
các cuộc
họp mật của Hội Ðồng An Ninh Quốc Gia
[HÐ/ANQG] Mỹ vào
hai ngày 12 và 13/2/1968, các cố vấn cao cấp
của
Johnson chia làm hai phe rõ ràng–McNamara,
dù sắp rời chức vụ vào cuối tháng, chủ trương
hoà đàm. Phe “diều hâu” có Tướng Earle C.
Wheeler, Tổng Tham Mưu Trưởng Liên quân, và
giới
quân sự. Wheeler đề nghị động viên các quân
nhân trừ bị để tăng viện cho chiến trường Việt
Nam.
Vì đã được Tướng
Matthew
Ridgway, cựu Tư lệnh mặt trận Nam Hàn trong
thập niên
1950, cảnh cáo rằng hiện trạng quân lực Mỹ
không đủ
khả năng phản ứng hữu hiệu nếu xảy ra một biến
loạn nào
đó ngoài Việt Nam–như trường hợp Berlin hay
Bắc
Hàn chẳng hạn–Johnson chỉ chấp thuận tạm thời
gửi qua Việt Nam
một Lữ đoàn TQLC và một Trung đoàn thuộc Sư
đoàn 82 Dù, khoảng hơn 10,000 người (Johnson
1971:385-387). Sau chuyến viếng thăm các binh
sĩ trên
ngày 17/2, trước khi họ lên đường qua Việt
Nam, Johnson
bỗng đổi ý về cuộc chiến, và cử Wheeler qua
thị
sát tình hình để có quyết định dứt
khoát.
Ngày 21/2, Wheeler
rời
Oat-shinh-tân, trực chỉ Sài Gòn. Westmoreland
đề
nghị Wheeler gửi thêm 205,000 quân tăng viện
trước cuối năm
1968 để, nếu cần, mở rộng chiến tranh qua biên
giới Miên,
Lào và vĩ tuyến 17 hầu tiêu diệt các căn cứ
hậu cần của Miền Bắc. Tuy nhiên, McNamara
không chấp thuận.
Johnson cũng không có quyết định dứt khoát,
giao
cho người sẽ kế vị McNamara là Clark Clifford
cầm đầu một ban
điều nghiên để có quyết định cuối cùng.
Trong khi đó, Hà Nội
lại tung
ra những cuộc tấn công ngoại giao mới. Ngày
21/2, Tổng thư
ký Liên Hiệp Quốc là U Thant gặp Johnson,
thông báo rằng có tin Hà Nội sẽ đồng
ý thương thuyết nếu Mỹ ngưng oanh tạc tức
khắc–một nguồn tin
chẳng có gì mới lạ, đã được U Thant tung ra từ
năm
1965. Năm ngày sau, cơ quan CIA báo cáo cũng
có tin Hồ Chí Minh đang chờ đợi để thương
thuyết, nhưng
với điều kiện phải ngưng oanh tạc trước. Cuối
tháng 2/1968,
thêm một nhân viên ngoại giao India mật báo
rằng Hà Nội muốn thương thuyết tức khắc, và
đồng ý
không xâm nhập quân vào miền Nam sau khi Mỹ
ngưng oanh tạc. Dù tất cả các nguồn tin trên
đều
không được kiểm chứng, nhưng những chiếc bong
bóng
hòa bình tiếp tục được thả ra cho tới đầu
tháng
3/1968 (Johnson 1971:395, 401).
Bởi thế, trong phiên
họp HÐ/ANQG Mỹ
hai ngày 4-5/3/1968, Johnson dứt khoát bác bỏ
đề
nghị xin tăng viện của Westmoreland, và sẽ chỉ
gửi thêm
không quá 22,000 quân qua Việt Nam. Johnson
cũng
nghiêng về đề nghị của Ngoại trưởng Rusk là
nên tạm
ngưng oanh tạc phía Bắc vĩ tuyến 20 từ tháng
4/1968, khi
mùa mưa bắt đầu, để chờ phản ứng của Hà Nội,
và sẽ
công bố trong một bài diễn văn sắp tới
(Johnson
1971:399-400). Ðiều này có nghĩa Johnson đã
chịu nhường bước trước đòi hỏi của Miền Bắc,
dù
bán chính thức. Trong những ngày kế tiếp, qua
các cuộc họp và tham khảo ý kiến với cố vấn,
các chuyên viên, cũng như Ðại sứ Ellsworth
Bunker và Tướng Creighton Abrams, Johnson đi
dần đến một quyết
định lịch sử–không tái tranh cử nhiệm kỳ Tổng
thống thứ 2,
1969-1973, để tìm cách rút chân khỏi Việt
Nam trong danh dự.
Ðánh
vào
thành
phố
còn
là
phương
thức sử dụng
“bạo lực cách mạng” quen thuộc của chủ thuyết
Cộng sản.
Trước
hết nó có thể vô hiệu
hóa những phần tử chống Cộng độc lập và uy
hiếp tinh thần
thị dân. Chỉ nguyên việc mang chiến tranh vào
thành phố–nghĩa là đưa điêu tàn, đổ
nát, xáo trộn vào những khu vực vốn được coi
như
an toàn của miền Nam–đủ minh chứng nghệ thuật
cao đẳng trong
việc sử dụng “bạo lực cách mạng” của Lê Duẩn:
khủng bố
tinh thần dân lành, khiến họ phải ngưng cộng
tác
với chính quyền hiện hữu, hoặc ít nữa “bình
chân như vại.”
Chưa hết. Tại các khu
vực Bắc
quân tạm chiếm, việc truy lùng, ám sát, thủ
tiêu những nhân vật chống Cộng có thành
tích là một việc làm quen thuộc, có chỉ thị
rõ ràng. Năm 1969, chẳng hạn, đài phát
thanh Hà Nội nhìn nhận đã “tiêu diệt hơn
3,000 tên ác ôn, phản động” ở Huế trong dịp
Tết Mậu
Thân. Hơn một thập niên sau những cựu đao thủ
phủ Tết 1968
vẫn còn kiêu hãnh tuyên bố với một
toán làm “lịch sử truyền hình” Mỹ rằng họ chỉ
“trừng trị” những “con rắn độc” phản động,
chống đối cách mạng.
Ngay đến năm 1988, có người còn khoe khoang
công
lao “trừng trị... Việt gian” của mình
(Huế 1988:75).
Tuy
nhiên, giới truyền thông quốc tế hầu như
không một phản ứng. Ngược lại, người ta khai
thác tối đa
tấm ảnh Chuẩn tướng Nguyễn Ngọc Loan bắn chết
một sĩ quan đặc
công đối phương. Người chụp được tấm hình
này–Eddie
Adams–bỗng nổi danh thế giới, được trao tặng
giải thưởng. Sự
thiên vị của giới truyền thông quốc tế quá rõ
và khắc nghiệt.( 41)
Ðáng lưu ý rằng “bạo
lực
cách mạng” của Miền Bắc trong dịp Mậu Thân
1968
không mang lại yếu tố tâm lý họ mong đợi.
Ngoại trừ
thiểu số đã nghiêng về phía Miền Bắc từ
trước–như
Luật sư Trịnh Ðình Thảo, Giáo sư Lê Văn Hảo,
v.. v...– phần đông thị dân miền Nam sinh ra
oán
ghét, chống đối Miền Bắc mạnh mẽ hơn. Tại Huế
chẳng hạn, khi Bắc
quân bắt đầu rút lui, những người bị dẫn theo
lên
rừng “phản kích lại Bắc quân ngay tại chỗ.” Có
trường hợp họ đã “chống lại, bóp cổ chết ngay
mấy người
tự vệ đang canh giữ, có trường hợp (họ) tung
lựu đạn giết cả xe
trong lúc bộ đội cho ... đi nhờ xe” (Huế 1988:75-76).
Tại
nhiều nơi, dân chúng thẳng tay tố giác vị
trí ẩn núp của tàn binh Bắc quân.
Ðó là chưa nói đến một phản ứng “tiêu
cực” hơn: Dân chúng tìm đủ cách di tản khỏi
những khu vực bị Bắc quân làm “ô nhiễm.”
Tóm
lại, trên lãnh vực nội địa, cuộc
Tổng Tấn Công-Tổng Khởi Nghĩa Mậu Thân 1968 là
thất
bại lớn cho Miền Bắc, hoặc văn hoa hơn, chỉ là
một thứ “tổng
diễn tập” cho chiến thắng quân sự 1975. Nhưng
những hậu quả
chính trị–như loại bỏ thực lực chính trị-quân
sự
của MTDTGPMN–và nhất là ngoại giao khiến “Nghị
quyết
Quang Trung” của Miền Bắc được coi như bước
ngoặt quan trọng trong giai
đoạn 2 (1959-1975) của chiến cuộc Việt Nam.
Về
phía VNCH, chỉ nguyên việc để đối phương bí
mật
chuyển khí giới vào thành phố, hay âm thầm
chuyển quân tới tuyến tấn công là khiếm khuyết
rất
lớn.
Các cơ
quan an ninh quân sự cũng như
dân sự chịu một phần trách nhiệm. Hoặc vì tư
lợi,
hoặc vì cầu nhàn, họ đã không kiểm
soát được những đường giây đưa chất nổ và vũ
khí tới các “cơ sở” đối phương trong
thành
phố. Một số viên chức cao cấp–như trường hợp
Trung tá Tỉnh
trưởng Thừa Thiên–không báo cáo hết sự thực
về tình trạng an ninh trong tỉnh. Ðó là chưa
kể tệ nạn tham nhũng, móc ngoặc đã thành cố
tật
trong hàng ngũ các đơn vị Cảnh sát, an ninh
kiểm
soát giao thông–những đồng tiền đi trước là
đồng
tiền khôn; tức những cái giá mà xe
hàng, hay thuyền bè phải trả để không bị kiểm
soát lúc rời hay cặp bến, hoặc “mãi lộ” dọc
đường,
khiến đối phương an toàn đưa vào các thành
phố và thị xã hàng tấn thuốc nổ, đạn dược,
và vũ khí.
Ngoài ra, phần vì
không
khí cổ truyền ngày Tết, phần vì thái độ tắc
trách, hoặc tự tin quá mức vào tình trạng
an ninh của thủ đô hoặc các thị xã, đa số đơn
vị
ứng chiến không đầy đủ quân số hoặc không sẵn
sàng chiến đấu. Tại Quảng Ngãi, chẳng hạn, khi
Tư lệnh Sư
Ðoàn 2 BB tới kiểm tra một Tiểu đoàn ứng trực
vào ngày mồng 1 Tết, quân số vỏn vẹn 50
người–tức
chưa đầy hai trung đội (Sơn & Dương
1968:269). Quân số ứng
trực chỉ khoảng 30 phần trăm ở Cần Thơ hay Bến
Tre.
Các cơ quan tuyên
truyền của
chính phủ và quân đội cũng phản ứng vụng về.
Mặc
dù một sĩ quan Tâm Lý Chiến của Trung Tâm
Huấn Luyện Quang Trung nhanh trí cho chạy
những bản nhạc
hùng vào mờ sáng mồng 2 Tết–loại nhạc hùng
này lại khiến những người đa nghi nghĩ đến một
cuộc đảo
chính. Từ ngày 1/11/1963, người dân Sài
Gòn đã được nghe loại nhạc hùng này nhiều
lần. Thành một thói quen. Rạng sáng mồng 2
Tết,
khi biết rõ tiếng nổ ngoài đường phố là tiếng
súng mà không phải tiếng pháo đón
Xuân, những điệu nhạc quân hành trên
đài Sài Gòn khiến người ta nghĩ ngay đến một
cuộc
đảo chính. Vì, mới chỉ nửa tháng trước, Thiệu
có vẻ “sẵng giọng” với Mỹ về việc thương
thuyết với phe Miền
Bắc. Ngoài ra, mặc dù Nguyễn Cao Kỳ nhận đứng
chung
liên danh ứng cử Tổng thống với Nguyễn Văn
Thiệu để duy
trì tình “huynh đệ chi binh,” tình trạng con
chim
hai đầu của Ðệ Nhị VNCH quá hiển lộ. Tin đồn
Kỳ và
phe miền Bắc–tức Loan, và Lê Nguyên Khang, Tư
lệnh
Quân Ðoàn III kiêm Tư lệnh TQLC–sẽ làm
đảo chính được loan truyền trong mọi giới.(
42)
Trong
khi đó, ban tham mưu cùng những người
thân cận Kỳ và Thiệu khiến liên hệ giữa hai
người
vô cùng căng thẳng, ngột ngạt. Thiệu rất ít
khi
nói chuyện với Kỳ, ngoại trừ trường hợp khẩn
cấp. Tướng Nguyễn
Ðức Thắng là một thí dụ khác phản ảnh sự
phân hoá ở giai tầng lãnh đạo–Thiệu chẳng bao
giờ
tha thứ việc Thắng đã đích thân yêu cầu Thiệu
rút lui, nhường cho Kỳ tranh cử Tổng thống;
và, nhất
là, Thắng được sự ủng hộ nhiệt thành của các
viên chức Mỹ. Bởi thế, sáng ngày mồng 2 Tết,
nếu
không có Kỳ lên tiếng trên đài
phát thanh vào khoảng 7 giờ, tinh thần dân
quân còn hỗn loạn đến độ nào!
Mãi tới chiều ngày
mồng 3 Tết
(1/2/1968) thị dân Sài Gòn mới được đọc số
báo Tiền Tuyến đặc biệt về cuộc tấn công của
Bắc
quân. Huế và các tỉnh lỵ khác hoàn
toàn “im lặng vô tuyến.” Nhưng ít ai tin tưởng
những bản tin đăng trên Tiền Tuyến–cơ quan
tuyên truyền của
quân đội. Người tò mò phải mở các đài
Tiếng Nói Hoa Kỳ (V.O.A) hay Bri-tên (đài
B.B.C.)
để theo dõi tình hình. Ngày mồng 8, mồng 9
Tết mới có vài tờ báo tư nhân như Sống, v..
v... được bày bán. Những đoạn “tự ý đục bỏ”
trên mặt báo gây nhiều bàn cãi hơn
là những tin tức đăng tải.
Nực cười nhất là
nguồn tin cả hai
Tướng Trần Ðộ và Trần Văn Trà đã tử trận trong
dịp tấn công. Theo Tổng Nha Thông Tin, Trà
chết ở
Vĩnh Long, Ðộ chết ở Chợ Lớn với đầy đủ quân
hàm.
Ðài V.O.A. còn bình luận chi tiết tin
này cùng tiểu sử khá đầy đủ của Trần Ðộ.
Ðộ được phong lên chức “chỉ huy trận đánh Sài
Gòn.” (Năm năm sau,
Trà vào trại David đại diện MT/GPMN trong Ủy
Ban Bốn Phe.
Rồi, mùa Xuân 1975, tham dự vào cuộc đánh
chiếm Sài Gòn hay “Chiến dịch Hồ Chí Minh.”
Trần
Ðộ thì sau này làm Chủ Nhiệm Ủy Ban Văn
Hóa của Quốc Hội Hà Nội).
Sai lầm “kỹ thuật”
này có nhiều
lý do. Thứ nhất, vì không được huấn luyện chu
đáo, cấp chỉ huy tiền tuyến không biết rõ
cách mang quân hàm của bộ đội chính qui Bắc
Việt. Cũng có thể vì những mục đích bí ẩn
nào đó. Tuyên truyền, khích lệ tinh thần
quân dân–hoặc để giới báo chí ngoại quốc nhắc
nhở đến tên tuổi mình.( 43)
Việc trục xuất ký giả
Francois Mazure
của hãng Thông tấn Agence France Presse (AFP)
vì
lý do thân Cộng và phổ biến những tin đồn và
tin tức thất thiệt cũng là một biện pháp vụng
về. Mazure
cùng nữ phóng viên Catherine Leroy tự động
tìm phương tiện ra Huế, rồi bị Bắc quân bắt
giữ vài
tiếng đồng hồ. Trong bài tường thuật gửi về
Pháp, Mazure
cho biết Bắc quân khá có kỷ luật, và tin
tưởng rằng sẽ lập được “chính quyền cách mạng”
ở Huế
(Vietnam 1968:126). Tổng Nha Thông Tin cho đó
là
tin đồn thất thiệt, thay vì phải lợi dụng
những chi tiết
này để phản công bằng cách vạch rõ âm
mưu thí quân của Hà Nội, lùa họ vào
chỗ chết vì mục đích chiếm giữ các thành
phố vượt quá khả năng của Bắc quân lúc đó.
Trên
phương diện chiến lược, cơ quan thông
tin và chiến tranh chính trị của VNCH càng yếu
kém hơn. Một trong những chủ đề mà cơ quan
tuyên
truyền miền Bắc tung ra là người Mỹ đã có ý
định bỏ rơi miền Nam, nhắm mắt làm ngơ cho Bắc
quân tiến
vào các thành phố, hầu đi đến giải pháp
công nhận MTDTGPMN và thành lập một chính
phủ liên hiệp. Từ Thiệu–sau buổi họp mật ngắn
ngủi với Johnson
tại Canberra nhân dịp tang lễ Thủ tướng Harold
Holt ngày
19/12/1967, và dưới sự thúc dục của Bunker là
phải
thực hiện gấp kế hoạch gửi thư mật cho Hồ Chí
Minh đề nghị
thương thuyết–đến những chính khách, Thượng
Nghị sĩ
tên tuổi đều mang mối hoang mang này. Vài
Thượng
Nghị sĩ, chẳng hạn, đã công khai chất vấn
Ngoại trưởng
Trần Văn Ðỗ về vấn đề liên hiệp với MTDTGPMN.
Một số
chính khách Ki-tô thì công khai chống
đối giải pháp liên hiệp–khẳng định quyết tâm
diệt
Cộng đến hơi thở cuối cùng.
Bởi
thế, bất cứ tin tức nào về vận động hòa
bình hay giải pháp chính trị đều bị đục bỏ,
hầu
bưng tai, bịt mắt đám đông đã bị điều kiện
hoá với những chính nghĩa tự do, dân chủ,
chống
Cộng bấy lâu. Mặt trận chiến tranh chính trị
hầu như
hoàn toàn tê liệt, hoặc ở mức độ tàn phế cao.
Nhưng cũng chẳng đáng
trách. Cơ
quan Thông tin và Chiến tranh Chính trị chỉ
được
coi như một thứ con ghẻ–dù cuộc chiến Việt
Nam, nếu muốn
có cơ hội thắng lợi, phải được phát động toàn
diện, trên mọi mặt, của một cuộc chiến toàn
dân.
Trông chờ gì một tinh thần cách mạng, phục vụ
vô vị lợi, nơi những công chức, và những cá
nhân được đưa vào các cơ quan Thông tin hay
Chiến tranh Chính trị chỉ vì quen biết (đặc
biệt
là với các viên chức thẩm quyền Mỹ), và
xuống thấp hơn nữa là phe đảng, hoặc tiền bạc
đút
lót?
Tháng 3/1968, khi
được khuyên
bảo phải đẩy mạnh chiến dịch tuyên truyền,
Thiệu quyết định đổi
Tổng Nha Thông tin thành Bộ Thông tin. Người
được
giao nắm Bộ tân lập này là Trần Văn Ân
(1903-2002)–một ký giả gốc Triều Châu kỳ cựu
miền Nam,
từng mang đủ thứ bảng hiệu đảng phái từ Phục
Quốc tới
Bình Xuyên, Hòa Hảo, rồi Cao Ðài. Nhưng
Ân có lẽ là một lựa chọn quá vội
vàng. Trước khi chính thức nhận lời, Ân đi xin
ý kiến Tướng Lansdale, và than thở về vấn đề
thiếu
ngân sách để đương đầu với hàng trăm cán bộ
tuyên truyền lão luyện của Hà Nội tại Paris.
Tại
nội địa, chương trình “võ trang tinh thần” của
Ân,
sau này, rồi cũng chỉ trái núi đẻ con chuột.(
44)
Chưa đầy hai tháng
sau, tân Thủ
tướng Trần Văn Hương chọn Tôn Thất Thiện thay
Ân nắm Bộ
Thông tin. Thiện, theo tài liệu Mỹ, là một
trong
hai đệ tử thân tín của Ngô Ðình Nhu.
Thiện học ngành kinh tế, thông minh, có khả
năng,
nhưng ngành Thông tin có rất ít liên
hệ với kinh tế học. Thiện lại chủ trương chỉ
có người
Ki-tô giáo mới đủ tin tưởng để hoạt động trong
bất cứ
lãnh vực nào của xã hội. Bởi thế, dù bằng
cấp cao hơn Ân, chính sách thông tin của
Thiện–nếu có một chính sách–chỉ đặt trọng
tâm vào việc phân phối bông giấy cho
các chủ báo cùng phe đảng, và “phục hồi
tinh thần Ngô Ðình Diệm”.( 45)
Tuy
nhiên, nếu chỉ thuần túy ở phương diện quân sự
mà nói, VNCH đã thắng Bắc quân trong
vòng tuần lễ đầu của cuộc Tổng Tấn Công. Dù
đã
vận dụng tới 84,000 cán binh vào cuộc Tổng Tấn
Công, từ ngày mồng 5 Tết trở đi, Bắc quân bị
dồn
vào thế thụ động. Chủ lực Bắc quân phải triệt
thoái
dần khỏi các đô thị và vòng đai, mang theo
số thương vong rất cao. Chỉ còn lại một số nhỏ
chốt chặn cảm tử,
tạo ảo giác trận chiến đang kéo dài. Mặc dù
mãi tới ngày 25 hoặc 27/2/1968 đợt I của cuộc
Tổng Tấn
Công Mậu Thân mới coi như chấm dứt, quân lực
VNCH
đã chứng tỏ khả năng vượt trên sự ước đoán của
chính các tướng Ðồng Minh. Bản báo cáo
ngày 29/2 của Westmoreland, chẳng hạn, nhận
xét rằng
trong số 149 tiểu đoàn tác chiến của VNCH, 42
tiểu
đoàn cực kỳ xuất sắc, và chỉ có 8 tiểu đoàn
thuộc loại kém.( 46) Ngay những hãng thông tấn
có phần thiên vị về Hà Nội cũng phải nhìn
nhận sự thất bại quân sự của Bắc quân.
Lực
lượng Cảnh Sát Quốc Gia–ngoại trừ Huế–cũng
chứng tỏ khá hữu hiệu. Chuẩn tướng Loan cùng
các
sĩ quan biệt phái cho Cảnh Sát đã chiến thắng
các cơ quan an ninh đối phương ván bài chót
của canh bạc Mậu Thân. Số thiệt hại về nhân
mạng của lực
lượng Cảnh sát tương đối nhẹ: 447 người chết,
758 bị thương,
và 157 người mất tích.
Mục
tiêu “Tổng Khởi Nghĩa” của Miền Bắc tại
Sài Gòn và các thị xã hoàn
toàn thất bại. Ðặc công nội thành chỉ có
thể tổ chức được vài cuộc biểu tình lẻ tẻ ở
Chợ Lớn. Tại
Huế, dù chiếm được thị xã hơn ba tuần lễ, đối
phương cũng
chỉ khai sinh được “Ủy Ban Nhân Dân Cách Mạng”
với
những người đã có ý hướng khác như Lê
Văn Hảo, Thượng Toạ Thích Ðôn Hậu, v.. v...
Việc
Hà Nội thành lập Liên Minh các Lực lượng
Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Miền Nam
Việt Nam, tức Mặt Trận 2, ngày 20/4/1968–một
thứ “thành
phần thứ ba” với những tên tuổi như Luật sư
Trịnh Ðình
Thảo, Kỹ sư Lâm Văn Tết, v.. v...– cũng chẳng
tạo được tiếng vang
nào đáng kể. Ðích thân “Tám
Chí” Huỳnh Tấn Phát (1913-1989), Phó Chủ tịch
kiêm Tổng thư ký MTDTGPMN, đặc trách khu Sài
Gòn-Chợ Lớn-Gia Ðịnh, phụ trách Liên Minh
này trước khi bàn giao cho Dược sĩ Phạm Thị
Yên,
mới từ Côn Ðảo về, vào cuối năm 1968.( 47) Mặc
dù một số người trong Liên Minh sẽ gia nhập
chính
phủ lâm thời miền Nam, thành lập ngày 6/6/1969
để
danh chính ngôn thuận ngồi vào bàn Hội nghị
Paris, những Nguyễn Văn Kiết, Dương Quỳnh Hoa,
Thanh Nghị, Tôn
Thất Dương Kị, v.. v... chẳng là gì hơn chậu
kiểng ...
đoàn kết.
Ðại đa số dân chúng
rút vào thế thụ động, khác hẳn với những cuộc
biểu
tình rầm rộ, tràn đầy khí thế đại chúng của
năm 1963 hay 1965-1966 khi Phật tử xuống đường
chống đối chính
phủ Ngô Ðình Diệm (1954-1963), Trần Văn Hương
(12/1964-1/1965), hay Nguyễn Cao Kỳ
(6/1965-10/1967).
Trên thực tế, hành
động vi phạm
hưu chiến, gieo rắc chết chóc, khói lửa trên
các thành phố mang lại một hậu quả trái ngược
cho
Miền Bắc. Dân chúng đã bí mật chỉ điểm cho
cơ quan công lực vị trí đóng quân của Bắc
quân, hoặc các “cơ sở” nằm vùng. Nỗ lực tuyển
mộ
thanh thiếu niên để huấn luyện cấp tốc chính
trị, rồi gửi
trả lại nội thành hoạt động mà các giới chức
an
ninh Mỹ-Việt lo ngại cũng chỉ thành công rất
giới hạn.
Dù vài ba sinh viên tranh đấu thiên tả bị lộ,
phải rút ra bưng (như Lê Hiếu Ðằng, Hoàng Phủ
Ngọc Tường, v.. v..), đại đa số thanh thiếu
niên tại các
thành phố quyết tâm “chống Cộng” hơn nữa. Họ
hăng say tham
gia các phong trào cứu trợ nạn nhân chiến
tranh hay
nhân dân tự vệ. Nhưng rồi cũng chỉ tựa ngọn
lửa rơm.
Sự mau nguội lạnh này
phần vì
lãnh đạo yếu kém, chia rẽ, phần vì sự ghen tị,
âm mưu độc quyền “hoạt động”–và, dĩ nhiên độc
quyền
nhận tiền trợ cấp của Mỹ hay chính phủ–của các
lãnh tụ thanh niên Ki-tô. Tổng Giám Ðốc
Thanh Niên của chính phủ Nguyễn Văn Lộc phản
ảnh trung
thực ước muốn và chủ trương độc quyền cai thầu
chống Cộng
này qua lời tuyên bố giữa một buổi họp tham
mưu về kế
hoạch Tái thiết, dưới sự chủ tọa của Nguyễn
Văn Thiệu, rằng chỉ
có khối giáo dân Ki-tô mới cung cấp được
“những thành phần đáng tin cậy trong phong
trào
thanh niên.”( 48)
Trong khi đó, mọi nỗ
lực của Cảnh
Sát Ðặc Biệt chỉ nhắm vào việc triệt hạ Phật
Giáo và phe nhóm đối lập. Chẳng những khuếch
đại
sự hiềm khích và tranh chấp giữa hai phe Việt
Nam Quốc Tự
và Ấn Quang, chính phủ Trần Văn Hương–với sự
tiếp tay đắc
lực của cán bộ Cần Lao mới được hồi phục dưới
quyền Nguyễn
Mâu và sự chấp thuận của Bunker–tìm mọi cách
triệt hạ các lãnh tụ Phật Giáo.( 49)
Trong khi đó kế hoạch
bình định
nông thôn không bị bẻ gẫy như đối phương mong
muốn.
Vào cuối tháng 2/1968, chỉ còn 278 toán
XDNT hoạt động tại các xã ấp, và 245 toán
khác phải rút về lo việc an ninh các thị trấn
và thị xã. Số thiệt hại sơ khởi ghi nhận là 79
cán bộ bị tử thương, 111 bị thương, và 845
người mất
tích. Nhưng từ ngày 1/3, Tướng Nguyễn Văn
Là–mới
lên thay Nguyễn Ðức Thắng–cho lệnh các toán
XDNT phải trở lại các thôn xã trách nhiệm.(
50) Chỉ trong vòng một năm, những chiến sĩ “áo
đen Vũng
Tàu”–song song với các toán trong kế hoạch
Phượng
Hoàng (Phoenix) và hồi chính viên (PRU) dưới
sự điều động của William Colby và Robert
Komer–đã củng cố
được địa bàn hoạt động, mở rộng vùng kiểm
soát.
Mục tiêu “tồng khởi nghĩa” ở nông thôn của Lê
Duẩn không đạt được. Vào năm 1970, tình hình
nông thôn miền Nam cải thiện rõ ràng.
Chính Nguyễn Văn
Linh–người chịu
trách nhiệm chỉ huy cuộc tấn công Sài Gòn
năm 1968, và sau này trở thành Tổng Bí Thư
Ðảng LĐVN từ 1986 tới 1991–thú nhận rằng sau
năm 1968
là “những năm khó khăn” của Miền Bắc. Trong
nội
thành các cơ sở nằm vùng bị tiêu diệt hay
“vỡ nhiều mảng.” Cơ sở nông thôn ngoại thành
cũng bị
quét sạch vì kế hoạch “bình định cấp tốc.”
Riêng Bộ Chỉ huy Thành ủy phải lùi xa thành
phố, vừa di chuyển vừa trốn tránh mất “1 năm
28 ngày” mới
tới được căn cứ an toàn.( 51)
Trần
Văn Trà–người chỉ huy mặt trận phía
Bắc Sài Gòn–cũng có nhận xét tương tự. Theo
Trà, Bắc quân đã chịu “thiệt hại lớn lao về
sức
người, sức của, đặc biệt là cán bộ các cấp,”
làm cho tiềm lực suy yếu rõ rệt. Nhưng sau đó
chẳng những không giữ được những thành tựu mà
còn chịu muôn vàn khó khăn trong những năm
1969-1970.(52) Vào cuối năm 1968, theo Trà,
“B-2” (tức
Khu 2 của CS, bao gồm Nam Bộ và một phần Trung
Bộ) phải
phân tán mỏng Trung đoàn chủ lực 320 về vùng
lãnh thổ Long An để duy trì trục tiếp vận từ
Sài
Gòn tới Trung Ương Cục Miền Nam. Trong hai năm
1969-1970, từ cấp
Trung đoàn trưởng, Chính ủy, Trung đoàn phó
xuống Thủ trưởng các đơn vị đều lần lượt bị
thiệt mạng
(Trà 1987:64-68).
Vào giữa năm 1968, Hà
Nội phải
tăng cường cho quân khu Trị-Thiên ba cán bộ kỳ
cựu
là Hoàng Anh, Hoàng Sâm (1915-1968)
và Nguyễn Quyết (Nguyễn Tiến Văn, 1922-?),
nguyên
Chính ủy Ðại Ðoàn 305. Hoàng Anh thay Trần
Văn Quang làm Bí thư Quân Ủy. Hoàng
Sâm làm Tư lệnh và Nguyễn Quyết, Phó
Chính ủy Quân Khu Trị-Thiên, kiêm Chính
ủy Mặt Trận Trị-Thiên (B-8). Ít tháng sau,
Sâm tử trận.( 53)
Tại Huế, chỉ còn một
ít cơ sở
bí mật được gài vào số dân tản cư. (Huế
1988:71) Số người bị lộ phải đưa ra “khu,”
nhưng “lên rừng người
nào là đói ngay ngày đó.” Sau cuộc
“liên hoan mừng chiến thắng (ở Khe Trái) thì
cả
rừng ăn muối. Khó khăn ập tới sau khi rút ra
khỏi Huế
giống như tình hình hồi vỡ mặt trận (1947).” (Huế
1988:71)
Lê
Minh
thú
nhận:
Ở
đâu cũng
đòi gạo đòi muối; trong khi đó Hà Nội lại
cứ tiếp tục giao nhiệm vụ đánh Huế đợt 2.( 54)
Tại Cao Nguyên,
Thượng tướng Ðặng
Vũ Hiệp tiết lộ những năm 1969-1971 cực kỳ khó
khăn. Các
đường tiếp tế từ Bắc vào hay từ Miên qua đều
bị ngăn chặn,
khẩu phần gạo cắt giảm từ 500 grams gạo một
ngày xuống 250
grams, rồi 125 grams, dù từ tháng 5/1969 đã
phải
điều một sư đoàn và các đơn vị không
tác chiến khác “tập kết lần thứ hai” ra Bắc.
Một sư
đoàn vào Nam làm ăn, mỗi hạt gạo là một
giọt máu dưới những thảm bom B.52. Dân chúng
thì còn đói hơn quân. Bệnh binh đông
gấp bội thương binh. (Hiệp, 2002: 86-89,
122-123, 130-153, 159-160).
Long đong không kém
là
các tổ chức MTDTGPMN hay Liên Minh. Ngoại trừ
những người
được đưa ra trình diện trên sân khấu chính
trị thế giới Paris, các cấp lãnh đạo MTDTGPMN
trôi
giạt đó đây theo những đợt tảo thanh của liên
quân Việt-Mỹ. Phải tới năm 1972–sau khi quân
viễn chinh
Ðồng Minh đã triệt thoái gần hết, và Thiệu do
vô tình hay cố ý, mắc phải một lỗi lầm chiến
lược
to lớn là đưa quân qua Miên (1970) và Hạ
Lào (1971), khiến lực lượng Tổng Trừ Bị cùng
Thiết Kỵ, Bộ
Binh, Pháo Binh vùng I thiệt hại nặng nề–Văn
Tiến Dũng
mới đích thân mang đại quân vào xâm
lăng Quảng Trị, đồng thời mở mặt trận An Lộc.
Mùa
Xuân-Hè rực lửa này, cũng một năm tranh cử
Tổng
Thống khác của nước Mỹ, mới thực sự thay đổi
cán
cân quân sự ở miền Nam Việt Nam.( 55)
Cuộc Tổng Tấn Công
của Lê Duẩn,
tưởng cũng nên nhắc, tạo cơ hội cho chính phủ
Thiệu
đình chỉ lệnh giải ngũ các sĩ quan trừ bị, kêu
tái ngũ những cựu quân nhân (33 tuổi trở xuống
hay
dưới 5 năm quân vụ), và rồi tổng động viên–một
biện
pháp được dự trù từ năm 1967 để đáp ứng nhu
cầu
gia tăng nhân lực khoảng 100,000 người, một
trong những bước đầu
tiên chuẩn bị cho chiến lược Việt Nam hoá
chiến tranh.(
56) Các thanh niên trên 19 tuổi bị bắt buộc
trình diện từ ngày 1/3/1968, và hai tháng
sau, tới lượt những người 18 tuổi. Ðáng ghi
thêm
là chỉ có đám đông thấp cổ, bé họng
chịu ảnh hưởng của lệnh Tổng động viên này. Từ
năm 1964,
con cháu những ông bà lớn đều đã du học
ngoại quốc. Theo Trần Văn Ðôn “tâm sự” với
Lansdale,
chẳng hạn, Ðỗ Cao Trí gửi con học ở Nhật; Cao
Văn Viên
có con học ở Switzerland (Thụy Sĩ). Ðôn cũng
gửi con
học ở Thụy Sĩ.( 57) Sau này, chính Thiệu vào
năm
1969, còn cấm phổ biến tờ Newsweek tại miền
Nam vì tuần
báo trên loan tin vợ Thiệu mua nhà cửa để
cùng các con lập nghiệp ở hải ngoại.
Dĩ
nhiên chiến thắng quân sự của VNCH
và các binh sĩ Ðồng Minh có giới hạn của
nó. Tại nội địa Miền Nam, vết thương Mậu Thân
có
thể nói khó hàn gắn. Nhiều thành phố
và thị trấn bị phá hoại. 13 xưởng kỹ nghệ bị
đổ
nát, và 20 hãng xưởng khác bị thiệt hại
nhiều hay ít. Số tiền cần mua đồ trang bị và
sửa chữa
lên tới 25 triệu Mỹ Kim, và khoảng 10 triệu
đồng lương
nhân công.
Số người tị nạn chiến
tranh lên tới
821,000 người, tạo nên một gánh nặng cho ngân
quỹ,
ước lượng sơ khởi vào khoảng 100 tỉ đồng. Tại
Sài
Gòn, từ ngày 6/2, chính phủ phải thiết lập 117
trung tâm tạm cư, tiếp đón khoảng 200,000
người chạy loạn.
132,000 người trong số này không còn nhà cửa
để cư ngụ. Nhờ sự tăng cường 2,500 cán bộ XDNT
từ Trung
tâm Huấn luyện Vũng Tàu, việc phân phối 8,000
tấn
gạo, thực phẩm và nước uống phần nào cải
thiện. Một số
cửa hiệu tư nhân cũng lẻ tẻ hoạt động trở lại.
Cuộc tổng tấn công
Mậu Thân cũng
mở đầu một nấc thang lạm phát và mất giá mới
của
đồng bạc. Tất cả những mặt hàng hóa–từ đồ tiêu
dùng tới thực phẩm–đều lên giá đột ngột, gấp
đôi, gấp ba, và chẳng bao giờ lùi xuống.
Ngày 1/3, Thiệu công
bố kế hoạch
cải tổ quân sự và hành chính của
mình, với chiêu bài diệt trừ tham nhũng. Ðể ra
uy, ngày 11/3, Thiệu cách chức 8 tỉnh trưởng.
Ðồng
thời vận động loại bỏ chính phủ Nguyễn Văn Lộc
và
các chức Tổng Giám Ðốc Cảnh Sát Quốc Gia
cùng Tư lệnh Biệt Khu Thủ Ðô. Thực tế, mục
đích
chính của Thiệu chỉ nhằm củng cố uy quyền cá
nhân
và phe đảng. Nạn tham nhũng, mua quan bán tước
vẫn tiếp
tục lan tràn như dịch hạch. Theo một cựu cố
vấn Cảnh Sát
Mỹ, Thiệu và Trần Thiện Khiêm trở thành người
cầm
đầu hai trong ba đường dây buôn lậu ma túy và
phế vật chiến tranh lớn mạnh nhất.
Những
biện pháp mới về tài chánh,
kinh tế như thuế T.V.A của chính phủ Trần Văn
Hương thứ
hai–chính thức thay chính phủ Nguyễn Văn Lộc
từ
ngày 25/5/1968, và bàn giao chức vụ hai
ngày sau–khiến vật giá leo thang hàng tuần,
hàng tháng. Cơ khổ nhất vẫn là giới công
chức và quân nhân, những người có đồng lương
cố định.
Diễn biến tự nhiên là
người
có chức, có quyền thâm lạm của công,
buôn bán quân trang, quân dụng, bày vẽ
tục lệ lính kiểng, lính ma. Chưa đầy năm năm
sau
ngày lật đổ Ngô Ðình Diệm, người ta công
khai mua bán từ tấm giấy hoãn dịch tới các
chức vụ
Tỉnh trưởng, Quận trưởng, và đơn vị trưởng.(
58) Một sĩ quan cao
cấp đặc trách bình định, khi được Lansdale hỏi
có
bao nhiêu tỉnh trưởng trong sạch ở miền Nam,
thực thà
nói chỉ thấy có một người. Về các Tư lệnh
Quân đoàn, Sư đoàn lương thiện, không tham
nhũng, nhân chứng này cũng nói chỉ có một.(
59)
Những hậu quả giây
chuyền
này–đặc biệt là tâm trạng bất an, luôn
luôn chuẩn bị hành lý, tư trang bỏ chạy ra
ngoại
quốc vì viễn ảnh bị Mỹ bỏ rơi của thiểu số
được ủy thác
nắm quyền ở miền Nam–là một hậu quả cần được
nghiên cứu kỹ
càng hơn.
Chưa hết, cách nào
đó,
chiến thắng quân sự của VNCH hay các đơn vị
chiến đấu Mỹ ở
Việt Nam trở thành công dã tràng xe
cát. Số phận miền Nam không được định đoạt
bằng khả năng
tác chiến và mồ hôi, xương máu của họ. Tương
lai Việt Nam được quyết định ở Oát-shinh-tân,
Mat-scơ-va
và Bắc Kinh. Thêm vào đó có áp
lực của Liên Hiệp Quốc và Tây Âu, đặc biệt
là Pháp và Bri-tên. Giáo hội
Ki-tô Roma, dưới sự hướng dẫn của Paul VI,
cũng đóng
góp một vai trò quan trọng.( 60)
Những
ngày cuối tháng 2/1968, Tổng Tham Mưu
Trưởng Liên Quân Mỹ qua Việt Nam thị sát mặt
trận.
Ngay sau chuyến đi của Wheeler–và trong bối
cảnh sôi động
của cuộc vận động sơ tuyển danh vị ứng cử viên
Tổng Thống Mỹ của
hai chính đảng–giới báo chí tiết lộ tin
Westmoreland xin tăng viện 206,000 quân.( 61)
Ðồng thời,
vì một nguyên do nào đó, họ cũng khua
chiêng gõ trống cho một giải pháp chính trị.
Những cá nhân tham vọng như Eugene McCarthy,
Robert
Kennedy và Martin Luther King bắt đầu chỉ
trích
chính sách của Johnson.
Ngày 26/3/1968,
Johnson phải triệu tập
một phiên họp Hội Ðồng An Ninh Quốc Gia mở
rộng, với sự tham
dự của những khuôn mặt có uy tín nhất của Mỹ
để
thảo luận về tương lai Việt Nam.( 62)
Năm
ngày sau, Johnson tuyên bố không
ra tái tranh cử nhiệm kỳ 1969-1973, và sẽ tìm
mọi
cách giải quyết cuộc chiến. Ông cũng chính
thức
kêu gọi Mat-scơ-va, Bắc Kinh và Hà Nội hãy
đáp ứng.( 63)
Khúc quanh lịch sử
quan trọng của miền
Nam Việt Nam đã điểm: Thượng tuần tháng
5/1968, Mỹ
và phe Miền Bắc ngồi vào bàn hội nghị ở Paris.
Ðể chào mừng hội nghị, Bắc quân tung ra cuộc
tấn
công kỳ II vào Sài Gòn–theo tinh thần “vừa
đánh vừa đàm.”( 64) Tháng 6/1968, Westmoreland
rời
Việt Nam.( 65) Lansdale–người giúp Nguyễn Văn
Thiệu củng cố
quyền lực, và thiên về chính sách sử dụng
thiểu số Ki-tô để thống trị và độc quyền chống
Cộng ở miền
Nam–cũng lên đường về nước.( 66)
Giai đoạn chuẩn bị
cho kế hoạch Việt Nam
Hóa Chiến Tranh bắt đầu, báo hiệu cuộc giải
kết của nước
Mỹ.
Chính
Ðạo
Houston,
1997-2005
_____
Phụ chú:
1. Xem
Vũ Ngự Chiêu, “Social and Cultural Change in
Vietnam between 1940 and 1946;” Part III:
“Brutality of World
Politics;” Ph.D. Dissertation, 1984,
UW-Madison. Xem thêm Idem.,
“Hồ Chí Minh–Nhà Ngoại Giao, 1945-1946;” Hợp
Lưu
(Fountain Valley, CA), số 84, tháng 8-9/2005,
tr. 152-193.
Bài này cũng đã được phổ biến trên nguyệt
san Ði Tới (Québec, Canada, 2004), nhật báo
Người
Việt (Santa Ana, CA, 2004), cùng nhiều
websites như Chuyển
Luân, Diễn Ðàn Dân Chủ, v.. v... năm 2004.
2. Thí nghiệm Bảo Ðại
chính
thức khai sinh qua việc trao đổi văn thư giữa
Tổng thống Pháp
Vincent Auriol và Bảo Ðại ngày 8/3/1949,
thường được
biết như Hiệp ước Elysée. Tuy nhiên, từ năm
1948,
Pháp đã cho thành lập chính phủ lâm
thời Việt Nam, với Tướng Nguyễn Văn Xuân làm
Thủ tướng.
Xem các văn kiện liên hệ trong Chính Ðạo, Việt
Nam Niên Biểu, tập I-B: 1947-1954 (Houton: Văn
Hóa, 1997).
Phe chống Cộng thường tuyên truyền rằng Hiệp
ước Elysée
này cho Quốc Gia Việt Nam nhiều quyền hơn hai
Tạm ước 6/3/1946
và 14/9/1946 mà Hồ Chí Minh đã ký
kết với Pháp. Thực tế, Hiệp ước Elysée chỉ có
hình thức, thiếu thực chất. Nó cũng tiếp sức
đẩy Hồ
vào sâu hơn khối Cộng Sản.
3. Xem,
chẳng hạn, những công điện của Mao từ
Mat-scơ-va gửi về Bắc Kinh và báo cáo của
Molotov
trong hai tháng 12/1949 và tháng 1/1950. Xem
thêm Quiang Zhai, China and the Vietnam Wars,
1950-1975 (Chapel
Hill: The Univ. of North Carolina Press,
2000), ch. I.
4. Chính phủ Ngô Ðình
Diệm (1954-1963) đã từ chối hiệp thương và
tổng tuyển cử
với lý do “không ký Hiệp định,” và
“không có tự do bầu cử ở miền Bắc.” Ðúng
ra là phe Quốc Gia Việt Nam không được
quyền dự
những
buổi
mật
đàm
về
quân
sự cũng như chính trị.
Xem Chính Ðạo, Cuộc Thánh Chiến Chống Cộng
(Houston:
Văn Hoá, 2004). Xem thêm Bernard B. Fall, The
Two
Vietnams: A Political and Military Analysis
(New York: Praeger, 1964).
5. Xem
Philip Catton, Diem’s Final Failure (Lawrence,
Kansas: Univ. of Kansas Press, 2002). Dù trọng
tâm
sách là Ấp Chiến Lược, nhờ được tham khảo tư
liệu của rất
nhiều văn khố, kể cả văn khố VNCH, Catton đã
xuất sắc tiếp cận
vấn đề nông thôn của Việt Nam. Khuyết điểm duy
nhất
là tác giả không khai triển vấn đề tinh thần
“thánh chiến” của cả hai phe Cộng Sản và
Ki-tô.
Vài biên khảo khác của các tác giả
Việt, như Lâm Thanh Liêm, không sử dụng tài
liệu văn khố VNCH hay VNDCCH nên có nhiều sai
lầm.
6. Văn Kiện Ðảng
Toàn Tập
[VKÐTT], 29:1968, 2004:1-40. [Trong bài
nói
chuyện tại “Hội nghị Trung ương lần thứ 14”
vào tháng
1/1968, Lê Duẩn tuyên bố: Sau 1954, phòng thủ
chiến
lược ở miền Nam. Không tin có Tổng tuyển cử.[
3] giữ vững
được cách mạng là chính, có phản công
bằng chính trị: thế hợp pháp và bán hợp
pháp. Ở Huế, 10,000 đảng viên còn 100. Khu V,
20,000 còn không đầy 1,000. Nam Bộ còn hơn
10,000
đảng viên vì biết chuyển hướng phong
trào.
Theo Trần Văn Trà, trước khi ra Bắc vào cuối
năm 1956,
Lê Duẩn đã chấp thuận cho thành lập căn cứ
quân sự ở miền Ðông Nam Bộ, U Minh (Cà Mau)
và Ðồng Tháp Mười; Trần Văn Trà, Những
chặng đường lịch sử của B.2 thành đồng. Tập
I: Hòa
bình hay chiến tranh (Hà Nội: NXB QÐND,
1992),
I: 152-153. Ðầu năm 1958, Nguyễn Văn Linh cho
phép “trừ gian
một cách có chọn lọc [như chém Lâm Quang
Phòng nhân một buổi ăn giỗ].” (Ibid.,
1992:121)
7. Nhân Dân [ND]
(Hà
Nội),
14/5/1959;
Hội
nghị
này
họp
làm nhiều đợt; VKÐTT,
20:1959, 2002:57-92, 245-259, 511-517;
Trần Văn Trà. “Quân Giải Phóng Miền Nam Việt
Nam.” Chung Một Bóng Cờ (Hà-nội:
1993), tr.
274-275. [Sẽ dẫn Trà 1993b]
8. VKÐTT, 20:1959,
2002:511-517;
Trà, 1992:134.
9. Ngày 22/4/1962,
Nhân
Dân đăng bài “Lê-Nin Người Thày của
Cách Mạng Việt-Nam” của HCM. Nguyên bản bài
này đã đăng trên tờ Sự Thật tại Mat-scơ-va
nhân dịp ngày sinh thứ 92 của Lenin
(1870-1924): Theo Hồ,
Việt Nam có câu tục ngữ “Uống nước phải nhớ
đến nguồn”.
“Nhân dân Việt Nam và nhân dân lao động
khắp thế giới đời đời nhớ ơn Lê-Nin vĩ đại,
nhớ ơn Ðảng cộng
sản, Chính phủ và nhân dân Liên
Xô.” Ngày 27/12/1965, tại Hội nghị lần thứ 12
Ðảng
LÐVN, Lê Duẩn cũng thành khẩn tiết lộ “ngàn
đời
nhớ ơn Liên Xô, Trung Quốc” và “sẽ giáo dục
con em chúng ta điều này.” [VKÐTT, 26:1965,
2003:514-615] Lê
Duẩn cũng phân tích khá kỹ liên hệ quốc tế
với phe Cộng Sản. Theo Duẩn,“Phe ta không có
quyết
tâm đầy đủ để cùng chúng ta chiến thắng đế
quốc Mỹ
ở miền Nam”; nhưng Hà Nội vẫn làm ăn; vì độc
lập,
tự chủ (Bài này không đề cập đến HCM, nhưng
nhắc
đến những cuộc tranh cãi trong Bộ Chính Trị).
Tưởng cũng
nên thêm, từ tháng 3/1965, việc bố trí người
đi B được chuyển qua Ban Tổ chức TW của Lê Ðức
Thọ, và
có dấu hiệu cho thấy Trung tướng Nguyễn Văn
Vịnh bị thất sủng;
VKÐTT, 26:1965, 2003:564-621. Năm 1967, Nguyễn
Văn Vịnh cũng bị
cách chức. Nhiều cán bộ cao cấp, như Hoàng
Minh
Chính, Nguyễn Minh Cần, bị bắt giam hay trốn
qua Nga giữa cao
trào đánh “xét lại.”
10. Tư
lệnh Sư đoàn là Trung Tá Trần
Thanh Chiêu, bị cách chức, phạt 5 năm không
được
thăng chức. Thiếu tá Mân (?),Trung đoàn
trưởng, bị
truy tố ra Tòa, giáng xuống Ðại úy,
không được thăng thưởng trong vòng 5 năm; The
Pentagon
Papers (Gravel), I:338; Báo cáo của
Williams
ngày 20/3/1960; FRUS, 1958-1960, I:343-344.
Theo Trần Văn
Trà, chỉ huy trận này là Nguyễn Hữu Xuyến, chỉ
huy
mặt trận miền Ðông Nam Bộ; Trà, 1992:152-153,
215-221.
11.
Ðiện số 160
ngày 28/4/1960 của TWÐ gửi Nam Bộ và Khu V
nhấn mạnh
“Tình hình miền Nam đang ở thế giằng co,” CS
mạnh ở
chính trị, VNCH mạnh về quân sự, “đấu
tranh
chính trị là chủ yếu,” phối hợp với “vũ trang
tuyên
truyền” không phải “du kích cục bộ.” Ðề nghị
xây
dựng lực lượng vũ trang lên cấp D [tiểu đoàn]
của “R”
không bảo vệ được nhân dân, chưa có lợi;
Ðảng tuyệt đối bí mật, chỉ công khai tổ chức
quần
chúng; (VKÐTT, 21, 2002:288-305) Ðiện số 34
ngày
30/4/1960 của TWÐ gửi Nam Bộ và Khu V chỉ thị
“Phải tăng
cường lãnh đạo đô thị, nhất là sinh viên, học
sinh;” VKÐTT, 21, 2002:306-308. Ngày
18/7/1962, trong thư gửi TWCMN, Lê Duẩn vẫn
nhấn mạnh:
Dùng lực lượng chính trị và quân sự để cướp
lấy những vùng nông thôn rộng lớn nhưng vẫn
giữ thế
hợp pháp của quần chúng. Thế
hợp pháp
là “cái khiên” của quần chúng; VKDTT, 23,
2002:712.
12. Gồm có: Trần Văn
Văn, Phan Khắc
Sửu, Trần Văn Hương, Nguyễn Lưu Viên, Huỳnh
Kim Hữu, Phan Huy
Quát, Trần Văn Lý, Nguyễn Tiến Hỉ, Trần Văn
Ðỗ,
Lê Ngọc Chấn, Lê Quang Luật, Lương Trọng
Tường, Nguyễn Tăng
Nguyên, Phạm Hữu Chương, Trần Văn Tuyên, Tạ
Chương
Phùng, Trần Lê Chất, Hồ Văn Vui (Linh mục,
Chánh xứ
Tha La, Tây Ninh; The Pentagon Papers
(Gravel), I: 320-321; AMAE
(Paris), CLV, SV, 10:122ff. Theo Y sĩ Phan
Quang Ðán,
chính Ðán soạn thảo tuyên cáo
trên, nhưng không ký tên. Có tin Trần
Văn Văn là người soạn thảo. Bản thảo của tuyên
ngôn
đã được một mật báo viên trao cho Tùy
viên Quân sự Mỹ từ ngày 11/4/1960. Ba ngày
sau, mật báo viên trở lại Tòa Ðại sứ lấy lại
bản chính Việt ngữ và bản dịch Anh ngữ. Theo
tin
tình báo Mỹ, nhóm này lập thành
Ðảng Tự Do Tiến Bộ; FRUS, 1958-1960, I:438.
13. VKÐTT,
21:1960, 2002:905-912.
14.
Trong báo cáo chính trị (tại
Ðại hội II Ðảng Lao Ðộng Việt Nam, tháng
2/1951), Hồ
Chí Minh viết: “Mác-Ăng ghen-Lênin-Stalin là
thày dạy chung của cách mạng thế giới. Ðồng
chí Mao Trạch Ðông đã khôn khéo
“Trung quốc hóa” chủ nghĩa
Mác-Ăng-ghen-Lê-nin-Stalin, đã áp dụng một
cách đúng đắn chủ nghĩa ấy vào hoàn cảnh
Trung Quốc, đã đưa cách mạng Trung Quốc tới
chỗ
toàn thắng. Vì điều kiện địa lý, lịch sử, kinh
tế,
văn hóa, v.. v... mà cách mạng Trung Quốc ảnh
hưởng rất lớn đến cách mạng Việt Nam. Mà cách
mạng
Việt Nam phải học và đã học được nhiều kinh
nghiệm của
cách mạng Trung Quốc. Nhờ kinh nghiệm cách
mạng Trung
Quốc, nhờ tư tưởng Mao Trạch Ðông, mà chúng ta
hiểu thêm chủ nghĩa Mác-Ăng
ghen-Lê-nin-Stalin. Nhờ
đó chúng ta đã tranh được nhiều thắng lợi.
Ðó là những điều người cách mạng Việt Nam cần
phải ghi nhớ và biết ơn. (trang 352). Ta có
những người
anh, người bạn sáng suốt nhất, xứng đáng nhất
của
loài người–là đồng chí Sta-lin và Mao Trạch
Ðông. (trang 369) Ngày 28/9/1959, nhân dịp kỷ
niệm 10 năm chiến thắng của Mao Trạch Ðông,
HCM viết: “Việt
Nam và Trung Quốc là hai nước anh em, quan hệ
với nhau
như môi với răng, ... Cách mạng Trung Quốc
thắng lợi
và việc thành lập nước Cộng Hòa Nhân
Dân Trung Hoa là sự kiện vĩ đại nhất trong
lịch sử của
loài người tiếp theo cách mạng tháng Mười
Nga”;
dẫn trong Hoàng Văn Hoan, “Tuyển tập Hồ Chí
Minh với
tên phản bội Lê Duẩn;” Tin Việt Nam, số
21
(Tháng 11/1982), tr. 1-40. Xem thêm chỉ thị
của Ban
Bí thư về các lễ hội mừng kỷ niệm Tháng 10 Nga
hay
Quốc Khánh Trung Cộng, v.. v...
15. US-Vietnam
Relations, 1945-1967,
Bk 10, tr. 1311-6; FRUS, 1958-1960, I: 575-9.
Ngày 14/10/1960,
với sự chấp thuận của BNG Mỹ, Durbrow đọc rồi
trao cho Diệm một văn thư
bằng tiếng Pháp: Yêu cầu Diệm thi hành một
chính sách cởi mở hơn: nên bổ nhiệm một Bộ
trưởng
Quốc Phòng, để Diệm rảnh rang chú trọng những
kế hoạch
toàn diện. Bổ nhiệm một hay hai người chống
Cộng đối lập
vào chính phủ. Khuyến khích các Bộ trưởng
nhận trách nhiệm hơn đệ trình ngay cả những
việc
không quan trọng lên Phủ Tổng thống. Cải tổ
Ðảng Cần
Lao từ dạng bí mật hiện tại ra công khai, hoặc
giải
tán nó. Cho Quốc Hội quyền điều tra bất cứ bộ
hay nha sở
chính quyền nào, qua hình thức những buổi
tường
trình công cộng, v.. v... Tuyên bố những sửa
đổi
trên trong bài diễn văn ngày Quốc Khánh
26/10/1960 sắp tới; FRUS, 1958-1960, I:tài
liệu 203, 205.
Durbrow cũng đề nghị cho vợ chồng Nhu và Trần
Kim Tuyến nhận
nhiệm vụ ở ngoài nước. Diệm trả lời rằng những
tin đồn về Nhu
là do CS gây ra; FRUS, 1958-1960, I:595-596,
603-604.
Và, dĩ nhiên, không chịu cắt bỏ “bộ óc
chính trị của mình.”
16.
Ngày 11/11/1960, Bộ Chính Trị Ðảng
LÐVN điện cho Xứ Ủy miền Nam, cho lệnh lợi
dụng khai thác
ngay cuộc đảo chính của Nhảy Dù; có thể cho ra
công khai Phong trào MTGPMN (đã bí mật tổ
chức từ cuối năm 1959). Khẩu hiệu tranh đấu là
“Hòa
bình, trung lập.” VKÐTT, 21, 2002:1012-1016.
Hôm
sau, 12/11, BCT lại điện cho Xứ Ủy miền Nam,
đồng ý
cho ra công khai MTGPMN; Ibid.,
2002:1017-1022. Ngày
16/11, Ban Bí thư ban hành chỉ thị về cách đưa
MTGPMN ra công khai; Ibid., 2002:1023-1024.
Ngày 24/11,
BBT chuyển cho Xứ Ủy miền Nam bản Tuyên Ngôn
của MTDT/GPMN
đã được BCT phê chuẩn; Ibid., 2002:1029. Về
biến cố
11/11/1960, xem Chính Ðạo (ed), Nhìn Lại Biến
Cố
11/11/1960 (Houston: Văn Hóa, 1996); Nguyễn
Chánh Thi,
Một Trời Tâm Sự (Xuân Thu, 1987); Vương Văn
Ðông,
Binh biến 11/11/1960 (Văn Nghệ, 2000); Phạm
Văn Liễu, Trả Ta
Sông Núi, 3 tập (Houston: Văn Hóa,
2000-2004),
tập I.
17. Xem Douglas Pike,
Viet Cong: The
Organization and Techniques of the National
Liberation Front of South
Vietnam (Cambridge, MA: MIT Press,
1966, 1967); Chung một
bóng cờ, nhiều tác giả (Hà Nội: XNB
Chính trị Quốc Gia, 1993). Cần ghi nhận là mặc
dù
sử dụng một số tài liệu bắt được tại trận địa,
tác phẩm
của Pike khó tránh những sơ sót vì thủ
thuật chiến tranh chính trị của Hà Nội và
những
khoảng trống của tin tức tình báo Mỹ. Ngay
những tư liệu
hiện đã được giải mật của Việt Nam cũng cần sử
dụng một
cách thận trọng; và chỉ có giá trị tạm thời.
18. Ngày 29/11/1961,
khi viếng thăm
Sài Gòn, TNS Allen Ellender cho rằng tình
hình rối loạn ở Nam Việt Nam chẳng liên hệ gì
đến
Bắc Việt; FRUS, 1961-1963, I:698-699. Một số
tác giả
Pháp, kể cả Philippe Devillers, nghiêng về lập
luận
này; “The Struggle for the Unification of
Vietnam;” The
China Quarterly, No. 9 (Jan-March 1962),
p. 15; dẫn trong Pike,
1967:75-6n4.
19.
Ngày 3/2/1962, TT Diệm ký nghị định số
11-TTP, tuyên bố quốc sách ACL, và thành lập
Ủy Ban Liên Bộ đặc trách ACL. Ủy viên gồm Bộ
trưởng
các bộ Quốc Phòng, Nội Vụ, Giáo Dục, Công
Dân Vụ, Canh Nông, v.. v... Bùi Văn Lương, Bộ
trưởng
Nội Vụ, giữ chức Tổng Thư ký. Ngô Ðình Nhu
làm Chủ tịch. Ðặc ủy viên: Ðại tá Huỳnh
[Hoàng?] Văn Lạc; TTLTQG II (TP/HCM), PTT/1CH,
HS 7621; FRUS,
1961-1963, II:96; Catton, 2002:98. Mỗi Khu
Chiến thuật có một Ủy
Ban đặc trách ACL [HS 7622]. Ngày 19/3/1962,
chấp thuận
kế hoạch bình định vùng đồng bằng (ấp chiến
lược) của
Robert [“Bob”] J. K. Thompson. [HS 8038] Ðại
tá Hoàng
Văn Lạc được giao chỉ huy, dưới quyền điều
động trực tiếp của Nguyễn
Ðình Thuần. Xem thêm chi tiết trong TTLTQG II
(TP/HCM), PTT/D1CH, HS 7626; Catton, 2002:91
(ACL Gia Huỳnh (xã
Gia Lộc, quận Phú Ðức, Tây Ninh; ACL Ðịnh
Thanh
Quảng Ngãi); HS 7631; Catton, 2002:97 (chấp
thuận đề nghị của
Bùi Văn Lương đưa ACL lên hàng quốc sách);
HS 7629 (Những cuộc nói chuyện và chỉ thị của
Ngô
Ðình Nhu; [10/1961; Catton, 2002:120-121])
Ngày
23/3/1962, chính thức phát động chính sách
“Ấp chiến lược.” Thí điểm đầu tiên là khu vực
Bến
Cát (Bình Dương), tức chiến dịch Mặt trời mọc
(Sunrise).
Người phụ trách chương trình “Ấp Chiến Lược”
này
là Albert Phạm Ngọc Thảo. Chỉ huy tổng quát là
Tướng Văn Thành Cao; The Pentagon Papers
(Gravel), II:674.
Ngày 18/5/1962, mở đầu chiến dịch Hải Yến (Sea
Swallow,
Phú-Yên) Chiến dịch này cũng tương tự như
chiến
dịch Mặt Trời Mọc (Sunrise) tại Bình Dương.
600 nhân
viên công dân vụ, chia làm 70 toán,
tham dự chiến dịch này. Dự trù tăng thêm 11
toán vào cuối tháng 5/1962. Và, hoàn
thành 80 ấp chiến lược vào cuối năm 1962. Ngày
1/5/1963, Rufus Phillips, Phó Giám đốc USOM,
tường
trình về việc thiết lập Ấp Chiến Lược. Ðại
cương, mặc
dù trên lý thuyết Ấp Chiến Lược thật tuyệt
hảo,
nhưng việc thực thi gặp nhiều khó khăn lớn:
thiếu sự hiểu biết
về nguyên tắc Ấp Chiến Lược, và thiếu ý chí
thực hiện. Các viên chức mọi cấp khiến dân
chúng xa lánh hơn là ngả theo chính phủ;
FRUS, 1961-1963, III:256-257.
20. Xem Chính Ðạo, Tôn
Giáo
& Chính Trị: Phật Giáo, 1963-1967, in
lần
thứ
hai
(Houston:
Texas,
1997).
Tài
liệu văn khố của Phủ Thủ
tướng và Phủ Tổng thống VNCH tại Trung tâm Lưu
trữ Quốc
gia [TTLTQG] 2 (TP/HCM) về những cuộc xô xát
giữa Phật
Giáo, Ki-tô Giáo và chính quyền trong
5 năm 1963-1968 đã mở ra cho các nhà nghiên
cứu chuyên nghiệp. Tài liệu văn khố tại Thư
viện Tổng
thống Lyndon B. Johnson tại Austin, Texas,
cũng đã giải mật. So
sánh hai nguồn tài liệu này sẽ có một
hình ảnh khá trung thực.
21. Lê Duẩn cho rằng
chiến lược của
Ðảng LÐVN không lấy nông thôn bao vây
thành thị, mà đã được sáng tạo theo thực tế
Việt Nam. Tuy nhiên, những biến đổi trên chỉ
là chi
tiết; trên cơ bản vẫn là lấy nông thôn
làm căn cứ. Võ Nguyên Giáp và
các chiến lược gia CSVN cũng thường thích đề
cập đến
cái gọi là chiến tranh nhân dân. Thực ra,
là chiến tranh hoá nhân dân–bắt mọi giai tầng
quốc dân đều trở thành nạn nhân của chiến
tranh.
Ngày 2/9/1965–nhân dịp kỷ niệm 20 năm ngày
thành lập chế độ CSBV–Thống chế Lâm Bưu [Lin
Pao], Bộ
trưởng Quốc Phòng Trung Cộng, cũng đề cập đến
chiến lược ... chiến
tranh
nhân
dân này.
22. Các toán XDNT
vùng
Cao nguyên tăng từ 84 lên 120 toán. 54 tiểu
đoàn tác chiến được tăng cường cho các Toán
XDNT. Ngoài ra còn có 218 đại đội ÐPQ
và 738 trung đội Nghĩa quân. Robert Komer và
Nguyễn
Ðức Thắng đã tạo nên sự tiến bộ này; Douglas
Pike (Ed), Bunker Papers: Report to the
President from Vietnam,
1967-1973. 3
vols. (Berkeley, CA: Univ. of California
Press,
1990), I:291. [Sẽ dãn Bunker 1990]. Tuy
nhiên, các đơn vị trưởng Việt Nam không thích thú
gì lắm với nhiệm vụ bảo vệ lãnh thổ. Tại vùng
IV,
SÐ 21 và 9 quyết định luân chuyển các đơn vị
bình định mỗi ba tháng. SÐ 7 không áp
dụng sự luân chuyển này, nhưng các đơn vị
thường lo
an ninh của riêng đơn vị mình hơn là các
xã có nhiệm vụ bảo vệ. Tại Vùng III, nhiều đơn
vị–đặc biệt là SÐ 18 BB–mượn cớ bình định để
tránh hành quân. Tại Vùng II, có
trường hợp binh sĩ đánh cướp làng xóm và
các toán XDNT. Tại Vùng I, tương đối khả quan
hơn;
Clarke 1988:252-253. Về thuật ngữ “kế hoạch
hai gọng kìm,” xem
“Nghị quyết lần thứ năm Trung Ương Cục, tháng
5/1967;”
VKÐTT, 28:1967, 2003:486-488.
23. Kế
hoạch của Thanh–“Nghị quyết lần thứ năm Trung
Ương
Cục, tháng 5/1967;” VKÐTT, 28:1967, 2003:503
(tổng
công kích tổng khởi nghĩa ở các đô thị
và vùng nông thôn do địch kiểm soát),
505 (đánh địch ở ngay hậu phương của
chúng)–nhằm thực
hiện Nghị quyết Bộ Chính Trị tháng 10-11/1966.
Tuy
nhiên, Nghị quyết tháng 3/1967 của Thường vụ
Khu V chỉ
nhấn mạnh vào “đánh phá bình định,”
không đề cập gì đến “Tổng công kích-Tổng khởi
nghĩa;” Ibid., 2003:560-596. Thời gian này,
Bắc Kinh vẫn chủ
trương phải tiếp tục chiến đấu chống Mỹ. Ngày
10/4/1967, khi họp
với Giáp và Ðồng về những kế hoạch Mỹ có thể
thực hiện, Chu Ân Lai không nói gì đến vấn đề
thương thuyết; Zhai, 2000:171. Hôm sau, 11/4,
Chu Ân Lai
khuyến khích Hà Nội nên tiếp tục chiến tranh.
Ðả kích Liên Sô và lưu ý Hà
Nội về việc Mat-scơ-va không thực hiện lời hứa
giúp đỡ
Trung Cộng; Ibid. Theo một nguồn tin Nga, Giáp
và
Ðồng long trọng hứa sẽ tiếp tục cuộc chiến;
Zhai, 2000:172.
Có dư luận cho rằng Võ Nguyên Giáp
không tán thành, và bị nhóm Lê
Duẩn/Lê Ðức Thọ cho là “nhát.” Tuy nhiên,
việc đả kích Giáp có lẽ nằm trong một chiến
dịch
thanh trừng sâu rộng hàng ngũ CSBV, tức loại
bỏ hầu hết
tay chân thân tín của Hồ Chí Minh, để Duẩn
củng cố quyền lực. Ngay đến Phạm Ngọc Thạch, y
sĩ riêng của Hồ,
cũng bị đi B, chết trong năm 1968. Xem Nguyên
Vũ, Paris:
Xuân 1996 (Houston: Văn Hoá, 1997), tr.
25-26;
Chính Ðạo, Hồ Chí Minh: Con người &
huyền
thoại, tập III: 1945-1969 (đang in). Nên
lưu ý
thêm là trong thời gian này, một loạt những
cuộc
thanh trừng xảy ra ở miền Bắc (Nguyễn Văn
Vịnh, Nguyễn Minh Cần,
Hoàng Minh Chính, v.. v...)
24. Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 14
[tháng 1/1968] đề ra những mục tiêu sau: kéo
cho
được lực lượng cơ động của địch ra ngoài để
tiêu diệt;
hướng công kích chủ yếu là các thành
thị; khởi nghĩa tại các vùng nông thôn
và quận lỵ bị tạm chiếm; phải lập tức kết hợp
phát động
quần chúng khởi nghĩa; thành lập Mặt Trận thứ
hai
và tổ chức chính quyền mới; thành lập Chính
phủ trung ương và chính quyền địa phương;
VKÐTT,
29:1968, 2004:41-68. Ðã có nhiều biên khảo về
trận Ðiện Biên Phủ. Ðáng lưu ý nhất
là các hồi ký của Võ Nguyên
Giáp, Lê Trọng Tấn, Henri Navarre, v.. v...
Nhiều
tài liệu văn khố Pháp, Mỹ và Trung Cộng cũng
đã mở. Nhưng vì một lý do nào đó,
Quân ủy TW Ðảng CSVN vẫn chưa giải mật các
công
điện, báo cáo về chiến dịch này. Xem Chính
Ðạo, “Từ Ðiện Biên Phủ tới Geneva;” Cuộc
Thánh
Chiến Chống Cộng (2004). Lê Duẩn, thuở
sinh thời, cũng
có vẻ đánh giá thấp chiến công Ðiện
Biên Phủ (trận Ðiện Biên Phủ chỉ sử dụng
40,000 bộ đội;
trận Quảng Trị tới 70,000).
25. Theo hồi ký Tổng
thống Johnson, ấn
hành năm 1971, ông đã dự đoán được cuộc tấn
công kamikaze này từ cuối năm 1967, và tâm sự
với một số viên chức cao cấp Australia và ngay
cả Paul VI,
khi ghé Roma nhờ Paul VI móc nối với Hà Nội về
các vấn đề thương thuyết, tù binh và lính
Mỹ mất tích. Ðiều khiến Johnson ân hận là
đã không báo động cho dư luận Mỹ trong bài
diễn văn thường niên đọc trước Quốc Hội ngày
17/1/1968.
Xem Johnson, The Vantage Point: Perspectives
of the Presidency,
1963-1969 (New York: Holt, Rinehart and
Winston, 1971), tr. 379-380. Sẽ
dẫn: Johnson 1971. Thực ra các chuyên viên
tình báo và giới chức quân sự không
biết chắc thời điểm (trước hay sau Tết) và
biên độ
(trên 40 tỉnh lỵ, thị xã, thành phố) của cuộc
tổng
tấn công. Xem chương I và II, supra. Những tài
liệu
về trận Mậu Thân bằng Việt ngữ không nhiều. Về
phe VNCH,
có Phạm Văn Sơn và Lê Văn Dương. Cuộc Tổng
Công Kích-Tổng Khởi Nghĩa của Việt Cộng Mậu
Thân
1968 (Sài Gòn: 1968); Bùi Ðức Lạc, “Mậu
Thân ở Huế;” Lên Ðường (Houston), I: 3
(1/2/1989), tr. 105-119; Hoàng An, Thanh Liêm,
Thanh
Nhã, Tết Mậu Thân 1968: SàI Gòn
Máu Lửa (Sài Gòn: 1968). Phía CSBV
có Ban Nghiên Cứu Lịch Sử Ðảng, Thành Ủy Huế,
Huế,
Xuân
1968 (Huế: 1988); Ban Nghiên Cứu Lịch Sử
Ðảng,
Thành Ủy Thành Phố Hồ Chí Minh, Tổng Tấn
Công và Nổi Dậy Xuân Mậu Thân 1968 ở
Sài Gòn-Gia Ðịnh (Sài Gòn: 1988); Mậu
Thân
Sài
Gòn
(Sài Gòn: NXB
Trẻ/TPHCM, 1988). Xem thêm William C.
Westmoreland, Report on
Operations in South Vietnam, January
1964-June 1968 (Washington,
DC: GPO, 1968) và Vietnam, l’heure
décisive:
L’offensive du Têt, Frévrier 1968
(Paris. Edition
Laffont, 1968).
26. VKÐTT, 29, 2004:1-40.
Về
nghị quyết 12, tháng 12/1965, xem VKÐTT,
26:1965, 2003:622.
27.
Stanley Karnow, Vietnam: A
History (New
York: Penguin Books, 1984), tr. 523. Ðây
là một tác phẩm sử đại chúng hơn một nghiên
cứu nghiêm túc. Sẽ viết tắt: Karnow 1984. Về
lược sử Trần
Ðộ, xem Nguyên Vũ, “Chuyến tàu thống nhất;” Hợp
Lưu
(Fountain Valley, CA), số 85, tháng
10-11/2005, tr. 144-145.
28. Từ
ngày 21/1/1968, BCT đã mật lệnh cho
Phạm Hùng, Võ Chí Công và Trần Văn
Quang thành lập Liên Minh Dân tộc, Dân chủ
và hòa bình. Tổ chức này có cờ
hình chữ nhật, với hai giải đỏ kẹp vào giữa
một giải
màu xanh da trời (giống cờ MT/GPMN), với ngôi
sao
vàng. Sẽ thành lập cấp Ủy Ban ở các thành
phố lớn; cơ quan trung ương đặt tại Sài Gòn.
Chính
quyền cách mạng sau này sẽ là Chính phủ
Việt Nam Cộng Hòa; VKÐTT, 29:1968, 2004:165.
Ngày
8/4/1968, Nguyễn Duy Trinh gửi điện mật cho
TWC, yêu cầu cho ra
Mặt Trận II; Ibid., 2004:208-215. Ngày
8/5/1968, BCT gửi điện
cho Phạm Hùng: Chưa nên lập chính phủ liên
hiệp tại miền Nam ngay; Ibid., 2004:243-244.
Ngày 14/5/1968, BBT
gửi điện cho Khu ủy Trị-Thiên: Liên Minh của
Lê Văn
Hảo ở Huế nên bày tỏ thái độ với MTGPMN;
Ibid.,
2004:253-254. Xem thêm Ðiện mật số 44, ngày
8/2/1968,
BCT gửi Phạm Hùng và TWC. (Phê bình về bản
tuyên cáo khẩn cấp của Liên Minh các lực
lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình do
đài B phát đi ngày 7/2/1968. Tuyên
ngôn này có những điểm không có lợi.
Phải mềm dẻo để Mỹ có thể thương thuyết. Tuyên
ngôn
ở Huế tốt); Ibid., 2004:171-174.
29. Theo tài liệu Mỹ,
từ 1/1/1961 tới
31/1/1968, số CS chết ước lượng khoảng 259,447
người, và bị
thương 389,171; so với 54,137 VNCH chết,
117,528 bị thương, 27,448 bị
bắt hay mất tích. Mỹ chết 16,945 người, bị
thương 56,237, bị bắt
232, và mất tích 748; LBJL, NSF, Vietnam
Country File,
Box 104. Theo một nguồn tin khác, trong năm
1967 có 8,534
Cộng sản tử trận, và 27,178 người về hồi
chính. Trong số
này, 17,671 bộ đội. Hoàng Ngọc Lung, The
General
Offensives of 1968-1969 (Washington
D.C.: U.S. Army Center of
Military, 1978), tr. 10; sẽ viết tắt: Lung
1978. Thượng tướng CS
Ðặng Vũ Hiệp, trong tập hồi ký nặng tính chất
tuyên truyền kiểu Mao-ít, cũng ghi nhận những
khó
khăn muôn mặt của cán binh CSBV tại Mặt Trận
Tây
Nguyên (B-3) từ 1965 tới 1967; Idem., Ký
ức Tây
Nguyên (Hà Nội: NXB Quân đội Nhân
Dân, 2002). Hiện nay, nên ghi nhận,
còn
khoảng 300,000 quân nhân CSBV bị chết nhưng
không
tìm được xác. Mặc dù vấn đề công bố
xác chết Cộng sản của phe Ðồng Minh và VNCH
thường
không đúng sự thực, và phóng đại quá
đáng, câu chuyện khôi hài bên lề Quốc
Hội Mỹ về cái gọi là Body count (sau này được
giới
phản chiến Mỹ khai thác tối đa) chứng tỏ sự
thiếu hiểu biết về
quân sự của ông dân biểu đã nêu ra
câu hỏi: “Nếu Cộng sản tổn thất như thế, tại
sao phải xin
thêm viện quân?” Thực ra, việc thay thế quân
số tổn
thất là lẽ thường. Một nguồn tin khác nữa ghi
nhận
có khoảng 129,200 quân chính qui Cộng Sản ở
miền
Nam năm 1967; gồm 9 Sư đoàn, 45 Trung đoàn và
230
Tiểu đoàn. Năm sau, số Cộng quân tăng lên
147,200
người, gồm 10 Sư đoàn, 152 Trung đoàn, 274
Tiểu
đoàn. 75 phần trăm cán binh thuộc thành phần
“sinh
Bắc, tử Nam;” U.S. News & World Report,
12/8/1968.
30.
Theo tin quân sự Mỹ, Nguyễn Chí Thanh
chết vì bị thương trong một cuộc oanh tạc của
B.52 ở vùng
Mỏ Vẹt. Theo Cộng Sản, Thanh chết vì bệnh tim
ở Hà Nội.
Theo Hoàng Văn Hoan, Lê Duẩn hãm hại Thanh.
31. Năm 1973, khi
theo một đơn vị của Sư
đoàn 3 Bộ Binh VNCH tiến vào mật khu an toàn
của
Cộng Sản thuộc vùng Quảng Nam, người viết bắt
được giấy tờ
tùy thân và nhật ký của một cán bộ
Cộng sản tên Trần Văn Hãnh. Tập nhật ký nhỏ, ố
vàng mầu giấy này, phần nào nói lên
thảm trạng và tinh thần sa sút của các cán
binh Cộng Sản. Theo Hãnh, trong hai năm
1965-1966, cán
binh đã bẻ trộm ngô (bắp), sắn (mì) của dân
chúng, hay dùng lựu đạn và cốt mìn bắt
cá. Sức khỏe sa sút, vô vàn cực nhọc mới
mang nổi cấp số vũ khí và đạn dược cơ hữu
(khoảng 60
cân Tây). Lúc nào, nơi nào,
Hãnh cũng nhớ đến người vợ giáo viên tên Sơn,
và đứa con không biết mặt cha, ở Thanh Hóa.
Trong
một tập hồi ký về Tết Mậu Thân ở Huế, Lê
Minh–người
chỉ huy mặt trận, Phó Bí thư Trị-Thiên-Huế,
đặc
trách an ninh, kiêm Bí thư Thành ủy Huế–cũng
thú nhận nạn thiếu ăn, thiếu quân số, và sức
khỏe
suy sụp của Trung đoàn E-6: Cả Trung đoàn chỉ
có
1,800 quân, không Tiểu đoàn nào tới 350 tay
súng, mỗi tiểu đội chỉ chừng 7 người. Vì thiếu
ăn,
có Tiểu đoàn với 320 lính mà chỉ có
“70 người chiến đấu được, còn thì đau ốm;” Huế
1988:43.
32. Tại Huế, 60 phần
trăm tổng số hơn 5,000
quân CS tham chiến bị thương vong; Huế
1988:72. Xem thêm
những phụ bản về tổn thất trong Chính Ðạo, Mậu
Thân
68: Thắng Hay Bại?, tái bản lần thứ hai,
(Houston: Văn
Hóa, 1998).
33. FRUS,
1961-1963, II:544-545. Ung
Văn Khiêm (1908-), tốt nghiệp trường sĩ quan
Hoàng Phố năm
1929, gia nhập Ðảng Ðảng CSÐD từ năm 1930. Năm
1932, bị kết
án 20 năm khổ sai. Từ 1949 tới 1951, Ủy viên
Ủy Ban
Hành Chánh Kháng Chiến Nam Bộ, rồi Ủy viên
Trung ương cục miền Nam; 10H 3990, 3976,
3980). Tháng 2/1953,
là Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Ðảng Lao
Ðộng VN. Bộ trưởng Ngoại Giao từ ngày
23/1/1961; VKÐTT,
22:1961, 2002:115-117. Tháng 6/1961, cầm đầu
phái
đoàn VNDCCH tham dự Hội nghị QT (14 nước) về
Lào. Năm
1963, mất chức Ngoại trưởng. Về những cuộc
tiếp xúc bí
mật giữa Hà Nội và Oat-shinh-tân, xem Chính
Ðạo, Tôn Giáo & Chính Trị: Phật
Giáo, 1963-1967 (Houston: Văn Hóa,
1997).
34. Xem Chính Ðạo, 55
Ngày
& 55 Ðêm: Cuộc sụp đổ của VNCH, tái
bản
lần
thứ
năm
(Houston:
Văn
Hoá, 1999), phần I. Xem thêm
U.S. Department of Defense, United
States-Vietnam Relations,
1945-1967, 12 books (Washington, DC:
GPO, 1971). Tập nghiên
cứu được biết như “Tài liệu Ngũ Giác Ðài” [The
Pentagon Papers] này do McNamara cho lệnh biên
soạn năm
1967, và tiết lộ cho báo Washington Post và
New
York Times năm 1971. Chúng tôi sử dụng nguyên
bản
của Bộ Quôc Phòng; và, đôi chỗ, sử dụng ấn
bản của Thương Nghị sĩ Gravel năm 1971 (5 tập;
sẽ dẫn: [The Pentagon
Papers (Gravel)]). Bộ trưởng Quốc Phòng
Robert S. McNamara
là một trong những người chủ hòa đầu tiên. Xem
Idem., In Retrospect: The Tragedy and
Lessons of Vietnam. (New
York: Time Books, 1995), tr. 262.
35. Hiện nay, các tài
liệu CS
đều ghi Hội nghị thứ 14 diễn ra vào tháng
1/1968. Chỉ
riêng tập Việt Nam Những Sự Kiện,
1945-1986 của Viện Sử
Học Hà Nội (ấn bản 1990) ghi là Hội nghị 14
khóa
III họp vào tháng 6/1967. Chi tiết trên có
vẻ chính xác hơn, vì dịp này “Sáu
Vi” (Thanh) đang có mặt ở Hà Nội (hoặc mới từ
trần). Về
Ðề cương báo cáo của Văn Tiến Dũng ngày
23/1/1967, Nghị quyết của BCT ngày 27/1/1967
và Nghị
quyết Hội nghị thứ 13 ngày 27/1/1967; xem
VKÐTT, 28:1967,
2003:116-140, 141-170, 171-179.
36. Sách
Trắng; Sự thật về quan hệ Việt Nam-Trung
Quốc trong 30 năm qua (Hà
Nội: Sự Thật, 1979), tr. 45-46. Tham dự buổi
hội thảo này
có HCM, Lê Duẩn, Mười Cúc (Nguyễn Văn Linh),
Nguyễn
Chí Thanh, Kaysone Phomvihane (Làp) và D.N.
Aidit
(Ðảng CS Indonesia). Bắc Kinh đửa ra “ba
chống” [sam fan]: Chống đế
quốc [Anti-imperialism], chống phong kiến
[anti-feudalism] và
chống thư lại tư bản [anti-bureaucratic
capitalism]. Bốn phương
pháp để thực hiện các mục tiêu trên: vận động
quần chúng và mở rộng mặt trận thống nhất; đấu
tranh vũ
trang ở nông thôn và thành lập căn cứ; củng
cố lãnh đạo đảng trên mọi phương diện; và gia
tăng
liên hệ giữa các nước và trợ giúp lẫn nhau.
Chu Ân Lai hứa sẽ biến thành hậu phương của
các
phong trào cách mạng tại Ðông Nam Á. Chu
cũng đề nghị những biện pháp thực tiễn để tiếp
cận chiến tranh
chống phản loạn của Mỹ; Zhai, 2000:117-119.
Tài liệu Sách
Trắng năm 1979 của Hà Nội, và thanh minh của
Bắc Kinh
[xem chu 39] là những tài liệu đặc biệt phản
ánh
tình “môi hở răng lạnh” giữa hai nước anh em
thù
nghịch này từ 1950 tới 1977. Hoàng Văn Hoan,
qua hồi
ký Giọt nước trong biển cả (Bắc Kinh:
1986) và
báo tháng Tin Việt Nam (Bắc Kinh)
cũng cung cấp
một số chi tiết phản bác Lê Duẩn.
37.
Nguyên văn: “Don’t
worry
when
you
borrow
from China.
You can pay the Chinese debts
whenever you are ready and it is all right
even if you do not pay;” Zhai,
2000:124.
38. Mao gửi Hồ,
27/12/1963; Mao wengao,
10:465-66; dẫn trong Zhai, 2000:120.
39 “La vérité sur les
relations
sino-vietnamiennes;” La Chine et Le Monde
(Beijing: Beijing
information, Série “Relations extérieures,”
1982), pp.
110-111.
40. Ngày
Thứ Bảy,
15/4/1967, Mục sư Martin Luther King cầm đầu
200,000 người biểu
tình chống chiến tranh tại New York. Ngày
này,
50,000 người biểu tình chống chiến tranh ở
San Francisco. Năm
1978,
khi
tác
giả
tới
Ðại
học Wisconsin-Madison để bắt đầu
chương trình Tiến sĩ Sử học Ðông Nam Á,
còn nhiều khẩu hiệu như “Long Live Ho Chi
Minh” [Hồ Chí
Minh Muôn Năm] trên các vách tường ở khu
trung tâm thị xã (downtown), dấu tích của
phong
trào phản chiến trong thập niên 1970. Một cựu
Thiếu
tá Không quân Mỹ tâm sự rằng ngày mới
hồi hương, “bọn hippies gọi chúng tôi là lũ
sát nhân.” Tại Việt Nam, từ năm 1969-1970, đã
có tinh thần phản chiến ngay trong các giới
quân
viễn chinh Mỹ.
41.
Theo Colby, sau này Adams tỏ vẻ hối tiếc
đã công bố bức hình trên. Xem thêm nhận
xét về giới truyền thông của Tướng Lansdale,
thuộc Văn
Phòng Liên Lạc Ðặc Biệt (SLO), trong những báo
cáo mới giải mật năm 1996-1997; LBJL, NSF,
Vietnam Country File,
Boxes 104, 107.
42.
Thiệu biết rõ loại tin đồn này.
Có lần, khi được tin sắp có đảo chính, Thiệu
mời
Khang vào Dinh Ðộc Lập ăn tối, rồi cầm chân
Khang một
thời gian khá dài, trước khi cho về. Tháng
8/1968,
Thiệu cất chức Tư lệnh QÐ III của Khang (trên
danh nghĩa từ
chức vì để xảy ra vụ tai nạn “hỏa lực bạn” ở
Chợ Lớn. Theo
Bunker, mặc dù Kỳ đã phẫn chí rút về Nha
Trang, từ tháng 4 tới tháng 7/1968, Thiệu ba
lần
báo động có đảo chính; Báo cáo
ngày 11/7/1968, Bunker gửi Tổng thống; CÐ
39970, 10/10/1968,
Bunker gửi Ngoại Giao.
43. Trong một báo cáo
về Tướng
Loan vào tháng 9/1967, Lansdale ghi nhận một
chuyện vui
bên lề cuộc biểu tình của Phật giáo ngày
13/9/1967: Loan ngồi trên lề đường, một tay
choàng ngang
vai Ðại Ðức Hộ Giác, tay khác cầm chai bia
“33,”
chuyện trò rất thân mật. Lansdale ghi nhận:
Chẳng
có ký giả ngoại quốc nào muốn chụp hình
Loan và Hộ Giác thân mật ngồi bên nhau; chỉ
thấy họ chụp hình Tổng Giám Ðốc CSQG Việt Nam
Cộng
Hòa ngồi trên lề đường uống bia, một mình.
Nên ghi thêm là từ năm 1966, chính
sách Phật Giáo của Mỹ đã thay đổi hầu như 180
độ.
Một viên chức cao cấp Mỹ cho rằng Thượng tọa
Trí Quang,
nếu không phải là Cộng Sản, thì cũng đang thủ
diễn
vai trò một Keresnki [mở đường cho Cộng Sản
lên cầm quyền
ở Nga].
44. Về Trần Văn Ân,
xem Chính
Ðạo, Việt Nam Niên Biểu, tập III: Nhân Vật
Chí, tái bản có bổ sung (Houston: Văn
Hoá, 1997). Xem thêm những hoạt động và phê
bình của Thủ tướng Trần Văn Hữu về Ân trong
Chính
Ðạo, Việt Nam Niên Biểu, 1939-1975, tập
I-B: 1947-1954 (Houston:
Văn
Hoá,
1997).
Về
liên
hệ
giữa Ân với Lansdale, xem
LBJL, NSF, Vietnam Country File, Box 107.
45. Tại
hải ngoại, Tôn Thất Thiện tiếp tục
đánh bóng chế độ Ngô Ðình Diệm và
đả kích các Tướng làm đảo chính năm 1963.
Thiện hay viết báo, dạy cách viết “sử” hay phê
bình “sử” theo lối tuyên truyền nhồi sọ ngày
còn phụ trách Việt Tấn Xã (kiểu ba tập tài
liệu về cuộc tranh đấu của Phật Giáo đệ nạp
cho phái
đoàn điều tra Liên Hiệp Quốc)–dù chính Thiện
có rất ít kiến thức sử học. Ngoài ra, Thiện
còn bí mật vận động gửi tiền về “mua chuộc
người trong
nước.” Chính sách “hoà giải, hòa hợp”
này, thực ra, là con dao hai lưỡi. Mới đây,
nhóm Tôn Thất Thiện đã bị Nguyễn Hộ tố cáo
là mạo danh ông ta lập “mặt trận ma.”
46. Báo cáo ngày
20/3/1968, Bunker gửi Tổng thống; Bunker,
1990, II:388.
47. Bùi Thị Nga,
“Xuân Mậu
Thân 1968: Liên minh các lực lượng Dân tộc
Dân chủ và Hòa bình Việt Nam và
chính phủ Cách Mạng Lâm thời Cộng Hòa miền
Nam Việt Nam;” Làm đẹp cuộc đời (Hà
Nội: NXB
Chính trị Quốc Gia, 1995), tr. 318, 320. Tháng
10/1968,
hai ủy viên của Liên Minh là Trần Quang Long
và Trần Triệu Luật chết vì bom; Lê Hiếu Ðằng,
“Nhớ mãi tấm lòng và đức độ của người trí
thức ấy;” op. cit., tr. 324. Sau
1975, hầu hết những người
sống sót của Liên Minh đều sinh hoạt trong Mặt
Trận Tổ
Quốc.
48. Báo cáo ngày
9/4/1968, Lansdale gửi Bunker; LBJL, NSF,
Vietnam Country File, Box 107.
49. Thiếu tá Nguyễn
Mâu, một
hung thần của Phật Giáo tại Huế từ ngày 20/8
tới
1/11/1963, được khôi phục làm Phụ tá Chánh
sở Cảnh Sát Ðặc Biệt từ năm 1967-1968, đã tìm
mọi cách khích động Trần Văn Hương bài Phật
Giáo. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II (TP/HCM)
có
nhiều hồ sơ về hoạt động chống và vu cáo Phật
Giáo
của Mâu. Xem danh sách sơ lược các tài liệu
chúng tôi đã tham khảo trong Hợp Lưu
(Fountain Valley, CA), số 84, tháng 8-9/2005,
tr. 203-206.
50. Báo cáo ngày
29/2/1968, Bunker gửi Tổng thống; LBJL, NSF,
Vietnam Country File, Box
105.
51. Nguyễn Văn Linh,
Thành Phố Hồ
Chí Minh 10 Năm (Sài Gòn: 1985) tr. 51. Sẽ
viết
tắt: Linh 1985.
52. Trần Văn Trà, Kết
Thúc
Chiến Tranh 30 Năm, 2 tập (Houston: Văn Hóa,
1987) tập I:58. Sẽ
dẫn: Trà 1987.
53. Nghị quyết số
183/NQ/TW ngày
16/10/1968 [Lê Duẩn ký]; VKÐTT, 29:1968,
2004:478-481)
Lê Chưởng vẫn giữ chức Chính ủy kiêm Phó
Bí Thư. Trần Văn Quang (Trần Khắc Kính) chỉ
còn
chức Phó Bí thư Quân Khu; Huế 1988:83.
Năm
1974, Quang được điều ra Hà Nội, làm Phó Tổng
Tham
Mưu Trưởng. Quang, tưởng nên ghi nhận thêm,
từng là
tác giả một báo cáo về tình trạng tù
nhân và lính Mỹ mất tích, gây
sôi nổi dư luận Mỹ một thời vào đầu thập niên
1990.
54. Huế 1988:71.
Tại Sài
Gòn, Lansdale thúc dục các giới chức Việt phải
khai thác tối đa những cuộc thảm sát ở Huế. Nữ
văn sĩ
Nhã Ca sau này đoạt giải thưởng văn chương qua
tập Giải
Khăn Sô Cho Huế.
55. Xem United States
Senate, Committee on
Foreign Relations, Vietnam, May 1972. A
Staff Report (Washington:
GOP,
1972). Xem thêm Cao Văn Vien &
Dong Van Khuyen, Reflections
on
the
Vietnam
War (Washington D.C.: US Army Center of
Military
History, 1980), tr. 103-115; Ngô Quang Trưởng,
The Easter
Offensive, Indochina Monographs
(Washington, D.C.: US Army Center
of Military History, 1980).
56. Mãi tới năm 1969
thuật ngữ Việt
nam
hoá
[Vietnamization] mới thành hình,
dưới thời chính phủ Richard Nixon (1969-1974).
57. Ða số con cháu
Tướng,
Tá và các chính khách “du học” chưa
hẳn đã xuất sắc. Hoàng Ðức Nhã, chẳng hạn, “du
học” ở một trường nhỏ miền Ðông Texas, nhưng
về nước,
làm Bí thư cho Thiệu, lên tới chức Tổng trưởng
Dân Vận-Chiêu Hồi, và rất kiêu ngạo. Hội
Ái Hữu Các Cựu Sinh Viên Ðại Học Mỹ qui tụ hầu
hết những thành phần con ông, cháu cha này.
Trong hai năm 1967-1968, Chủ tịch Hội trên có
liên
hệ chặt chẽ với cơ quan CIA Mỹ.
58. Xem Nguyên Vũ, Xuân
Buồn
Thảm: Những Ngày Cuối Cùng của Nam Việt Nam,
tái
bản
(Houston:
Văn
Hoá,
1991),
chương
II. Theo Lansdale, trước
năm 1968, người có liên hệ vào việc mua bán
chức Tỉnh trưởng này là vợ Ðại tướng Cao Văn
Viên; LBJL, NSF, Vietnam Country File, Box
104; trích đăng
trong Nguyên Vũ, Paris: Xuân 1996, Phụ
bản 12, tr.
231.
59.
LBJL, NSF, Vietnam Country File, Box 104.
60. Nên
ghi nhận là thời gian này Bắc
Kinh vẫn còn muốn Hà Nội phải đốt cháy hết
Trường
Sơn. Ngày 13/4/1968, sau khi Hà Nội chấp thuận
thương
thuyết, Chu Ân Lai trách Phạm Văn Ðồng đã
nhân nhượng Mỹ hai điểm: Ðồng ý thương thuyết
khi Mỹ
mới chỉ tạm ngưng oanh tạc phía Bắc vĩ tuyến
20 (thay vì
ngưng oanh oanh tạc toàn miền Bắc; và chọn
Paris thay
vì Phnom Penh hay Warsaw. Ngày 7/5/1968, Chu
Ân Lai
trách Xuân Thủy, người phụ trách bang giao
quốc tế,
là Hà Nội đã quá vội vã khi nhận
thương thuyết. Mao Trạch Ðông đã nói với Phạm
Văn Ðồng là đồng ý thương thuyết, nhưng phải
thương
thuyết ở vị thế cao. Lai thì bảo Xuân Thủy là
Hà Nội đã khiến Mỹ thu được tại bàn hội nghị
những
gì không lấy được ở chiến trường. Từ tháng 5
tới
tháng10/1968, Bắc Kinh tiếp tục đả kích việc
thương
thuyết. Zhai, 2000:172-173. Xem thêm hồi ký
Mai Văn Bộ về
thái độ của Tòa Ðại sứ Trung Cộng ở Paris
trong thời
gian hòa đàm.
61. New York
Times, 10/3/1968. Theo
McNamara,
ngày
23/2/1968,
tức
bốn
ngày
trước khi rời Ngũ
Giác Ðài, ông ta bác bỏ đơn xin tăng
viện. Xem McNamara, In Retrospect,
1995:315.
62. Xem
Chính Ðạo, Mậu Thân 68,
1998:Phụ Bản III.
63.
Johnson đã có ý định không
ra tái tranh cử từ trước ngày bầu cử sơ khởi
của Ðảng
Dân Chủ tại New Hampshire; Johnson 1971:451.
Bắc Kinh, tưởng
nên ghi nhận, chưa muốn hòa đàm. Ngày
29/6/1968, Chu Ân Lai bảo Phạm Hùng rằng Hà
Nội rơi
vào bẫy của Mat-scơ-va và nhường thế tiên cơ
cho
chính phủ Johnson. Ngày 1/11/1968, sau khi
Johnson
tuyên bố ngưng oanh tạc miền Bắc, báo chí
Trung
Cộng mới đề cập đến vấn đề hòa đàm ở Paris.
Ngày
17/11/1968, Mao Trạch Ðông nói với Phạm Văn
Ðồng
rằng Mao đồng ý chiến lược “vừa đánh, vừa
đàm.”
Nhưng từ năm 1968, Bắc Kinh cũng bắt đầu đi
trực tiếp với MTGPMN,
và tổ chức các lực lượng Hoa kiều tại miền
Nam;
Sách Trắng, 1979:51-54; Zhai, 2000:173-175.
Năm 1979, Hà
Nội công khai tố cáo Bắc Kinh đã phản bội
nhân dân Việt Nam, “đàm phán với Mỹ
trên lưng nhân dân Việt Nam;” Sách Trắng,
1979:55-71.
64. Sau khi Johnson
tuyên bố
ngày 31/3/1968, Hà Nội “tiến công ngoại giao”
bằng
tuyên cáo ngày 3/4/1968, là sẵn sàng
gặp Mỹ. Ngày 3/5/1968, Hà Nội đề nghị họp tại
Paris.
Ngày 13/5/1968, Mỹ đồng ý. Xem Chính Ðạo, Mậu
Thân
68,
1998:Phụ Bản II. Xem thêm nghị quyết Hội
nghị
TW lần thứ 15 (29/8/1968); VKÐTT, 29:1968,
2004:359-392); Nguyễn
Thị Bình, et al. Mặt Trận Dân Tộc Giải
Phóng,
Chính phủ cách mạng lâm thời tại Hội nghị
Paris về
Việt Nam (Hà Nội: NXBCTQG, 2001).
65. Johnson đã quyết
định thay
Westmoreland bằng Tướng Creighton Abrams từ
tháng 3/1968.
66. Xem, chẳng hạn,
báo cáo
ngày 27/2/1968, Lansdale gửi Bunker; LBJL,
NSF, Vietnam Country
File, Box 107. Tưởng nên ghi thêm, trong một
dạ tiệc đưa
tiễn Lansdale, một nhóm thanh niên và sinh
viên Ki-tô từng cung cấp nhiều tin sai lạc về
các tổ
chức sinh viên không Ki-tô và thanh niên
Phật tử, tổ chức một buổi ca nhạc loại bỏ túi,
trong đó
có bài “ạTừ biệt Ed Lansdale.” Theo Ðỗ Ngọc
Yến,
bài này do sáng kiến của Yến; chỉ có điều
Yến không ngờ nó là bài hát để tiễn
biệt một phạm nhân Mỹ bị treo cổ; Phỏng vấn
điện thoại
ngày 9/11/1997.
PHỤ BẢN III
BUỔI THẢO LUẬN TẠI
BẠCH CUNG
NGÀY 26/3/1968
Ngày 26/3/1968, TT
Lyndon B. Johnson
triệu tập một buổi họp đặc biệt, gồm những
“nhà thông
thái” (wisemen), tại Bạch Cung để thảo luận về
tình
hình Việt Nam sau Tết Mậu Thân.
Tham dự buổi họp này
có những
nhân vật đáng kể sau:
- McGeorge Bundy, Cựu
Cố vấn An Ninh Quốc Gia
của các Tổng Thống John Kennedy và Johnson cho
tới năm
1966.
- Arthur Dean, một
nhà ngoại giao kinh
nhiệm, từng thương thuyết hiệp ước đình chiến
ở Ðại
Hàn năm 1953.
- Cyrus Vance, nguyên
Thứ trưởng Quốc
Phòng của chính phủ Johnson.
- Douglas Dillon, cựu
Bộ trưởng Ngân
Khố.
- Tướng Omar Bradley,
Tổng Tham Mưu Trưởng
thời TT Harry Truman.
- Tướng Maxwell
Taylor, cựu Ðại sứ ở Việt
Nam.
- Robert Murphy, một
nhà ngoại giao kỳ
cựu từ thập niên 1930.
- Tướng Matthew
Ridgway, cố vấn quân sự
của TT Dwight Eisenhower.
- Henry Cabot Lodge,
nguyên Ðại sứ
tại Liên Hiệp Quốc và Việt Nam.
- George Ball, cựu
Thứ trưởng Ngoại Giao dưới
thời TT Kennedy và Johnson.
- Dean Acheson, cựu
Ngoại trưởng thời TT
Truman, nổi danh là một “cold warrior” (chiến
binh chiến tranh
lạnh Mỹ-Nga).
Thái độ chống chiến
tranh Việt Nam của
Dean Acheson–người từng cổ võ việc ngăn chặn
luồng sóng
đỏ tràn ngập Ðông Dương 18 năm trước–có ảnh
hưởng lớn đến quyết định của TT Johnson.
Hai tài liệu dưới đây
trích ra từ hồ sơ “Meeting with Special
Advisory Group” (Họp với
Nhóm Cố Vấn Ðặc Biệt), ngày 26/3/1968, Hồ Sơ
Ghi
Chép các Buổi họp, Hộp 2, LBJL [Austin,
Texas]).
TÓM LƯỢC CÁC
GHI CHÚ
26/3/1968
McGeorge Bundy: Có một
sự thay đổi lớn
về vị thế của chúng ta. Buổi họp trước chúng ta
thấy
nhiều lý do để hy vọng.
Chúng ta đã hy vọng
rằng sẽ
có tiến triển đều đặn, dù chậm. Ðêm qua
và ngày hôm nay, sự việc không còn đầy
hy vọng như trước, đặc biệt là ở vùng nông
thôn.
Dean
Acheson: Tóm lược ý kiến của đại đa số
khi ông nói rằng với khoảng thời gian còn lại,
chúng ta không thể tiếp tục hoàn tất những
việc
chúng ta định làm, và chúng ta phải bắt đầu
việc giải kết.
Ý kiến này được những
người sau
đồng ý:
George
Ball
Arthur
Dean
Cyrus
Vance
Douglas
Dillon
và
chính
tôi (McGeorge Bundy)
Chúng tôi đều nghĩ
rằng
chúng ta (Mỹ) phải làm bất cứ điều gì để
giúp chính phủ Nam Việt Nam mạnh hơn một cách
thiết thực và rõ ràng.
Có 3 người trong
chúng
tôi có quan điểm khác:
-
Tướng Bradley
-
Tướng Taylor
-
Bob Murphy
Họ nghĩ rằng chúng ta
không
nên tự làm suy yếu vị thế của mình và cần
làm những gì mà các tướng lãnh
yêu cầu.
Tướng Ridgway có một
quan điểm
khác. Ông muốn giúp Quân lực Nam Việt Nam
hùng cường hơn để có thể hoàn thành nhiệm
vụ trong 2 năm.
Khi thảo luận, Ball,
Goldberg và Vance
đề nghị phải ngưng oanh tạc lúc này. Những
người
khác đồng ý ngưng oanh tạc, nhưng phải đợi cho
tình thế Vùng I/CT sáng sủa hơn.
Về việc gửi thêm quân
(qua VN),
cảm nghĩ chung là những người xin tăng viện
cần phải chứng tỏ
rõ ràng lý do xin tăng quân. Tất cả
chúng tôi nghĩ rằng cần có một cuộc leo thang
quan
trọng. Chúng tôi cũng đồng ý rằng không
nên mở rộng thêm chiến tranh. Ðiều này đi
ngược
lại quyền lợi quốc gia chúng ta.
Không thể nghĩ đến
việc xử dụng bom
nguyên tử.
TÓM LƯỢC
RIDGWAY: Tôi đồng ý
với bản
tóm lược của McGeorge Bundy.
Arthur DEAN: Tôi đồng
ý. Tất cả
chúng ta đều có cảm giác là không
nhìn thấy được một giải pháp quân sự nào.
Chúng ta cảm thấy không còn đủ thời gian nữa.
DEAN ACHESON: Ðồng ý
với sự
trình bày của Bundy. Nỗ lực của chính phủ Việt
Nam
hay Mỹ đều không thể thành công trong thời
gian
còn lại. Thời gian bị giới hạn bởi những phản
ứng trong nước
(Mỹ). Chúng ta không thể xây dựng một miền Nam
Việt
Nam độc lập. Bởi thế, ta phải làm một cái gì
đó chậm nhất là vào cuối Hạ (1968).
HENRY CABOT LODGE:
Chúng ta phải đổi
từ chiến lược “truy diệt” sang chiến thuật xử
dụng sức mạnh quân
sự (Mỹ) làm lá chắn cho phép xã hội miền
Nam phát triển tốt đẹp như xã hội miền Bắc có
đủ
khả năng thực hiện. Ta cần tổ chức miền Nam
theo căn bản
khu-phố-bên-những-khu-phố,
quận-bên-những-quận.
DOUGLAS DILLON: Ta
phải thay đổi trọng
tâm (chính sách). Tôi đồng ý với
Acheson. Buổi thuyết trình tối qua khiến tôi
đi đến kết
luận là ta không thể đạt chiến thắng quân sự.
Tôi đồng ý với Lodge rằng phải ngừng chiến
thuật truy
diệt, và chuyển sang giải kết. Tôi sẽ chỉ gửi
số
quân cần thiết sang (Việt Nam) để hổ trợ lực
lượng đã ở
đó.
GEORGE
BALL: Tôi cùng một quan điểm với
Acheson. Từ năm 1961, tôi đã nghĩ rằng ta
không thể
đạt được mong muốn ở đó. Tại Hoa Kỳ, dư luận
rất chia rẽ.
Trên thế giới, việc oanh tạc (Bắc Việt) khiến
chúng ta bị
mất uy tín. Ðó chính là điểm thất bại
trọng tâm của (chính sách) chúng ta. Oanh
tạc (Bắc Việt) có nhiều điểm bất lợi hơn hữu
ích. Ta cần
ngưng oanh tạc trong vòng 6 tuần lễ để trắc
nghiệm thiện
chí của Bắc Việt. Càng kéo dài thời gian
oanh tạc, càng khiến ta bị cô lập với thế giới
văn minh.
Tôi muốn Giáo Hoàng hay (Tổng Thư Ký
Liên Hiệp Quốc) U Thant đưa ra đề nghị ngưng
oanh tạc. Tổng Thống
(Johnson) không thể tự mình tuyên bố điều này.
Ngưng oanh tạc sẽ
khiến tình
hình trong nước lắng dịu xuống.
CY VANCE: McGeorge
Bundy nói lên
được quan điểm của tôi. Tôi đồng ý với George
Ball.
Trừ khi chúng ta phải
làm một
cái gì thật gấp, thái độ trong nước có thể
khiến chúng ta phải triệt thoái.
Về (tăng viện), ta
đừng nên gửi
quá 13,000 người ...
Tướng TAYLOR: Tôi rất
bất mãn.
Tôi có cái nhìn khác hơn quí
vị. Ta đừng nên hàng phục ở mặt trận trong
nước. Cần phải
có phản ứng.
[Thẩm
phán Tối cao Pháp viện] FORTAS: Hoa
Kỳ chưa hề có ý định đạt được thắng lợi quân
sự ở
đó; ta luôn luôn muốn đạt một sự thỏa thuận
hay duy
trì hiện trạng giữa hai miền Nam-Bắc. Tôi đồng
ý
với Tướng Taylor ... Ðây không phải lúc
phía ta thay đổi thái độ. Tôi không nghĩ rằng
ngưng oanh tạc sẽ đem lại điều gì tốt đẹp ở
thời điểm
này. Tôi không tin là nên thay thế một
thảm kịch bằng một thảm kịch khác.
ACHESON: Vấn đề không
giống như Fortas
nêu ra. Vấn đề là chúng ta có thể làm
được những gì chúng ta đang muốn làm ở Việt
Nam
chăng? Tôi nghĩ là không. Fortas nói
chúng ta không cố gắng đạt một chiến thắng
quân sự.
Vấn đề là liệu chúng ta có thể sử dụng quân
sự ngăn cản người Bắc (đừng xâm lấn) người
Nam? Tôi
không nghĩ vậy. Người Bắc có thể lươn lẹo, dồn
người Nam
vào đường cùng, và bẻ nát họ.
**********************
Xin
tìm đọc
thêm:
Mậu
Thân 68: Thắng hay Bại?
Chính Ðạo
Tái bản lần thứ
hai, có bổ sung, sử dụng tài liệu của
mọi phe tham chiến
kể cả những tài liệu văn khố Mỹ mới giải
mật trong hai năm
1996-1997 và tư liệu văn khố Việt Nam
Cộng Hòa.
Nhiều hình ảnh, bản đồ và tài liệu chưa
hề tiết
lộ. 400 trang, giá 18 MK. Liên lạc:
HOÀNG ÐỖ -
P.O. Box 720798, Houston, TX 77272.
Phone: (281) 498-1049.
E-mail:
vanhoaxbph@aol.com
Nguồn:
http://www.chuyenluan.net
|
Giới
Thiệu
Sử
Gia
Vũ
Ngự
Chiêu

Tiến Sĩ Vũ Ngự
Chiêu
(ảnh của PBase.com)
Chính
Đạo là
một
trong hai bút danh của Vũ Ngự Chiêu.
Bút danh kia là Nguyên
Vũ, rất nổi tiếng ở Miền Nam
trước năm 1975. Trước 1975, Vũ Ngự Chiêu
phục vụ trong binh
chủng Pháo Binh Dù, QLVNCH, và đã có
hơn 20 tác phẩm xuất bản. Sau khi ra hải
ngoại, ông vừa
tiếp tục cầm bút vừa đeo đuổi việc học. Tốt
nghiệp Tiến Sĩ Sử
tại Đại Học Wisconsin-Madison năm 1984, sau
khi cùng gia
đình di chuyển về Houston, ông là Giám Đốc
nhà xuất bản Văn Hóa và tốt nghiệp Tiến Sĩ
Luật
tại Đại Học Houston năm 1999.
Những
tác
phẩm
của
Vũ
Ngự
Chiêu
xuất hiện trước năm 1975
dưới bút danh Nguyên Vũ gồm có Đời
Pháo Thủ (bút ký), Những Cái Chết Vô
Danh (tập truyện), Trở Về Từ Cõi Chết
(truyện), Vòng Tay
Lửa (trường thiên), Thềm Địa Ngục (truyện),
Đêm Hưu Chiến
(truyện), Sau Bảy Năm Ở Lính (bút ký), Đêm
Da Vàng (trường thiên), v.v. Tại hải
ngoại, Vũ Ngự
Chiêu đã in thêm các tập Xuân buồn
thảm: Cuộc Sụp Đổ của Nam Việt Nam (bút ký),
Trận Chiến
Chưa Tàn (truyện), Giặc Cờ Đỏ (trường thiên),
cùng
hai tâm bút Paris: Xuân 1996, và Ngàn
Năm Soi Mặt.
Về
nghiên
cứu
sử
học,
ông
đã
in ba tác phẩm
bằng tiếng Anh dưới tên thực, và 10 biên khảo
bằng
Việt ngữ với bút danh Chính Đạo. Biên khảo duy
nhất
bằng Việt ngữ ký tên thực của ông là bộ
Các Vua Cuối Nhà Nguyễn, 1883-1945, gồm ba
tập. Những
tác phẩm ký tên Chính Đạo thường được viết
cho độc giả không chuyên môn, dễ đọc hơn,
không
quá khô khan như các biên khảo đúng
yêu sách bác học.
Ông
vừa
xuất
bản
tác
phẩm
mới
nhất với tựa đề Cuộc
Thánh Chiến Chống Cộng, 1945-1975, tập I, gồm
5 phần: Sơ lược
tiểu sử Tổng thống Jean Baptiste Ngô Đình Diệm
(1897-1963); Từ Điện Biên Phủ tới Geneva; Cuộc
truất phế Bảo Đại;
Mùa Phật Đản đẫm máu (1963); và “Phiến Cộng”
trong
Dinh Gia Long.
Sau
năm
1975
ở
hải
ngoại,
có
những dòng thác ngụy
tạo ngụy biện nhằm vặn méo sử kiện để chạy tội
và biện
minh cho sự vô minh của mình, Vũ Ngự Chiêu đã
dần dần xuất hiện như một nhà sử học
khai sáng
và can trường. Giá trị tinh thần của người trí
thức không chỉ là tôn trọng sự thật mà
còn nói lên sự thật và chấp nhận hậu quả của
quyết định can trường đó. Đó là một sự đổi đời
tâm linh có ý nghĩa đã hình
thành nơi Vũ Ngự Chiêu. Huyền thoại và huyễn
mị
lịch sử đã làm cho người Việt xa nhau, chỉ có
sự
thật mới làm cho người Việt gần lại với nhau,
trong tình
dân tộc, nghĩa đồng bào. Những tác phẩm mới
của Vũ
Ngự Chiêu là một đóng góp sáng
giá và có ý nghĩa trong chiều hướng
đó.
Trích Từ :
http://www.chuyenluan.net
|

Trang mạng Việt Nam Văn
Hiến
Trang Bài Học Mậu Thân
1968
www.vietnamvanhien.net
Email: thuky@vietnamvanhien.net
Trang
mạng Việt Nam Văn Hiến là nơi lưu trữ và phổ biến
những biên khảo, sáng tác và ý kiến
của quý vị và các bạn nhằm mục
đích
bảo tồn di sản văn hóa và phục hồi nền an lạc
& tự chủ của Việt tộc.
Trở
lên đầu trang
|