Việt
Nam
Văn Hiến
Năm
Thứ 4888
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.net
-----------------------------------------------------------
Biên
Cương
Tổ
Quốc Ở Đâu ?
Đông
Biên
Mục
Lục
Phần I
Phần
ÌI
Phần
ÌÌI
Phần IV
Phần V
Phần VI
Phần
VÌI
PHẦN I
Toàn thể người Việt Nam không kể người trong nước hay
người ở ngoài nước đều bàng hoàng sửng sốt
và vô cùng xúc động khi bức kháng thư
của ông Ðỗ Việt Sơn, người đã có 60 tuổi đảng,
80 tuổi đời được phổ biến để phản đối đảng Cộng sản Việt Nam ký
hiệp định Biên giới với đảng Cộng sản Trung Quốc và đề
nghị không thông qua hiệp định bán nước đó.
Tiếp
theo
là bài viết của ông Lê Chí
Quang cảnh giác với “Bắc Triều” và thách thức :
“Ông Lê Khả Phiêu ra đối chất xem. Ông
lấy quyền gì mà dám ký hiệp định Biên
giới làm nước ta mất hàng trăm kilômét
vuông đất đai của Tổ Quốc. Cả về hiệp định vịnh Bắc Bộ nữa, trước
kia Pháp thay ta ký với nhà Thanh theo tỷ lệ
62/38, bây giờ lại ký theo tỷ lệ 54/46 ! Tổ Quốc bị
thiệt hại biệt bao nhiêu chỉ vì một người nhân danh
đảng ! Biết bao nhiêu xương máu, nước mắt, mồ hôi
của cha ông, của nhân dân từ ngàn đời đổ xuống
để dành từng tấc đất của Tổ Quốc, các anh có biết
không ?”
Ông
Trần
Khuê, một đảng viên làm công
tác văn hóa, trong bức thư ngỏ gửi Tổng Bí thư
Giang Trạch Dân tiết lộ : “ Chúng tôi giật
mình kinh ngạc khi nghe Bộ chính trị Lê Khả
Phiêu chỉ thị cho Chính phủ Phan Văn Khải ký với
Chính phủ Trung Quốc hai hiệp định biên giới Việt Trung
và đã nhượng mất ngót một nghìn
kilômét vuông địa giới (?) và ngót một
chục nghìn kilômét vuông hải giới. (?)
Vì cả hai đảng và hai chính phủ đều giữ bí
mật nội dung bản Hiệp ước này nên không rõ
diện tích lãnh địa và lãnh hải mà
các đ/c lãnh đạo Trung quốc vừa lấy thêm của Việt
Nam cụ thể chính xác là bao nhiêu.
Tháng 8-2001, chúng tôi có tổ chức một
đoàn lên khảo sát thực địa ở Lạng Sơn thì
quả đã thấy cây số 0 nằm trên vạch biên giới
Việt Trung, không còn nhìn thấy Mục Nam Quan nữa.
Phía Trung Quốc đã xây một tòa nhà
sừng sững chắn ngang. Rồi người thì nói nó
đã nằm sâu trong lãnh thổ Trung Quốc 500
mét, người thì nói 2000 mét. Diện
tích đất đã nhượng người thì bảo 500 km2,
có người lại nói mất hơn 700 km2, có người lại
nói mất hẳn 900 km2. Riêng Ð/c Lê Thế Nghĩa,
nguyên Trưởng ban Biên giới của chính phủ thì
cho chúng ta biết Mục Nam Quan hiện nằm cách vạch
biên giới là 800 mét và tổng số diện
tích địa giới mà Việt Nam, phải cắt nhượng cho Trung Quốc
chỉ mất 232 km2.” Các ông Lê Chí Quang
và Trần Khuê đã bị Cộng sản bắt và bị
buộc tội tiết lộ bí mật quốc gia !
Ông
Nguyễn
Thanh Giang, một nhà tranh đấu cho nền
dân chủ tại quốc nội, “Trăn trở xót đau cùng
Biên cương Tổ Quốc” hỏi : “Nhưng biên giới Việt-Trung
đã từng ở đâu ? Biên giới Việt- Trung sẽ phải ở
đâu ? Biên giới Việt-Trung sẽ phải ở đâu để đừng phụ
công cha ông từng kiến lập giang sơn, khai mở bờ
cõi, đừng làm tủi nhục vong linh hàng triệu người
đã từng ngã xuống vì quê hương đất
nước…Biên giới Việt-Trung sẽ phải ở đâu như nó từng
ở đó để không ai phải xót xa trăn trở vì
đã mất 789 kilômét vuông hay 720
kilômét vuông. Hay…chỉ mất 1 kilômét
vuông như thông báo chính thức của Ban
Bí thư cho toàn thể đảng viên ?…Biên giới
lúc đó rất xa. Cách Pắc Bó hàng chục
km, cách Bản Giốc hình như không thể dưới 1 km. Vậy
mà nay có người bảo đứng ở Pắc Bó có thể
nhìn thấy Trung Quốc, còn thác Bản Giốc -
một trong những thắng cảnh nổi tiếng nhất đã từng có
trong tất cả các tập bưu ảnh giới thiệu đất nước Việt Nam trước
đây – nay đã bị cắt cho Trung Quốc mất hai phần ba !"
Nhân
vụ
dâng đất, dâng biển của đảng Cộng sản Việt
Nam cho đảng Cộng sản Trung Quốc, chúng ta lần giở lại qua
các trang sử, qua các truyền thuyết để xem dòng
giống Việt tộc đã bị Hoa tộc cướp mất bao nhiêu đất đai,
để xem từ xa xưa lúc trời đất còn mịt mù của thuở
hồng hoang, dòng tộc Việt đã sinh sống tại địa bàn
Hoa Bắc, phía trên sông Hoàng Hà, bị
Hoa tộc xâm chiếm cướp đất đai, đồng hóa, rồi lần xuống
xâm chiếm vùng Trường Giang và tới đời Tần Thủy
Hoàng xua 500.000 tinh binh vượt dãy Lĩnh Nam chiếm trọn
miền Hoa Nam và nước Văn Lang. Dòng Lạc Việt sau suốt một
ngàn năm nô lệ giặc Tàu đã dành được
độc lập, đã đổ biết bao xương máu, dành từng tấc
đất từng ngọn cỏ nơi biên giới để ngày nay đảng Cộng sản
Việt Nam đành lòng dâng hàng trăm cây
số vuông đất biên thùy, hàng chục ngàn
dặm vuông biển cả cho Cộng sản Trung Quốc để được bảo trợ chổ
ngồi đè đầu đè cổ nhân dân Việt Nam.
NGUỒN
GỐC VÀ ÐỊA BÀN SINH SỐNG CỦA VIỆT TỘC
Nguồn
gốc
và địa bàn sinh sống của dòng
Bách Việt theo truyền thuyết như sau :
HỌ HỒNG
BÀNG.
Cứ theo tục
truyền
thì vua Ðế Minh, cháu ba đời vua Thần Nông đi
tuần thú phương Nam đến núi Ngũ Lĩnh (thuộc tỉnh Hồ Nam
bây giờ ) gặp nàng Vụ Tiên, lấy nhau, sinh ra
người con tên là Lộc Tục. Sau Ðế Minh truyền
ngôi lại cho con trưởng là Ðế Nghi làm vua
phương Bắc, và phong cho Lộc Tục làm vua phương Nam, xưng
là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ. Bờ
cõi nước Xích Quỷ bấy giờ phía bắc giáp
Ðộng Ðình Hồ (Hồ Nam), phía nam giáp Hồ
Tôn (Chiêm Thành), phía tây giáp
Ba Thục (Tứ Xuyên), phía đông giáp bể Nam Hải.
Kinh
Dương
Vương lấy con gái Ðộng Ðình Quân
là Long Nữ sinh ra Sùng Lãm, nối ngôi
làm vua, xưng là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân
lấy con gái vua Ðế Lai là Âu Cơ, sinh một lần
được một trăm người con trai. Lạc long Quân bảo bà
Âu Cơ rằng : “Ta là dòng dõi Long
Quân, nàng là dòng dõi Thần
Tiên, ăn ở lâu với nhau không được, nay được trăm đứa
con thì nàng đem 50 đứa lên núi, còn
50 đứa ta đem xuống bể Nam Hải.Lạc Long Quân phong cho người con
trưởng làm vua nước Văn Lang, xưng là Hùng
Vương.”
Qua
câu
truyện truyền thuyết về nguồn gốc và địa
bàn sinh sống của dòng Bách Việt thì :
1- Nơi
phát
tích
dòng Bách Việt là Ðộng
Ðình Hồ thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc ngày nay.
Ðộng Ðình Quân làm vua ở Ðộng
Đình Hồ thuộc giống Rồng.
2- Kinh
Dương
Vương
là con của nàng Vụ Tiên lấy con
gái của Ðộng Ðình Quân là Long Nữ
sinh ra Sùng Lãm hiệu là Lạc long Quân. Lạc
Long Quân là con của Long Nữ thuộc giống Rồng và
là cháu của Vụ Tiên thuộc giống Tiên.
Dân Việt Nam là hậu duệ của Lạc Long Quân nên
tự nhận là “Con Rồng Cháu Tiên”
3- Kinh
Dương
Vương
làm vua nước ta trước tiên với quốc hiệu
là Xích Quỷ thuộc họ Hồng Bàng. Chúng ta
thuộc dòng Việt tộc ngành Lạc, nên gọi là
Lạc Việt. Vì thế chúng ta tự nhận là “Con Hồng
Cháu Lạc” để nhớ gốc tích giống nòi.
4- Lạc
Long
Quân
lấy Âu Cơ sinh ra trăm người con. Hai Ông
Bà chia con với nhau, 50 con theo mẹ lên núi, 50
con theo cha xuống biển. Ðó là mấu chốt của truyền
thuyết. Nó nói lên việc dòng Bách
Việt chia nhau chiếm lĩnh địa bàn sinh sống từ trên
núi xuống biển khắp cả lục địa nước Tàu xuống tận
vùng Ðông Nam Á và các Hải đảo.
5- Trước
khi
chia
đất, phân tán các con đi các nơi
thì cha Lạc Long Quân và mẹ Âu Cơ truyền
ngôi cho con cả làm vua đất Văn Lang. Ðó
là vua Hùng Vương của chi Lạc Việt. Chúng ta
hãnh diện là hậu duệ của vua Hùng là
ngành cả của dòng Bách Việt. Ðó
là truyền thuyết nói về việc phát tích
và địa bàn sinh sống của dòng Bách Việt
và được chia ra nhiều chi nhánh như Cửu Lê,
Bách Bộc, Lạc Việt, U Việt, Mân Việt, Âu Việt, Nam
Việt v,v…
6- Nước
Xích
Quỷ
của Kinh Dương Vương phía bắc giáp Động
Đình Hồ, tây giáp Ba Thục, nam giáp Hồ
Tôn, đông giáp biển Đông. Khi Lạc Long
Quân nối ngôi thì cũng thừa hưởng giang sơn
Xích Quỷ của Kinh Dương Vương. Lạc Long Quân về thủy phủ
truyền ngôi cho con là Hùng Vương làm vua
thì Hùng Vương cũng hưởng quyền cai trị nước Xích
Quỷ. Hùng Vương đổi tên nước là Văn Lang
và dĩ nhiên bờ cõi nước Văn Lang cũng to lớn như
nước Xích Quỷ, nghĩa là cả một dãy đất rộng lớn từ
mạn nam sông Dương Tử đổ xuống phía nam đến Chiêm
Thành đều thuộc đất Văn Lang.
Riêng
về
mặt khảo cổ thì các nhà chủng tộc
học, các nhà khảo cổ tiền sử và ngôn ngữ tỷ
hiệu đã liệt dân Bách Việt trong đó
có Việt Nam vào chủng Mã Lai :
1- Cách
nay
khoảng
10.000 năm, chi Nam Á (Austro-Asian), họ từ đâu
tới không biết, tràn vào lục địa nước Tàu
ngày nay, vùng Ðông Nam Á và
các hải đảo, đó là thời kỳ văn hoá
Hòa Bình, Bắc Sơn, thuộc ngành ngôn ngữ Nam
Ðại Dương tức Mã Lai đa đảo.
2- Khoảng
3,4
ngàn
năm sau, một chi Mã Lai khác tới sau. Họ
thuộc ngành ngôn ngữ Nam Ðảo (Austronesian).
3- Khoảng
2
ngàn
năm sau nữa, một chi khác là Tạng Miến
(Thái) tới, họ tràn vào Tứ Xuyên, Vân
Nam, Quảng Ðông, Vùng núi Bắc Việt.
Xét
về
mặt địa lý, dòng tộc Mã Lai
(Bách Việt) đã có mặt ở khắp nước Tàu,
vùng Ðông Nam Á, Ấn Ðộ, các hải đảo
Thái Bình Dương đến Madagascar (Mã Ðảo, Phi
Châu), vượt Thái Bình Dương vào Mỹ
châu, đó là người Maya, Inca, Da Ðỏ…
DÒNG
GIỐNG
HOA
TỘC VÀ CUỘC
XÂM CHIẾM ÐẤT VIỆT LẦN 1.
Cách
nay
khoảng 5000 năm, có một bộ tộc từ vùng sa
mạc tây bắc tràn vào miền tây bắc nước
Tàu, sinh sống ở vùng Thiểm Tây và Sơn
Tây, đó là chủng tộc Hoa. Dòng tộc Hoa
là giống người lai căn giữa rợ Nhục Chi (Tokharian) thuộc chủng
da trắng với một rợ khác là Mông Cổ mà người
Tàu gọi là Hung Nô, Âu châu gọi
là Huns, thuộc chủng da vàng. (Bình Nguyên
Lộc, Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam, tr. 79)
Thứ
người
lai căn này mà về sau gọi là Hoa tộc
cũng gọi là Hoa Hạ, có tính cách Mông
Cổ ở loại tóc thẳng và đen (tộc Nhục Chi tóc
dợn sóng và màu đỏ hoặc màu râu bắp),
giống Mông cổ ở nước da vàng, ở mắt xếch, mí mắt
lót, màu mắt đen và ngôn ngữ độc âm.
Họ có tính cách Nhục Chi ở thân thể cao lớn
và râu quai nón như người Tây phuơng
mà hiện nay người Hoa Bắc còn mang.
Giống
người
lai căn này sinh sôi nảy nở ra nhiều nhưng
không có đất sống. Người Nhục Chi không muốn nhận
giống lai căn đó vì thấy khác họ quá nhiều.
Còn người Mông Cổ cũng không muốn nhận họ vì
cũng không thấy họ giống người Mông Cổ. Hơn nữa cả
dân Nhục Chi lẫn dân Mông Cổ sống bằng nghề chăn
nuôi, rất cần nhiều đất để súc vật có cỏ ăn
nên họ đuổi giống lai căn đó đi. Thành
thử nhóm mang hai giòng máu đó trở
thành quân xâm lược đi cướp vùng đất
mà nay là Hoa Bắc, lúc đó đã
có chủ rồi, chủ đó là Việt tộc, chi Cửu Lê.
Vậy
giống
lai căn đó rời bỏ vùng vùng
Tây Vực của dân Nhục Chi lúc đó cũng
đã bị sa mạc hóa, tiến qua hành lang Cam
Túc vào đất Quan Trung của tỉnh Thiểm Tây và
Sơn Tây. Họ sinh sống ở vùng Quan Trung , trong dãy
núi Hoa Sơn vì thế họ tự nhận là tộc Hoa (Hoa Hạ).
Họ ghép tên đất Quan Trung và tên tộc Hoa
thành Trung Hoa để làm tên nước, vì họ cho
nơi họ ở là trung tâm thiên hạ ! Từ vùng sa
mạc khô cằn vào đất Quan Trung màu mỡ thì họ
đã lấy làm vui mừng lắm, nhưng dần dà dân số
tăng lên, đất đai không còn đủ cho súc vật,
họ cần có vùng đất mới để sinh sống. Nhìn qua
bình nguyên sông Hoàng Hà của
các tỉnh Hà Bắc, Hà Nam họ thấy đất đai ở
đó màu mỡ, dân ở đó canh tác hoa
màu tốt tươi nên họ áp dụng lối sống du mục của tổ
tiên là ăn cướp, giết địch để thâu chiến lợi phẩm
là súc vật, đàn bà, và vùng
đồng cỏ.
Hoa
tộc
lúc đó dưới quyền của lãnh tụ Hiên
Viên, còn dân Cửu Lê thì dưới quyền
thống lãnh của Xuy Vưu mà sử Tàu gọi là
“Xuy Vưu cổ thiên tử, Xuy Vưu bá thiên hạ”. Như thế,
sử Tàu cũng công nhận là dân Cửu Lê
sống ở đó đã lâu đời, tổ chức thành nước
có vua, ông vua đó Tàu gọi là Xuy Vưu
với nghĩa miệt thị.
(Trong Lĩnh Nam Chích Quái của Trần Thế Pháp
thì cho Xuy Vưu là quân thần của Đế Lai : “Đế Nghi
truyền ngôi cho Đế Lai cai trị phương Bắc; nhân khi
thiên hạ vô sự, sực nhớ đến truyện ông nội là
Đế Minh nam tuần gặp được tiên nữ, Đế Lai bèn khiến Xuy
Vưu tác chủ quốc sự mà nam tuần qua nước Xích Quỷ,
thấy Long Quân dã về Thủy phủ, trong nước không vua,
mới lưu ái thê là Âu Cơ cùng bộ
chúng thị thiếp ở lại hành cung.” bản dịch của
Lê Hữu Mục,xb, Huế 1960, tr.43 ).
Hiên
Viên
kéo nhóm dân du mục hung dữ,
tàn bạo đánh úp Xuy Vưu tại Trác Lộc, một
địa điểm trên bờ sông Hoàng Hà, phía
bắc tỉnh Hà Nam. Dân Cửu Lê, một chi hhánh
của đại tộc Bách Việt, là dân vốn sống bằng ghề
nông nghiệp, hiền lành. ít có chiến tranh,
không phòng bị gặp phải thứ dân du mục quen nghề
chém giết nên bị thua. Xuy Vưu bị giết, dân bị
tàn sát, bị bắt làm nô lệ, một số chạy trốn.
Trong
số
bị bắt, đông nhất hẳn là đàn bà.
Giống dân du mục lang thang đó đây theo bầy gia
súc rất cần đàn bà nên khi đánh một
bộ lạc nào, việc đầu tiên là tàn sát
đàn ông và bắt đàn bà làm vợ,
làm nô lệ. Ðám Hoa tộc của Hiên
Viên cũng không ngoài thông lệ đó. Họ
bắt đàn bà, giết người đau yếu, bắt người khỏe mạnh
làm nô lệ. Nhưng dân Cửu Lê sau khi thua trận,
những người khỏe mạnh đã bỏ chạy trốn. Họ chạy xuống miền nam
sông Hoàng Hà để nương náu với đồng tộc của
họ đang sinh sống ở đó. Họ cũng chạy ra biển, vượt biển,
có lẽ là nơi trước đó họ đã đổ bộ
vào đất liền. Họ chạy qua Ðại Hàn, Nhật Bản,
Ðài Loan, Hải Nam, và Bắc Việt. Nhóm tới
Bắc Việt, nhập vào dân Việt đã sống ở đó
và đã lập quốc gọi là Văn Lang.
Sử
Tàu
khoe rằng đã bắt được đám Cửu Lê với
vũ điệu Xuy Vưu. Như thế là dân Cửu Lê đã
có một trình độ văn hóa khá cao với
các vũ điệu mà Hoa tộc phải học lại. Họ còn học
lại với lớp dân Cửu Lê nghề canh nông, nghề
đánh cá. Và bây giờ thì Hoa tộc trở
thành dân định canh định cư, hết còn lang thang
bằng nghề chăn nuôi súc vật nữa.
(
Xin
mở dấu ngoặc ở đây để nghe triết gia Kim Ðịnh
nói về vũ điệu Xuy Vưu mà cụ gọi là Li Vưu
vì cho rằng người Tàu, khi chiến thắng đã gọi kẻ
thua trận bằng tên rất xấu có ý khinh miệt
nên phải gọi là Li Vưu mới đúng (Li Vưu có
nghĩa là Rồng vàng thượng thặng)… “Ðồ múa
thì gồm có móc, búa, đuôi bò
và nhất là lông chim ngũ sắc, chữ nho kêu
là vũ. Chính vì thế bài vũ có
tên Vũ Nghi. tức là trang sức (nghi) bằng lông
chim ngũ sắc (vũ). Nếu nói Nghê thường vũ y khúc
(chỉ màu ráng đỏ) phương Nam, thường là
váy, y vũ là áo bằng lông… Những đồ vũ
đó nhất là lông chim ngũ sắc đã từ lâu
gắn liền với vũ, hễ múa là phải đeo lông chim
thì múa mới thành, mà múa có
thành thì lễ mới nên (valid). Bởi thế vũ có
mang lông chim đã trở nên con cháu chủ quyền
của Việt lý, con cháu có thể dùng để nhận
diện gia bảo…” Kim Ðịnh, Văn Lang Vũ Bộ.)
Dân
Cửu
Lê còn ở lại bị liệt vào hạng
tôi đòi hạ lưu của xã hội Hoa tộc và bị
gọi là lê dân (đầu đen) :
“Lê dân sồng trong cảnh lầm than khổ cực” và
câu : “Ðược mắt xanh ngó tới” chứng tỏ rằng tầng lớp
quý tộc, thống trị là người Hoa, con mắt họ lúc
đó còn màu xanh và tóc hung đỏ của
rợ Nhục chi, còn dân Cửu Lê thì tóc
đen. Các nhà chủng tộc học gọi giống Hoa tộc này
thuộc chủng Trung Mông gô lích. Chủng Bắc Mông
gô lích là người Mông cổ và sau
này gọi giống người ở Hoa nam là Nam Mông gô
lích.
Ðó
là
lần đầu có cuộc đụng độ chiếm đất, đồng
hóa dân Việt của Hoa tộc.Cuộc đụng độ lần đầu tiên
này do sử Tàu ghi lại để khoe thành tích,
nên ta mới biết có cuộc xâm lăng khủng khiếp
đó, nếu không thì chẳng ai biết gì và
cứ tưởng vùng đất Hoa bắc ấy là của Hoa tộc từ thuở
nào, chứ có ai dè đất ấy là của Việt tộc
đã ở đó hàng ngàn năm trước.
Nhóm
Cửu
Lê thất trận rồi, lớp bỏ chạy, lớp ở lại bị đồng
hóa với Hoa tộc thì bên cạnh đó, ở
vùng sông Bộc có một nhóm khác cũng
thuộc dòng Việt tộc, đó là nhóm Bách
Bộc. Sông Bộc là con sông phát nguyên
từ cao nguyên tỉnh Sơn Ðông chảy vào sông
Hoàng Hà. Ðịa bàn của nhóm Bách
Bộc không xa Trác Lộc, nơi Hiên Viên
đánh Xuy Vưu là bao nhiêu.
Nhóm
Bách
Bộc này sống bằng nghề canh nông
và tầm tang (trồng dâu nuôi tằm dệt lụa). Họ
có lối sống cổ sơ hồn nhiên trai gái giao du
thân mật không bị cấm đoán “nam nữ thụ thụ bất tương
thân” như Hoa tộc. Người Hoa thấy lối sống thân cận nam nữ
của dân Bách Bộc thì chê bai chỉ trích
là cảnh dâm loạn : “trên bộc trong dâu”.
Nhóm
Bách
Bộc này rồi cũng bị người Hoa tấn
công chiếm đất. Không biết có những trận chiến xẩy
ra khốc liệt như với nhóm Cửu Lê hay không vì
không thấy sử chép nhưng biết rằng nhóm này
bị lấn đất mãi, bị dồn lên cao nguyên Sơn
Ðông và cuối cùng cũng bị đồng hóa với
Hoa tộc. Nhóm Bách Bộc bị dồn lên cao nguyên
Sơn Ðông này, Tàu gọi họ là Đông
Di. Những người Di Việt bị dồn lên Cao nguyên Sơn
Ðông vẫn còn tồn tại và luôn luôn
nổi lên chống đối Hoa tộc. Cho mãi đến đời Tam Quốc
nhóm người Đông Di này vẫn còn dằng dai
kháng cự. Cụ thể là nhóm người mà
Tàu gọi là Hoàng cân (khăn
vàng, người Di này dùng khăn bịt đầu vì họ
cắt tóc ngắn, phát tiễn, một dấu chỉ của người
Việt, sử Tàu cũng cho biết người Di này nhuộm răng đen
và xâm mình), nổi lên đánh
phá khắp vùng Sơn Ðông làm điêu
đứng nhà Hán không ít và cũng
là dịp cho Lưu Bị, Tào Tháo, Tôn Quyền xuất
hiện lập ra ba nước Thục, Nguỵ, Ngô.
( Chính nhóm Huỳnh
Cân này phát khởi ra Thiên Ðịa Hội.
Có ba người tự xưng là :
-
Thiên
công tướng quân : Trương
Giốc
-
Ðịa
công
tướng quân : Trương Bảo
-
Nhân
công tướng công : Trương Lương
Họ
kết
hợp lại thành “Tụ Nghĩa Hội” hay là “Bài
Huyết Hội” thường gọi là “Thiên Ðịa Hội”. Thiên
Ðịa Hội từ đó bành trướng khắp nước Tàu, trước
còn có mục đích yêu nước sau biến dạng
thành các tổ chức anh chị đâm thuê
chém mướn, buôn lậu. Thiên Ðịa Hội có một
thời hoạt động rất mạnh tại miền nam Việt Nam thời Pháp mới đặt
nền đô hộ.
Ðời nhà Tống có
các
hảo hớn Lương Sơn Bạc nổi lên chống lại triều đình thối
nát tham nhũng, Căn cứ của các hảo hớn này
là tỉnh Sơn Ðông, hẳn là người Di lại đã
nổi lên chống lại người Hoa cai trị. Ðến đời nhà Thanh
những người Di này lại nổi lên chống nhà Thanh với
danh hiệu là “Nghĩa Hòa Quyền”, khẩu hiệu là “Diệt
Thanh Phục Minh” về sau thấy người Tây phương qua ức hiếp người
Tàu họ lại quay ra “Phù Thanh Diệt Dương” Nghĩa
Hòa Quyền kéo quân vào thành Bắc Kinh
đánh phá các tòa đại sứ, lãnh sự
Tây phương khiến các nước Tây phưong phải kéo
quân vào đánh quân Nghĩa Hòa Quyền,
người Tây phương gọi đám quân này là
Boxer, Quyền phỉ. Từ ngày bị người Hoa dồn lên cao
nguyên Sơn Ðông đến nay có hơn năm ngàn
năm, bị người Hoa bao vây tứ phía, thế mà người Di
(BộcViệt) vẫn còn đầy sức sống để nổi lên chống lại
đám người Hoa xâm lăng. Ngày nay những người Sơn
Ðông mãi võ, thường hay đi bán thuốc ở
Việt Nam là hậu duệ của người Di Việt hay Bách Bộc
này. Phải chăng người Sơn Ðông mãi võ
này, thuộc Thiếu Lâm bắc phái, biết họ
có mối liên hệ ruột thịt của dòng máu
Bách Việt với người Việt Nam nên mới thường xuyên
tìm đến như thế ? ).
Dân
Bách
Bộc bị Hoa tộc xâm lăng thì bỏ chạy
tứ tán, một số đi ra biển đông tới Nhật ,Cao ly,
Ðài Loan, Hải Nam, Việt Nam…, một số rút lên
Cao nguyên Sơn Ðông kháng cự chống lại Hoa tộc
như ta đã biết, một số chạy xuống vùng đồng bằng
sông Dương Tử, nơi có các nhóm Việt
khác đang sinh sống tại đó. Ở đây, họ thành
lập nước Bộc và cầm đầu các nước Việt khác chống
lại nước Sở.
Thế
là
địa bàn Hoa Bắc ở vùng sông
Hoàng Hà, Hoa tộc đã chiếm trọn của Việt tộc
và lập ra đó nhiều nước mà sử Tàu gọi
là vạn quốc. Ðến thời Chiến Quốc(476-221 TCN) lúc
nhà Ðông Châu mạt vận thì chỉ còn
7 nước(Tề, Sở, Ngụy, Yên Triệu, Hàn, Tần) vì
các nước nhỏ đã bị các nước lớn nuốt hết, để rồi
Tần Thủy Hoàng gồm thâu lục quốc thống nhất nước
Tàu.
Người
Tây
phương chỉ biết nước Tàu từ thời Tần Thủy
Hoàng nên họ lấy tên nước Tần của Tần Thủy
Hoàng để gọi nước Tàu hay Trung Hoa, đọc theo giọng quan
thoại tức tiếng nước Tần là Ch’in hay Tsin, người Pháp
đọc là Chine, người Anh đọc là China. Người Hoa tự coi họ
như là trung tâm của thiên hạ (Trung Hoa). Vì
tự tôn nên họ coi những dân tộc sống xung quanh họ
là man di mọi rợ. Dân phía bắc họ gọi là Bắc
Ðịch (Mông cổ, Mãn châu), phía tây
là Tây Nhung (Tây Tạng), phía đông
là Ðông Di (Bộc Việt), phía Nam là Nam
Man (Bách Việt). Khi tiếp xúc với người Tây phương
thì họ gọi dân da trắng đó là Bạch quỷ!
Ngày
nay
người Tàu không gọi nước họ là
Trung Hoa mà gọi là Trung Quốc. Họ không gọi
nòi giống họ là Hoa mà gọi là Hán.
Ðó chẳng qua là họ muốn dấu tung tích
nòi giống Hoa tộc đã đánh chiếm đất của các
giống Việt, Mãn, Mông ,Tạng và Hồi.và đồng
hóa các dân tộc này. Không có
thứ dân tộc nào là Hán cả mà chỉ
có Hoa tộc, Việt tộc, Tạng tộc, Mãn tộc, Mông tộc,
Hồi tộc. Ðể ru ngủ các tộc khác ngoài tộc Hoa
khỏi nổi lên đòi đất, đòi tự chủ nên tộc Hoa
đã chịu dấu kỹ cái tộc Hoa của mình mà lấy
cái tên Hán làm tên chung cho
các thứ dân tộc đã bị người Hoa đồng hóa.
Ngày
xưa
người Tàu thường dùng các
tên triều đại cai trị để gọi tên nước, tên người, như
dưới thời nhà Ðường thì gọi tên nước là
Ðường quốc, người Ðường (Thoòng dành), đời
nhà Mãn Thanh thì gọi là nước Ðại
Thanh, người Ðại Thanh.
Lưu
Bang
và Hạng Vũ cùng nổi lên lật đổ nhà
Tần của Tần Thủy Hoàng. Lưu Bang có ý muốn trừ
Hạng Vũ để tự thống nhất thiên hạ. Hạng Vũ cả giận muốn giết đi
nhưng nghĩ thương tình vì cũng là người nước Sở
cả, nên mới cho vào trấn đất Hán Trung và Ba
Thục phong cho tước hiệu là Hán Vương. Về sau Lưu Bang
lập mưu đánh bại Hạng Vũ và lên ngôi lấy tước
hiệu Hán vương đổi thành Hán Hoàng Ðế
tức Hán Cao Tổ, thủ đắc một nước Tàu thống nhất và
xâm chiếm Bách Việt do công của Tần Thủy
Hoàng lập ra. Vì nhà Hán cai trị nước
Tàu lâu đời và trọng dụng các nho sĩ
nên được ca tụng, rồi từ đó chữ nho được gọi là chữ
Hán, người Tàu được gọi là người Hán.
Ðáng lý ra người Tàu phải gọi người Tần, Ch’in
hay Tsin như người Tây phương gọi là Chine, China mới
đúng vì công thống nhất nước Tầu là của Tần
Thuỷ Hoàng !
PHẦN II
NƯỚC SỞ :
KHUÔN MẪU CỦA HOA TỘC NUỐT CÁC NƯỚC VIỆT TỘC.
CUỘC CHIẾM ĐẤT
LẦN
THỨ HAI.
Hoa tộc chiếm được
bình
nguyên Hòang Hà rồi thì họ lập lu bù
nước ở đó, có lúc lên đến hàng vạn
nước. Thật ra chỉ là những bộ tộc, những họ, mỗi họ chiếm một
một vùng tự xưng là nước chư hầu dưới quyền của một
ông hòang đế, đó là các vua
nhà Hạ, nhà Thương Ân, nhà Châu
và chính các ông vua này tự xưng
là Thiên tử, con trời! Hoa tộc vốn là dân du
mục đi theo đàn súc vật kiếm sống, nay vào chiếm
được phần đất Trung nguyên, đất đai tốt tươi mầu mỡ, thì
mạnh ai nấy chiếm để vừa canh tác vừa nuôi súc vật.
Họ trở thành những lãnh chúa phong kiến.
Các lãnh chúa này có tham vọng đất
đai quyền hành thường xung đột lẫn nhau để chiếm đất, bắt địch
thủ phải triều cống, phục tùng. Vì thế từ hàng vạn
nước, dần dà nuốt lẫn nhau xuống còn vài
nghìn, vài trăm. Tới thời Đông Châu mạt vận
thì chỉ còn 7 nước, đó là các nước
Tần, Triệu , Tề, Sở, Yên, Ngụy, Hàn. Rồi chúa nước
Tần là Tần Vương Chính “gồm thâu lục quốc”, nuốt
chửng 6 nước kia, lên ngôi Hòang Đế lấy hiệu
là Tần Thủy Hòang, thống nhất các nước Hoa tộc
(221 TCN).
Sau trận đụng độ lớn lao giữa
Hiên
Viên và Xuy Vưu, sau khi đã nuốt chửng Cửu Lê
và Bách Bộc, sau khi đã dồn dân Đông
Di (Bách Bộc) lên cao nguyên Sơn Đông
và bao vây họ ở đó thì không
còn trận đụng độ nào lớn lao giữa Hoa tộc và Việt
tộc. Phải mất gần ba ngàn năm (3000 ) sau mới làm cho con
hổ đói Hoa tộc chồm xuống nuốt trọn miền Hoa Nam của dân
Bách Việt. ( trừ trường hợp vua Cao Tông nhà Ân
“phạt Quỷ Phương tam niên” tức xâm lăng nước Xích
Quỷ hay Văn Lang đời Hùng Vương thứ 6 trong 3 năm và bị
đức Phù Đổng Thiên Vương đánh bại, từ đó
không còn dám xâm phạm đất Văn Lang lần
nào nữa.)
Trong
lúc Hoa tộc lo củng cố, phát triển phần đất chiếm được
thì không phải là họ chịu để yên cho
dân Việt được sinh sống giữ gìn đất đai của mình
mà họ âm thầm áp dụng một phương thức xâm
thực ôn hòa, bền bỉ mà vô cùng nguy
hiểm, thâm độc, cho đến lúc người dân Việt bị Hoa
hóa hồi nào không hay và phần đất Việt
đó trở thành đất của Hoa tộc!
Nước Sở là
trường hợp điển
hình cuộc Hoa hóa đó.
Mấy ông vua
Tàu tuy chức tước
lớn lao tự xưng là Thiên tử, Con Trời, là
Hòang Đế, các chư hầu phải phục tùng triều cống,
nhưng thật ra đất đai chẳng có bao nhiêu, binh lính
cũng chẳng nhiều nên khi có anh chư hầu nào ngang
bướng không thèm nghe lời thiên tử, tự xưng chức
bá chức vương thì ông Hòang đế phải cầu cứu
(triệu tập) các nước chư hầu để dẹp loạn. Nếu các chư hầu
không đồng thuận hay sợ cái anh ngang bướng đó,
vì anh ta dữ quá thì ông Hòang đế
cũng đành vuốt giận làm ngơ!
Các
ông
vua đó cũng
thường hay phong chức (Phong) và cắt đất (Kiến) cho mấy
công thần để đền ơn, để làm vây cánh, lấy chỗ
này một ít ban cho ông này, lấy chỗ kia một
ít kiến cho ông khác và như thế chế độ phong
kiến mỗi ngày mỗi củng cố. Trong trường hợp đó, vua
nhà Châu đã phong chức cho Hùng Dịch
và chỉ đại một miếng đất của người Việt ban cho ông
này với mục đích đẩy ông này đi tiên
phong trong việc chiếm đất Việt tộc.
Châu Thành
Vương
(1285 TCN) phong
cho Hùng Dịch tước Tử và “ban” cho đất Kinh Cức là
đất Việt làm lãnh thổ. Đây không phải lần duy
nhất mà ông vua Tàu lấy đất Việt phong cho
công thần. Sử Tàu chép : “Năm Quý Mão
(2083 TCN) vua Thiếu Khang nhà Hạ phong cho con thứ là
Vô Dư ở đất Việt.” Rồi không thấy sử nói gì
nữa. Không biết đất Việt đó ở đâu, cái
ông Vô Dư được phong đó (hay bị đày)
có đến đất Việt hay không và có làm
được gì không, hay đã bị dân Việt nuốt chửng
mất! Từ khi Vô Dư được phong ở đất Việt cho đến Hùng Dịch
phải mất gần 800 năm lại mới có cuộc chiếm đất phong bừa như
thế. Đây là hai trường hợp mà sử sách
có nói đến, có lẽ còn nhiều trường hợp lấy
đất Việt phong bừa cho các người khác, nhưng sử
sách không nói đến vì những người này
không có tiếng tăm, hoặc họ bị dân Việt giết hay bị
đồng hóa với dân Việt cả rồi.
Hùng Dịch được
phong
vì
giòng họ có công nhiều kể từ đời Xuyên
Húc. Trong giòng họ có một người tên Lục
Chung. Lục Chung cưới con gái nước Quỷ Phương, có thai
mười một (11) tháng rồi giở nách bên tả sinh 3
người con, giở nách bên phải sinh 3 người con! Người thứ 6
tên là Quý Liên họ Mỵ (Mễ). Quý
Liên có một người con tên Dục Hùng. Dục
Hùng lấy tên làm họ. Từ đó con cháu
đều lấy tên Hùng làm họ. Hùng Dịch là
cháu.
Truyện Lục Chung cưới
con
gái nước Quỷ
Phương làm ta chú ý. Nước Quỷ Phương này
được nhắc đến khi Ân Cao Tông “phạt Quỷ Phương tam
niên”. Nước Quỷ Phương mà sử Tàu nói đến
nó trùng hợp với nước Xích Quỷ trong truyền thuyết
của ta. Xích Quỷ là tên nước ta thời Kinh Dương
Vương. Truyền thuyết của ta có nói đến vua nhà
Ân là Cao Tông kéo quân xâm lăng
nước Quỷ Phương 3 năm mà sử Tàu gọi là “phạt Quỷ
Phương tam niên” nhưng “bị Thánh Gióng (Phù
Đổng Thiên Vương) đánh phải chôn xác lại
trên đất Việt, có nói trong Kinh Thư, mà
các sử gia Tàu có ý dập bớt đi” (Kim Định,
Hưng Việt)
Xin mở
dấu ngoặc ở đây để nói về nước Xích Quỷ.
Xích Quỷ là tên nước của Kinh Dương Vương.
Tên Xích Quỷ này gây nhiều tranh luận.
Có người cho là truyện bịa đặt, đâu có ai
lại di đặt tên nước xấu như vậy! Ông Nhượng Tống
bàn như sau: “Người Tàu cho mình là văn
minh và người khác là dã man, là
quỷ. Cho mãi đến gần đây họ còn gọi người da trắng
là Dương quỷ, Bạch quỷ. Như thế có lẽ ngày xưa họ
gọi mình là Xích quỷ vì ta ở phương Nam
và theo thuyết năm hành của họ thì xích
(đỏ) là màu của phương nam. Nhưng có lẽ nào
vua nước ta lại tự đặt lấy cái tên xấu xí như thế ?”
Triết
gia
Kim Định cho rằng cái tên Xích Quỷ
là có thật : “…Đây là giai đọan thờ mặt trời
mà ấn tích còn sót lại là tên
Xích Quỷ, hiểu quỷ là làm chủ, còn
xích là tinh hoa của cái gì, đây
là tinh hoa của thời thờ mặt trời.”
Ông Bình Nguyên Lộc viết: “Truyền thuyết ta cho rằng
nước ta tên là Xích Quỷ, Ngô Sĩ Liên
chép lại, bị Nhượng Tống cứ cho rằng lẽ nào ta lại đặt
tên nước xấu đến thế. Nhưng chúng tôi sẽ
trình diện một thứ người cổ Mã Lai tự xưng là Lạc,
nói tiếng Việt cổ và mang màu da thổ chu….Truyền
thuyết của ta không ngốc đâu. Xích Quỷ có thể
là danh xưng mà Tàu gọi ta vào cổ thời ta
không hiểu, nhưng cứ nhận y hệt như nước Xiêm.”
Ông Bình Nguyên Lộc trình diện người Việt cổ
có màu da thổ chu là người Khả Lá
Vàng, sống ở vùng Trường Sơn giữa Việt Nam và
Lào : “Những người này cao lớn, nước da thổ chu,
xâm trán (Điêu đề) nói tiếng cổ Việt Nam, ăn
canh cua đồng. Màu da thổ chu của Khả Lá Vàng cắt
nghĩa được tại sao ta là Xích Quỷ mà Nhượng Tống
phủ nhận cho rằng không lẽ nào ta lại lấy tên nước
xấu như vậy. Tóm lại Khả Lá Vàng theo tài
liệu ở đây là tộc “Xích Quỷ”, xâm trán
(điêu đề), tự gọi là Lạc (Alak), nói tiếng Việt cổ,
ăn canh cua đồng và đàn bà đẻ nằm bếp”. (BNL,
Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc VN)
Ông Nguyễn Xuân Quang viết : “Tên nước Xích
Quỷ rất giản dị. Xích là đỏ. Quỷ phiên âm từ
chữ Kẻ là người. Xích Quỷ là Người Đỏ, là
Kẻ Đỏ. Kẻ Mặt Trời. Người Mặt Trời. Việt Mặt Trời. Nước Xích Quỷ
là nước Người Mặt Trời rực lửa.
Và ông “khám phá” ra một nước Xích
Quỷ ở Hoa Kỳ. “Đó là tiểu bang Oklahoma, với Okla
là ochre : hoàng thổ, đất đỏ. Homa là Người.
Oklahoma là người “Thổ Chu”, người “Da Đỏ chính là
Xích Quỷ.”(NXQ, Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt)
Ông Lê văn Ẩn giải nghĩa Xích Quỷ : “Xích
có nghĩa đường Xích đạo. Quỷ ở dây là sao
Quỷ, tượng trưng cho Phương Nam. Khi vua Vũ Định nhà Ân
(Ân Cao Tông) đóng quân tại Kinh, tức
vùng Kinh thuộc Châu Kinh. Thời điểm đó thì
sao Quỷ nằm tại vùng Châu Kinh, mà Châu Kinh
là của Việt nên người Việt ta mới có truyền thuyết
Phù Đổng Thiên Vương chống giặc Ân. Chống giặc
Ân tức là chống quân của Ân Cao Tông từ
phía Bắc kéo xuống”. (LVA, Việt tự và khảo
cổ, Giai phẩm Xuân Giáp Thân 2004, Thời Báo)
Truyện
ông
Lục Chung cưới con gái nước Quỷ Phương chứng tỏ con cháu
Lục chung có lai giòng máu Việt. Hùng Dịch
là thứ con lai đó. Có lẽ vì thế mà
vua Châu Thành Vương mới đẩy xuống đất Kinh Việt
làm lãnh chúa, đi tiên phong mở mang bờ
cõi, nếu thành công thì là đầu cầu
cho Hoa tộc tràn xuống đất Việt, còn nếu có bị
dân Việt phản ứng giết đi thì ráng chịu!
Đất
Kinh
Cức
Hùng Dịch được phong nằm ở thượng nguồn phía tây
sông Hán. Ở đó có núi Kinh và
thứ cỏ gai mọc tràn lan tên là Cức. Nó
là đất của dân Việt nên cũng gọi là Kinh Việt
hay Kinh Man. Ngày nay nó thuộc về tỉnh Hồ Bắc.
Hùng
Dịch
vì có máu lai nên đi xuống
vùng Kinh Cức cũng như người về quê mẹ. Dần dà quy
tụ được một số người dưới trướng, rồi bành trướng mãi ra,
bắt các đầu mục các trưởng lão quy thuận. Thế
là Hùng Dịch có được một địa vị, trở thành
chúa một nước, nước Sở. Hùng Dịch lại được một số người
Hoa tới bổ xung, lấn dần đất, cho người Hoa lai với dân Việt, bắt
dân Việt ăn mặc, sống theo nếp người Hoa, dần dà người
Viêt bị Hoa hóa. Hùng Dịch rồi con cháu cứ
lấn dần đất Việt từ Hồ Bắc xuống Hồ Nam nơi có Hồ Động
Đình. Hồ Động Đình đối với dân Việt như vùng
Thánh Địa vì ở đó là nơi bà Long Nữ,
con gái Động Đình Quân lấy Kinh Dương Vương. Nơi
đó Lạc Long Quân lấy mẹ Âu Cơ đẻ bọc trứng nở ra 100
con, thủy tổ của dòng Bách Việt. Từ nay vùng
Thánh Địa của dân Việt lọt vào tay Hoa tộc.
Dân
Việt
lại phải một lần nữa lui xuống phía nam Ngũ Lĩnh
hay chạy qua phía đông sông Hán để nương nhờ
các nước Việt còn đứng vững nơi đó.
Cuộc
chiếm
đất một cách âm thầm như tằm ăn dâu của
Hoa tộc đã kéo dài từ Hoa Bắc xuống tới sông
Trường Giang và Hồ Động Đình.
Đó
là
lần thứ hai Hoa tộc bành trướng lãnh
thổ, xâm chiếm đất Việt.
CUỘC XÂM LĂNG LẦN THỨ BA :
NƯỚC SỞ NUỐT TRỌN CÁC NƯỚC VIỆT
MIỀN HÁN ĐÔNG.
Trong
khi
Hùng
Dịch
và con cháu thành lập nước Sở ở miền
Hán Tây (phía tây sông Hán)
thì tại miền Hán Đông (phía đông
sông Hán) dân Việt thành lập nhiều nước trong
đó có các nước như : nước Ba, nước Ưu, nước Đặng,
nước Giao, nước La, nước Viên, nước Nhị, nước Chẩn, nước
Thân, nước Giang, nước Tùy, nước Huỳnh (Hòang),
nước Dung, nước Bộc. Chắc còn nhiều nước nữa nhưng không
được nhắc đến vì chỉ có các nước kể trên mới
thành lập liên minh chống Sở.
Nước Sở đã
chiếm trọn miền Hán Tây xuống đến Hồ Động Đình,
đã khuất phục được dân Việt ở đó thì quay ra
dòm ngó các nước Việt ở Hán Đông.
Nước Sở cho quân sang quấy nhiễu bắt các nước
này phải phục tùng, phải triều cống khiến các nước
này phải liên kết lại thành liên minh chống
nước Sở. Dưới con mắt các nước Việt thì Sở là
dân mất gốc dưới quyền cai trị của tầng lớp thống trị Hoa tộc.
Đến thời Sở Trang Vương thì dân Việt đất Sở đã bị
đồng hóa với Hoa tộc cả rồi. (611 TCN)
Vì cứ bị nước Sở lấn đất, cướp của
bắt người nên các nước Việt vùng Hán
Đông nhất quyết liên minh đánh Sở. Các nước
Việt liên minh dưới quyền lãnh đạo của nước Bộc. Nước Bộc
Việt này là dòng dõi của dân
Bách Bộc trên sông Hòang Hà bị Hoa tộc
xâm chiếm thời Hiên Viên, chạy xuống phía
Hán Đông, thành lập nước Bộc Việt.
Chúa nước
Sở là
Sở Trang Vương thấy quân các nước Việt đông
quá, hỏang sợ định chạy trốn qua phía tây.
Các tướng nước Sở trấn an Sở Trang Vương và liều chết
xông vào đánh liên quân Việt, chiếm
được nước Đặng rồi sáp nhập nước này vào nước Sở
luôn. Liên quân Việt thấy quân Sở mạnh
quá đánh không lại nên phải lui quân.
Các nước Việt này rồi bị Sở chiếm lần lần, một số
khác bị nước Ngô nuốt.
Các nước Việt
nho nhỏ ở Hán
Đông tan rã, nhưng lại nổi lên hai nước cùng
dòng tộc Việt khác rất nổi tiếng thời Đông
Châu cũng gọi là thời Xuân Thu hay Chiến Quốc,
đó là nước Ngô và nước Việt.
Nước Ngô ở
vào tỉnh Giang
Tô ngày nay. Vua nước Ngô lúc đó
là Thọ Mông. Một phản tướng của nước Sở là Khuất Vu
chạy trốn qua nước Tấn nên tộc đảng bị vua Sở đem chém
hết. Khuất Vu tức giận, đổi tên là Vu Thần, bày mưu
cho vua nước Tấn là Tấn Cảnh Công sang giao hiếu với nước
Ngô, dạy cho nước Ngô về binh pháp, chế tạo vũ
khí để mượn tay nước Ngô đánh phá nước Sở.
Vu Thần lại cho con là Hồ Dung sang làm quan ở nước
Ngô. Từ đó nước Ngô hùng mạnh lên,
chiếm các nước Việt Hán Đông của nước Sở.
Nước Ngô nổi
tiếng về tài
đúc kiếm. Thanh kiếm Can Tương và Mạc Gia rất nổi tiếng
được sử Tàu nói đến nhiều. Vì có tài
luyện kim, đúc kiếm, chế tạo vũ khí nên kho vũ
khí rất dồi dào. Nước Ngô lại được phản tướng nước
Sở là Ngũ Viên tự là Ngũ Tử Tư sang đầu, rèn
luyện quân binh rất hùng mạnh. Nước Ngô lại được
thêm Tôn Vũ là người Việt nước Ngô. Tôn
Vũ là một chiến lược gia, viết bộ Binh Thư, thường được biết
dưới tên “Tôn Ngô Binh Pháp” nổi tiếng cho đến
ngày nay các nhà quân sự vẫn còn
áp dụng. Có thể nói nước Ngô là nước
mạnh nhất thời đó. Ngũ Tử Tư vì muốn báo
thù vua Sở nên xúi vua Ngô đánh nước
Sở. Vua Ngô là Hạp Lư đem quân đánh Sở,
vào chiếm kinh đô nước Sở là Dĩnh Đô, vua Sở
phải bỏ chạy. Vua Ngô Hạp Lư lập con vua Sở là công
tử Thắng làm vua rồi rút quân về. Con Hạp Lư
là Phù Sai nối ngôi làm vua nước Ngô,
thế lực bao trùm cả các nước chư hầu nhà
Châu. Ngô Phù Sai triệu tập các nước chư hầu
nhà Châu để xưng Bá thay cho nước Tấn. Đây
là lần đầu tiên một nước Việt tộc đã làm
bá chủ các nước Hoa tộc và sau đó một nước
Việt tộc khác là U Việt của Câu Tiển lên
làm bá chủ thay Phù Sai.
Phía dưới nước
Ngô, có
nước Việt tức U Việt, nay là tỉnh Chiết Giang. Vua nước Việt
là Dõan Thường chăm lo sửa sang triều chính,
dùng người hiền lương, thương mến dân nên nước mỗi
ngày mỗi cường thịnh. Vua nước Ngô là Dư Sái
thấy thế đâm lo lắng sai tướng sang đánh nước Việt, bắt
được tướng Việt là Tôn Nhân đem về chặt chân
sai giữ thuyền vua. Một hôm Dư Sái ngự chơi thuyền, uống
rượu say rồi ngủ quên. Tôn Nhân cởi thanh gươm của Dư
Sái, đâm Dư Sái chết. Bọn nội thị xúm lại
giết Tôn Nhân. Từ đó giữa nước Ngô và
nước Việt có mối thù khiến hai nước cùng chung
dòng giống Việt này gây chiến muốn tiêu diệt
lẫn nhau.
Nước Việt
cũng rất giỏi nghề
luyện kim đúc kiếm, đúc đồng pha. Tương truyền vua nước
Việt có 5 thanh kiếm quý do kiếm sư Âu Gia Tử luyện
ra. Vua Ngô là Thọ Mông nghe tiếng muốn lấy
nên vua Việt phải dâng 3 thanh kiếm, đó là
các thanh Ngư Trường, Ban Dĩnh và Trạm Lư.
Vua Ngô
là Dư
Sái bị tướng Việt Tôn Nhân giết, vua kế vị là
Hạp Lư hận lắm, điều đông binh thuyền để trả thù. Hạp Lư
mới thắng nước Sở thanh thế rất lớn. Vua nước Việt là Câu
Tiễn cho lũ tù nhân cầm gương kề cổ, kéo tới dinh
quân Ngô la lớn rồi đâm gươm vào cổ tự tử chết
(thuật tự đâm mình chết này được các di
dân Việt đem theo qua Nhật Bản trở thành Harakiri).
Quân Ngô thấy việc lạ chạy ra xem, ngơ ngác chẳng
hiểu gì cả, quên cả phòng bị. Lúc đó
quân Việt từ tả hữu kéo đến xông vào dinh
quân Ngô làm quân Ngô rối loạn. Vua Hạp
Lư bỏ chạy bị tướng Việt chém đứt ngón chân
cái, rớt mất giày. Hạp Lư đã già, đau
quá chịu không nổi nên chết.
Con Hạp Lư
là Phù Sai
lên kế ngôi. Phù Sai nhớ hận vua cha bị quân
Việt giết nên đem quân qua Thái Hồ đánh Việt
Câu Tiễn, thế quân Ngô rất mạnh, quân Việt
chống không lại phải xin giảng hòa. Phù Sai bắt
Câu Tiễn qua Ngô làm tù binh. Câu Tiễn
bị giam ở nhà đá, nuôi ngựa, Phù Sai đi
đâu, Câu Tiễn phải giắt ngựa. Có lần Phù Sai
bị bệnh, Phạm Lãi coi số biết vua Ngô sắp hết bệnh bảo
Câu Tiễn nếm phân Phù Sai mà chúc mừng
rằng vua Ngô sắp hết bệnh. Vì khổ nhục kế như vậy
nên Phù Sai cảm động mà tha cho về.
(Tương truyền vì
Câu Tiễn nếm phân Phù Sai nên sinh
chúng hôi miệng, mấy ông lang (băm) mới
bày cho Câu Tiễn ăn rau dấp cá để báng
mùi hôi, thế rồi các ông quan cũng đua nhau
ăn dấp cá để tỏ lòng thông cảm với nỗi cay đắng vua
phải chịu. Sau đó, tòan dân nước Việt cũng bắt
chước ăn. Tục ăn rau dấp cá truyền sang nước ta là do
đám người lưu vong chạy qua khi nước Sở diệt nước Việt.
Ngày nay thói ăn rau dấp cá rất phổ biến ở nước
ta. Thời gian Ngô Việt tranh hùng này còn
truyền tụng nhiều giai thọai và ca dao tục ngữ :
“Nằm
gai nếm mật” nghĩa là nằm ngủ trên đống chà, mỗi
ngày phải le lưỡi nếm mật heo cho đắng miệng nhắc nhở đừng
quên mối thù, đó là cách thức vua
Việt Câu Tiễn sau 10 năm bị Ngô Phù Sai cầm
tù được tha về vẫn thực hiện mà nhớ mãi nỗi cay
đắng khi bị cầm tù, để nhớ phải báo thù.
Người
dân nước U Việt bị nước Ngô đày đọa khổ sở nên
tỏ lòng căm phẫn: “Gánh vàng đi đổ sông
Ngô” có ý nói dân Việt phải triều cống
phục dịch Ngô như gánh vàng đi đổ xuống
sông thì biết bao giờ mới lấp đầy lòng tham của vua
Ngô. Hai nước đánh nhau không thôi còn
tìm cách trấn áp trù ếm nhau như trong
câu : “Đánh trống qua cửa nhà Sấm”, vua Ngô
muốn trấn áp vua Việt khi xây thành cho làm
một cái cửa xây về hướng nước Việt và đặt tên
là cửa Sấm có ý chỉ nước Ngô như sấm
xét đánh tan nước Việt. Vua Việt cho thợ đúc nhiều
trống đồng đem ra đánh để làm bạt sấm xét đi!
Thói tục ghét nước Ngô truyền vào nước ta
(Văn Lang, Việt Nam) theo bước chân di cư của dân U Việt,
cứ hễ thấy người Tàu phương bắc, bất luận là sắc
dân nào cũng đều cho là người Ngô, và
chỉ trích chế nhạo. Người Việt có tục nhuộm răng đen
và cho như thế là đẹp, người Tàu thì để
răng trắng, bởi thế mới có câu : “Răng trắng ởn như răng
thằng Ngô”. Lại lấy cả truyện gia đình so sánh với
giặc Ngô : “Giặc bên Ngô không bằng bà
cô bên chồng”., hoặc “Thằng Ngô con đĩ” hoặc
“Hoài con mà gả cho Ngô cho Lào” hoặc “Băm
bầu băm bí, băm chị thằng Ngô, băm cô cái ả”.
Có một bài hát nói hóm hỉnh mỉa
mai“con đĩ” đốt vàng cho”thằng Ngô” như sau :
Tham
giàu
lấy phải thằng Ngô
Đêm
nằm
như thể cành khô chọc vào
Kể
từ
ngày tôi lấy anh
Anh
bảo
tôi rằng chả biết tiếng gì
Tôi chỉ biết một tiếng phán xì là củ khoai
lang.
*
Ba mươi
tết, tết lại ba mươi,
Vợ
thằng Ngô đốt vàng cho chú khách
Một tay
em cầm cái dù rách
Một tay em
xách cái chăn bông
Em ra đứng bờ
sông
Em
trông sang nước người :
Ới chú chiệc
ơi là chú chiệc ơi!
*
Một
tay em cầm quan tiền
Một tay
em cầm thằng bù nhìn
Em ném
xuống sông
Quan tiền
nặng thì quan tiền chìm
Bù
nhìn nhẹ thì bù nhìn nổi
Ới ai ơi của nặng
hơn người!
*
Tội gì
mà ở chính chuyên
Một đêm
là xám côn sìn ai cho!
Có
người
nói rằng dân ta ghét
nhà Ngô đời Tam Quốc vì lúc đó Sĩ
Nhiếp chết mà Ngô Tôn Quyền không cho con
là Sĩ Huy lên nối ngôi cha lại cho người khác
sang làm thái thú. Sĩ Huy đem quân chống giữ
bị giết, người nhà bi bắt đem về Tàu trị tội, dân
ta vỉ thế mà ghét nhà Ngô. Nếu chỉ có
thế thì không ông thái thú này
cai trị ông thái thú khác cai trị cũng vậy
thôi chứ có gì mà phải hận thằng Ngô
đến thế. Đời nhà Hán cai trị còn tàn bạo
biết mấy khiến Hai bà Trưng Trắc, Trưng Nhị phải nổi lên
đuổi Tô Định đi sao dân ta không hận thằng Hán
? Đời nhà Tùy nhà Đường nhà Minh tàn
bạo biết mấy sao dân ta không hận thằng Đường thằng Minh?
Chỉ có thể cắt nghĩa được là dân Việt Câu
Tiễn đã đem mối hận Ngô Phù Sai tới nước ta
và từ đó dân Việt Văn Lang tiêm nhiễm
mà cũng ghét Ngô lây, rồi đồng hoá tất
cả dân Tàu đều là Ngô cả.)
Vua Việt Câu Tiễn được tha về
lo chỉnh đốn binh lính thuyền bè, tích trữ lương
thực. Mặt khác dùng mỹ nhân kế tuyển nàng
Tây Thi dâng cho Phù Sai khiến ông vua
này mải mê sắc đẹp, xây cất Cô Tô
thành, ăn chơi trác táng, trể nải việc binh bị.
Vua Ngô Phù Sai ỷ sức mạnh vì đã đánh
Sở, dẹp Việt, phạt Tề, bèn triệu tập các chư hầu Hoa tộc
nơi đất Hòang Trì (nước Vệ) tranh ngôi
bá chủ với Tấn.
Câu Tiễn được tin
Phù Sai
kéo binh đi hội chư hầu liền kéo mười vạn tinh binh sang
đánh Ngô. Quân Ngô không cự lại được,
tan rã hàng ngũ. Quân Việt thừa thắng kéo
đến vây kinh thành nước Ngô, thủy binh đóng
tại Thái Hồ, còn bộ binh đóng ở cửa Tư Môn.
Bao nhiêu chiến thuyền của quân Ngô bị quân
Việt cướp đọat hết. Phạm Lãi nổi lửa đốt Cô Tô
đài.
Ngô Phù
Sai đang lúc
vừa đoạt được ngôi bá chủ thì nghe tin quân
Việt qua đánh, lật đật kéo quân về theo đường thủy,
bị quân Việt chận đánh phải lui binh và cho
Bá Hy qua xin Câu Tiễn tha cho nước Ngô. Câu
Tiễn nhớ ơn Bá Hy đã giúp đỡ khi bị Phù Sai
bắt tù nên cho nước Ngô giảng hòa.
Ít năm sau,
Câu Tiễn lại đem
quân qua đánh nước Ngô. Phù Sai chống
không nổi phải tự tử. Câu Tiễn họp các nước Tề, Tấn,
Tống, Lỗ xưng bá chủ ở Đông Phương. Câu Tiễn
làm vua được 27 năm.
Hai nước Ngô
và Việt từ cấp
lãnh đạo đến dân đều là người Việt. Hai nước
Ngô và Việt đã thay nhau làm bá chủ
các nước Hoa tộc một thời. Có lúc nước Lỗ bị
quân Tề uy hiếp, Khổng Tử đã phải cho học trò
là Tử Cống sang Ngô và Việt làm thuyết
khách nhờ hai nước này làm áp lực bắt Tề
phải rút quân. Dân Việt đã có một nền
văn minh khá cao. Họ đã biết luyện kim, đúc đồng
pha. Dân Việt trồng lúa nước, phát minh ra
cách dẫn thủy nhập điền.
Sử ký Tư
Mã
Thiên viết về Câu Tiễn như sau : “Tổ tiên của
Câu Tiễn thuộc dòng dõi người Việt (Yue) có
tục vẽ mình, cắt tóc và những tập quán
giống như người Việt ở phương Nam và Âu Việt.” Nước Việt
này từ thế kỷ thứ 5 TCN, đã mở rộng lãnh thổ từ
phía bắc lên đến tận Giang Tô và nam Sơn
Đông.
Hai nước Ngô Việt tranh
chấp, tiêu
diệt lẫn nhau để rồi bị nước Sở là nước Việt đã bị Hoa
hóa nuốt. Sau khi Câu Tiễn mất (465 TCN), các người
kế vị không giữ nổi bờ cõi cũ. Năm 375 TCN nước Việt
chỉ còn phần lãnh thổ ở vùng Chiết Giang và
đến năm 334 TCN nước Việt hoàn toàn bị Sở diệt.
Nước Việt sau những
biến cố này bị
phân tán, các phe trong hoàng tộc
đánh lẫn nhau tranh quyền, mỗi người chiếm một vùng xưng
vương, xưng chúa. Họ chiếm giữ miền duyên hải phía
nam Chiết Giang. Các tiểu quốc người Việt thành
hình được gọi là Bách Việt. Trong các tiểu
quốc Bách Việt này sử sách còn viết đến
các nước chính như Đông Âu (Ôn
Châu, Chiết Giang), Mân Việt (Phúc Kiến), Nam Việt
(Quảng Đông), Tây Âu (Quảng Tây), Dạ Lang
(Quý Châu) Văn Lang (Bắc Việt). Trong khi dân Việt ở
lại lập nên các nước Bách Việt thì cũng
có một số lớn chạy đi các nơi như Nhật Bản đem theo
phương thức đúc kiếm và thuật harakiri, mổ bụng, một số
khác xuống nước Văn Lang đem theo thuật đúc đồng pha…
Năm 317 TCN, một phản
tướng nước Ngụy
là Ngô Khởi xuống đầu nước Sở thực hiện dòm
ngó Bách Việt với việc ký kết hiệp ước thân
hữu với các nước Việt phía nam Cối Kê. Cối Kê
là kinh đô của nước Việt Câu Tiễn, dưới Cối Kê
là các nước Bách Việt từ Phúc Kiến xuống
vùng Ngũ Lĩnh.. Nước Sở, đứa con lai của Hoa tốc, đã nuốt
xong các nước Việt ở vùng Trường Giang nay lại lăm le
nhìn xuống phía dưới Ngũ Lĩnh tức Vùng Lĩnh Nam.
Việc Ngô Khởi dòm ngó các nước Bách
Việt đã gợi ý cho Tần Thủy Hòang đánh xuống
vùng Lĩnh Nam sau này.
Thế là Việt tộc
bị Hoa tộc
xâm chiếm lần thứ ba. Biên cương Việt tộc nay co rút
lại chỉ còn vùng Lĩnh Nam và duyên hải
Phúc Kiến.
BA THỤC BỊ TẦN XÂM CHIẾM.
Nước Ba và nước Thục, một
lòng chảo phì
nhiêu ở thượng nguồn sông Trường Giang, nay là tỉnh
Tứ Xuyên thuộc dòng Âu Việt tức người Thái
sinh sống tại đó, nổi tiếng với thổ sản đậu nành, họ chế
biến thành nước tương, đậu hủ. Nước Thục nổi danh về nghề sơn
mài. Nước Ba và nước Thục được bao phủ xung quanh những
núi non hiểm trở khó có thể ở ngòai
xâm nhập vào được, phía bắc có dãy
Tần Lĩnh hiểm trở, muốn qua phải làm sạn đạo, phía
đông có Tam Hiệp là 3 quả núi ở giáp
bên sông Trường Giang đó là các
núi : Cổ Đường Giáp, Vu Giáp và Tây
Lăng Giáp, ghềnh thác cheo leo tàu bè
không qua được. (ở chỗ này ngày nay xây một
con đập rất lớn gọi là đập Tam Hiệp).
Nước Tần ở
vùng
Thiểm Tây đất
đai khô cằn thấy Ba Thục phì nhiêu thì sinh
lòng tham muốn chiếm đọat. Chúa nước Tần cho tướng Tư
Mã Thác vượt ải làm sạn đạo đem quân
vào chiếm Ba Thục (316 TCN).
(Họ Tư Mã này
hình như là khắc tinh của nước Thục. Mấy trăm năm sau,
một ông Tư Mã khác sẽ lại đánh Thục,
đó là Tư Mã Ý. Về đời Hán mạt, xẩy
ra giặc Hoàng Cân (Đông Di) nhân đó một
số người nhảy ra xưng hùng xưng bá, rồi đi dến việc chia
ba nước Tàu, đó là thời Tam Quốc. Phía bắc,
vùng đất thời Chiến Quốc thuộc về Tào Tháo, gọi
là nước Ngụy. Phía nam, vùng đất nước Sở và
Lĩnh Nam thuộc về Tôn Quyền, gọi là nước Ngô.
Phía tây, vùng đất Ba Thục, Lưu Bị được Khổng Minh
Gia Cát Lượng phò vào chiếm gọi là nước
Thục. Từ vùng đất Thục, Khổng Minh đem quân cố vượt
các cửa ải ra chiếm Quan Trung nhưng đều bị tướng nhà
Ngụy là Tư Mã Ý chặn. Đến khi Khổng Minh chết, Tư
Mã Ý vào chiếm Thục, rồi đánh chiếm
luôn Ngô, lại thống nhất nước Tàu, lập ra nhà
Tấn.)
Vua
Thục
và
hoàng
gia bị giết. Một số người hoàng tộc,
dân chúng và binh sĩ chạy thóat được xuống
vùng Lĩnh Nam (Quảng Tây, Quảng Đông). Họ trở
thành Khách Gia, tức Hẹ, tức Hakka. Dân Thục lưu
vong này rồi sẽ có liên hệ nhiều đến nước Văn Lang.
Tương truyền vua Thục là Đỗ Quyên bị tử trận hóa
thành con quốc, ra rả kêu quốc quốc trông
ngày phục quốc (người ta gọi chim quốc là chim đỗ
quyên). Hiện nay còn một số người Hẹ thờ chim quốc như
là vật Tổ.
Đây
là cuộc xâm lăng của nhà Tần vào đất
dân Thái tức Âu Việt để sau đó ít
lâu Tần Thủy Hòang đánh chiếm các nước Hoa
tộc rồi tràn xuống phía nam xâm lăng các
nước Việt tộc còn lại. Ta sẽ còn thấy nhóm lưu
vong nước Thục đụng độ với quân nhà Tần ở Lĩnh Nam.
NƯỚC SỞ.
Từ khi Hùng Dịch đến khai
thác vùng Kinh
Cức thì đất Hồ Quảng, tên của hai tỉnh Hồ Bắc và Hồ
Nam, trở thành trung tâm văn hóa và
kinh tế của Trung Hoa. Nước Sở bị Tần diệt. Thật ra nước Sở chỉ bị diệt
có cấp lãnh đạo nhưng dân chúng vẫn
còn đó, mà đa số dân chúng là
dân Việt có lai ít nhiều với Hoa tộc. Tần Thủy
Hòang chiếm nước Sở chỉ vỏn vẹn có 21 năm thì Hạng
Võ, một tướng của nước Sở và một công dân Sở
khác là Lưu Bang cùng nổi lên đánh
Tần rồi đánh lẫn nhau, sau cùng Lưu Bang thắng lập ra
nhà Hán. Dưới đời nhà Hán, nước Tàu
rộng lớn từ Đông Hải tới Tây Vực, Từ Mạc Bắc xuống tới Lĩnh
Nam, nền văn minh, kinh tế phồn thịnh chưa từng có.
Nước Sở đã nuốt
chửng nước
Xích Quỷ, nước Sở đã chiếm Động Đình Hồ, nơi
phát tích, nơi chôn nhau cắt rốn của Việt tộc. Động
Đình Hồ có chu vi 450 cây số, có nơi bề rộng
tới 350 cây số. Vì hồ quá rộng, lớn bằng 3,4 tỉnh
của ta gộp lại nên nó mang nhiều tên như : Động
Đình Hồ, Cửu Giang Hồ, Ngũ Hồ, Tràng Hồ. (Có
truyền thuyết nói Phạm Lãi đốt Cô Tô
đài rồi đem Tây Thi trốn Câu Tiễn tới Ngũ Hồ, tức
Động Đình Hồ). Động Đình Hồ có núi Cửu Nghi
cũng gọi là núi Hành Sơn cao lớn vào bậc
nhất nước Tàu, có những thác cao và đẹp.
Núi Hành Sơn là một trong Ngũ Nhạc tức 5 ngọn
núi cao nhất nước Tàu. ( Ngũ nhạc : bắc có Hằng
Sơn, tây có Hoa Sơn, đông có Thái Sơn,
nam có Hành Sơn, trung ương có Tung Sơn).
Nước Sở tức các
tỉnh Hồ Bắc, Hồ Nam
cũng gọi là Hồ Quảng được tưới mát bằng 4 con sông
lớn là Hòang Hà, Dương Tử Giang, sông
Hán, sông Hoài và vô số phụ lưu
vì vậy mà có nhiều hồ, đầm lầy, kinh rạch, ruộng
vườn phì nhiêu, có thể nuôi cả tỷ người.
Người Hoa tuy
có thiết lập
nền văn minh của họ ở Hoa Bắc nhưng đó là thời kỳ khởi
lập chú trọng nhiều về mặt quân sự, cướp phá hơn
là về văn học. Phải đến khi nước Sở được thành lập ở
vùng Kinh Cức tức vùng Kinh Man, tức Kinh Việt, có
sự đóng góp của dân Việt thì nền văn minh
mới thật nở rộ. Điệu hát Hồ Quảng rất được người Việt ưa
thích (cải lương Hồ Quảng).
Hồ Quảng là đất
của Việt tộc. Nền
văn minh đó chủng Việt đã có phần đóng
góp xây dựng. Những truyện thần tiên và tinh
thần lãng mạn của người Tàu phát tích tại
Động Đình Hồ và núi Cửu Nghi là của
Việt tộc. Người Tàu Hoa Bắc tức Hoa tộc vì sống ở
vùng sa mạc và băng giá nên tinh thần của họ
rất thực tế, tính tình lầm lỳ không thể chế biến
nổi chuyện thần tiên hay tôn giáo.
Thí dụ chuyện
ông Bàn
Cổ (Bangu). Người Hoa nhận ông Bàn Cổ là của họ.
Trong thời kỳ Hỗn Mang, vũ trụ giống như cái trứng gà.
Lúc đó trời đất chưa có. Từ trái trứng
này đẻ ra ông Bàn Cổ, thường được vẽ bằng
hình một người lùn hai tay cầm cái trứng hỗn mang
Âm Dương. Phần nặng lắng xuống, phần nhẹ bay lên trời. Khi
ông Bàn Cổ chết, những phần thân thể của ông
trở thành những yếu tố thiên nhiên như đầu cho ra
núi bốn phưong, mắt cho ra trời trăng, tóc thành
cây cối, rận bọ chét trong mình ông
thành lòai người v.v.. Nhưng ngày nay các
nhà nghiên cứu đã tìm thấy đó
là thần thoại Tạo Thiên Lập Dịa của người Mán.
Ông Bàn Cổ chính thực là ông tổ của
người Mán (Miêu) mà người Hoa nhận vơ là
của mình. Dân ta gọi là ông Bành
Tổ. “Tương truyền mồ mả của ông còn đâu
đó trong miền rừng núi tỉnh Quảng Đông, ông
mới được đưa vào Tàu đời Tam Quốc trong quyển “Tam ngũ
lược kỷ” của Từ Chỉnh và đến đời Tống thì được đưa
vào triết. Trong hòan vũ đông tây cổ kim
không có hình ảnh nào về nhân chủ cao
đẹp hơn hình ảnh Bàn Cổ.” (Kim Định, Hưng Việt)
Và như thế thuyết
Âm Dương, Ngũ Hành, Kinh Dịch cần xét lại xem thật
sự là của ai !
(Hết Phần
II)
Nguồn: http:www.taphopdongtam.org
Xem Tiếp Phần
ÌÌI
|