Năm Thứ 4888
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.net
www.vietnamvanhien.info
www.vietnamvanhien.com
BỐN NGÀN NĂM VĂN
HIẾN
Người Việt Nam
vẫn tự hào có “bốn
ngàn năm Văn Hiến”. Trong B́nh Ngô Đại Cáo,
Nguyễn Trăi cáo tri: “Như nước Việt Nam ta từ trước -
Vốn xưng Văn Hiến đă lâu..” Đến vua Thái Tổ nhà Minh,
nước Tàu cũng gọi Việt Nam là “Văn Hiến chi bang”. Bản
Đăng Đàn Cung, quốc ca thời nhà Nguyễn tấu mỗi khi có
đại lễ với lời ca : “ Bốn ngàn năm Văn Hiến nước Nam
khang cường là nhờ công đức người xưa…”
Có người căn cứ vào 4 chữ “Văn Hiến
Chi Bang” do vua Thái Tổ nhà Minh viết tặng cho sứ thần
nhà Trần khi đi sứ sang Tàu là Doăn Thuấn Thuần mà cho
rằng danh xưng nước Việt Nam Văn Hiến có từ đấy. Nhưng
chính Nguyễn Trăi đă viết rơ trong B́nh Ngô Đại Cáo “Như
nước Việt ta từ trước, vốn xưng Văn Hiến đă lâu…”, chứng
tỏ dân ta tự xưng Văn Hiến đă lâu chứ không phải ai tặng
cho, ban cho và vua Thái Tổ nhà Minh tặng 4 chữ Văn Hiến
chi bang chỉ là công nhận một cách công khai danh xưng
vốn đă được dân ta tự xưng từ lâu. Vả lại, nếu tên Việt
Nam Văn Hiến chỉ mới bắt đầu từ khi Minh Thái Tổ viết
tặng 4 chữ “Văn Hiến chi bang” vào năm 1368 th́ quả là
quá mới, tính đến nay, năm 2006, chỉ mới có 638 năm. Mà
dân ta th́ đă tự xưng bốn ngàn năm Văn Hiến từ lâu. Tính
từ thời lập quốc với họ Hồng Bàng của Kinh Dương Vương,
tên nước là Xích Quỷ vào năm 2879 trước Công
Nguyên đến thời nhà Lư vào năm 1010-1225 là được khoảng
4000 năm. Vậy th́ cụm từ “Bốn ngàn năm Văn Hiến” được
truyền tụng có từ thời nhà Lư hoặc trước đó khi dân ta
dành được chủ quyền. Đến nay, năm 2006, tính từ thời
Kinh Dương Vương lập quốc đă gần 5000 năm, đúng ra là
4885 năm.
Vậy th́ căn cứ vào đâu mà dân ta tự
nhận là dân tộc có Bốn Ngàn Năm Văn Hiến? Tổ tiên, cha
ông ta đă có thành tích ǵ đễ đáng được gọi là Văn Hiến
?
Kể từ thời lập quốc ở vùng
Trường Giang, Bắc giáp Động Đ́nh Hồ, Tây giáp Ba Thục,
Đông giáp Đông Hải, Nam giáp Hồ Tôn, rồi cứ lần lần “co
rút lại như miếng da trâu” (Kim Định), mất đất cho Hoa
tộc. Từ thời Xuy Vưu mất Hoa Bắc cho Hiên Viên, đến thời
Hùng Vương thứ 6, Hoa tộc do Ân Cao Tông cầm đầu lại xâm
lăng Văn Lang, rồi từ đó cho đến đời Hùng Vương thứ 18,
nước Văn Lang chỉ c̣n lại vùng Bắc Việt và Bắc Trung
Việt ngày nay.
Vậy th́ có ǵ hănh diện để tự nhận
có Bốn Ngàn Năm Văn Hiến? Chúng ta truy nguyên để t́m
xem Tổ Tiên đă làm ǵ cho con cháu được tự hào có Bốn
Ngàn Năm Văn Hiến.
Một xă hội được gọi là Văn
Hiến là một xă hội quy tụ được tiến bộ của nền văn minh
thực dụng và nền văn hóa trừu tượng cùng sánh đôi thực
hiện có lợi ích cho xă hội.
Về văn minh thực dụng xă hội
ta từ thời tối cổ đă biết trồng lúa nước, thuần hóa súc
vật, đóng ghe thuyền vượt sông vượt biển đánh cá, nung
đất làm những đồ sành sứ, khai thác mỏ đồng tạo tác
trống đồng tuyệt vời v.v… Chúng ta sẽ không đi vào chi
tiết các công tŕnh sáng tạo đó.
Chúng ta sẽ t́m hiểu nền
văn hóa trừu tượng như thuyết Âm Dương, Ngũ Hành, Lạc
Thư, Hà Đồ, Kinh Dịch, Lịch Pháp, Hồng Phạm Cửu Trù, mà
người Trung Hoa tự nhận là của dân tộc họ sáng tạo. Có
thực như thế không ? Nhưng trước hết hăy t́m về nguồn để
xem tộc Hoa và tộc Việt ai là chủ đất Trung Hoa ngày nay
và xem ai là chủ của nền văn hóa gọi là Lư Số đó.
THỜI LẬP
QUỐC
Dân tộc Việt Nam
phát tích từ Hồ Động Đ́nh (tỉnh Hồ Nam) do Lạc Long Quân
và Âu Cơ sinh trăm con, gốc tích Bách Việt. Lạc Long
Quân là con của Kinh Dương Vương và Long Nữ. Kinh Dương
Vương là con của Đế Minh và Vụ Tiên. Đế Minh là cháu 3
đời của Thần Nông. Thần Nông là một trong Tam
Hoàng thời thượng cổ. ( Toại Nhân, Phục Hy, Thần Nông).
Kinh Dương Vương, họ Hồng Bàng, lấy quốc hiệu là Xích
Quỷ vào năm 2879 trước Công nguyên. Kinh Dương Vương
truyền ngôi cho con là Lạc Long Quân, Lạc Long Quân
truyền ngôi cho con là Hùng Vương, đổi tên nước là Văn
Lang.
Thần Nông là một trong Tam Hoàng, có
hiệu là Viêm Đế. Thần Nông sanh Đế Khôi, Đế Khôi sanh Đế
Thừa, Đế Thừa sanh Đế Minh. Họ Thần Nông truyền đến Đế
Minh là cháu 3 đời th́ chia làm hai ngành v́ Đế Minh đi
xuống phương Nam lấy Vụ Tiên sinh ra Lộc Tục trong khi
đó đă có con lớn là Đế Nghi. Đế Minh truyền cho Đế Nghi
làm vua phương Bắc và Lôc Tục làm vua phương Nam, hiệu
Kinh Dương Vương.
1-THẦN
NÔNG BẮC : Đế Minh truyền ngôi cho
Đế Nghi.
Đế Nghi (2889-2844
TCN)
Đế
Lai
(2843-2794 TCN)
Đế
Ly
(2795-2751 TCN)
Đế Du Vơng (2752-2696 TCN)
Ngành Thần Nông
Bắc đến đây chấm dứt v́ bị Hiên Viên xâm lăng cướp ngôi,
lấy hiệu Hoàng Đế (2697 TCN). Đó là ông vua khởi thủy
cùa ḍng Hoa tộc.
2- THẦN NÔNG NAM : Đế Minh
truyền ngôi cho Lộc Tục.
Lộc Tục hiệu Kinh Dương Vương (2879 TCN). Lập ra
họ Hồng Bàng. Tên nước là Xích Quỷ. Dân Việt lấy năm này
làm kỷ nguyên lập quốc. Tính đến nay, (2006) được 4885
năm.
Lạc Long Quân, sinh trăm con (2794 TCN)
Hùng Vương (2745-258 TCN), 18 đời, tên nước là Văn Lang.
Lĩnh Nam Trích
Quái viết về việc Hiên Viên cướp ngôi của Đế Du Vơng như
sau : “Đế Nghi (2889-2844) truyền ngôi cho Đế Lai
cai trị phương Bắc. Nhân khi thiên hạ vô sự bèn sai
quân thần là bọn Xuy Vưu thay ḿnh coi quốc sự rồi đi
tuần xuống nước Xích Quỷ ở phía Nam…Truyền đến đời Du
Vơng th́ Xuy Vưu làm loạn. Vua nước Hữu Hùng là Hiên
Viên đem chư hầu tới đánh không được. Xuy Vưu ḿnh thú
mà nói tiếng người, có sức khỏe dũng mănh. Có người
dạy Hiên Viên dùng trống da thú làm lệnh. Xuy Vưu sợ
hăi chạy về đất Trác Lộc. Đế Du Vơng xâm lăng chư hầu
cùng Hiên Viên giao binh ở Phàn Tuyền, đánh ba trận
đều thua, bị giáng chức ở đất Lạc ấp rồi chết ở đó.
Gịng họ Thần Nông tới đây th́ hết.”
Theo đó th́ :
- Họ Thần Nông đến đời Đế Minh truyền ngôi cho 2 con:
- Đế Nghi cai trị phương Bắc,
- Lộc Tục cai trị phương Nam.
Phương Bắc ở
vùng sông Hoàng Hà, nơi Hiên Viên (Hoa tộc) xâm lăng
đánh Xuy Vưu (Việt tộc) để chiếm đất đai. Phương Nam ở
vùng sông Dương Tử tức là vùng đất châu Kinh châu Dương,
Lộc Tục dùng để đặt đế hiệu là Kinh Dương Vương.. Như
thế, vào thời thượng cổ toàn thể nước Tàu đều thuộc về
họ Thần Nông Viêm Đế, tổ của ḍng Việt tộc.
2- Măi đến
đời Đế Du Vơng (2696 TCN) Xuy Vưu làm tướng quốc th́ Hoa
tộc cầm đầu bởi Hiên Viên mới từ sa mạc tràn vào đánh
chiếm phần đất của ḍng Thần Nông phương Bắc, tức là
vùng sông Hoàng Hà. Những từ Xuy Vưu làm loạn hay
Đế Du Vơng xâm lăng chư hầu chỉ là danh từ của
kẻ chiến thắng (Hoa tộc) gán cho người thua (Việt tộc)
kiểu được làm vua thua làm giặc! Sau này các nhà viết sử
của ta nhiều khi cũng bị ảnh hưởng mà dùng lối nói
của Hoa tộc.
3- Về
ḍng Thần Nông, đến đời Đế Minh th́ chia làm hai ngành,
một ở phương Bắc, một ở phương Nam. Từ lâu, dân ta
thường nói phương Bắc để chỉ nước Tàu do tộc Hoa cai trị
và phương Nam để chỉ nước Việt. V́ vậy mà có sự hiểu lầm
về Thần Nông và Phục Hy, cho rằng Phục Hy và Thần Nông
là người Tàu gốc Hoa. Xét ra như vậy không đúng vi măi
đến đời Du Vơng là cháu 7 đời Thần Nông th́ tộc Hoa mới
từ vùng sa mạc Tây Bắc tràn vào đánh chiếm vùng đất
Hoàng Hà của ḍng Thần Nông Bắc. Vậy th́ có lẽ nào Phục
Hy và Thần Nông là tổ tiên của Hoa tộc được ?
Về nguồn
gốc Hoa tộc, theo ông B́nh Nguyên Lộc trong cuốn
“Nguốn gốc Mă Lai của dân tộc Việt Nam” th́ Hoa tộc là
thứ người lai căn của giống người Trung Á Tokarien
(Tocharian, Nhục Chi) và Mông Cổ, v́ không có đất sống
nên mới tràn vào miền bắc nước Tàu đánh chiếm đất cùa
Việt tộc, Theo sử Tàu th́ khoảng 3000 năm tr.CN. dân
du mục Mông Cổ vượt sông Hoàng Hà đánh Bách Việt từ
sông Hoàng Hà đến sông Dương Tử của Đế Du Vơng…
Khi
Hoa tộc chiếm trọn nước Tàu rồi th́ đồng hóa dân Việt
c̣n ở lại thành người Hoa hay Hán. Họ cũng đồng hóa các
nhân vật huyền sử của Việt tộc, các kinh điển, sử sách
Việt tộc làm của họ. Ngay cả đến ông Bàn Cổ của tộc Miêu
họ cũng nhận là tổ tiên của Hoa tộc. V́ sự mạo nhận đó
mà bao nhiêu sách vở, kinh điển, đă trở thành của tộc
Hoa hết mà họ gọi là Thiên Thư do thần tiên truyền cho.
Sau ngàn năm bị đô hộ, khi dành lại được tự chủ th́ Việt
tộc trắng tay, phải đi học lại với kẻ thống trị những
vốn liếng của Tổ Tiên bị chiếm đoạt. Nhưng rất may, có
những truyền thuyết, những di vật được lưu lại để con
cháu ngày sau nhận được di sản của tổ tiên cao quư xứng
đáng với danh xưng Văn Hiến ngàn đời. Chúng ta lần t́m
từng chứng tích. Nhưng ở đây sẽ không
bàn đến các chứng tích cụ thể như Trống Đồng, như Lúa
Nước v.v..hay những di chỉ các nền văn minh Ḥa B́nh,
Đồng Đậu, Đông Sơn v.v.. mà chỉ chú trọng đến các lư
thuyết về sáng tạo vũ trụ có ảnh hưởng đến con người, đó
là phần Lư Số đang chi phối xă hội Á Châu và hiện ảnh
hưởng tới Tây phương.
Đại Việt Sử Kư
Toàn Thư viết: “Vua Kinh Dương Vương nối nghiệp con
cháu Thần Nông, lấy con gái vua Động Đ́nh
Quân, tỏ rơ đạo vợ chồng, nắm ngay gốc văn hóa,
lấy đức mà cảm hóa dân…đó chẳng là phong tục thái cổ
từ Viêm Đế ư ?” Theo đó nền tảng Văn Hiến
Việt tộc đă có từ thời thái cổ.
ÂM DƯƠNG, NGŨ HÀNH.
Đời Hùng Vương thứ 6, sau khi đánh đuổi giặc Ân
xâm lăng, vua Hùng tính việc truyền ngôi, mới bảo các
con t́m món ngon vật lạ mà có ư nghĩa nhất để dâng lên
Tổ Tiên th́ sẽ được truyền ngôi cho. Các hoàng tử, Quan
Lang, đổ xô đi t́m trân châu hải sản của ngon vật lạ
dâng lên vua. Trong khi đó, hoàng tử Lang Liêu đă dùng
một thứ ngũ cốc b́nh thường để làm một thứ bánh có ư
nghiă nhất dâng lên vua cha. Lang Liêu dùng gạo nếp giă
nhuyễn nắn thành h́nh tṛn gọi là Bánh Dầy để
tượng h́nh trời, lại lấy gạo nếp gói h́nh vuông để tượng
đất, gọi là Bánh Chưng. Bánh Dầy Bánh
Chưng tượng trưng cho Âm Dương. Bánh
chưng ở trong có nhân thịt, đậu xanh, gạo nếp, gói bằng
lá dong, nấu trong nước tượng trưng cho Ngũ
Hành.
Lĩnh
Nam Chích Quái viết về bánh dầy bánh chưng: “Trong
trời đất không có vật ǵ quư bằng gạo v́ gạo là của để
nuôi dân, người ta ăn măi không chán, không có vật ǵ
đứng trước được, nếu lấy gạo nếp hoặc gói h́nh tṛn để
tượng trời, hoặc gói làm h́nh vuông để tượng đất, ở
trong làm nhân cho thật ngon, bắt chước h́nh trạng
trời đất bao hàm vạn vật, ngụ ư ơn trời đất phát dục
vạn vật”.
Bánh dầy tṛn tượng trời chỉ Dương.
Bánh chưng vuông tượng đất chí Âm.
Câu
tục
ngữ
dân
ta
hằng
nói,
nhất
là
để chúc sản phụ khi sanh : “Mẹ Tṛn Con Vuông”
là để nhắc nhở nguyên lư Âm
Dương của trời đất.
Bánh chưng giữa có thịt, kế
đến đậu xanh, rồi gạo nếp, bọc bằng lá, nấu trong nước.
Thịt
màu đỏ chỉ Hỏa. Đậu xanh màu vàng chỉ
Thổ. Gạo nếp trắng chỉ Kim,
Bánh luộc tiết ra dịch chất (nhựa) hợp với diệp lục tố
tạo ra màu xanh dính trên mặt bánh chỉ Thủy.
Lá dong màu xanh gói ở ngoài chỉ Mộc, năm
thứ đó tượing trưng cho Ngũ Hành.
Dây
lạt
buộc
ngoài
nhuộm
đỏ
gồm
4
sợi
buộc từng cặp song song và vuông góc chia bánh thành 9 ô
vuông, chỉ cửu cung của Lạc Thư Hà Đồ.
Chiếc bánh theo thứ tự
từ trong ra ngoài, ta thấy ở giữa có thịt màu đỏ chỉ
Hỏa. Hỏa sanh Thổ, đậu xanh màu vàng chỉ Thổ. Thổ sinh
Kim, gạo nếp trắng là Kim. Kim sinh Thủy, dịch chất do
nước nấu gạo sinh ra chỉ Thủy. Thủy dưỡng Mộc, lá dong
bọc ngoài chỉ Mộc.
Ta có Ngũ Hành
Tương Sinh : Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy,
Thủy dưỡng Mộc.
Bánh
chưng
được
sắp
xếp
ngũ
hành
tương
sinh
theo hướng tương sinh của trái đất.
Ḷng trái đất là một ḷ
lửa đỏ rực, theo đó nhân bánh là thịt màu đỏ tượng cho
Hỏa.
Vỏ trái đất là đất
(thổ), tương ứng với lớp đậu xanh của bánh màu vàng
tượng cho Thổ.
Đất sinh ra kim loại nên bánh theo đó mà có gạo nếp
trắng tượng cho Kim.
Từ ḷng đất nước
chảy qua kim khí mà ra ngoài, bánh cũng được nấu trong
nước tượng cho Thủy.
Các gịng suối,
gịng sông nước nuôi cây cối, lớp lá bọc ngoài của bánh
tượng cho Mộc.
Theo đó th́ ngay
từ thời thái cổ, cha ông chúng ta đă biết cấu trúc của
trái đất và theo đó đặt ra luật Ngũ Hành.
Thuyết
Âm
Dương
Ngũ
Hành
hẵn
là
đă
có
từ lâu nhưng đến đời Hùng Vương thứ 6 th́ được cụ thể
hóa bằng Bánh Chưng Bánh Dầy. Thật là tuyệt vời, với thứ
ăn đơn giản ngon miệng mà thể hiện được ư niệm cao siêu
của một thuyết bao trùm vũ trụ, trời đất vạn vật.
Dân ta mỗi năm đến
ngày tết lại nấu bánh chưng bánh dầy để dâng lên Tổ
Tiên, cũng như dâng lên bàn thờ Quốc Tổ vào dịp Giỗ Tổ.
Tập tục đó được truyền từ đời này qua đời khác cho đến
tận ngày nay. Nhờ đó qua các cuộc thăng trầm của đất
nước với hàng ngàn năm bị đô hộ, vẫn với cắp bánh chưng
bánh dầy đó làm chứng tích để nhận ra nguồn gốc Âm Dương
Ngũ Hành là của các bậc tiền nhân từ thời thượng cổ lập
thuyết truyền lại. Dù Bắc phương có dùng vơ lực để cướp
đất, để đoạt thành tích trí óc th́ vật sở hữu vẫn là
đích thực của Việt tộc.
Thuyết Âm Dương Ngũ
Hành có từ bao giờ ?
Cổ thư Trung Hoa
viết vua Đại Vũ đi trị thủy đến sông Lạc gặp con rùa
thần nổi lên, trên lưng rùa có những chấm đen trắng gọi
là Lạc thư, nhân đó mà làm ra 9 trù lớn (Hồng Phạm cửu
trù) mà trù thứ nhất là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.
Theo Kinh Thư th́
thuyết Âm Dương Ngũ Hành được nói đến trong thiên Hồng
Phạm Cửu Trù do ông Cơ Tử nói với vua Vũ nhà Chu. Hồng
Phạm Cửu Trù có 9 Trù mà trù thứ nhất nói về Ngũ Hành :
một là Thủy, hai là Hỏa, ba là Mộc, bốn là Kim, năm là
Thổ. Cơ Tử là một hiền thần cùa nhà Thương/Ân bị
vua Trụ bỏ tù được Vũ vương nhà Chu diệt nhà Thương/Ân
cứu ra.
Theo sách Chu Dịch
th́ khái niệm Âm Dương do Khổng Tử (500 TCN) viết ở Thập
Dực khi diễn giải Chu Dịch. Hệ từ Thượng, chương V -
tiết thứ nhất, có đoạn viết : “Nhất Âm Nhất Dương
chi vị đạo” . Hệ từ Thượng, chương thứ XI viết :
“Thị cố Dich hữu Thái Cực, Thị sinh Lưỡng Nghi,
Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng, Tứ Tượng sinh Bát Quái”.
Lại có người nói
(theo Sử Kư và Lă Thị Xuân Thu) th́ thuyết Âm Dương Ngũ
Hành do Trâu Diễn sống thời Chiến Quốc (350-270 TCN) là
người hoàn chỉnh và lập ra phái Âm Dương gia.
Thuyết Âm Dương Ngũ Hành
được phổ biến ở Trung Hoa vào thời Hán Vũ Đế (156-87
TCN) do ông vua này truyền các nhà chiêm tinh, lư học
đến để hỏi xem ngày đó tháng đó cưới vợ tốt không ?
Người theo thuyết “Ngũ Hành” nói được, người theo thuyết
“Kham Dư” nói không được, người theo thuyết “Kiến Trừ
“bảo là xấu, người theo thuyết ”Tùng Thời” bảo rất xấu,
người theo thuyết “Lịch Gia” nói hơi xấu, người theo
thuyết “Thiên Nhân” nói tốt vừa, lại người theo thuyết
“Thái Nhất” nói đại cát. Các ông tranh nhau căi đến đỏ
mặt tía tai không ai chịu ai. Sau cùng Hán Vũ Đế bảo :
“mọi điều nên hay kiêng, phải lấy thuyết Ngũ Hành là
chính. Kể từ đó, thuyết Ngũ Hành được phát triễn”. (Sử
Kư, Nhật Giả Liệt Truyện)
Xem như thế th́ truyền
thuyết, sách vở Trung Hoa nói về xuất xứ Âm Dương Ngũ
Hành rất lộn xộn. Thuyết lâu đời nhất do Cơ Tử đời vua
Vũ nhà Chu (1122 TCN) trong thiên Hồng Phạm Cửu Trù.
Truyền thuyết của
ta nói đời Hùng Vương thứ 6, Lang Liêu đă làm ra Bánh
Dầy Bánh Chưng để tượng cho Âm Dương Ngũ Hành. Đời Hùng
Vương thứ 6 tương đương với đời Ân Cao Tông (1740 TCN)
khi ông vua này đem binh xâm lấn đất Văn Lang bị
Phù Đổng Thiên Vương đánh đuổi. Như
vậy thuyết Âm Dương Ngũ Hành đă có trước nhà Chu lâu
đời khoảng 600 năm. Hơn nữa, Hồng Phạm Cửu Trù
là sách của họ Hồng Bàng, dẫn chứng ở sau.
(Chu Dịch trong quẻ
Kư Tế, phần tượng truyện, hào 3 có nói :”Cửu Tam : Cao
Tông phạt Quỉ phương tam niên, khắc chi, tiểu nhân vật
dụng” (Cao Tông đánh nước Quỷ phương, ba năm mới được,
chớ dùng tiểu nhân).
Thuyết Âm Dương
Ngũ Hành hẳn là đă được lưu truyền lâu đời trước Hùng
Vương thứ 6. Lang Liêu thấm nhuần, thấu hiểu nên mới cụ
thể hóa trong chiếc Bánh Dầy Bánh Chưng. Nhờ Bánh Dầy
Bánh Chưng được lưu truyền từ đời này qua đời khác cho
đến tận bây giờ mà thuyết Âm Dương Ngũ Hành chứng tỏ là
xuất xứ của dân Việt, do các bậc thánh nhân Lạc
Việt lập thuyết.
ÂM DƯƠNG và KINH DỊCH.
Thiên
Hệ
Từ
thượng
truyện,
chương
II
của
Kinh
Dịch viết : “Thi cố thiên sinh thần vật, thánh nhân
tắc chi, thiên địa biến hóa, thánh nhân địa chi, thiên
thủy tương, hiện cát hung, thánh nhân tượng chi. Hà Đồ
xuất, Lạc Thư xuất, thánh nhân tắc chi.”
(cho nên trời
sinh ra thần vật, thánh nhân áp dụng theo, trời đất
biến hóa thánh nhân bắt chước. Trời bày ra h́nh tượng,
hiện ra sự tốt xấu, thánh nhân phỏng theo ư tượng. Bức
đồ hiện ra ở sông Hoàng Hà, h́nh chứ hiện ra ở sông
Lạc, thánh nhân áp dụng theo).
Hai chữ thánh nhân ở đây mọi người cho là Phục Hy phỏng
theo Hà Đồ, Lạc Thư mà vẽ bát quái.
Hạ từ truyện, chương II chép rơ hơn : “Ngày xưa họ
Bào Hy (tức Phục Hy) cai trị thiên hạ, ngửng đấu lên
th́ xem h́nh tượng trên trời, cúi xuống th́ xem phép
tắc ờ dưới đất. Xem các văn vẻ của chim muông cùng
những thích nghi với trời đất (của từng miền) gần th́
lấy thân ḿnh, xa th́ lấy ở vật, rồi làm ra bát quái
để thông suốt cái đức thần minh và điều ḥa cái t́nh
của vạn vật.”
Chu Dịch toàn bộ của Ngô Tất Tố viết : “…Kinh Dịch
bắt đầu từ vua Phục Hy, một ông vua về đời thần thoại,
cũng gọi là Bào Hy, không biết cách đây mấy ngh́n năm
hay mấy vạn năm. Lúc ấy Ḥang Hà có con Long Mă hiện
h́nh, lưng nó có khoáy thành đám, từ 1 đến 9, vua coi
những khoáy đó mà hiểu được lẽ biến hóa của vũ trụ,
mới đem lẽ đó vạch ra từng nét. Đầu tiên vạch một nét
liền, tức là “vạch lẽ” để làm phù
hiệu cho khí Dương và một nét đứt,
tức là “vạch chẵn” để làm phù hiệu
cho khí Âm. Hai cái vạch đó gọi là Lưỡng
Nghi, Trên mỗi Nghi thêm một nét nữa, thành
ra bốn cái “hai vạch” gọi là Tứ Tượng,
Trên mỗi tượng lại thêm một vạch nữa thành ra tám cái
“ba vạch” gọi là Bát Quái (8 quẻ).
Sau cùng vua ấy lại đem Quẻ nọ chồng lên Quẻ kia điên
đảo khắp lượt thành ra 64 cái “sáu vạch” gọi là 64
Quẻ.”
Các nhà nghiên cứu
về nguồn gốc của hai kư hiệu Âm _ _ Dương
__ đưa ra ư kiến như sau :
1- Thời kỳ sùng
bái bộ phận sinh dục dùng gạch dài __ tượng
trưng cho bộ phận sinh dục nam chỉ Dương và gạch đứt _
_ tượng trưng cho bộ phận sinh dục nữ chỉ
Âm.
2- Lúc đầu dùng
ống trúc 1 đốt __ để tượng
trưng cho dương tính và loại ống trúc
2 đốt _ _ tượng trưng cho âm tính.
3- Tập tục kết
giây thừng, sợi giây thừng giữa thắt nút tượng cho Âm
sau biến thành _ _ , một loại giây
thừng không kết nút tượng cho Dương sau biến thành __
.
.
4- Nguồn gốc Dịch Quái là ở Quy bốc (bói mai rùa).
Mai rùa gồm có 2 lớp. Lớp ngoài vỏ cứng, lớp trong mềm.
Lớp vỏ cứng ngoài có hoa văn phân thành 9 vảy. Lớp trong
mềm chia thành 12 vảy, lại có đường chỉ nhỏ phân đều mỗi
bên 6 vảy. Lớp ngoài cứng số lẻ 9. Lớp trong mềm số chẵn
6. Số 9 đại diện cho Dương. Số 6 đại diện cho Âm. (Lưu
Bá Ôn, Dịch Học Toàn Tập, Nguyễn Viết Dần dịch, Nguyễn
Bích Hằng hiệu đính, nxb Thông Tin Văn Hóa, Hà Nội)
Các lối giải thích nguồn gốc Dịch như trên đều cho thấy
Dịch bắt nguồn ở nền Văn Hiến Văn Lang :
1- Sùng bái bộ
phận sinh dục là tập quán của dân Nam Á (AustroAsian)
tức Việt Tộc. Tại nhiều vùng ở Miền Bắc và Trung Việt
Nam c̣n có tục lệ cúng bái, rước sách bộ phận sinh dục
(Ông Đùng Bà Đà, Nơn Nường).
2- Vùng đất nhiều tre
nứa thuộc vùng sinh sống của Việt tộc, từ phía nam sông
Dương Tử đổ xuống v́ thế chỉ có người Việt mới có hứng
khởi dùng tre nứa để tượng cho Âm Dương.
3- Sử cổ viết về người
Lạc Việt : “Chính sự dùng lối kết nút”.
Kết nút để phân biệt Âm Dương, sợi giây thừng giữa
thắt nút là Âm, sợi không thắt nút là Dương. Điều này
chứng tỏ vạch định ra Âm Dương là của nền Văn Hiến Văn
Lang.
4- Qui bốc là của dân
Việt. Sách Tàu viết bộ Việt Thường đem biếu vua Nghiêu
con rùa trên lưng có ghi lịch pháp gọi là Qui Lịch. Bói
mai rùa cần phải có rùa lớn. Rùa lớn chỉ ở vùng sông
Dương Tử mới có. Sông Dương Tử có Động Đ́nh Hồ. Động
Đ́nh Hồ là cái nôi của Việt tộc. Âm Dương Ngũ Hành, Dịch
số, Lịch pháp, Lạc Thư Hà Đồ, Hồng Phạm Cửu Trù đều phát
xuất từ Động Đ́nh Hồ, từ Châu Kinh Châu Dương. Lư số là
sản phẩm trí óc của những bậc thánh nhân Việt tôc.
Theo cổ thư th́
Phục Hy là người lập ra Kinh Dịch căn cứ vào Âm Dương mà
vạch ra Quẻ Lưỡng Nghi, Bát Quái. Phục Hy là một trong
Tam Hoàng. Tam Hoàng là thủy tổ cùa Việt tộc như triết
gia Kim Định đă phân chất : “Phục Hy làm ra Kinh
Dịch. Oa Hoàng làm ra phép linh phối. Thần Nông làm ra
nông nghiệp. Hữu Sào làm ra nhà sàn. Bàn Cổ xếp đặt
trời đất….Xưa rày người ta vẫn nghĩ rằng bấy nhiêu vị
là người Tàu cả. Nhưng đến nay khoa học khám phá ra
rằng các ngài không phải là Tàu. Hỏi vậy là ai ? Các
học giả chưa nói ra ngă ngũ… Xin đem các vị đi thử
máu, xem là máu Tàu hay máu Việt….Đến lúc thử xong th́
ra toàn loại máu T.R. (Tiên Rồng).
“Phục Hy có tên là Thanh Tinh : Rồng Xanh, đúng là máu R
đă thế lại giao chỉ với bà Nữ Oa tức hai vị quấn đuôi
nhau làm sao không lây máu nhau được. V́ thế xin bà tí
huyết để phân tích, mới rút ra th́ đă thấy là máu T
(chim) v́ khi bà chết th́ hóa ra chim Tinh Vệ (tức máu T
: chim) tha đá lấp bể.”
Giáo sĩ người Pháp tên là Bai-Chin (1656-1730) trong
thư từ với Lép-Nít (1646-1716) cho rằng Phục Hy và
Te-li-chít trong thần thoại Hy Lạp chỉ là một người. Chu
Bá Ôn trong Dịch Học Toàn Tập viết : “…Từ
trong bức thư của Lép-Nít (Leibniz) trả lời Bai-Chin
(Bouvet) có thể thấy rơ, điều quan tâm hơn cả là làm
thế nào để vận dụng các kư hiệu trong Kinh Dịch để
phát triển hai vấn đề ngôn ngữ phổ thông và thần học.
Trong thư của Bai-Chin trả lời ông có nói, Phục Hy và
Te-li-chít trong thần thoại Hy Lạp có thể chỉ là một
người, v́ thế ngôn ngữ trong Kinh Dịch có thể là ngôn
ngữ trong Kinh Thánh được các học giả sử dụng chung
trong thời đại mông muội…” (Chu Bá Ôn,
Dịch Học Toàn Tập, Nguyễn Viết Dần biên dịch, Nguyễn
Bích Hằng hiệu đính, Nhà xuất bản Văn Hóa –Thông Tin, Hà
Nội, 2003)
Theo Nguyễn Xuân Quang trong Khai
Quật
Kho
Tàng
Cổ
Sử
Hừng
Việt
th́ thần thoại Hy Lạp có tới 2 vị là h́nh bóng của
Phục Hy. Đó là thần Hermes và thần Cecrops. Thần Hermes
là người nho nhả dáng dấp nhanh nhẹn giống hệt con người
văn vẻ Phục Hy. Hermes có cây gậy thần caduceus có con
rắn quấn biểu tượng cho y học Tây phương. C̣n Phục Hy
được mô tả đầu quấn ṿng kết bằng lá tượng trưng cho y
học Đông phương.
C̣n thần Cecrops được
coi như người đă lập ra hôn phối như Phục Hy với Nữ Oa
lập ra linh phối. Cecrops lập ra chữ viết giống như Phục
hy vạch ra các hào âm dương được xem như là người lập ra
chữ viết. Cecrops thường được vẽ h́nh phần trên là người
phần dưới là giống rồng rắn, giống như linh vật rồng của
ḍng giống Việt tộc.
Ông Nguyễn Xuân
Quang c̣n cho Phục Hy cũng liên hệ với Thần C̣
Ibis Thoth của Ai Cập. Thần C̣ Thoth phát minh ra chữ
viết giống Phục Hy lập ra hào âm dương được coi như chữ
viết thời sơ khai. Thần C̣ Thoth c̣n gọi là thần Khôn
Ngoan giống Phục Hy là người văn vẻ thông minh. Thần c̣
Thoth là Kẻ Đo Thời Gian giống Phục Hy Thắt Nút Kết
Thằng và làm Lịch Rùa. Thần C̣ Thoth là một chiêm tinh
gia giống với Phục Hy vạch ra Bát Quái của Kinh Dịch,
nguyên thủy là một thứ bói toán. Phục Hy được coi như
thánh nhân áp dụng Hà Đồ t́m hiểu tinh tú.
HÀ ĐỒ LẠC THƯ
‘Theo
truyền
thuyết
Trung
Hoa
th́
Hà
Đồ
do
vua Phục Hy (4480-4369 TCN) phát hiện khi đi tuần thú
ở sông Hoàng Hà thấy con Long Mă từ dưới sông hiện lên
trên lưng có Hà Đố ghi chép việc trời đất mở mang.
C̣n Lạc Thư do vua
Đại Vũ (2205 TCN) đi trị thủy thấy con rùa thần nổi
lên trên ḿnh vẽ Lạc Thư.’
Theo đó th́ vua
Phục Hy thấy long mă mà làm ra Hà Đồ rồi măi đến một
ngàn năm sau vua Đại Vũ mới thấy rùa thần ở sông Lạc mà
làm ra Lạc Thư. Tại sao lại có sự cách biệt một thời
gian cả ngàn năm mà cái đáng lẽ có trước là Lạc Thư rồi
mới dựa theo đó để phác họa ra Hà Đồ th́ lại cho Hà Đồ
có trước và Lạc Thư có sau? Sự gán ghép cho ông vua này
t́m ra Hà Đồ ông vua kia t́m ra Lạc Thư một cách lúng
túng chứng tỏ Lạc Thư Hà Đồ không phải của Hoa tộc.
Âm Dương Ngũ Hành là sự
giải thích về việc h́nh thành trời đất và từ đó ứng dụng
vào việc ảnh hưởng đến con người. C̣n Lạc Thư Hà Đồ là
t́m hiểu sự vận hành của những ngôi sao trong thiên hà
và giải thích các hiện tượng vũ trụ.
Tại sao lại gọi là Lạc
Thư ? Truyền thuyết nói về thời Hùng Vương, tướng văn
gọi là Lạc hầu, tướng vơ gọi là Lạc tướng, dân gọi là
Lạc dân, ruộng gọi là Lạc điền. Như thế Lạc Thư hẳn là
sách của dân Lạc Việt.
C̣n Hà Đồ là đồ
h́nh miêu tả sự vận động của giải ngân hà hay thiên hà.
Cụm từ Lạc Thư Hà Đồ
có nghĩa là sách của dân Lạc Việt nói về những sự hiểu
biết về các liên quan đến giải ngân hà, vũ trụ.
Ngày xưa người Lạc Việt thường viết
chữ Khoa đẩu (chữ con ṇng nọc hay con quăng) vào lưng
rùa, có lần đem biếu cho Đế Nghiêu làm lịch gọi là
Quy Lịch, điều đó chứng tỏ người Lạc Việt đă có chữ
viết. Triết gia Kim Định nói về việc đó như sau
“Có lưu truyền kể rằng, vào đời Đường nước Việt Thường
biếu vua Nghiêu rùa thần trên mu có chữ con quăng ghi
việc từ khai thiên lập địa về sau. Đế Nghiêu ra lệnh
ghi chép và gọi là “Quy Lịch” Quy Lịch cũng gọi là Lac
Thư, tức sách của Lạc dân thành bởi 9 bộ số,
nhưng 9 cũng quy vào hai là số 2 đất và 3 trời, trong
truyện nói bóng là ghi truyện tự khai thiên lập địa…
Sự thực đó là đạo trời, đạo đất, đạo người. Lư do nền
tảng tại sao t́m hiểu về nguồn gốc văn hóa Việt mà
phải nghiên cứu các phó sản của nó là Âm Dương, Tam
Tài, Ngũ Hành, Hồng Phạm Cửu Trù, Lạc Thư, Sách ước.
V́ tất cả đều do Việt tộc chính, về sau Tàu có lẽ thêm
vào được ít chút bằng sự tô chuốt trang hoàng bề ngoài
mà thôi, chứ cái nơn th́ đă có sẵn rồi.” (Kim
Định, Việt Lư Tố Nguyên)
HÀ ĐỒ LẠC THƯ và THUYẾT CON
RỒNG CHÁU TIÊN
Truyền
thuyết
về nguồn gốc dân tộc Việt Nam nói Lạc Long Quân lấy Âu
Cơ đẻ ra một bọc có một trăm trứng nở ra trăm con. Hùng
Vương được truyền ngôi chia nước ra làm 15 bộ, đặt tên
nước là Văn Lang, truyền được 18 đời.
Lạc Long Quân tên
húy Sùng Lăm là con của Lộc Tục Kinh Dương Vương và Long
Nữ. Lộc Tục là con của Đế Minh và Vụ Tiên. V́ gốc tích
Tiên và Rồng nên dân Việt được gọi là “Con Rồng cháu Tiên”.
Rồng biểu tượng cho sức mạnh vũ trụ vật chất. Tiên biểu
tượng cho trí óc, sự sáng suốt, thông thái, tâm linh.
Lộc
Tục
Kinh
Dương
Vương
họ
Hồng
Bàng.
Lạc
Long Quân gốc Lạc nên dân Việt cũng được gọi là “Con Hồng cháu
Lạc” cũng gọi là Lạc Việt.
Âu Cơ đẻ ra một
bọc 100 trứng, nở ra 100 con. Cái Bọc trứng
của mẹ Âu Cơ tượng trưng cho Trứng vũ trụ
trong quá tŕnh tạo sinh là nguyên thủy Thái
Cực. Tượng của Thái Cực h́nh tṛn phân cực
thành Âm và Dương.
Từ bọc Thái Cực Âm
Dương nở ra 100 con. Tại sao lại 100 ? V́ tổng số của
Lạc Thư Hà Đồ là 100. Độ số Lạc Thư cộng là 45. Độ số Hà
Đồ là 55. Cộng chung là 100.
Trong Lạc Thư Hà
Đồ có 50 ṿng đen thuộc Âm tương ứng với 50 con theo Tổ
Mẩu Âu Cơ lên núi và 50 ṿng trắng thuộc Dương tương ứng
với 50 con theo Tổ Phụ Lạc Long Quân xuống biển.
Lạc Thư có độ số
ma phương cộng dọc công ngang cộng xéo đều ra số 15. Đó
là số 15 bộ của nước Văn Lang. Số 15 bộ có lẽ chỉ là con
số tượng trưng cho sự vận dụng quy luật vủ trụ Âm Dương,
Ngũ Hành, Lạc Thư, Hà Đồ trong việc điều hành đất nước.
Bánh chưng lễ có 4 sợi giây lạt nhuộm đỏ buộc
từng cặp song song nhau và vuông góc chia chiếc bánh
thành 9 ô vuông. 9 ô vuông này có liên quan đến cửu cung
và độ số của Lạc Thư Hà Đồ. Bánh chưng buộc bằng giây
lạt (cũng đọc là lạc) nhuộm đó (hồng) nhắc nhở ta nhớ
đến nguồn gốc ḍng giống Lạc Hồng. (giây
Lạc
(lạt) màu Hồng)
H́nh
vẽ
Củu
cung
Lạc
Thư
Hà
Đồ
và độ số ma phương 15 và 100
ĐỘ SỐ LẠC THƯ = 45
Số Ma Phương =15
Các
số cộng ngang cộng dọc cộng xéo đều ra 15 gọi là số ma
phương
Số
ma phương 15 tương ứng với 15 bộ của nước Văn Lang
Độ
số Lạc Thư : 15 x 3 = 45
ĐỘ
SỐ HÀ ĐỒ = 55
Tổng độ số Lạc
Thư 45 + Hà Đồ 55 = 100
Lạc Thư có các số 9+3+7+5+1 = 25 thuộc Dương
Lạc Thư có các số 4+2+6+8 = 20
thuộc Âm
Hà Đồ có các số 7+9+5+1+3 = 25 thuộc
Dương
Hà Đồ có các số 2+4+10+6+8 = 30 thuộc Âm
Tổng số Dương của Lạc Thư và Hà Đồ = 50
Tổng số Âm của Lạc Thư và Hà
Đồ = 50
50 thuộc Dương tương ứng với 50 con theo Cha Lạc Long
Quân xuống biển
50 thuộc Âm tương ứng với 50 con theo Mẹ Âu Cơ lên núi.
Tổng độ số 100 tương ứng với 100 con của Mẹ Âu Cơ và Cha
Lạc Long Quân.
( Lưu ư : Các số lẻ thuộc Dương, các số chẳn
thuộc Âm)
Huyền thoại
Con Rồng Cháu Tiên và Một Bọc nở Trăm Con là do Tiền
Nhân muốn nhắn gởi con cháu biết rằng Thái Cực, Âm Dương
Ngũ Hành, Lạc Thư Hà Đồ là sản phẩm của Việt Tộc do Tổ
Phụ thời thượng cổ lập ra với độ số chính xác sự vận
hành của vũ trụ và các sao trong giải Thiên Hà.
HỒNG PHẠM CỬU TRÙ
Theo
các
nhà lư học Trung Hoa cho Hồng Phạm Cửu Trù là của vua
Đại Vũ (nhà Hạ) đi trị thủy đến sông Lạc gặp một con rùa
thần nổi lên, trên mai có ṿng tṛn đen trắng gọi là Lạc
Thư, ông dựa vào đó mà làm ra 9 trù lớn, gọi là Hồng
Phạm Cửu Trù rồi diễn giải và truyền lại cho đời sau.
Đoạn văn này phải hiểu là vua Đại Vũ (Hoa Hạ) đă lấy
được sách hay học được với dân Lạc Việt về cách xem
thiên văn nên gọi là Lạc Thư và cùng lúc học được Hồng
Phạm Cửu Trù của họ Hồng Bàng.
Lại một thuyết nữa
theo Kinh Thư nói Vũ Vương nhà Chu đánh thắng nhà Thương
mới mời ông Cơ Tử là một tội phạm của Trụ vương để hỏi
đạo trời. Cơ Tử bèn đem đạo đó là Hồng Phạm Cửu Trù mà
báo lên cho Vũ Vương. Ông Cơ Tử này cũng chỉ là người đă
học được Hồng Phạm Cửu Trù từ đời trước nay đem truyền
lại cho Vũ Vương mà thôi. (Kinh Thư nói là của Khổng Tử
nhưng chính thực là của cháu 12 đời của Khổng Tử là
Khổng An Quốc đời Hán Cảnh Đế viết dựa vào cổ thư lấy
được trong vách nhà Khổng Tử.)
Trong Kinh Thư thiên quan trọng nhất là Hồng Phạm Cửu
Trù lại mang nội dung của người Lạc Việt. Triết gia Kim
Định nhận định như sau : Trong mấy thiên đầu Kinh
Thư chữ “Viết” cũng đọc và viết là “Việt”. “Viết nhược
kê cổ” cũng đọc là “Việt nhược kê cổ”
( ). Các nhà chú giải
lâu đời nhất như Mă Dung và Khổng An Quốc cũng chỉ
giải nghĩa rằng đó là câu nói giáo đầu (phát ngữ từ)
nhưng không đưa ra lư do tại sao lại dùng câu đó, tại
sao chữ viết với Việt lại dùng lẫn lộn…v́ vậy mà có
câu lập lờ mở đầu “Việt nhược kê cổ”. Cả Mă Dung lẫn
Khổng An Quốc đều cho chữ “nhược” là thuận, chữ “kê”
là khảo. V́ thế câu trên có nghiă rằng : “Người Việt
thuận theo ư vua xin kê cứu việc cổ xưa”. Nếu nói viết
nhược kê cổ th́ câu văn thiếu chủ từ. C̣n khi thay vào
bằng chữ Việt th́ có chủ từ là người Việt, nhưng phải
cái phiền là ghi công người Việt vào đầu Kinh Thư th́
không tiện, nên cho rằng chữ “Việt” với viết” như
nhau…”
Như chúng ta đă biết Âm
Dương Ngũ Hành, Lạc Thư Hà Đồ là của dân Việt th́ Hồng
Phạm Cửu Trù cũng là của dân Việt. Hồng Phạm Cửu Trù là 9
trù của họ Hồng Bàng làm ra để theo đó mà
điều hành việc nước. Hồng Phạm Cửu Trù là bản Hiến Pháp
cổ nhất của dân Việt do họ Hồng Bàng lập ra cho việc trị
nước.
Hồng Phạm Cửu Trù có 9
trù tức 9 loại, 9 mục :
Trù 1 : Ngũ
Hành : Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ
Trù 2 : Ngũ Sự
: Mạo (dung mạo), Ngôn, (nói năng) Thị (nh́n xem), Tư
(suy nghĩ), Thính (nghe).
Trù 3 : Bát
Chính : Thực (ăn), Hóa (tiền bạc), Tự (tế tự), Tư không
(canh
tác),
Tư
Đồ
(giáo
dục),
Tư
khấu
(h́nh
phạt),
Tân (ngoại giao), Sự (binh bị).
Trù 4 : Ngũ Kỷ :
Năm, Tháng, Ngày, Tinh Tú, Lịch pháp.
Trù 5 : Hoàng
Cực : (Hoàng là vua, ở ngôi cao nhất gọi là cực). Người
làm vua phải dựng nên mực thước cho dân theo. Tóm lại là
lẽ công bằng chính trực mà vua phải theo và cũng là
người lănh đạo phải làm, mà như thế là theo lẽ trời.
Trù 6 :Tam Đức :
Ngay Thẳng, Cứng rắn, Ôn Ḥa.
Trù 7 : Kê Nghi
: Tra cứu nghi ngờ. Khi có sự hồ nghi do dự th́ dùng bói
toán để biết ư trời.
Trù 8 : Thứ
Trung : Các “điềm trời”.
Mưa nhiều : vua làm việc rồ dại.
Đại hạn : vua sai lầm.
Nóng nhiều : lười biếng, bê trễ chính sự.
Rét nhiều : Làm việc tính cách nóng nảy.
Gió nhiếu : ngu tối, mờ ám.
Trù 9 : Phú Cực
: Ngũ Phúc và Lục Cực :
Ngũ Phúc : Thọ, Giàu, Khỏe mạnh, Đức tốt, Sống trọn đời,
Không rủi ro.
Lục Cực : Chết do tai nạn, chết non. Đau ốm tật
bệnh. Lo buồn. Nghèo
đói. Ác nghiệt. Nhu nhược.
Câu truyện Sơn
Tinh Thủy Tinh mà Hùng Vương thứ 18 ra điều kiện ai muốn
cưới công chúa Mỵ Nương th́ sính lễ phải có là :
“Voi chín ngà, gà
chín cựa, ngựa chín hồng mao” (Nam Hải Dị
Nhân, Phan Kế Bính)
Đây là những giá trị tinh túy nhất của nền văn hiến Văn
Lang mà họ Hồng Bàng tạo lập được từ thời thượng cổ cho
đến thời bấy giờ, vua Hùng Vương đ̣i hỏi người con rể và
cũng có thể là người kế vị phải thông suốt và có trách
nhiệm ǵn giữ.
* Voi chín ngà
: Trù thứ nhất: đó là trạng thái ban đầu
của vũ trụ theo quan niệm của thuyết Âm
Dương Ngũ Hành là : Kim, Môc, Thủy, Hỏa, Thổ và 4 trạng
thái tương tác của nó là Tứ Tượng : Tương sinh,
Tương khắc, Tương thân ,Tương cụ, tổng cộng là 9. Đây là
căn bản của hệ tư tưởng, chủ thuyết của nền Văn Hiến Văn
Lang được mở đầu trong Hồng Phạm Cửu Trù : Bản Hiến Pháp
của họ Hồng Bàng.
* Gà chín cựa : (Kê Nghi) trù
thứ 7 của Hồng Phạm Cửu Trù. Khi nhà vua có điều ǵ nghi
ngờ th́ trước hết mưu tính trong ḷng rồi mưu với các
khanh sĩ, khi cần th́ mưu vớii thứ dân, mưu với bói
toán. Đó là h́nh thức dân chủ ngày nay, không độc đoán
mà lấy ư kiến dân chúng.
* Ngựa chín
Hồng Mao : Ngựa ngày xưa tượng trưng
cho sức mạnh, chiến tranh và quyền bính. Ngựa chín hồng
mao là h́nh ảnh của Hồng Phạm Cửu Trù, là những giá trị
mà người lănh đạo phải noi theo trong việc điều
hành quốc gia, giữ vững biên cương.
Truyền
thuyết kể rằng: Sơn Tinh là Tản Viên Sơn Thần đă giải
đúng và cưới được Mỵ Nương nhưng không màng ngôi vua mà
quyết chí theo Chử Đồng Tử ngao du sơn thủy tu tiên nên
nhường ngôi vua cho Thủy Tinh Thục Phán. An Dương Vương
đă không giữ được cơ nghiệp của họ Hồng Bàng truyền lại
mà để mất trong tay Triệu Đà (Hoa tộc). Thời kỳ rực rỡ
của nền Văn Hiến Văn Lang đă khép lại khi An Dương Vương
trên lưng thần Kim Quy đi xuống biển.
Quy
Lịch
Sách Thông
Chí của Trịnh Tiều chép: “Đời Đào Đường (Vua Nghiêu
2253 TCN) Phương Nam có bộ Việt Thường cử sứ
bộ qua lại hai lần phiên dịch sang chầu, dâng con rùa
thần có lẽ đă sống trên 1000 năm, ḿnh dài hơn 3
thước, trên lưng có khắc văn khoa đẩu ghi việc trời
đất mở mang. Vua Nghiêu sai chép lấy gọi là Quy Lịch”.
Đoạn văn ngắn đó cho ta nhiều điểm đáng lưu ư :
Bộ
Việt Thường : đây là một bộ
của nước Văn Lang 15 bộ.
Trên
lưng rùa có khắc chữ khoa
đẩu : chữ khoa đẩu cũng gọi là
chữ ṇng nọc hay chữ con quăng. Điều này chứng tỏ tộc
Việt đă có chữ viết ghi các sự việc. Chữ viết khắc trên
lưng rùa nên cần phải có rùa to lớn. Rùa lớn chỉ ở vùng
sông Dương Tử là nơi tộc Việt sinh sống mới có. Tộc Hoa
ở vùng Hoàng Hà không có rùa lớn. Những mu rùa người ta
t́m thấy sau này ở kinh đô nhà Thương có khắc chữ khoa
đẩu hẳn là của dân Lạc Việt, có thể do dân Lạc Việt đem
tặng, có thể là do tộc Hoa xâm lăng đánh cướp được ( nhà
Thương/Ân xâm lăng Văn Lang thời Hùng Vương thứ 6). Rùa
lại đến với dân Việt khi thần Kim Quy giúp vua An Dương
Vương xây thành Cổ Loa và cho móng vuốt làm lẫy nỏ để
giữ nước nhưng đă bị Trọng Thủy của tộc Hoa ăn trộm tức
đoạt mất tinh hoa của nền văn hiến Việt tộc. Do đó Hoa
tộc đă học được thuyết Âm Dương Ngũ Hành cũng như Lạc
Thư, Hà Đồ, Kinh Dịch, Lịch pháp cùa tôc Việt.
- Ghi
việc trời đất mở mang : là việc tạo thành trời
đất từ Thái cực đến Âm Dương Ngũ Hành, Kinh Dịch và Lạc
Thư Hà Đồ.
- Sai
chép lấy gọi là Quy Lịch : chứng tỏ Việt tộc đă
biết coi thiên văn địa lư để làm ra lịch. Dân Việt sống
bằng nghề trồng lúa nước (Lạc dân, Lạc điền) cần biết
thời tiết để canh tác trong năm nên cần có lịch. Hoa tộc
đă học làm lịch với Việt tộc.
Kinh
Thư
viết
là
vua
Nghiêu
sai
hai
ông
Hy Ḥa làm ra lịch. Như đọan văn trên nói rơ là khi được
rùa thần trên lưng có khắc chữ khoa đẩu nói về việc trời
đất mở mang do bô Việt Thường đem tặng nên mới sao chép
lấy gọi là Quy Lịch chứ không phải do vua Nghiêu sai hai
ông Hy Ḥa làm ra lịch.
Lại nữa, dân ta có câu ca dao độc đáo nói về việc hai
ông Hy Ḥa làm lịch:
Ai về nhắn họ Hy Ḥa
Nhuận
năm
sao
chẳng
nhuận
và
(vài)
trống
canh.
Nó chứng tỏ hai ông Hy Ḥa Làm lịch này là người
Lạc Việt trong thời nước Văn Lang đang rực rỡ với nền
Văn Hiến dựa trên nền tảng Âm Dương, Ngũ Hành, Lạc Thư,
Hà Đồ và Hồng Phạm Cửu Trù cũng như Kinh Dịch.
Các sách Tàu như Giao
Châu Kư, Tam Đô Phủ, Ngô Lục Địa lư, PhươngThảo Mộc
Trang xác nhận 12 con giáp của lịch pháp là của Việt tộc
như sau : “..họ (Lạc Việt) đem tính t́nh
các con vật mà so sánh với người rồi họ truyền tụng
rằng ngày thứ nhất trời sinh con chuột, ngày thứ hai
sinh con trâu, ngày thứ ba sinh con cọp v.v..” …“Dân
Lạc Việt trồng lúa mà ăn, dùng trà mà uống”… “dùng đá
màu làm men gốm”…”Họ biết t́m hiểu các thức ăn nóng
mát (tức thuyết âm dương) để trị bệnh, dùng kim đâm
vào da thịt lấy máu để trị bệnh (lể giác bầu) lấy đá
hơ nóng áp vào da thịt để trị bệnh…” chứng
tỏ dân Lạc Việt đă làm ra lịch, đă áp dung âm dương trị
bệnh, căn bản của nền y học.
Sách Cổ Kim Đồ Thư, Thảo Mộc
Điếm viết : “Mă Viện tâu vua Tàu: Giao chỉ ép mía
làm đường…Giao Chỉ làm giấy mật hương. Giấy mật hương
làm bằng lá và vỏ cây mật hương trồng ở Giao
Chỉ, giấy mềm. giai và thơm, ngâm nước không bở không
nát.” Điều đó chứng tỏ từ đời Hùng Vương chúng
ta đă có chử viết v́ làm giấy không để viết chữ hay vẽ
th́ để làm ǵ?
T̀M LẠI BẢN GỐC.
Kể từ thời
thượng cổ các Tổ Phụ dân Lạc Việt đă biết ngửng lên nh́n
trời xem sự vận chuyển của tinh tú trên giải thiên hà,
lại nh́n xuống đất xem xét sự vật mà h́nh thành thuyết
Âm Dương Ngũ Hành, Lạc Thư Hà Đồ. Từ đó làm ra Kinh
Dịch, Lịch Pháp rồi Hồng Phạm Cửu Trù để điều hành việc
nước và các sản phẩm của Âm Dương Ngũ Hành như Y Học,
Thái Ất Thần Kinh, Tử Vi, Phong Thủy…
Để lưu truyền hậu thế
các ngài đă cụ thể hóa các lư thuyết cao siêu trong các
huyền thoại, ca dao hay sự vật khi nước mất chủ quyền.
Về thuyết Âm Dương Ngũ
Hành, Kinh Dịch các ngài đă làm ra Bánh Dầy Bánh Chưng
cùng với câu tục ngữ tuyệt vời “Mẹ Tṛn Con Vuông”
Với Lạc Thư Hà Đồ, các
ngài đă lưu truyền huyền thoại “Con Rồng Cháu Tiên”.
với 100 con, 50 theo Mẹ lên núi, 50 con theo
Cha xuống biển, đất nươc chia làm 15 bộ.
Về việc điều hành đất
nước và các đức tính người lănh đạo phải noi theo là
Hồng Phạm Cửu Trù th́ đă có câu truyện “Sơn Tinh Thủy Tinh” với
lời thiệu: Voi Chín Ngà, Gà Chín Cựa, Ngựa
Chín Hồng Mao.
Các ngài đă làm ra lịch
để dân ta biết năm tháng mùa màng mưa nắng cho việc cày
cấy lúa nước với câu ca dao bất hủ : Ai về nhắn họ
Hy Ḥa - Nhuận năm sao chẳng nhuận và trống canh”.
Về chữ viết th́
chính người Tàu đă công nhận dân Lạc Việt có chữ khoa
đẩu (con quăng, ṇng nọc) và dùng lối thắt nút để cai
trị dân.
Kể từ khi bộ Việt
Thường đem Rùa Thần có khắc chử khoa đẩu ghi việc mở mang
trời đất (Âm Dương Ngũ Hành Lạc Thư Hà Đồ, Lịch Pháp) tặng
cho vua Nghiêu để xiền dương nền Văn Hiến tuyệt vời của
dân Việt cho đến thời An Dương Vương bị Hoa tộc (Triệu Đà)
đánh bại, đă giáng nhát gươm oan nghiệt xuống đầu Mỵ Châu
rồi cầm sừng tê bảy tấc theo Rùa Thần (Kim Quy) đi xuống
biển th́ trang sử hào hùng chói lọi Văn Hiến Lạc Việt đă
khép lại. Kẻ thống trị đă cưỡng đoạt các giá trị văn hóa
của Việt tộc làm của ḿnh. Hàng ngàn năm bị đô hộ, nền văn
hóa dân tộc bị kẻ xâm lăng tước đọat. Chỉ trong vỏng 14
năm thời nhà Minh xâm lăng cai trị mà tất cả sách vở đều
bị tịch thu, bắt nhân tài qua phục vụ mẫu quốc, bắt dân
chúng theo phong tục tập quán Tàu, th́ hàng ngàn năm bị đô
hộ nền tảng văn hóa dân tộc c̣n ǵ nữa. Sĩ Nhiếp được
tiếng là giáo hóa dân Việt, thực ra đă bắt dân ta học chữ
Tàu, bỏ chữ khoa đẩu, bắt cưới hỏi theo lề lối Tàu, bỏ chế
độ mẫu hệ, bắt ăn mặc theo Tàu cài vạt áo bên phải nghĩa
là bắt theo phong tục của Hoa tộc.
May mắn dân ta c̣n lưu truyền truyện tích mang tính
chất huyền sử, c̣n ca dao tục ngữ, c̣n bánh dầy bánh
chưng để chứng nhận di sản
văn hóa của Tổ Tiên mà ngày nay tưởng như là của Tàu.
Những chiếc ch́a khóa để mở cửa vào nền
Văn
Hiến bất diệt của dân tộc c̣n nằm rải rác trong dân
gian, cần nhiều khai thác.
Nền Văn Hiến Việt tộc
khởi đi từ thượng cổ, ít ra là từ Kinh Dương Vương, sánh
ngang với các nền văn minh nhân loại như
Lưỡng Hà, Ai Cập, Ấn Độ… Bởi vậy khi dành được tự chủ,
chậm nhất từ thời nhà Lư, ông cha ta đă hân hoan
hănh diện công bố đất nước “Bốn Ngàn Năm Văn
Hiến”. Đến nay trải qua ngàn năm tự
chủ, đất nước Việt Nam, dân tộc Lạc Việt đă
có
“Năm Ngàn
Năm Văn Hiến”. Chúng ta hănh diện
là con dân của nước Việt Nam Văn Hiến.
Đông Biên
Nguồn: http//www.taphopnguoidanbinhthuong.org
Nhóm mạng Việt Nam Văn
Hiến
Trang:
Bốn Ngàn Năm Văn Hiến
www.vietnamvanhien.net
(Tin tức cập nhật thường xuyên)
www.vietnamvanhien.org
(Thuần về văn hoá - Tải nhanh)
www.vietnamvanhien.info
(Tủ sách Văn Hiến - Hơn 7100 tác
phẩm)
www.vietnamvanhien.com
(Kinh tế & Tài chánh)
Nhóm
mạng Việt Nam Văn Hiến là nơi lưu trữ và phổ biến
những biên khảo, sáng tác và ư kiến của quư nhân
sỹ, thi-văn sỹ và độc giả nhằm hai mục đích: (1)
Bảo tồn di sản văn hóa của Việt tộc. (2) Thắp sáng
niềm tin Diên Hồng và nếp sống Văn Hiền hầu phục
hồi nền "An Lạc & Tự Chủ" ngàn đời của Việt
tộc.
|