www.vietnamvanhien.org www.vietnamvanhien.net www.vietnamvanhien.info www.vietnamvanhien.com Truyện Ngắn BÊN
CẦU XÓM-BÓNG* Để
biết ơn Người Lính VNCH ĐIỆP-MỸ-LINH Đập mạnh tay
vào thành xe để tạo tiếng động lớn, Huân vừa
reo vui
vừa vẫy tay về phía người bán
hàng bên cầu Xóm-Bóng,
cạnh bậc cấp dưới chân
Tháp Bà và reo lên: - Má! Má
ơi, Má! Con nè, Má! Mỗi lần nghe tiếng đứa
con thân yêu, Hạnh lính
quýnh,
bỏ quày hàng và bỏ cả
khách hàng, chạy ra sát lề
đường, vừa che mắt vừa nhìn
theo chiếc xe đò để thấy anh chàng
“lơ” xe vừa vẫy tay về phía Hạnh vừa cười. Chiếc xe đò lẫn
khuất trong dòng xe cộ ngược xuôi
trên
cầu Xóm-Bóng, nhưng Hạnh vẫn tần
ngần nhìn theo. Ôi, chiếc cầu nối hai
miền
thân yêu của quê Nội hiền
hòa mà sao chiếc cầu lại chia
cách Hạnh với Phong –
kể từ ngày Hạnh tiễn Phong trở lại đơn vị
lần sau cùng! Chỉ vài năm sau, trong
khi Phong biền biệt nơi nào gia đình
không nhận được tin, chiếc cầu lại chia
cách Hạnh và Huân để
Huân theo những chuyến xe đò
xuyên Việt, kiếm tiền nuôi
thân và cũng giúp Mẹ
nuôi em. Khi nào nhớ đến
Phong và Huân, Hạnh cũng mủi
lòng, đưa
tay quẹt nước mắt. Vừa khi đó, Hạnh bị
níu tay và giọng ái ngại của
Thủy vang
lên nho nhỏ: - Má! Đừng
khóc, Má. Hạnh quay lại và
nhận ra cặp mắt của Thủy cũng ửng đỏ.
Thủy nén tiếng nấc, tiếp: - Má đã hứa
với con là Má không
khóc nữa mà! Nếu Má cứ
khóc mỗi khi thấy anh Huân thì
con sẽ dặn anh ấy, khi nào xe chạy ngang
đây,
anh ấy sẽ không gọi má nữa . Giọng Hạnh có vẻ
hoảng hốt: - Đừng! Đừng, con.
Lâu lâu Má mới thấy anh
Huân một
lần mà, con. Thủy ân cần
kéo tay Hạnh: - Đi, Má.
Má trở lại thối tiền cho người ta. Như hiểu phần nào
thảm cảnh của Mẹ con nàng, người
khách khoát tay. Thôi, chị giữ
để mua quà cho cháu. Rồi người ấy lẫn vào với
nhóm du khách vừa từ Tháp
Bà xuống. Thấy
khách thưa dần, Thủy đề nghị: - Chiều rồi, con về nấu
cơm rồi con sửa sọan đi học
nhen, Má. A, mà Má về
thì Má ăn trước đi, đừng chờ con. Trước khi lên xe
đạp, Thủy quay lại, dặn dò: - Má không
muốn nghe tiếng hát của ông
công an “dê” Má
thì Má đóng cửa lại, nhen,
Má. Quanh xóm ai cũng
biết chàng thiếu tá công an si
tình
Hạnh. Nhiều người khuyên Hạnh nên
“chấp nối” để các con đỡ khổ và cũng
để cho
Hạnh bớt nhọc nhằn. Hạnh chỉ yên lặng, cười.
Bây giờ nghe Thủy nhắc đến anh
công an, Hạnh cũng chỉ cười, khoát
tay cho Thủy đi. Nhìn dáng
Thủy gầy guộc băng ngang con đường nhựa,
Hạnh tưởng như Hạnh có thể thấy được
hình ảnh của chính nàng
cách nay rất lâu;
có khác chăng, Thủy, vì
đói khổ và bị đời “nhào nặn”
cho nên Thủy gầy gò, sành
sỏi, và lanh lẹ. Và Hạnh,
ngày xưa, lại tươi thắm, dịu dàng,
xinh đẹp và còn có
tý tài mọn. Chính tý
tài mọn và nét dịu
dàng, quý phái của Hạnh
đã
làm nhiều thanh niên trí thức
của Nhatrang say mê. Khi giáp mặt với
những nhân
vật theo đuổi Hạnh, tại nhà của Hạnh, Phong
cứ nghĩ rằng sẽ không bao giờ Phong
có thể “chiến thắng” được – dù Phong
là một sĩ quan Lôi-Hổ! Khi nhận biết Hạnh
có cảm tình đặc biệt với Phong,
Phong vừa vui thích, vừa hãnh diện,
vừa nghi ngờ, không hiểu Hạnh yêu
chàng hay
là Hạnh – vì sự ngây thơ, dại
khờ và tâm hồn lãng mạn của
một nghệ-sĩ tài-tử –
bị lời ca của bản Chiến Sĩ của Lòng Em
khích động! Lý do Phong nghĩ như vậy
là vì,
một lần về phép, Phong được mấy cô
cậu em rủ đi xem văn nghệ do học sinh trường
Võ-Tánh trình diễn tại rạp
Minh-Châu. Suốt buổi trình
diễn, mục nào Phong cũng tán thưởng
nồng nhiệt để cổ võ tinh thần các em
hoc sinh của ngôi trường thân
yêu mà Phong
đã lìa xa sau khi chàng đỗ
Tú Tài Toàn, ban Toán.
Nhưng đến mục đơn ca do cô bé
tóc kẹp, hơi gầy, tên Hạnh,
trình bày thì Phong lại ngồi
yên, lòng cảm thấy rộn
ràng, phơi phới, lâng lâng theo
điệu swing.
Khi Hạnh hát đến câu: “…Khi nước
nhà phút
ngã nghiêng, em mơ người trai anh
dũng, mang thanh thế hiến giang sang, chí
quật cường hiên ngang. Chiến sĩ của
lòng em đắm đuối ước mơ, ở chiến trường
xa
giải nắng, dầm mưa…” (1) thì
Phong tưởng như quanh chàng không
còn ai và Hạnh hát bài
này cho chàng và chỉ cho một
mình chàng thôi. Phong chợt
mỉm cười. Mấy người em của Phong không bỏ
sót một cử động nào của Phong cả.
Khi
thấy Phong cứ tủm tỉm cười một mình
và đôi vai nhun nhún, đầu gật
gật nhè nhẹ,
mấy người em bấm nhau, cười. Cô em liếng
nhất nhà nghiêng sang Phong,
nói vừa
đủ cho Phong nghe: “Bắt được anh
Phong
rồi đó nghe. Nhỏ Hạnh học lớp em
đó, anh bao tụi em đu đủ bò
khô, em giới thiệu
cho.” Phong vờ “ký” lên đầu
cô em. Cô em cười, né sang một
bên. Khi buổi trình
diễn chấm dứt, với nước da sạm nắng và
nhân dáng cao lớn, đượm chút
phong trần của Phong – trong bộ quân phục
bốn túi,
màu hoa rừng và chiếc
‘bê-rê’ màu nâu đội hơi
nghiêng –
nổi hẳn lên giữa những khuôn
mặt trẻ thơ và
những bộ đồ dân sự. Nhiều nam sinh len
lén nhìn Phong với ánh mắt
đầy thiện cảm
và ngưỡng phục. Riêng Hạnh, khi
được cô em của Phong giới thiệu, Hạnh
chỉ lễ phép cúi đầu chào chứ
không biết gì để nói. Sau
đó, mỗi khi được về
phép, Phong thường đến nhà thăm Hạnh
và xin phép ông bà Hiển
– Ba Má của Hạnh –
để Hạnh đàn cho chàng nghe. Hạnh vui
vẻ đàn chứ Hạnh cũng chẳng nghĩ gì.
Rồi một hôm, Hạnh
được một người bà con cho tháp
tùng
nhóm học sinh ủy lạo binh sĩ tiền đồn, gần
biên giới Lào-Việt. Toàn
nhóm được
di chuyển bằng trực thăng, sáng sớm khởi
hành, chiều trở về. Chiều, trong khi đi bộ
dọc theo con đường mòn quanh co
từ ngọn đồi xuống chân đồi để đến bãi
đáp trực thăng, Hạnh bỗng nghe tiếng
hát
và tiếng đệm Guitar,
trong điệu Rhumba
Melody, văng vẳng trong gian im
vắng của núi rừng. Nhờ trình độ thẩm
âm cao, Hạnh nhận ra tiếng hát
và tiếng
đàn không phải từ radio.
Tuy nhiên,
tiếng hát và lời ca của bản nhạc
trong khung cảnh này tác động mạnh
vào tâm hồn
rất nhạy cảm của Hạnh. Hạnh bước chậm lại, lắng
nghe, câu được câu mất: “…Chiều nao,
anh đứng gác ngoài biên khu.
Gió xa về dâng sương khói
mịt mù. Đàn chim tung cánh
bay về tổ ấm. Đêm xuống
phai nhòa quê hương yêu dấu…
Biệt ly qua bao tháng ngày anh đi.
Lắng nghe thời
gian giây phút hẹn về…Đây,
núi rừng âm u, suối rừng vi vu,
khói lam u huyền
lững lờ buôn trên xóm vắng.
Đây, những chiều hành quân,
xóm nghèo dừng chân,
nhớ thương Mẹ già nơi quê
nhà xa xôi lắm…” Nhìn
quanh, Hạnh chợt thấy một
người mặc quân phục hoa rừng, mang
giày trận, đội nón sắt, đang ngồi
trên
“lô-cốt”, vừa đàn vừa hát một
mình. Trong những tia nắng cuối
ngày, hình ảnh của
người-lính-nghệ-sĩ trông vừa rực rỡ,
vừa hào hùng, vừa lãng mạn...
Hạnh bàng
hòang dừng lại, nhìn sững và
nghĩ, hình tượng đẹp quá!
Hình tượng đáng yêu
quá!
Việt-Cộng – dù là những người
vô tri – có lẽ cũng không nỡ
“bắn sẽ” khi nghe
người-lính-nghệ-sĩ ca lên nỗi niềm
của mình đối với quê hương, đối với
gia đình
và đối với thân phận của chính
mình. Một vị sĩ quan của đơn vị
trú đóng quay lại thúc Hạnh
đi nhanh, vì ngại trời tối sẽ nguy hiểm.
Hạnh chỉ người-lính-nghệ-sĩ và hỏi
tên. Vị sĩ quan đáp: “Thưa
cô, đó là
thiếu úy Phong, thuộc đơn vị bạn, đến
tăng cường cho đơn vị của chúng
tôi.” Hạnh
ngạc nhiên: “Sao
lúc trưa các anh không
mời anh ấy hát?” Vị sĩ quan cười: “Dạ,
đơn vị của anh ấy đi hành quân mới
vừa về thôi. Chiều nào cũng vậy,
sau khi
hành quân trở về, Phong cũng ngồi
chỗ đó, đàn và hát
một mình.” Hạnh ngập
ngừng: “Dạ,
anh biết anh Phong họ gì
không, thưa anh?” Vị sĩ quan
lại
cười và đưa tay có ý
giúp Hạnh bước lên trực thăng: “Thưa cô, xin lỗi, tôi
không để ý. Nhưng tôi nghe ai
cũng gọi anh ấy là
Phong Lôi-Hổ.” Thốt nhiên tim
của Hạnh lỗi một nhịp. Từ trực thăng,
nhìn những dòng sông uốn
khúc, những
ruộng lúa xanh rì, và đồi
núi chập chùng tiếp nối nhau, Hạnh
nhận ra vẻ đẹp
hùng vĩ của quê hương. Nhưng
hình ảnh khắc ghi vào tâm khảm
của Hạnh lại là một
Phong Lôi-Hổ ôm Guitar
ngồi trên
“lô-cốt” hát bản Chiều Biên
Khu… Đang chìm đắm
trong dòng hồi tưởng, Hạnh chợt nghe
tiếng: - Chị ơi, chị! Cặp ngựa
bằng đá này giá bao
nhiêu? Hạnh hơi lúng
túng. Chỉ một thóang thôi,
Hạnh bình
tĩnh trở lại, mỉm cười, nhìn người
khách và cho giá món
hàng. Người khách rất
dễ giãi, không trả giá,
yêu cầu Hạnh gói cặp ngựa màu
xam xám. Trong khi gói
hàng, Hạnh cảm biết người khách đang
nhìn nàng chăm chăm. Khi trao
hàng cho
người khách, Hạnh nhìn ông ấy.
Ông ấy, một tay đưa tiền, một tay nhận
gói hàng
nhưng ánh mắt vẫn không rời Hạnh. Bất
ngờ ông khách hỏi: - Hạnh! Có phải
chị là Hạnh, con ông bà Hiển
không? Hạnh vô cùng
ngạc nhiên - Tại sao ông biết
Ba Má tôi? Ông khách
nhìn quanh, không thấy ai lạ,
ngoài người
con trai của ông đang ngồi trên
yên xe đạp, chờ ông, ông đổi
cách xưng hô: - Hạnh! Em không
nhận ra anh cũng phải. Bao nhiêu năm
gian khổ trong rừng sâu và gần hai
mươi năm tù khổ sai thì làm
thế nào em nhận
ra anh được! Hồi trước anh chơi Hạ-Uy-Cầm ... Duy chưa dứt câu,
Hạnh đã vui mừng reo lên nho nhỏ: - Anh Duy, phải
không? - Ừ, anh đây. - Ba Má em
và mấy cô chú hồi trước trong
ban Bình-Minh
đều nghe nhiều người bảo là anh theo
Kháng Chiến và sau đó bị bắt,
bị tù đày. Duy cười: - Ừ. Còn Phong
thì sao? - Dạ… Hạnh chỉ thốt lên
được một tiếng rồi nghẹn ngào. Duy
nắm tay Hạnh, nhìn vào mắt
nàng: - Hạnh! Em đừng
nói với anh là Phong đã chết,
nghe
chưa? Anh mà còn sống thì
không thể nào Phong chết được. - Anh gặp anh Phong ở
đâu, anh Duy? - Anh và Phong gia
nhập một tổ chức Phục-Quốc. Hạnh khóc
òa: - Ôi, Trời ơi! - Hạnh! Một người như
Phong không bao giờ để Việt-Cộng
cầm tù một cách êm thắm
đâu. Em nên nhớ và nên
hãnh diện về chồng của em. Hạnh im lặng. Nàng
không lạ gì bản tính liều
lĩnh, can
cường và bất khuất của Phong. Nhưng Duy đưa
tin đột ngột quá khiến Hạnh bàng
hoàng. Duy tiếp: - Anh trở lại nhà
của Ba Má em nhưng không ai biết Ba
Má em đi đâu cả. - Họ tịch thu nhà
rồi đuổi Ba Má em đi kinh tế mới. Em
và hai đứa con của em cũng bị đi kinh tế
mới suốt thời gian dài. Cách nay
khoảng một năm, à, anh nhớ Tân, em
của em không? - Ừ, cái thằng
ôm ốm, sau đi Thủ-Đức rồi về Pháo
Binh
diện địa đó chứ gì? - Dạ. Tân bảo
lãnh Ba Má em sang Mỹ. Nhờ Ba
Má em gửi
tiền về giúp cho nên em mới
tìm cách đưa hai cháu về được
đây. - Vậy là mừng cho
hai Bác. Còn em và hai
cháu, Tân có
dự tính bảo lãnh em và hai
cháu không? - Thưa anh, có,
nhưng em từ chối. - Tại sao? Trời! Sao em
dại quá vậy? - Anh nghĩ xem, em đi sao
đành khi mà em không biết
tin tức gì về anh Phong cả. - Phong không
liên lạc gì với gia đình sao? - Dạ không. - Nhưng em ở lại em cũng
không thể lo gì cho Phong
được. Em hãy nghĩ đến tương lai hai
cháu. - Em đã nghĩ đến
điều đó. Nhưng, cháu Huân
trên 21
tuổi, không đủ điều kiện. Cháu Thủy
đủ điều kiện. Nhưng, Thủy và em sang Mỹ
làm
gì trong khi anh Phong vẫn biệt tăm
và cháu Huân ở lại đây
một mình? Duy trầm ngâm một
chốc: - Em nghĩ như thế cũng
phải. Hạnh nhìn Duy: - Anh Duy, anh cho em hỏi
anh một câu, được không? - Ơ, cái cô
này! Em muốn hỏi gì thì cứ
hỏi, sao lại
phải xin phép? - Vì câu
này có thể chạm tự ái của
anh. - Chạm gì? Em nhớ,
hồi đó, em đàn hoặc hát sai
nhịp là
anh rầy liền. Anh đâu có sợ chạm tự
ái em. Anh em là phải như thế. - Dạ, em muốn hỏi anh
là anh hiền và dáng
vóc trông
nghệ sĩ như vậy mà tại sao anh xin về
Thủy-Quân Lục-Chiến rồi sau lại dám
theo
Kháng Chiến? - Ơ, nghệ sĩ thì
nghệ sĩ, hiền thì hiền chứ. Thủy-Quân
Lục-Chiến chỉ dữ với Việt-Cộng thôi chứ
đâu có dữ với ai. Còn anh,
Ông bà Nội
Ngoại và Bố Mẹ của anh đều bị Việt-Cộng đấu
tố đến chết… Duy nói chưa dứt
câu, vội dừng lại, vì tiếng cô
bé đạp
xe đạp ngang qua: - Thưa Má con đi
học. Hạnh đưa tay ngoắt Thủy: - Thủy! Con tới
chào bác Duy, con. Sau khi Thủy dựng xe đạp,
khoanh tay chào, Duy xoa tóc
Thủy: - Con gắng học giỏi cho
Mẹ vui, nhé. Nhìn sang Hạnh,
Duy tiếp: - Con bé giống y
như em, hồi em còn bé. Ờ, mà sao em không cho
cháu nó học lớp ban ngày? - Dạ, ban ngày cháu phải
phụ em
bán hàng; nếu không thì
trẻ con ăn cắp. Mấy đứa bé ăn cắp nhanh
và “nghề” lắm,
một mình em trông hàng
không được. Hạnh vừa dứt câu, người con trai
của Duy lên tiếng: - Bố ơi, sắp đến giờ đón Mẹ, Bố
coi chừng trễ. - Ô, anh phải đến
nhà thương đón chị. Anh mua cặp ngựa
này để biếu bác sĩ điều trị cho chị
đó. - Chị bị bệnh gì
mà phải vào nhà thương? - Sau khi nghe anh bị
“tòa án nhân dân” kết
tội 18 năm
khổ sai, rồi đứa con gái của anh chị đi
vượt biên bị hải tặc hiếp dâm đến
chết,
chị chịu không nổi, điên! Thôi,
chuyện dài lắm, cũng giống chuyện của Phong
và
anh vậy. Ghi địa chỉ của em vào mảnh giấy
gói hàng đây, hôm
nào anh ghé thăm,
anh kể hết cho em nghe. Duy vội vả quay đi. Hạnh
chạy theo, đưa lại tiền cho
Duy: - Anh Duy, cho em gửi lại
tiền. Em không lấy tiền đâu.
Em biếu anh chị…. Duy khóat tay
trong khi người con còng lưng đạp lấy
trớn. Còn lại một
mình, thấy khách nhàn du thưa
thớt, Hạnh
muốn dọn hàng về; nhưng tự dưng Hạnh cảm
thấy sợ hãi niềm cô đơn nên
không muốn
về. Hạnh khoanh tay trước ngực như muốn ôm
kín nỗi quạnh hiu. Nhìn mong ra
dòng
sông Cái, Hạnh thấy chiếc thuyền nhỏ
xuôi dòng và hai bên bờ
sông cây cỏ nhạt
nhòa trong bóng hoàng
hôn; chỉ có hòn đá Chữ
ngạo nghễ vương cao để những tia
nắng cuối ngày ve vuốt từng kẻ đá
rong rêu. Nhìn hòn
đá Chữ một lúc Hạnh mới nhận ra
những đóm
sáng thật xa, kết thành hình
cánh cung. Đó là những ngọn
đèn đường dọc bờ biển Nhatrang.
Dọc theo bờ biển đó, ngày xưa, mỗi
lần về phép, Phong và nàng
thường lặng lẽ đi
bên nhau. Khi chiều xuống, “hai đứa” dừng
chân bên gốc dừa hoặc ngồi cạnh nhau
nơi bãi vắng. Những lúc đó
Phong thường bảo Hạnh hát cho chàng
nghe. Phong
thích nhất bản Dans Tes Bras của Dalida –
một nghệ sĩ tài danh mang hai dòng
máu Pháp và Ai-Cập. Hạnh tựa
đầu lên vai Phong, hát nho nhỏ. Phong
âu yếm vuốt
tóc nàng. Khi Hạnh hát đến
đoạn: “…Dans tes bras je m’endors
dans tes bras jusqu’au jour
qui viendra me séparer de
toi loin de toi chaque
instant loin de toi j’attends ce
moment-là je l’attends
chaque fois Loin de toi…” Phong
tưởng như tiếng hát của người yêu
vang vọng cả vùng không gian êm
đềm quanh đây
và vang vọng trong trái tim
ngùn ngụt thương yêu của
chàng. Tình thương
yêu bao la của Phong, không những
Phong
dành cho Hạnh, mà, trên hết,
Phong dành cho Chúa và cho
Cha Mẹ. Nhưng, lạy
Chúa! Phong nghĩ rằng Phong đã phụ
lòng Chúa và Cha Mẹ; bởi
vì Cha Mẹ gửi Phong
vào chủng viện, hy vọng sau này
Phong sẽ trở thành linh mục. Nhưng Phong,
với
bản tính phóng khoáng,
thích phiêu lưu, thích thực
hiện những điều mà “người
lính chiến thường kể cho nhau nghe”, cho
nên Phong rời chủng viện, thi vào
Trường Võ-Bị Quốc-Gia Dalat. Sau khi
mãn khóa, Phong chọn binh chủng
Lôi-Hổ để
thỏa chí tang bồng. Thời gian đầu, Cha Mẹ rất
bất mãn, buồn phiền. Nhưng
thấy Phong vui và Phong rất hãnh
diện về bộ quân phục của chàng, Cha
Mẹ tha thứ
cho Phong và Cha Mẹ lại hãnh diện
với bạn bè, làng xóm về
Phong. Niềm hãnh diện của
Cha Mẹ đối với Phong chẳng khác chi
niềm hãnh diện của Phong khi Phong
sánh bước cùng Hạnh trên những
con đường
thương mến quanh ngôi trường
Võ-Tánh. Khi đi trên con
đường chia cách trường
Võ-Tánh và bệnh
viện Nguyễn-Huệ, Hạnh thấy một chiếc Jeep chậm lại
và từ chiếc Jeep, một sĩ
quan mặc quân phục Hải-Quân chồm ra,
nhìn Phong: “Phong! Phải Phong không?” Phong
vui mừng reo lên: “Dạ, thưa
Thầy, em, Phong đây.” Vị sĩ
quan Hải-Quân bước xuống, bắt tay Phong: “Sao,
khỏe không? Dạo này ít thấy
Phong ghé thăm.” Phong cười: “Dạ,
vì em bận hành quân
liên miên. Em cũng
tính nay mai ghé thăm Thầy
đó chứ.” Vị sĩ quan Hải-Quân
vỗ vai Phong: “Thôi,
gọi bằng anh đi. Kỳ này Phong về được
mấy ngày?” Phong chưa kịp đáp
đã thấy vị sĩ quan Hải-Quân
nhìn về phía Hạnh
rất nhanh, ánh mắt như dò hỏi. Phong
xoay sang Hạnh, giới thiệu: “Dạ, thưa
Thầy, ô, thưa anh, đây là
cô Hạnh,
bạn của em. Và đây là Thầy
Sơn, giáo
sư
của anh.” Sơn
xuất thân từ một
trường đào tạo sĩ-quan Hải-Quân của
Pháp. Sau khi trở về nước và phục vụ
cho
Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hòa, Sơn trở
thành Thầy của nhiều khóa sĩ-quan
Hải-Quân Nhatrang.
Và sau đó Sơn trúng cử
và trở thành Dân Biểu
Quốc-Hội. Hạnh chỉ biết như vậy
thôi. Đến khi nghe Phong giới thiệu, Hạnh
ngây thơ: “Ủa, Thầy dạy ở Võ-Tánh
tại sao em không biết?” Phong cười,
pha trò: “Cái
cô này! Thầy là giáo
sư của những lớp
lớn, như anh nè. Còn em là
học trò…hụt.” Sơn cười hiền
hòa:
“Tôi là Thầy…hụt của Hạnh
thì đúng hơn.” Nói
xong, cả ba người cùng cười… Nhớ đến kỷ niệm vui, Hạnh
bình tâm trở lại. Hạnh lủi
thủi dọn hàng về. Sau khi hâm
nóng nồi cá nục kho khô, gắp
ra dĩa, Hạnh
xắt trái dưa leo, đem hai chén
và hai đôi đũa để trong lồng
bàn, đậy lại. Hạnh ngồi
nơi ngạch cửa đợi con về. Khi nào thấy Hạnh,
anh thiếu tá công an – được
“nhà
nước” cho chiếm cứ ngôi nhà của một
sĩ quan “Ngụy” đã di tản, nằm đối diện con
hẽm nhỏ, trước ngôi nhà Hạnh
thuê – cũng cất tiếng ca “tồ tồ” để ve
vãn Hạnh: “…Hoàng
hôn nhuộm sương buồn. Là mùa
Thu thê
lương. Em mõi mòn mong chờ một
ngày về quá xa. Dưới rèm
mắt em mờ trông bóng
anh với quân lên đường. Lá
rơi, kìa, Thu! Thu đến bao lần. Hỡi người
quả phụ
phòng không. Mùa Thu đến
chàng không về. Hôm nay hoa
lá rơi điêu tàn! Ai ơi,
mùa Thu đến cô đơn…”.(2)
Hạnh than thầm, lời ca sướt mướt của
một bản nhạc tình được viết theo thể điệu Boston,
âm giai Ré
trưởng mà được anh chàng
công an “xướng” lên như vậy thì
quả là…phản nghệ thuật! Hạnh bực
mình, vào
giường, lấy gối che tai để khỏi phải nghe. Tuy không phải
nghe, nhưng vì anh thiếu tá
công an cứ
hát bản đó hoài cho nên
Hạnh thuộc và Hạnh nhận ra lời ca của bản
nhạc đó diễn
tả được phần nào hòan cảnh và
tâm trạng của nàng. Và tối
nay, lời ca của bản
nhạc đó lại đem niềm thương nhớ Phong trở
về trong lòng Hạnh. Hạnh mủi lòng,
khóc cho sự quạnh hiu của nàng;
khóc cho sự khổ nạn của Phong; và
khóc cho hoàn
cảnh thiệt thòi của Huân và
Thủy. Hạnh cứ để nước mắt tuôn tràn,
không cầm giữ
mà cũng không lau. Một lúc
lâu lắm, Hạnh cảm biết như có người
đến cạnh nàng.
Và mùi da thịt của người chồng hơn
20 năm bặt tin chợt thoang thoảng quanh
nàng. Hạnh cảm nhận được Phong đang ve vuốt
mái tóc đã ngã
màu của nàng. Rồi
Phong thì thầm hát cho nàng
nghe: “Another
day
has gone. I thought I heard you cry asking me to
come and hold you in my
arms. I hear your prayers. Your burdens I will
bear…you are not alone, for I am
here with you. Though we’re far apart, you’re
always in my heart for you are
not alone…I am here to stay…” (3) Hạnh nắm bàn tay
của Phong áp lên khuôn mặt đầm
đìa
nước mắt của nàng để mê đắm theo
tiếng hát của Phong. Phong từ từ cúi
xuống…Giữa lúc Hạnh sẵn sàng
đón nhận nụ hôn nồng nàn của
Phong thì Hạnh chợt
nghe tiếng thì thầm của Thủy: - Má! Đừng
khóc nữa, Má. Má phải phấn
đấu để sống thì
anh Huân và con mới có nơi
nương tựa … Nói chưa dứt
câu, Thủy sà vào lòng
Mẹ. Hai Mẹ con ôm
nhau, khóc vùi!
*
* * “Về đây
nhìn
mây nước bơ vơ. Về đây nhìn
cây lá xác xơ. Về đây
đâu còn phút sum vầy,
đâu còn
bóng người xưa, lạnh lùng ngắm
trời mây. Ôi, quê hương giờ
đây nát tan! Đò vắng
không người sang, thôn xóm
trông điêu tàn. Xa xa nghe
tiếng chim kêu đàn, nghe
suối reo bên ngàn, dường như
oán như than!...” (4) Nghe người hành
khất cứ hát tới hát lui mấy
câu đó,
Phong vừa khom người bỏ vài đồng tiền lẽ
vào chiếc nón nhà binh
rách, đặt trước
mặt người hành khất, vừa nói nhỏ,
giọng buồn bả: - Nè, anh bạn! Anh
còn bài nào khác
không, sao cứ hát
bài này hoài, nghe buồn
quá! - Tui đâu phải ca
sĩ mà có bài khác. - Hát bài
này anh không sợ sao? - Sợ gì? Tui
cùi, đâu sợ lỡ. Mẹ, “uýnh”
nhau mấy mươi
năm không…rụng sợi lông; bầy đặt
rút quân để tụi tui như rắn
không đầu. Lúc đó
tụi tui đang quần thảo với quân chính
quy Bắc-Việt tại đèo Phượng-Hoàng.
Sau
khi bắt được tụi tui, “cha con tụi nó” muốn
sỉ nhục tụi tui, bắt tụi tui cởi bỏ
đồ trận, bận quần xà-lỏn, áo thun,
đi hàng một dọc theo đường cái. Mẹ!
Tui đâu
chịu nhục. Chờ thời cơ thuận tiện, tui cướp
súng của một thằng cảnh vệ. Tui
chưa kịp bắn thì thằng cảnh vệ khác
bắn tui! “Cha con tụi nó” tưởng tui chết
thiệt thành ra “cha con tụi nó” dẫn
tù, bỏ đi. Suốt ngày Phong
tìm Cha Mẹ, vợ con không ra,
lòng rối
như tơ vò. Bây giờ gặp người
“nói chuyện xưa” Phong đưa đẩy câu
chuyện trong
khi tâm trí của chàng vẫn
còn lo lắng, không biết sẽ tìm
gia đình bằng phương
cách nào! - Vậy anh là thứ
dữ, “dân” Dù, phải không? - Sao biết? - Tôi từ trại giam
Lam-Sơn về. Trong trại giam Lam-Sơn
có nhà giam số 10 dành cho
trung đội Dù bị bắt tại đèo
Phượng-Hoàng, thuộc quận
Khánh-Dương… Người hành khất
đánh vào đùi một cái,
cắt lời Phong: - Chết mẹ rồi! “Cha con
tụi nó” “tóm” trọn “ổ” trung
đội của tui rồi! - Anh là cấp chỉ
huy của đơn vị đó à? - Giỡn, cha! Sĩ quan
Dù “ngon” lắm chứ đâu có như
tui.
Cấp chỉ huy gì ăn nói “ba đá”
như tui, cha. Tui là lính trơn
hà. Rồi sao nữa,
cha kể tiếp cho tui nghe giùm đi. - Trung đội đó chỉ
có một đại úy và một trung
úy; số
còn lại là hạ sĩ quan và
lính. Người hành khất
lầm bầm: - Ủa, còn
ông Thầy của tui đâu cà? Lạy
Trời cho ổng
còn sống... Bất chợt người
hành khất nhìn Phong, tiếp: - Còn cha? Cha
làm gì mà vô trại
Lam-Sơn? - Tôi bị bắt
cùng một lần với trung đội Dù
đó. - Ô, vậy cha cũng
là thứ dữ rồi, mà sao cha được tha
về, lẹ vậy? Bản tính bộc trực,
“ruột để ngoài da” nhưng Phong hiểu
không nên nói sự thật trong
hoàn cảnh này cho nên
nói hơi trại đi một tý: - Ban quản giáo
phái tôi về đây mua cưa
máy để tù nhân
cưa cây, tự sửa sang nhà tù
của mình. Giọng người hành
khất trầm hẳn xuống: - Sao không trốn
đi, cha? Phong cười, chỉ Thiệt,
đang ngồi chồm hổm trên bậc
cấp, dưới chân Tháp Bà,
nhìn chàng không rời: - Thấy anh trung sĩ
đó không? Anh ấy là cán
bộ hướng
dẫn nhà 10. Ban quản giáo cử anh ấy
đi theo tôi để “bảo vệ” tôi trong
chuyến
công tác này. Anh ấy hiền, rất
dễ thương, có cảm tình với tất cả
tù nhân chúng
tôi. Từ nãy giờ nghe
Phong nói chuyện rất nhã nhặn,
bây giờ
lại nghe Phong gọi “thằng Việt-Cộng” là anh
trung sĩ, người hành khất nghĩ rằng
Phong không cùng giai tầng với
mình, cho nên đổi cách xưng
hô: - Anh thấy “cha con tụi
nó” dùng chữ hay không? Đi
theo canh tù thì nói đi theo
canh tù, bầy đặt gọi là bảo vệ!
Còn anh, anh cũng
là thứ dữ, vậy sao “cha con tụi nó”
để anh về thành phố mà chỉ có
một thằng đi
theo? Phong cười, không
đáp. Trong thời gian ở trại
Lam-Sơn, Phong cố chinh phục
lòng tin của ban quản giáo để mưu đồ
việc lớn. Ban quản giáo không hề biết
ý đồ
“đen tối” của Phong cho nên có vẻ tin
tưởng Phong. Vì muốn tìm cách
về thăm Cha
Mẹ, vợ con một lần sau cùng trước khi
cùng Duy thực hiện kế hoặch quy mô
cho
nên Phong nói với ban quản
giáo là chàng muốn về mua cưa
máy đem lên tặng cho
Trại. Ban quản giáo phái Thiệt –
có võ trang – đi theo. Suốt ngày đi theo
Phong, Thiệt cảm thấy có cảm tình
với Phong nhiều hơn, không phải vì
Phong cho Thiệt ăn những món đặc sản miền
Nam – do tiền Phong bán chiếc nhẫn cưới –
mà vì phong thái của Phong
rất hiên
ngang, ngạo mạn, chẳng biết sợ ai. Thiệt nhớ,
trong một lần Thiệt đến trại 10
làm nhiệm vụ hướng dẫn, trong lúc
vui miệng, Thiệt thuật lại cho nhiều “trại
viên” nghe về một trận đánh đẫm
máu giữa đơn vị của Thiệt và một đơn
vị quân
đội V.N.C.H. để giành một vị trí
chiến lược gần Lộc-Ninh. Thiệt bảo, dù chấp
nhận mọi tổn thất nhân mạng, đơn vị của
Thiệt cũng vẫn không chiếm được mục
tiêu. Phong cho biết, đơn vị của
chàng được biệt phái tăng cường
trong trận
đánh đó. Và Phong kết luận: “Đánh
đấm với
các anh chán bỏ mẹ! Quân của
các anh chỉ toàn con nít,
cỡ 14 hay 15 tuổi, không
biết gì khác ngoài việc
xông tới, hết lớp này đến lớp
khác. Chúng tôi bắn
quân
của các anh chết, thây chồng chất
lên nhau, trông vừa thương tâm
vừa kinh tỡm!”
Chưa hết! Khi ban quản giáo bảo “trại
viên” viết bản thu hoặch, Thiệt thấy
Phong chỉ viết có vài dòng.
Thiệt hỏi. Phong bảo: “Các anh nói các
anh đã biết hết rồi thì tôi
còn gì để viết nữa. Tôi
viết ngắn, gọn: Tôi là một sĩ quan
Lôi-Hổ, một binh chủng được huấn luyện để
thực hiện những công tác đột
kích vào mật khu Việt-Cộng.
Và tôi đã giết nhiều
cán bộ cao cấp trong những lần đột
kích đó. Tôi sẵn sàng
nhận lãnh hậu quả của
người chiến bại theo tinh thần thượng võ;
không có gì để các
anh khoan hồng hay
bắt tôi khai báo.” Nhiều “trại
viên” nhìn Phong với ánh mắt
ái ngại. Một
“trại viên” tên Sơn – mà Phong
lộ vẻ rất kính trọng và nói
với mọi người đó là
Thầy của Phong – khuyên Phong nên thận
trọng. Phong đáp tỉnh bơ: “Thưa anh, em
biết họ và họ biết rõ em. Trước
sau gì họ cũng giết em. Hôm bị bắt,
em đã muốn tự vẫn, nhưng vì em
là người
theo đạo Thiên Chúa. Bây giờ
em phải nói để họ biết rằng Người
Lính V.N.C.H.
không hèn nhát. Thua,
chúng tôi chấp nhận mọi hậu quả.
Chúng tôi không than
trách, không đổ thừa đồng minh bỏ
chạy.” Thiệt thầm nghĩ, Phong “chì”
thật.
Tiếng “chì” Thiệt bắt chước ngôn ngữ
miền Nam. Là một người gan
dạ và rất “chì”, nhưng suốt
ngày tìm
không được Cha Mẹ, các em và
vợ con, Phong thiểu não ngồi nơi bậc cấp
dưới chân
Tháp Bà, gục đầu vào
lòng bàn tay. Suy nghĩ mãi
Phong cũng không thể đoán được
điều gì đã xảy ra cho đại gia
đình và tiểu gia đình của
chàng. Cuối cùng, Phong
nghĩ, có thể gia đình di tản ra
ngoại quốc. Giả thuyết này giúp
Phong yên lòng.
Phong ngẫng lên, nhìn suốt con đường
quen thuộc đối diện với Tháp Bà. Trên con đường quen
thuộc đó không biết bao nhiêu
lần
Phong lái Vespa chầm chậm, xa xa,
lén theo sau Hạnh, rồi lượn qua lượn lại
trước nhà nàng chứ không
dám vào. Sau khi “hai đứa” thầm
lén yêu nhau một thời
gian, Hạnh viết thư cho Phong biết rằng ông
bà Hiển không cho phép
nàng quá
thân thiện với những người khác
tôn giáo và những sĩ quan
tác chiến – như
chàng. Phong buồn lắm, chỉ ngại Hạnh nghe
lời Cha Mẹ, đoạn tuyệt với chàng.
Và,
Phong xin nghỉ phép đặc ân. Vào một buổi
sáng cuối tuần, cũng trên con đường
đó,
trẻ em và người tò mò
đã ùa ra nhìn hai chiếc Jeep.
Chiếc Jeep đi trước chỉ có
tài xế, ngồi cạnh tài xế là
trung úy Lôi-Hổ Nguyễn-Phong, trong
quân phục đại
lễ, lưng đeo súng lục, ngực đầy huy chương
và trên xe cũng đầy sính lễ.
Chiếc
Jeep thứ hai gồm tài xế, một đại úy
đại diện nhà trai và một trung
úy phụ rể. Khi thấy hai chú
lính trang trọng bưng sính lễ
vào nhà
và Phong cùng hai sĩ quan đột ngột
xuất hiện, ông bà Hiển vô
cùng ngạc nhiên
nhưng cũng phải ra tiếp. Ông Hiển hỏi: “Xin
lỗi, quý vị có nhầm nhà hay
không? Tại sao trung úy Phong
hôm nay lại xuất hiện
một cách trang trọng như vậy?” Vị đại
úy chủ hôn trình bày
lý do. Ông Hiển
lắc đầu: “Chúng
tôi chưa bao giờ chấp
thuận lời cầu hôn của bất cứ ai, cho con
gái của chúng tôi”. Vị
đại úy xin
ông bà Hiển cho phép Hạnh ra
phòng khách để được xác định.
Bà Hiển vào
gọi Hạnh. Hạnh – đã theo đúng kế
hoặch do
Phong dặn trước – e dè bước ra trong chiếc
áo dài màu hồng, tai đeo
đôi hoa tai
lấp lánh, cổ đeo kiền chạm, tóc vấn
khăn vành. Ông bà Hiển chỉ
biết nhìn nhau.
Vị đại úy chủ hôn hỏi Hạnh: “Cô
Hạnh! Cô
biết hôm nay là ngày
gì và tại sao chúng
tôi dâng sính lễ hay
không?” Hạnh
thẹn thùng cúi mặt, nói nho
nhỏ: “Kính
thưa
Ba Má! Xin Ba Má tha tội cho con.
Hôm nay là ngày anh Phong
xin phép Ba Má
cho con về làm vợ anh ấy.” Ông
Hiển giận quá, tái mặt, muốn
nói đều gì đó;
nhưng bà Hiển bấm tay ông, nói
nhỏ: “Thôi,
ông.
Con nó lỡ thương thì thôi.”
Trước khi nắm tay Hạnh bước ra xe, Phong
hơi cúi đầu trước mặt ông bà
Hiển: “Con
xin
biết ơn Ba Má.” Ông
bà Hiển vừa
giận vừa buồn nhìn theo hai chiếc Jeep. Trẻ
con chạy theo xe reo hò trong khi
Hạnh, ngồi cạnh Phong, khóc sướt mướt;
không
biết Hạnh khóc vì lấy được
người nàng yêu hay là
khóc vì đã làm Cha Mẹ
buồn lòng! Ngày xưa
đó, dù Hạnh khóc vì
lý do nào đi nữa thì
những dòng nước mắt của Hạnh cũng
không mang niềm uất hận và sợ
hãi như khi
Hạnh khóc lúc hay tin đơn vị của
Phong “tan hàng”! Nghĩ đến Cha Mẹ,
ông bà Hiển
và vợ con cùng những quân
nhân trong đơn của chàng, Phong chỉ
biết thở dài. Xa xa, tiếng hát
của người hành khất vẫn dội vào
tâm
thức buồn thảm của Phong: “Về
đây…” *
* * Tại
trại Lam-Sơn, thời gian đầu, vợ con
tù nhân có thể thăm viếng
tù một cách dễ giãi. Nhưng
Phong không muốn nhắn cho
gia đình biết tin vì chàng
có dụng ý riêng. Trước cổng
trại Lam-Sơn ban quản
giáo còn cho phép họp chợ
bán thức ăn và mọi thứ cần
dùng cho tù nhân. Nhờ vậy
Phong mới bán đưọc chiếc nhẫn cưới. Khi
từ Nhatrang trở về, thấy không ai
mua bán gì trước trại Lam-Sơn như
mọi hôm, Phong hỏi Thiệt. Thiệt bảo chả
biết.
Linh tính nhạy bén báo cho
Phong biết rằng có chuyện không hay.
Vào trong Trại,
sau khi trình diện ban quản giáo,
Phong vội vã trở về nhà 10. Vừa thấy Phong, Sơn
kín đáo ra dấu để Phong theo
chàng
ra ngoài. Nhìn quanh, không
thấy ai, Sơn cho Phong biết, hôm qua Duy
và vài bạn
tù vượt thoát, nhờ lẫn vào
những người buôn bán trước cổng Trại.
Phong sốt
ruột: “Có
ai bị bắt lại không, anh?”
Sơn lắc đầu: “Không.
Hy vọng tất cả thoát
được. Có điều tệ hại là ban quản
giáo đã tìm ra danh
sách của những tù nhân
liên hệ trong một tổ chức bí mật!
Tôi thấy Phong thân với anh Duy cho
nên tôi
báo cho Phong biết. Cẩn thận, nha.” Phong ngần
ngừ, muốn nói điều gì đó,
nhưng vội
ngưng. Chiều đến, đang ngồi cạnh
con đường đất, Sơn bỗng nghe
tiếng Phong từ một GMC đang chạy ngang: “Anh
Sơn ơi! Em đi đây. Vĩnh biệt anh!”. Sơn
vội đứng lên, nhìn theo. Sơn thấy
Phong đưa cao tay vẫy vẩy và cố hét
lớn: “Anh
Sơn! Vĩnh biệt anh!” Sơn đứng
lặng,
tưởng như tiếng gào của Phong vang dội,
làm rung chuyển cả núi đồi. Khi
chiếc
GMC khuất ở cuối đèo chính là
lúc một tâm niệm vừa khởi lên
trong lòng Sơn. Nếu
còn sống, Sơn sẽ tìm mọi cách
gặp vợ con của Phong để kể lại giây
phút bi hùng
của Phong Lôi-Hổ. Hơn ba mươi năm sau, từ
ngọai quốc trở về thăm quê
hương, tình cờ Sơn gặp lại Duy. Sơn cho Duy
biết tâm nguyện của Sơn. Duy vui
mừng: “Anh
đến nhà giờ này không gặp
cô
ấy đâu. Anh đến thẳng chỗ quày
hàng, bên kia cầu
Xóm-Bóng, dưới chân
Tháp-Bà,
là anh thấy Mẹ con của cô ấy ngay.”
*
* * Thời gian đã
phôi phai, nhưng khi kể đến giây
phút bi
hùng có thật của Phong, Sơn vẫn
tưởng như tiếng gào cùa Phong
còn xóay sâu
trong lòng chàng. Và
Huân, khi nghe Sơn
lập lại năm tiếng sau cùng của Phong,
Huân chịu không nổi, vội đứng
lên, đi
nhanh ra chỗ khác. Thủy đưa tay quẹt nước
mắt. Sơn nhìn Hạnh. Hạnh vẫn ngồi
lặng yên, mắt đăm đăm nhìn xuống
dòng sông, không chớp. Tự dưng
Sơn mong được
thấy những giọt nước mắt lăn dài trên
khuôn mặt sạm nắng của Hạnh. Hạnh vẫn
ngồi trơ như pho tượng. Một lúc lâu,
Sơn thấy dường như Hạnh đang cố nuốt vật
gì to lớn lắm. Sơn thở dài, thầm
nhủ: Khóc đi Hạnh! Khóc đi cho vơi
bớt sầu
thương. Hạnh vẫn không
khóc. Nhìn con đò nhỏ
xuôi dòng, Hạnh
chợt nhớ lại câu nói của Duy: “…Anh
mà
không chết thì không thể
nào Phong chết được…” Vừa lúc
đó Hạnh tưởng như
nàng nghe được giọng hò êm
ái của cô lái đò vang
xa trong không gian loáng
thoáng ánh trăng non: “....Hò…
ho…hó…ho…ho…Nghe...gió
lùa...trong đêm vắng. Em... mơ thấy
chàng ... bên sông
mờ trăng…” (5) Hạnh từ từ nghiêng
sang Thủy, tựa đầu lên vai con,
thổn thức… ĐIỆP-MỸ-LINH * Cảm tác
và “mượn” vài chi tiết từ
bài viết “Chuyện
Một Người Chiến Binh Trong Cuộc Chiến Nam Bắc”
của Trần-Bình-Nam. 1. Chiến Sĩ của
Lòng Em của Canh-Thân 2. Thu Cô
Phụ của Điệp-Linh 3. You Are Not
Alone của R. Kelly 4. Trở Về của
Châu-Kỳ 5.
Bên Sông Cũ của
Điệp-Linh Nhóm mạng Việt
Nam Văn Hiến
Trang: Bên Cầu Xóm Bóng www.vietnamvanhien.net www.vietnamvanhien.org www.vietnamvanhien.info www.vietnamvanhien.com Email: thuky@vietnamvanhien.net
Lấy Tâm Lực thay cho vũ lực để giải trừ quốc nạn là phục hoạt nếp sống Văn Hiến và phục hồi nền "An Lạc & Tự Chủ" ngàn đời cuả Việt tộc. |