Trọn
năm
1946,
New
Times
chỉ
đăng
hai bài của A. Guber và Vera
I. Vasilyeva (1900-1959), cựu chủ nhiệm Văn Phòng Ðông
Dương của Ban Phương Ðông QTCS về “French-Indochina.” Guber
yểm trợ mô hình Khối Liên Hiệp Pháp [L’Union
francaise] trong Dự thảo Hiến Pháp của Pháp, và
nhấn mạnh vào sự thắt chặt liên hệ giữa “nhân
dân Ðông Dương” với “lực lượng tiến bộ” Pháp,
vì đây là chỗ nương dựa cho những đòi hỏi
chính đáng. Vasilyeva cũng tin rằng tiến triển ở “Viet
Nham” sẽ tùy thuộc vào quan hệ với những lực lượng
“dân chủ Pháp” vì các lực lượng tiến bộ
này luôn luôn yểm trợ sự giải phóng thuộc địa
[The further
development of Vietnam depends to a significant degree on its ties with
democratic France, whose progressive forces have always spoken forth in
support of colonial liberation]. (46)
Không
rõ
những
lập
luận
trên
dựa
theo đường lối chính
thức của Stalin hay chịu ảnh hưởng của báo chí “tả
phái Pháp” trong thời gian này. Nhưng luận điệu
của New Times phản ánh rõ ràng lập trường: (1) vấn
đề Việt Nam
thuần túy là vấn đề nội bộ Pháp, và (2)
Mat-scơ-va không chống đối nguyên tắc một Khối Liên
Hiệp Pháp–một bước thụt lùi khỏi kế hoạch “Quốc tế quản
trị.”
Mãi
tới mùa Xuân 1947–sau một chuỗi những biến cố mở đầu cuộc
chiến tranh lạnh Mỹ-Nga (1947-1991), đưa Pháp đi dần về
phía hữu, các bộ trưởng CS bị loại khỏi chính
quyền Paul Ramadier–Nga mới quan tâm hơn đến Á Châu.
New Times qui trách bọn phản động Pháp, và cảnh
giác về âm mưu đế quốc Bri-tên nhằm đuổi Pháp
và Dutch khỏi Ðông Nam Á. New Times
cũng bắt đầu nhắc đến “Ho She-ming” và “Viet Nham,” nhưng có vẻ chỉ tóm lược những
nét chính của L’Humanité, cơ quan
ngôn luận của Ðảng Cộng Sản Pháp, và
ràng buộc số phận dân chúng Ðông Dương
vào Ðảng CS Pháp cùng tổ chức Công
đoàn Thương mại [C.G.T.]. của Louis Saillant.
Tháng
4/1947,
New
Times
bắt
đầu
đả
kích chính phủ Ramadier về
những hành động quân sự và chính trị ở
Ðông Dương–từ chính phủ tự trị nồng mùi nhựa
cao su tới việc thành lập một chính phủ lưu vong
không Cộng Sản dưới danh nghĩa Bảo Ðại để làm giảm
giá trị Hồ. Tháng 4/1947 này, Zhukov ca ngợi
nhân dân Việt Nam và Indonesia đã mang biểu
ngữ tự do và độc lập vào tận trái tim Á
Châu [“carrying
the banner of freedom and independence into the heart of Asia.”] Dẫu vậy, cả
hai siêu cường Nga và Mỹ đều nhân nhượng, quay lưng
trước chính sách thực dân của Pháp.
Thái độ của Stalin “đúng đắn” đến độ ngày
14/4/1947, khi phe cực hữu như Maurice Violette nhắc đến liên hệ
giữa Hồ với QTCS–kiểu “Tinh thần quốc gia ở Việt Nam là phương
tiện; cứu cánh là thực dân Liên
Sô”–các dân biểu CS Pháp (Michel Cachin),
Ðảng Xã Hội, hay MRP (Ki-tô giáo trung dung),
và ngay Thủ tướng Paul Ramadiet đều bênh vực Nga
“hoàn toàn trung lập.” (47)
Stalin
cũng
chẳng
trọng
vọng
gì
Hồ.
Theo những lãnh tụ CS
Âu Châu từng làm việc dưới quyền Stalin, điều khiến
“Bác Joe” khó chịu là từ năm 1943, Hồ đã
hợp tác công khai với tình báo
Bri-tên, Mỹ, và Trung Hoa. [Stalin was
distrusful of of Ho and his group. He felt that Ho had gone too far in
his wartime collaboration with the British intelligence and the OSS]. Hồ lại thường
không chứng tỏ ước muốn tham khảo và xin lệnh Stalin trước
khi hành động. [Also, Ho had
consistently displayed his unwillingness to seek Stalin’s advice and
consent prior to taking action]. Việc giải
tán Ðảng CSÐD là một thí dụ. Thorez tiết
lộ rằng khó thể thuyết phục được Stalin về tính chất
chuyển tiếp, một thủ thuật để lôi kéo những thành
phần quốc gia không Cộng Sản. [As an
example, the dissolution of the ICP: Thorez had a hard time convincing
Stalin that the liquidation was transitory, a mere tactic to gain
political support from the Vietnamese nationalists]. Không
kém quan trọng, vị thế địa lý-chính trị của Việt Nam
và sự yếu ớt của lực lượng du kích VM khiến Stalin ngần
ngại, không muốn tham dự vào một cuộc phiêu lưu
không bảo đảm thành công. (48)
Sau ngày Mao chiếm Bắc Kinh, cơ quan tuyên
truyền Nga mới bắt đầu bênh vực chính nghĩa của VNDCCH
dưới sự lãnh đạo của HCM. Ngày
1/4/1949, Ðài phát thanh Liên sô tại
Siberia (Soviet Radio Khabarovsk), trong chương trình
phát về Ðại Hàn, lược nhắc những hoạt động của
chính phủ HCM, và Ðảng CSVN do Hồ lãnh đạo.
Ngày 13/4/1949, New Times lên án Liên bang Mỹ
đứng sau thí nghiệm Bảo Ðại, và tóm lược
thành tích của VNDCCH như “kiểm soát 90%
lãnh thổ và dân chúng;” thực hiện những cải
cách xã hội, chính trị, văn hóa, kinh
tế-tài chính. Ðược sự ủng hộ của những lực lượng
dân chủ trên toàn thế giới, lên án
hòa ước Elysée (8/3/1949) như sự thỏa thuận giữa đế quốc
Pháp với bù nhìn phong kiến để chống lại dân
tộc Việt Nam, với Oat-shinh-tân sau lưng. (49)
Lý
do
nào
đi
nữa,
Nikita
S.
Khrushchev–Bí thư thứ nhất
Ðảng CS Nga từ 14/3/1953 tới 15/10/1964, người hạ bệ Stalin qua
diễn văn ngày 20/2/1956, và chẳng trọng vọng gì
Hồ–xác nhận Stalin rất lạnh nhạt với Hồ trước năm 1950. (50)
Sự lạnh
nhạt của Stalin có thể còn do vị thế địa
lý-chính trị của Việt Nam trên bản đồ thế
giới. Việt Nam
ở quá xa tầm tay Stalin. Hơn nữa, thật khó để quyết định
đặt Việt Nam
vào vùng ảnh hưởng Ðảng CSTH hay Ðảng CS
Pháp. Từ năm 1935, QTCS đã đặt Ðảng CSÐD dưới sự
kiểm soát của Pháp. Tình thế đã đổi thay,
vì Mao mới dời địa chỉ từ Diên An về Bắc Kinh. Giống như
Karl Marx, Stalin không trọng vọng những “bị khoai của
cách mạng vô sản” ở Á Ðông.
Chiến
thắng mau chóng của Mao tại Hoa lục trong hai năm 1947-1948
khiến Stalin chú ý hơn đến Á Châu, nhưng ủy
thác cho Mao phụ trách phong trào cách mạng
ở Viễn Ðông–cơn nhức đầu của Stalin từ năm 1929.
Chuyện gì xảy ra đi nữa, do Mao đề nghị, vài
ngày sau khi Hồ tới Mat-scơ-va, Stalin tiếp Hồ tại văn
phòng với sự hiện diện của Geogii M. Malenkov,
Vyacheslav M. Molotov, Nikolai A. Bulgarin, Wang Jiaxiang (Vương Gia
Tường), Ðại sứ Trung Cộng tại Nga, và Trần Ðăng Ninh. Stalin
hỏi
về
lý
do
giải
tán
Ðảng Cộng Sản, và
chính sách trong tương lai. Stalin cũng
muốn Hồ đứng về phía nhân dân, thực hiện ngay
“cách mạng thổ địa.” (51)
Trong một
buổi họp có cả Mao, Hồ xin Stalin giúp trang bị 10 sư
đoàn bộ binh và 1 trung đoàn pháo cao xạ.
Stalin nói Trung Cộng có nhiệm vụ giúp VNDCCH
vì Nga đang lo mặt Ðông Âu. Stalin hứa sẽ bồi
hoàn cho Bắc Kinh số vũ khí viện trợ cho Việt Minh. Mao
đồng ý trang bị cho Việt Nam sáu [6] đại
đoàn, Hồ có thể cho người sang nhận vũ khí. Tỉnh
Quảng Tây sẽ là hậu phương trực tiếp của Việt Nam.
Tối
16/2,
trong
dạ
tiệc
đưa
tiễn
Mao, khi Hồ nửa đùa nửa thực đề
nghị Stalin ký Hiệp ước hữu nghị với Việt Nam,
Stalin từ chối và phũ phàng hỏi lại: Cách
nào để giải thích Hồ từ đâu tới Mat-scơ-va? Stalin
còn bỡn cợt Hồ về việc “Chủ tịch Nhà Nước” xin “chỉ thị.”
(52) [Hồ
còn xin chữ ký Stalin và các cấp
lãnh đạo Nga (giống như từng xin hình có chữ
ký của Tướng Claire Chennault năm 1945); nhưng tờ báo
có chữ ký này sau đó bỗng dưng biến mất ở
khách sạn].
Một
tác
giả
TC
ghi
trong
khi
HCM tháp tùng Mao
và Chu Ân Lai đáp xe lửa từ Mat-scơ-va về Bắc Kinh
đúng ngày Nguyên đán Canh Dần [17/2/1950],
Mao mới hứa trang bị cho Việt Nam sáu [6] đại
đoàn. Trở lại Bắc Kinh ngày 2/3, Hồ thảo luận thêm
chi tiết vấn đề viện trợ. Ngày 4/3, Mao họp với Thiếu Kỳ, Chu
Ðức, Ân Lai và ủy thác Phó Chủ tịch
Trung Cộng điều động công tác “nghĩa vụ quốc tế”
này. Theo một
tài liệu Bắc Kinh, từ tháng 4 tới tháng 9/1950,
Bắc Kinh viện trợ cho VM 14,000 súng, 17,000 súng tự
động, 150 cỗ pháo đủ loại, 2,800 tấn thóc, cùng
nhiều đạn dược, thuốc men, quân phục và máy truyền
tin; Jian 1993:93. Một tài liệu khác ghi từ 1950 tới
1954, TH viện trợ hơn 155,000 súng, hơn 3000 pháo,
cùng đạn dược, xe cộ, quần áo, lương thực, thực phẩm phụ,
đồ dùng; (Trương Quảng Hoa, LQB, 2008:27) (53)
Hồ cũng đề
nghị trao đổi Ðại sứ, và thiết lập cơ sở ngoại giao.
Ngày 7/7/1950, Chu Ân Lai cho biết hiện tình chiến
tranh khiến bất tiện cho ngoại giao đoàn, TC giữ Luo Guibo [La
Quí Ba], đã lên đường qua Việt Bắc từ tháng
1/1950 như đại diện Ðảng CSTH, tiếp tục nhiệm vụ này hơn
là Ðại sứ. Từ tháng 8/1950, Quí Ba gặp gỡ
các cán bộ cao cấp CSVN tại Tuyên Quang, qua sự
thông dịch của Lý Ban. Bùi
Công Trừng, Hồ Viết Thắng trình bày với Ba về vấn
đề kinh tế và dân cày từ 21 tới 23/8/1950.
Sáng 23/8, Thắng còn trả lời Quí Ba về CCRÐ. Lê
Văn
Hiến
trình
bày
vấn
đề
tài chính, thu
thuế nông nghiệp, v.. v.. Ngày 24/9, Quí Ba về lại
Bắc Kinh, được Thiếu Kỳ dẫn vào gặp Mao. Mao đồng ý cho
làm Tổng Cố Vấn, với nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu
là cải cách kinh tế, tài chính, và
được phép mang vợ là Lý Hàm Trân
tháp tùng qua Việt Bắc, phụ giúp trông coi
văn hóa và phụ nữ vận.
Trong
khi
đó,
Hoàng
Văn
Hoan,
từng
ở Hoa Nam từ 1934 tới 1945,
rồi hoạt động ở Thái Lan trong hai năm 1948-1949, đại diện
Ðảng CSÐD tại Bắc Kinh (sau trở thành Ðại sứ). Thiếu
Kỳ còn cho lập hai Tòa lãnh sự ở Nam Ninh (Quảng
Tây) và Côn Minh (Vân Nam). Biện sự sứ tại
Côn Minh là Bùi Ðức Minh (1900-1963), tức
Bùi Ðức Hách, một cựu đảng viên nhóm
Thiết Huyết Việt Nam Quốc Dân Ðảng tại Vân Nam, nhưng
phản Ðảng, theo Cộng Sản cùng với Trần Quốc Kính,
Lê Tùng Sơn, v.. v.... từ năm
1935-1936. Luật sư [Nguyễn Văn Lưu], quen biết Vũ Ðình
Hoè, làm Biện sự sứ Quảng Châu. (54)
Hồ cũng xin
trao đổi Ðại sứ với Liên Sô; nhưng Mat-scơ-va chỉ đồng
ý nhận Ðại sứ VNDCCH mà không gửi Ðại sứ
tới Việt Nam vì chưa có thủ đô cố định. (55)
Kết Từ:
Chuyến đi
cầu viện bí mật của Hồ Chí Minh năm 1950–từ thời điểm
này nhìn lại–cực kỳ quan trọng cho cá nhân
Hồ và Ðảng CSVN. Nó đánh dấu sự trở lại của Hồ
với Khối Quốc Tế Cộng Sản, dưới sự bao bọc, che chở, nuôi ăn,
cung cấp vũ khí và những chiếc loa tuyên truyền
âm vang khắp thế giới cho chính nghĩa cách mạng
“giải phóng quốc gia.” (56)
Tháng
2/1951,
tại
Hội
trường
Ðại
Hội
II Ðảng CSÐD–cũng Ðại
hội đổi tên thành Ðảng Lao Ðộng Việt Nam–dưới
chân dung Mác, Ăng-ghen, Lênin, là chân
dung của Stalin và Mao Trạch Ðông. Trong công
điện gửi Ðảng CSTH, có đoạn:
“Ðảng Lao động Việt
Nam nguyện soi gương anh dũng Ðảng Cộng Sản Trung Quốc, học tập tư
tưởng Mao Trạch Ðông, tư tưởng lãnh đạo nhân
dân Trung Quốc và các dân tộc Á
Ðông trên con đường độc lập và tự chủ;” (57)
Trong
báo cáo chính trị, Hồ tuyên bố:
Ta có những người
anh, người bạn sáng suốt nhất, xứng đáng nhất của
loài người–là đồng chí Sta-lin và Mao Trạch
Ðông. (58)
Bài
diễn
văn
bế
mạc,
kết
thúc
bằng những lời hô: “Ðồng
chí Xit-ta-lin muôn năm,” “Mao Chủ tịch muôn năm,”
“Hồ Chủ tịch muôn năm.” (59)
Ngày
1/9/1954,
trong
đáp
từ
đón
chào
Quí Ba
làm Ðại sứ đầu tiên của THNDCHQ bên cạnh
chính phủ VNDCCH, Hồ nhắc đến một thuật ngữ trở thành
quen thuộc từ năm 1950: Ðó là mối quan hệ anh em, như
môi với răng [teeth and lips]. Năm năm sau, ngày
28/9/1959, nhân lễ kỷ niệm mười [10] năm thành lập
THNDCHQ, HCM lại viết cho Mao: “Việt Nam và Trung Quốc
là hai nước anh em, quan hệ với nhau như môi với răng, ...
Cách mạng Trung Quốc thắng lợi và việc thành lập
nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa là sự kiện
vĩ đại nhất trong lịch sử của loài người tiếp theo cách
mạng tháng Mười Nga.” (60)
Dĩ
nhiên,
HCM
không
phải
là
tác
giả của thuật
ngữ “môi hở răng lạnh” này. Khoảng bảy thế kỷ trước, trong
thư gửi Trần Nhân Tông mùa Thu 1291, Thượng thư bộ
Lễ Trương Lập Ðạo của Qblai Khan nhà Nguyên (Yuan,
1270-1368) từng nói đến tình tương thân, tương trợ
“thần xỉ chi bang”–nhưng theo thứ bậc “cha-con” [“do tử dữ phụ mẫu chi
tương thân,” “phụ tử chi quốc, thần xỉ chi bang”], “thuận trời
thì sống, nghịch trời thì diệt” [thuận thiên giả
xương, nghịch thiên giả vong] giống như thời Nhà Tống.
Trích dẫn 5 điều “không tốt” [ngũ bất vi] trong Xuân
Thu, trích ba điều đáng sợ (“Tam khả úy”) trong
Luận Ngữ [Lỗ luận]; cùng một túi khôn cổ nhân
TH: “Ðánh vừa thì chịu, đánh mạnh thì
chạy” [“vị tiểu trượng tắc thụ, đại trượng tắc tẩu, tư ngôn an
tại tai?] (61)
Biết
rõ hay chưa hề nghe về thứ quan hệ “cha-con, giữ gìn nhau
như môi với răng”, “thuận trời thì sống, nghịch trời
thì diệt” của thời phong kiến này, ít nhất
trên phương diện ngoại giao, HCM đã thiết lập tiền lệ “hai
nước anh em” hay “bạn” thay cho thứ trật tự “thông hiếu cha-con”
xa xưa.
Hoàng
Văn
Hoan
(1905-1991),
đại
sứ
VNDCCH
đầu tiên tại THNDCHQ–trong nỗ
lực đả kích Lê Duẩn (1908-1986)–cũng kính cẩn dẫn
lại những lời tri ân nồng nhiệt của Hồ và hơn một lần cung
văn sự viện trợ “quốc tế vô tư” từ 1950 tới 1977. Năm 1984, khi
được Hồ Cẩm Ðào đãi tiệc nhân dịp năm năm
đào tẩu qua Bắc Kinh, Hoan còn nhấn mạnh “Công ơn
của TQ . . . sẽ
mãi mãi in sâu trong lòng nhân
dân Việt Nam,
không
bao
giờ
phai
nhạt;”
(62)
Sự cung
văn ngọt ngào, rộng rãi này là đặc
tính của “tư tưởng Hồ Chí Minh,” nói riêng,
và người Cộng Sản nói chung. Từ 1977 tới 1986, Hà
Nội tung ra loại văn chương “đào mộ” từ Mao tới Ðặng với
giọng điệu thường chỉ dành cho tử thù đế quốc. Người quan
sát ghi nhận những lời chửi rủa nặng nề như “ba lần
phản bội, lần sau bẩn thỉu tồi tệ hơn lần trước,” hay “những
con
thuyền
hải
tặc
mới
ló
dạng ở chân trời,” v.. v..
Chỉ thiếu những tiếng như chó, lợn, độc vật mà cơ quan
tuyên truyền Bắc Kinh hay chính Mao dành cho bọn
phản động, phản cách mạng, khó thể cải tạo.
Một
cái nhìn khách quan, khoa học, xuyên suốt
qua những lưới nhện cung văn-đào mộ, những buổi liên hoan
“uyên ca,” hay luận điệu tuyên truyền một chiều hung
hãn của chủ thuyết Marxist-Leninism, cho thấy những hố ngăn
cách đầy hoài nghi, khó san bằng giữa hai nước vừa
là đồng chí, vừa là anh em.
Theo
tình báo Pháp và THDQ, một hiệp định
Hoa-Việt được ký kết trong thời gian Hồ ở Bắc Kinh. Tài
liệu Trung Cộng hay Việt Cộng không nhắc đến hiệp ước, nhưng
xác nhận Mao hứa thoả mãn nhu cầu của Hồ, “trong khả
năng.” Mao tỏ ra rất thực tế trong lời hứa viện trợ. THNDCHQ vừa
thoát khỏi cuộc chiến gần 20 năm, kinh tế suy sụp, lệnh phong
tỏa của Liên Bang Mỹ và Ðồng Minh bắt đầu gây
ảnh hưởng. So với các cường quốc Tây phương, dân
Trung Hoa–nói theo một chuyên viên–còn như
người đứng giữa dòng sông, nước ngập đến cổ, chỉ cần một
gợn sóng nhỏ đủ ngạt thở.
Phân
tích sâu sắc hơn, viện trợ của Bắc Kinh có giới hạn
của nó, tùy theo những bài tính quyền lợi
hay an ninh cường quốc giai đoạn, và hảo ý của Mao.
Tháng 11/1950, Mao giải thích với La Quí Ba: “Việt
Nam đánh bại bọn xâm lược Pháp, đuổi chúng
khỏi Việt Nam, biên cương phía Nam của Trung Quốc cũng
giải tỏa khỏi mối đe dọa của bọn xâm lược thực dân
Pháp.”
Trong bốn
năm 1950-1953, Bắc Kinh giúp Hồ xây dựng được sáu
[6] đại đoàn chủ lực, đủ sức đương đầu với khoảng 200,000
quân viễn chinh Pháp. Mao còn sai Chen Geng [Trần
Canh] và đoàn cố vấn quân sự gồm 281 người chỉ huy
trận “tổng phản công” đầu tiên của QÐNDVN tại
Ðông Khê-Thất Khê trong tháng 9-10/1950,
giúp mở ngỏ biên giới Hoa-Việt, biến Quảng Tây
và Vân Nam thành hậu phương lớn của Việt Minh.
Dù
có những dị biệt về ngày tháng trong tư liệu CSVN
và CSTH, vai trò thống trị của cố vấn Trung Hoa
cùng các cơ quan trung ương ở Bắc Kinh trong giai đoạn
1950-1954 quá rõ ràng. Viện trợ của Bắc Kinh rất
khiêm nhượng, chỉ đáp ứng được khoảng 20% nhu cầu của
QÐNDVN năm 1950, nhưng là nguồn ngoại viện quan trọng
và duy nhất. Cố vấn Trung Cộng bày vẽ cho Quân Ủy
Trung Ương Ðảng Lao Ðộng Việt Nam chiến thuật biển người, lấy
năm, mười đánh một để đánh nhanh, thắng nhanh–hơn 500 “bộ
đội cụ Hồ” chết trong vòng 72 tiếng tấn công
Ðông Khê, trước lực lượng đồn trú khoảng 200
người. Gần trọn Trung đoàn 102/308–hậu thân Trung
đoàn Thủ Ðô, mới trải qua cuộc chỉnh huấn “tốt”–bị
tiêu diệt ngày 9-10/4/1954 ở Ðiện Biên.
Võ Giáp phải xin Bắc Kinh gửi chí nguyện
quân, nhưng Bành Ðức Hoài không chấp
thuận. Giáp đành xin đôn quân, tăng viện cho
mặt trận 25,000 bộ đội cùng hàng chục ngàn
dân công (nạn nhân của chiến dịch đấu tố).
Quan trọng
hơn nữa, viện trợ Trung Cộng giúp Hồ tạo thế chủ động trên
chiến trường. Năm 1952-1953, Bắc Kinh chỉ thị cho Hồ mở rộng chiến
trường lên hướng tây bắc để tránh tàn
phá các trung tâm sản xuất lương thực, đồng thời
chuẩn bị đánh thông xuống Hạ Lào và
Kampuchea–nhưng thực tâm có lẽ còn muốn khóa
kín tuyến tây nam, từ Thái Lan và Lào
tiến lên Vân Nam-Tứ Xuyên. Stalin chấp thuận,
và có tin đã đồng ý cho Mao và Hồ đi
tìm một giải pháp thương thuyết.
Trước viễn
ảnh sa lầy, Pháp nhờ Nga và Trung Cộng giúp
tìm một giải pháp chính trị. Dưới áp lực
Kremli và Trung Nam Hải, Hồ chấp nhận ký Hiệp ước
đình chiến Geneva 20-21/7/1954, tạm thời chia Việt Nam
làm hai vùng tập trung, chờ tổng tuyển cử đểạ quyết định
thể chế chính trị tương lai.
Về
ý thức hệ, cán bộ chính trị, kinh tế và
quân sự Trung Hoa cũng được gửi tới Việt Bắc, chỉ huy và
huấn luyện Quân Ðội Nhân Dân [QÐND] Việt Nam
“tư tưởng vĩ đại” của Mao–mà Hồ và Giáp đều ca
ngợi là bậc thày–thực hiện những kế hoạch Mao hóa
như chỉnh phong, chỉnh quân, chỉnh huấn, tái tổ chức bộ
máy quốc phòng và chính phủ. Rồi, cải
cách ruộng đất, kiện toàn tổ chức “bảo vệ an ninh,” nhằm
tiêu diệt xã hội phong kiến,” tiến lên xã hội
chủ nghĩa–qua những thí nghiệm tập trung tổ tiên, tập
trung thần thánh, hợp tác xã, nông trường,
công trường, tiêu diệt tư hữu–phiêu lưu vào
cuộc “cách mạng” mà trên bản chất chỉ là một
cuộc thay đổi chế độ cai trị độc tài quân chủ sang
“chuyên chính vô sản.” Khẩu hiệu và guồng
máy tuyên truyền khổng lồ không đủ che dấu mô
thức chuyên chính đã có hàng
ngàn năm lịch sử ở Trung Hoa và Việt Nam. Khoảng cách
biệt giữa giai cấp cai trị quan lại cách mạng và bị trị
bần cố nông chỉ thay đổi phiến diện trên hình thức.
Sự nghèo đói cùng cách biệt giữa giai cấp
cai trị và đám đông không thể cách
mạng hay thay đổi. Tham ô, nhũng lạm, bè đảng, hủ
hóa lan tràn, khiến những kiểu mẫu sửa sai, tứ thanh, ngũ
phản đều bất lực. Như loài đỉa trâu hai vòi, đảng
một mặt bòn hút máu dân, một vòi
khác bám chặt bất cứ nguồn ngoại viện nào
có thể cầu xin.
Phần Bắc
Kinh, chính sách ngoại viện và xuất cảng
“cách mạng” được tính toán nhiều mặt, bao gồm
truyền thống lịch sử, hệ tư tưởng cách mạng và quyền lợi
hay an ninh quốc gia. Vượt trên những yếu tố này,
còn mặc cảm tự tôn về vị trí tối cao của CSTH trong
quan hệ với Việt Nam.
Bắc
Kinh
thích
khoa
trương
họ
chỉ cống hiến vô tư,
không áp đặt điều kiện chính trị và kinh tế
kèm theo viện trợ. Nhưng họ lại muốn Hà Nội công
nhận vai trò lãnh đạo của Bắc Kinh trong phong
trào “giải phóng dân tộc”–tức thiết lập bằng họng
súng những thể chế độc tài, tàn bạo, khinh thường
mạng sống con người cũng như những quyền tự do cơ bản. Thái độ
này khiến nhóm Lê Duẩn, dù rất ưa
thích chế độ độc tài “dân chủ nhân
dân,” thấy khó chịu, nhạy cảm về quá khứ giữa hai
nước. Lãnh đạo CSTH liên tục nhắc đi nhắc lại rằng Việt
Nam phải được đối xử “bình đẳng,” nhưng chính những lời
lẽ đó phản ánh ảo tưởng rằng Bắc Kinh có một vị
thế áp đặt những giá trị và nguyên tắc
hành động lên những láng giềng. Kinh nghiệm lịch sử
cho thấy bất cứ thời điểm nào hùng mạnh của Bắc Kinh,
Việt Nam
và lân bang đều gánh chịu hoạ bành trướng
Hán tộc. Bất chấp việc hai Ðảng và chính phủ
gọi nhau “vừa là đồng chí vừa là anh em,”
thân thiết “như môi với răng,” ác cảm và sự
nghi ngờ ngày càng tồn đọng, kết tủa.
Cho đến
nay, vẫn còn những tài liệu tuyên truyền ca ngợi
cái gọi là “sự cống hiến vô tư” của Mao cùng
Ðảng CSTH cho “Việt Nam”–chính xác hơn, chỉ là
sự trợ giúp cho Ðảng CSVN, tức Ðảng cầm quyền hiện nay
tại Việt Nam.
Ðộng
lực của Mao Nhuận Chi–người được mô tả một cách phiến diện
như chỉ thấy chủ thuyết Cộng Sản [Communism, đúng hơn,
“công hữu”] là chân lí [the truth]–đa tạp hơn
nhiều người suy đoán. (63)
Ngoài
những
tham
vọng
quyền
lực
cá
nhân, với những đặc
tính phụ thuộc như tự tôn, tự cao, tự đại, đa nghi
và háo sát, còn tiềm tàng di sản
“luật kẻ mạnh” và tham vọng bành trướng có
hàng ngàn năm lịch sử của Hán tộc. Những
tài liệu tuyên truyền Ðại Hán nhồi nhét
vào đầu những người như Mao Nhuận Chi, Lưu Thiếu Kỳ, Chu
Ân Lai, hay Ðặng Tiểu Bình–qua những bài học sử
địa lớp đồng ấu hay tiểu học, hay “lịch sử nhiều người viết” như
“Tây di” đã chiếm đoạt của Trung Hoa nhiều chư hầu hay đất
đai như Miến Ðiện [Myanmar], Thái Lan, An Nam,
Ðài Loan, Triều Tiên, Manchuria, Mongol, Tibet, v.. v .
.– bất chấp sự
thực là các triều đại phong kiến Trung Hoa đã sử
dụng vũ lực để đánh cướp những xứ sở trên, và nhiều
hơn một lần bị đánh đuổi khỏi những vùng đất này.
Năm
1936,
Mao
từng
gợi
nhớ
lại
với Edgar Snow nỗi cảm khái và
hãnh diện khi thấy những tấm biểu ngữ “Ta Han
Min-kuo Wan Sui” [Vạn tuế Ðại Hán Dân Quốc] được
trương lên ở đường phố Trường Sa ngày 22/10/1911,
và nỗi phẫn uất khi đọc một bài viết về việc “mất”
các chư hầu Miến Ðiện, Xiêm, Annam vào tay Bạch
quỉ. (64)
Ba
năm
sau,
trong
cuốn
Cách mạng Trung Quốc và
Ðảng Cộng Sản Trung Quốc, Mao Nhuận Chi cũng lập lại luận điệu
trên. (65)
Từ năm
1949, sau khi chiếm được Hoa lục bằng họng súng, Mao Nhuận Chi
và cộng sự viên không ngừng tìm cách
mở rộng biên cương, xâm chiếm đất và biển có
nhiều tài nguyên thiên nhiên và đồng
thời tìm chỗ di dân. Tibet bị xâm chiếm
hay “incorporated” [vào bản đồ năm 1950-1951]. Tháng
9/1950, hàng trăm ngàn chí nguyện quân Trung
Cộng tràn vào Triều Tiên, giúp chế độ Cộng
Sản chống lại “đế quốc,” nhưng thực chất là bảo vệ cửa
ngõ chiến lược Ðông Bắc. Những cuộc chiến tranh
biên giới với India (1959-1962) và Nga (1969, đòi
1.5 triệu cây số vuông lãnh thổ). Những tội
ác diệt chủng ở Tibet,
Mongol,
Manchuria và miền
tây nam Trung Hoa.
Ðông
Nam
Á
là
vùng
đất
lý
tưởng còn lại
mà Mao và thuộc hạ muốn đặt vào bản đồ Ðại
Hán–một thứ sheng cun keng jian [vùng trời sinh tồn =
survival space]. Từ cuối năm 1949, Lưu Thiếu Kỳ đã chỉ thị cho
Bí thư Vân Nam Song Renqiong [Tống Nhiệm Cùng] về
sứ mệnh giúp đỡ các phong trào “cách mạng,”
“giải phóng” tại Ðông Nam Á. Hai thập
niên sau, Bắc Kinh chú tâm tới vùng biển
Ðông, được biết như Nam Hải, kho tài nguyên
thiên nhiên trị giá ước lượng tới 1 trillion [một
triệu tỉ] Mỹ Kim. Sách giáo khoa bậc tiểu và trung
học, và rồi Bộ Ngoại Giao Bắc Kinh in những bản đồ, theo
đó ranh giới phía Nam
của đế quốc Hán trải dài tới Indonesia. Ngây ngô và cuồng ngạo hơn khi những tấm
bản đồ biên cương trên có những đường dấu chấm.
Chuyến đi
cầu viện năm 1950, bởi thế, có thể là một chiến thắng
ngoại giao “vĩ đại” của Hồ và Ðảng CSVN. Hồ và
các thuộc hạ có lý do để đời đời nhớ ơn Mao
và Ðảng CSTH. Nhưng những người Việt Nam chân thành
yêu nước và hiểu rõ tham vọng bành trướng
xâm lược của giới cầm đầu Bắc Kinh, khó thể tri ơn. Những
vụ xâm chiếm đất đai, lãnh hải Việt mới đây
không xa lạ gì với những ai quan tâm đến lịch sử
quan hệ hai nước. Việc xây dựng những đập thủy điện trong
lãnh thổ Hoa Nam–khiến ảnh hưởng và đe dọa môi sinh
năm nước Ðông Nam Á mà Y sĩ Ngô Thế Vinh
báo động từ cuối thế kỷ XX–tham vọng chiếm đoạt chủ quyền
lãnh hải và lãnh thổ Việt theo Luật Kẻ Mạnh–những
thủ đoạn tràn ngập thị trường Việt với những món
hàng “nhái” và vật liệu nhiễm độc khiến
không thể không nghĩ tới thực chất sần sùi của quan
hệ gọi là láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn
diện, “mười sáu chữ vàng.” Tinh thần QTCS đại đồng
mà Karl Marx hoang tưởng hiển nhiên không thắng vượt
được những tiểu dị gọi là an ninh quốc gia, quyền lợi an ninh,
hay tham vọng chiếm đoạt tài nguyên thiên
nhiên, hay tiêu diệt lân bang để dân
giàu nước mạnh.
Vì
việc
này,
có
thời
gian
cơ
quan tuyên truyền
Hà Nội cho rằng Bắc Kinh đã phản bội, liên kết với
Pháp, đặt quyền lợi Bắc Kinh và Pháp trên
quyền lợi Ðảng LÐVN. (66)
Trong giai
đoạn 1959-1975, dù có những khó khăn tiềm ẩn trong
quan hệ Việt-Hoa, sự tiếp trợ của QTCS đã giúp Ðảng
CSVN [LÐVN] đạt được mục tiêu tối hậu là thôn
tính toàn lãnh thổ, thiết lập một chế độ độc
tài chưa hề có trong lịch sử–đó là “kinh tế
thị trường,” “tư tưởng Hồ Chí Minh,” “định hướng xã hội
chủ nghĩa.” Sự nhập cảng chủ nghĩa gọi là Marxist-Lenism được
Trung Hoa hoá lần thứ hai này sẽ là gông
cùm vô hình cho nhiều thế hệ thanh thiếu niên
Việt trong thế kỷ XXI.
Houston, 1/1/2010
Vũ
Ngự
Chiêu, Ph.D, J.D.
CHÚ THÍCH:
1. Võ Nguyên
Giáp, Ðiện Biên Phủ [ÐBP]
(Hà Nội: NXBQÐND, 2001), tr. 14-17 [Stalin chỉ thị Mao
giúp tổ chức 10 đại đoàn, HCM mời Trần Canh qua
giúp], 32-34 [đoàn CSQS/TC], 39-42 [Trần Canh], 45–50
[Ðông Khê], 51-85 [Thất Khê, Cốc Xá],
92-95 [Trần Canh], 102-103 [viện trợ TC năm 1950], 128 [20% nhu cầu năm
1950]; Idem., Chiến đấu trong vòng vây
[CÐTVV], (Hà Nội: NXBQÐND, 2001); Idem., Ðường
tới
Ðiện
Biên
Phủ [ÐTÐBP] (Hà Nội:
NXBQÐND, 2001); William S. Turley, “The Military Construction of
Socialism: Post-war Role of the People’s Army of Vietnam;” David G.
Marr & Christine P. White (eds), Postwar Vietnam:
Dilemmas in Socialist Development (Ithaca: SEAP, 1988), pp. 195-210;
2. Vũ Ngự Chiêu,
“Nhìn Lại Hoàng Sa;” Hợp Lưu (12/2009); Việt Nam Thời Báo, San Jose, số 5198, Thứ Tư, Thứ
Năm, 25, 26/11/2009; Qiang Zhai, China and the Vietnam
Wars, 1950-1975 (Chaptel Hill: North Carolina Press, 2000),
3. Centre des Archives
d’Outre-Mer [CAOM] (Aix en Provence),
Affaires Politiques [AP], carton 3441, d. 4; và, Service
historique de l’Armée de Terre [SHAT] (Vincennes), 10H xxx [287]. [sẽ dẫn: Bonfils’ report of 23 Sept 1948]. Những
tài liệu ghi chú “xxx” là tư liệu chưa giải mật
hoặc được yêu cần không bạch hoá.
4. Báo
cáo ngày 21/12/1946, Massimi, Hải Phòng, gửi Ủy
viên Bắc Kỳ [Sainteny]; báo cáo ngày
20/12/1946 & 30/12/1946 của Yolle; CAOM (Aix), HCFI, Conseiller
Politique [CP], carton 255; Amiral Thierry D’Argenlieu, Chronique
d’Indochine, 1945-1947 (Paris: 1985), tr. 385-92.
5. “La France reconnait solennement
l’indépendance du Vietnam auquel il
appartient de réaliser librement son unité. De
son
côté,
le
Vietnam
proclame
son
adhésion à
l’Union Francaise en qualité d’Etat associé à la France.
L’indépendence
du
Vietnam
n’a d’autres limites que celles que lui impose son appartenance
à l’Union Francaise;” Công Báo Việt Nam [CBVN], I:2 [18/6/48]:18; CAOM
(Aix), GGI [Amiraux], 50062; Foreign Relations of the United States
[FRUS], 1948, VI:25.
Ngoài ra, 2/ Việt
Nam bảo đảm tôn trọng những quyền lợi của công dân
Pháp, tôn trọng các nguyên tắc dân chủ,
và dành ưu tiên cho các cố vấn và
chuyên viên kỹ thuật Pháp trong việc tổ chức nội bộ
cùng kinh tế;
3/ sau khi thiết lập một
chính phủ lâm thời, các đại diện Việt Nam và
Pháp sẽ ký kết những thỏa ước về văn hoá,
chính trị, quân sự, kinh tế, tài chính
và kỹ thuật.
Ngoài Tuyên
Ngôn Chung nói trên, còn có một phụ
bản mật, với nội dung tương tự như mật ước trong buổi họp ngày
7/12/1947 (FRUS, 1948, VI:25).
Bảo Ðại, Nguyễn Văn
Xuân và Bollaert cũng ra ba tuyên cáo
riêng lập lại những điều căn bản trên.
6. Bảo An:
Bắc, 3,200; Trung, 8,526; Nam, 8,600. Các
tiểu
đoàn
bảo
an
(bataillon
de
garde) quân số thay đổi.
Tại miền Nam, lực lượng Bảo An có một đại đội Nhảy Dù
và 1 trung đội (groupe d'escadrilles) sông (24 LCVP). Phụ Lực: Bắc,
7,700; Trung, 3,500; Nam:
17,764.
Phụ
lực (supplétif): các đại đội nhẹ với ít
súng nặng và tự động. (CP 208).
Những đơn vị khác có: Lính sắc tộc (khoảng 8,000
người); Lính chính trị hay tôn giáo (khoảng
35,000); Lính chuyên môn như bảo vệ đường xe lửa,
v.. v... CAOM (Aix), HCIF, Conseiller Politique [CP] 208; FRUS, 1951,
VI:536; (SHAT (Vincennes),
10H
xxx
[243]).
7. FRUS,
1950, VI:909-10. [25/10/1950, DC, 19G00: Acheson điện cho Heath về việc
thành lập QÐGVN. Theo Pháp, có thể đưa
các lực lượng giáo phái vào, tổng số chừng
75,000 người. Qua những cuộc nói chuyện với Thục, [Giám
mục] Chi và Diệm, cũng có thể biến lực lượng Ki-tô
Giáo thành một phần quân đội (FRUS, 1950,
VI:909-10)].
8.
CAOM (Aix), PA 19, Carton 4/68; HCFI, Conseiller Politique [CP], carton
290; AAN, 1949: 1545-6, 1590, col1; JORF, [25-26/4/1949]:4147); FRUS,
1949, VII:10-11. Thượng Viện
Liên Hiệp Pháp thành lập qua Nghị định ngày
24/4/1949. (JORF, [25-26/4/1949]:4147.
9. Bản dịch tiếng Mỹ
trong FRUS, 1947, VI:75. [Xem 28/2/1947]
10. FRUS,
1947, VI:87. Dại diện chính thức của VNDCCH ở đây
là Trần Văn Giàu.
11. CAOM (Aix), INF,
Carton 138-139/1245. Theo tài liệu của MTQGTNTQ tại miền Nam, đề ngày 5/5/1947, Mặt Trận
này họp Hội nghị ngày 30/3/1947 ở Nam Kinh, và ra
tuyên ngôn ngày 31/3/1947; SHAT (Vincennes), Indochine, 10H xxx
[4201]. Vẫn theo tài liệu này, các đại diện của
Mặt Trận có Ngô Gia Trí, Bảo Sơn, Lưu Bá
Ðạt, Trần Thêm, Trịnh Hưng Ngẫu v.. v...).
12. Lê Văn Hiến, Nhật ký một bộ trưởng, 2 tập (Ðà Nẵng:
NXB Ðà Nẵng, 2004), II:60 [24-27/4/1949: Tuyên Quang:
Tiếp tục Hội nghị HCKC toàn quốc. HCM
kết
tội
Bảo
Ðại
là
phản
quốc; giao cho tòa án
quân sự xét xử. 27/4/1949, HCM tuyên bố xử
tử Bảo Ðại.]
13. Haut Commissariat de
France pour l’Indochine [HCFI], Affaires Politiques [AP], Note No. 1687
CP/1, Saigon le 23 Sept 1948, “Les Communistes chinois et le Viet Minh
(du Septembre 1945 à Septembre 1948) [par Charles Bonfils], tr.
3; SHAT (Vincennes), 10H xxx [287]. [Sẽ dẫn: Bonfils’ report of 23 Sept
1948]. Tất cả chi tiết vềạ hoạt động của Trung Cộng trong nội địa
Ðông Dương đều dựa trên báo cáo
này. Chúng tôi chỉ ghi chú những tư liệu
khác khi cần thiết.
14. “Le Parti communiste
chinois en Indochine du Nord;” CAOM (Aix), Affaires Politiques [AP],
carton 3441, d. 4]; (CAL,
2008:55-56)
15. Tháng 3/1920,
sau khi nhân viên ngoại giao Nga tại Beijing giúp
đại diện của Comintern Grigorij Voitinskij tiếp xúc Chen Duxiu
[Chen Tu-hsiu = Trần Ðộc Tú] và Li Dazhao [Li
Ta-chiao = Lý Ðại Chiêu], hai người này lập ra
Hội Nghiên Cứu Mã Khắc Tư [Society for the Study of
Marxist Theory] ở Beijing, và rồi hạt nhân Ðảng CS tại
Shanghai vào tháng 5/1920, và Beijing tháng
9/1920; Stuart Schram, Mao Tse tung (NY: Penguin
Books, 1966, 1977), tr. 62-63.
16. Các chỉ thị
tháng 9/1946; dẫn trong “Notice technique de contre-espionnage:
Extrême-Orient, Les services spéciaux sovietiques en
Extrême-Orient” (20 May 1947); Annex II,” p. 12; CAOM [Aix], INF,
c. 138-139, d. 1245. Ban Phương Ðông QTCS gồm 3 Dalburo ở Chita (Tây TH), Vladivostok
(Thái Bình Dương) và Thượng Hải (Ban Phương Nam).
17. Mục
tiêu chiến dịch mùa Thu nhằm cắt đứt trục tiếp vận từ Hoa Nam,
giết
hay
bắt
sống
lãnh
đạo
chủ chốt Việt Minh, và
tiêu diệt quân đội Việt Minh. Báo cáo
ngày 24/1/1948 của Lãnh sự Edwin C. Rendall; dẫn trong
Ronald H. Spector, United
States Army in Vietnam, Advice and
Support: The Early Years, 1941-1960 (Washington, DC: CMH-USArmy,
1983), tr. 89. Một giai đoạn hành quân mà tầm
vóc [scope] và quân số vượt xa bất cứ cuộc
hành quân nào trước đó kể từ ngày
[Francis] Garnier chiếm châu thổ sông Hồng năm 1874.
Ngày 27/1/1948, Thiếu tá HQ William T. Hunter, Tùy
viên quân sự Bangkok, dự đoán Pháp
không còn khả năng để mở một cuộc hành quân
vởi mức độ tương tự vì vũ khí và trang cụ bị hư
hỏng. Tinh thần chiến đấu cũng xuống thấp. Sự thay thế bổ sung cho
các đơn vị Dù, bị thiệt hại khá lớn, hầu như bất
khả trong hoàn cảnh hiện tại. Từ đầu năm 1948, việc lưu
thông giữa Lào Cai và Cao Bằng của VM hầu như trở
lại mức bình thường. (CÐ ngày 9/2/1948, AmConsul,
Hanoi, gửi BNG; dẫn trong Spector, 1983:90) Ngày 19/4/1948,
Tùy viên HQ Mỹ ở Bangkok
báo cáo rằng tình hình quân sự
ngày thêm xấu đi. (Spector, 1983: 90)
18. Bonfils’
report
of
23
Sept
1948,
p.
4; Lê Văn Hiến, Nhật ký, I:393
(Lý Ban, phụ trách Hoa vận); I:570-571 (công
tác đội Hoa Kiều ở Bản Thi, do một nữ đồng chí phụ
trách); Vũ Ðình Hoè, Hồi ký Vũ
Ðình Hoè (Hà Nội: Hội Nhà Văn, 2004),
tr. 838. Tài liệu TC ghi nhận Lý Ban có
hai cộng tác viên đắc lực là Văn Trang, tức Thư Thủ
Hiến (1942-?), cùng vợ là Diệp Tinh hay Dương Nguyệt
Tinh. Văn Trang, cựu chủ tịch SV Vân Nam, cùng vợ qua
Việt Bắc từ năm 1947. Học tiếng Việt ở Lào Cai. Sau đó
xuống Phú Thọ, hợp tác với Lý Ban. 1948, gặp HCM.
2/4/1954, theo phái đoàn VM gồm 30 người tới BK, chuẩn bị
qua Nga dự Hội nghị Geneva.
(CAL,
2008:45)
19. Lê Văn Hiến,
Nhật ký, 2004, I:41, 42, 83, 154-155, 236, II:40-41 (quân
CSTH tại Hà Giang-Lào Cai, 8/3/1949; tiếp tế 50 tấn muối,
in 5 triệu tiền CSTH để tiêu dùng trong vùng giải
phóng). John T. McAlister, Jr., “Mountain
Minorities and the Viet Minh: A Key to the Indochina War;” trong Peter
Kunstadler (ed), Southeast Asian Tribes, Minorities and
Nations (Princetion: Univ Press, 1967), pp. 821-822.
20. “La
vérité sur les relations sino-vietnmiennes;” La Chine et
le Monde [“Sự thật về quan hệ Trung Hoa-Việt
Nam,”
trong
Trung
Hoa
và
Thế
Giới]
(Beijing: Beijing Information,
1982), tr. 108 [102-141]; Hoàng Văn Hoan, Sự thực về tình hữu nghị chiến
đấu Việt-Trung không thể xuyên tạc (Bắc Kinh: 11/1979), tr.
26. Xem thêm Qiang Zhai, China
& The Vietnam
Wars, 1950-1975 (Chapel Hill: Univ. of North Carolina Press, 2000), tr. 11-12, 23 [ngày
13/1/1950, Thiếu Kỳ còn nhắc đến việc này]; Võ
Nguyên Giáp, Chiến đấu trong vòng vây
[CÐTVV], 2001:230-231, 234-235, 294-295.
21. Thời Sự,
2/5/1949; Giáp, CÐTVV, 2001:295-296. Mông và
Ðiều sau này giữ chức sư trưởng và chính ủy
Ðại đoàn 316 từ 1951 tới trận Ðiện Biên Phủ; Cứu
Quốc, 12/12/1949; 10H xxx [641]
22. Lê Văn Hiến,
2004, I:328-329, 346-347, 349. Ðầm Hồng ở tả ngạn sông Gầm,
chếch phía Bắc sở lị Chiêm Hóa (cách
Tuyên Quang 66 cây số). Ðây là nơi đường
gòn chở quặng mỏ Bản Ti [Thi] ra. Ði thêm phía
Bắc 15 km là Ðài Thị, rồi Na Hang (cách
Tuyên Quang 106 km).
23. Lê Văn Hiến,
2004, I:393, (Lý Ban, phụ trách Hoa vận) 570-571.
(công tác đội Hoa Kiều ở Bản Thi, do một nữ đồng
chí phụ trách) Lý Ban[I:379, 400-401 (Lê
Toàn Trung bị bắt); I:393 (Lý Ban, phụ trách Hoa
vận); I:461 (SL Ngân hàng Quốc Gia); I:536 (Chị Hai
Sóc trong ATK Tuyên Quang, 21/5/1948); I:559-560 (Phạm
Ngọc Thạch tới ATK, 11/6/1948); I:570-571 (công tác đội
Hoa Kiều ở Bản Thi, do một nữ đồng chí phụ trách);
I:597-603 (Hội nghị cán bộ TW, 6-12/8/148); I:627-629 (đụng chạm
Tư pháp-HCKC); I:644-645 (PNThạch và Lê Ðức Thọ
vào Nam, 16/9/1948); I:708, 710, II:36 (Trần Văn Giàu ở
Xiêm về); II:11, 96 (Vi Văn Ðịnh, vợ có thai);
24. Lê Văn Hiến,
2004, II:203 [Ngày 26/11/1949, HCM thông báo Thường
vụ TWÐ là nhận được công điện của Mao trả lời
và chúc mừng, đồng thời chúc cuộc kháng
chiến của VN thắng lợi], II:212 [26/12/1949: HCM quyết định gửi
phái đoàn phụ nữ ra ngoại quốc]. Có lẽ Ban
và Thụy tháp tùng phái đoàn
này, như thông dịch viên, và được gặp Luo
Guibo vào tháng 1/1950; Trương Quảng Hoa, “Cố vấn
quân sự,” LQB, 2008:217; trong La Quí Ba et al., Ghi
chép về việc đoàn cố vấn Quân sự Trung Quốc viện
trợ Việt Nam chống Pháp (Bắc Kinh: 2002), bản dịch tiếng Việt
Trần Hữu Nghĩa và Dương Danh Dy (tài liệu nội bộ); Luo
Guibo, “Lishi dehuigu: Zhongguo yuan Yue kangFa yu ZhongYue liangdang
liangguo jishi” [Recalling History: A Factual Account of China’s
Assistance to Vietnam against the French and Relations between the Two
Parties and Two Countries of China and Vietnam], trong Fu Hao & Li
Tongcheng (eds), Zhongguo waijiaoguan congshu: Kaiqi guomen–Waijiaoguan
de fengcai [Chinese Diplomats Series: Opening the Gate of the
Country–the Glory of Diplomats] (Beijing: 1995), tr. 152-153 [150-176];
dẫn trong Zhai, 2000:13, 15.
25. Vũ Ðình
Hoè, 2004:911-916, 926. [1948: Nguyễn Văn Huyên xin từ
chức, nhưng HCM không chấp thuận. Vũ Ðình Hoè
cũng xin từ chức vì chủ trương “hồng hơn chuyên” của chế
độ. Huyên tặng Hoè cuốn Le chemin des tourments [Con đường
khổ ải] của Alexis Tolstoi, nói về thân phận trí
thức trong chế độ CS. [916] Theo Hoè, Phó Thủ tướng Phạm
Văn Ðồng cũng trở thành “một chân nhân;” thường
tuyên bố “Nào tôi có biết gì
đâu? Tôi có quyền gì đâu? Quyết định
là từ đâu ấy chứ!” (Hoè, 2004:926) “Ðảng
đoàn” hầu như lo mọi việc. (Hoè, 2004:926) Năm 2004-2005,
Thủ tướng Phan Văn Khải cũng tuyên bố tương tự! (Hoè,
2004:900-901, 911-916). “Hồng hơn chuyên.” (Hoè,
2004:899-905). “Các quyền dân sự chỉ được hành xử
và bảo vệ nếu phù hợp với quyền lợi nhân
dân.” Trần Công Tường, Thứ tưởng Tư Pháp, còn
muốn hủy bỏ cả vai trò Luật sư thay bằng “bào chữa
viên nhân dân.” (Hoè, 2004:904-905).
Mùa Thu năm 1950, tới lượt Bộ trưởng Tư Pháp Vũ
Ðình Hoè đại diện Hội Việt-Hoa hữu nghị (thành
lập tháng 2/1950) tham gia một phái đoàn “phỗng
Hoa”– do Tôn Ðức Thắng cầm đầu–đi thăm Trung Hoa, vận động
cảm tình của dân chúng qua những màn
trình diễn về chiến thắng Ðông Khê, v... v...
26. VKÐTT, 9:1948,
2001: 17-18; Lê Văn Hiến, 2004, I:381, 395, 494. Xem thêm
Chính Ðạo, Hồ Chí Minh, I, 1997:247 (Phụ bản
báo Cứu Quốc tại miền Nam).
27.
Chỉ thị
ngày 18/3/1948; VKÐTT, 9:1948, 2001:64; Vạn & Lâm,
1979:144.
28. Báo cáo
của Lê Ðức Thọ về tình hình và nhiệm vụ
mới của Ðảng;” VKÐTT, 9:1948, 2001:316-318 [276-320].
29.
Schram,
1977:290-291.
Hồ, Phạm
Hùng và Lê Duẩn tham dự Ðại hội các
Ðảng CS ở Mat-scơ-va từ ngày 14 tới 16/11/1957. Tito
không dự. (ND, 23/11/1957)
30. Tân Hoa
Xã [NCNA], 19/11/1949; dẫn trong King Chen, Vietnam and China,
1969:218; Theo Chen, sau hội nghị QT này, có một hội nghị
khác trong nội địa VN; Ibid, 1969:229-230. Theo Lê Văn
Hiến, Bộ Tài chính lấy vàng chôn dấu từ năm
1946 đúc ra 200 đồng tiền vàng “20 Việt.” 50 đồng
dành tặng phái đoàn ngoại quốc. [15/11/1949: Chọn
người để gặp phái đoàn ngoại quốc, II:195; 27-28/12/1949;
II:221-2]
31. Document 17:
Memorandum of Conversation, V.M. Molotov and A.Y Vyshinsky with Mao
Zedong, Moscow,
17
Jan
1950
from
the
Diary
of V.M. Molotov. Top Secret, AVP RF, f. 07,
op.
23a,
d. 234, pap. 18, ll. 1-7; provided by O.A. Westad; translation
for CWIHP by Daniel Rozas.
32. Liu gửi Hồ,
28/12/1949; Liu Shaoqi nianpu, 1996, 2:236; dẫn trong Zhai 2000:13-15;
Luo Guibo, “Lishi de huigu: Zhongguo yuan Yue kangFa yu ZhongYue
liangdang liangguo jishi” [Recalling History: A Factual Account of
China’s Assistance to Vietnam against the French and Relations between
the Two Parties and Two Countries of China and Vietnam], trong Fu Hao
& Li Tongcheng (eds), Zhongguo waijiaoguan congshu: Kaiqi
guomen–Waijiaoguan de fengcai [Chinese Diplomats Series: Opening the
Gate of the Country–the Glory of Diplomats] (Beijing: 1995), tr.
152-153 [150-176];
33. Lê Văn Hiến, 2004, II: 207, 381; Liu
nianpu, II:268 & CÐ ngày 20/4 và 2/5/1951; Ibid.,
II:276; Zhai, 2000:35-36.
34. Lê Văn Hiến,
2004), I: 41, 56, 58 I:42, 82 [tổ chức cơ quan mua hàng ngoại
hoá gồm 1 tài chính, 1 kinh tế, 1 mặt trận hay
UVKC địa phương (Cao Bằng), 94, 122 (Trung ương);] I:45, 64, 81 [sử
dụng người Việt Nam Mới (Nhật), Bộ tài chính 7 người]
I:83 [xuất cảng gỗ (Cao Bằng)]; I:84, 97 [mỏ Tĩnh Túc (Pia Ouac,
Cao Bằng): vàng cốm, wolfram, thiếc (Lê Toàn Trung
và Lưu Quang Hoà phụ trách khai mỏ vàng
và thiếc); I:112 (Hoa thương); I:119, 153 (kẽm, galène,
antimoine ở mỏ Bản Thi) [nơi đặt nhà in bạc]; I:236 (phái
đoàn sang Tàu); I:331, 639-640 (Uranium). Năm 1947,
có thể đổi 1 khẩu trung liên với 500 viên đạn bằng 4
cân Tây thuốc phiện; 1 khẩu súng tự động [automatic
rifle] với 500 viên đạn bằng 2.5 cân Tây thuốc phiện;
John T. McAlister, Jr., “Mountain Minorities and the Viet Minh: A Key
to the Indochina War;” trong Peter Kunstadler (ed), Southeast
Asian
Tribes,
Minorities
and
Nations (Princetion: Univ Press,
1967), pp. 821-822.
35. “Rapport sur
l’évolution de la situation politico-religieuse à Phat
Diem (28 Février 1951);” SHAT (Vincennes], 10H xxx [1039] (chưa giải
mật); Quang Toàn & Nguyễn Hoài, Những hoạt động của
bọn phản động đội lốt Thiên chúa giáo trong thời kỳ
kháng chiến 1945-1954 (Hà Nội: NXB Khoa học, 1965), tr.
62.
36. Nguyễn Văn Tâm
tự nhận chiêu hồi Hòa Hảo. Bình Xuyên của
Lê Văn “Bảy” Viễn về hàng sau khi chính phủ trung
ương lâm thời của Xuân thành lập năm 1948, được đặt
dưới sự điều động của Thủ hiến Nam Việt Trần Văn Hữu.
37.
Renmin ribao [Nhân
Dân Nhật Báo = People's Daily, the CCP Central Committee's
official mouthpiece] (Beijing), 19/1/1950. [Source: JGYLMZDWG, 1:238;
translation from Shuguang Zhang and Jian Chen, eds., Chinese Communist
Foreign Policy and the Cold War in Asia,
138.]
38. Liu gửi Văn
phòng Nam TW Ðảng CSTH, 26/1/1950, & Liu gửi Mao,
30/1/1950, Liu nianpu, 2:241; dẫn trong Zhai, 2000:16; Hoan,
1987:328-329, 330; Giáp, CÐTVV, 2001:347-348; Idem., Ðường tới Ðiện Biên Phủ (Hà Nội:
QÐND, 2001), tr. 13. [Trương Quảng Hoa, “Quyết sách,”
2008:17-18) [30/1/1950: Idem., “Cố vấn QS,” trong La Quí Ba et
al., Ghi chép về việc đoàn cố vấn Quân sự Trung
Quốc viện trợ Việt Nam
chống Pháp (Bắc Kinh: 2002), bản dịch tiếng Việt Trần Hữu Nghĩa
và Dương Danh Dy (tài liệu nội bộ), 2008:218]
39. Document
24: Telegram, Mao Zedong and Zhou Enlai to Liu Shaoqi, 1 Feb 1950;
JGYLMZDWG, 1:254; trans. from Shuguang Zhang and Jian Chen, eds., Chinese Communist Foreign Policy and the Cold
War in Asia, 141-2]; “Nghị quyết của TVTW
ngày 4/2/1950;” VKÐTT, 11:1950, 2001:222-4;
“Chỉ thị ngày 9/2/1950;” Ibid., 2001:225-8.
40. RC 495,
Box 154, File 531, p. 42; RC 495, Box 184, File 54, p. 106 and 36, pp.
175; Tran Van Hung, 2000, 8:54; Anatoli A. Sokolov, Quốc tế Cộng Sản và Việt Nam [Comintern and
Viet-Nam], Ðào Tuấn dịch từ Nga ngữ (Hanoi: NXBCTQG, 1999),
tr. 160, 162-163;
“Biographie de Ho Chi Minh;” CAOM (Aix), 19 PA, carton 4, d. 62;
41. János
Radványi, Delusion and Reality: Gambit, Hoaxes,
& Diplomatic One-Upmanship in Vietnam (South Bend, Indiana:
Gateway, 1978), tr. 20 [Thủ tướng Hungary Ferenc Munnich: HCM was a
lucky man to have survived Stalin’s blood purges, while Borodin and his
friends were liquidated one by one].
42. SHAT (Vincennes), 10H
xxx; “Notice .. Janvier 1940”, CAOM (Aix), 7F27.
43. Vu Ngu
Chieu, “Social and Cultural Change in Vietnam Between 1940 and
1946;” Part II: “The End of An Era,” chapt. 9; unpublished Ph.D.
dissertation, Dec 1984, University of Wisconsin-Madison, Xem thêm
CAOM [Aix], HCFI, CP 192; Phùng Thế Tài, Bác
Hồ
những
kỷ
niệm
không
quên
(Hà Nội: QÐND,
2002), tr. 32, 33-34, 57-63, 82-87; Lê Tùng Sơn,
1978:110-112 [Mỹ thả 2 đợt, gần 80,000 truyền đơn của Việt Minh xuống
Hà Nội, Huế và Việt Bắc]; René Defourneaux,
“Secret Encounter with Ho Chi Minh;” Look (NY),
8/9/1966, tr. 32-33; Robert Sharplen, The
Lost Revolution (NY: Harper & Row, 1965), tr. 30;
Báo cáo ngày 22/8/1945, William J. Donovan gửi
Byrnes; Bộ Quốc Phòng, US-Vietnam Relations,
1947-1967 (Washington, DC: GPO, 1971), Bk I, C 58-59, 67; The Pentagon Papers (Gravel), vol. I, pp. 17, 20, 50, 51;
Lê Giản, “The Story of An Exile;” Vietnam Courrier, 1980:17-20; US Congress. Senate. Causes,
Origins,
and
Lessons
of
the
Vietnam
War. Hearings before the Committee
on Foreign Relations, 92nd Congress, 2nd Session, May 1972
(Washington: GPO, 1973), tr. 249; Charles Fenn, Ho Chi
Minh: A Biographical Introduction (New York: 1973), 71-75, 76-7,
78, 81; Archimedes L. Patti, Why Viet-Nam? Prelude to
America's Albatros (Berkeley, Cal.: Univ of California Press,
1980), tr. 29-30,
31,
46,
50,
51;
S.
Tonnesson,
Vietnamese Revolution,
238, 337 (quoted USNA ngày 19/3/1945); Chính Ðạo, Hồ Chí Minh: Con người & huyền thoại (Houston:
Văn Hóa, 1993,1997), II, 1993:356; David G. Marr, Vietnam
1945:
The
Quest
for
Power (Berkeley, Cal.: Univ. of
California Press, 1995), tr. 227-229, 241, 282-285, 288-291,
304n33, 476-479, 482-490, 498-501, 538-539; Raymond P. Girard, “City
Man Helped to Train Guerillas of Ho Chi Minh;” Evening
Gazette (Worcester, MA), 14 & 15/5/1968; dẫn trong Marr,
1995:209n189;
44. Theo Tài liệu
Ngũ Giác Ðài, HCM gửi cho Stalin hai lá thư
vào tháng 2/1946, và Bộ Ngoại Giao VN cũng gửi cho
Nga Sô, cùng ba cường quốc Bri-tên, Nga và
Trung Hoa, một tài liệu khác giới thiệu thành
tích của chính phủ VNDCCH; “Note to the Government of
China, United States of America, Union of Socialist Sovietic Republic,
and Great Britain;” US-Vietnam Relations, 1945-1967,
Bk I, C-98-99, & Cable, from Landon for Moffat and Culbertson, no
date [received on February 27, 1946]: HCM handed Landon two letters
addressed to Truman, Cheng K’ai-sheik, Stalin và Attlee,
yêu cầu yểm trợ tinh thần độc lập của VN, theo kiểu mẫu
Philippines. Ibid. [US-Vietnam, 1945-1967], I, C-101. Giữa tháng
9 và tháng 10/1945, theo Igor Bukharkin, (conference
1996) Hồ gửi cho Stalin hai công điện xin viện trợ, nhưng
không có hồi âm. (Zhai, 2000:13)
45. Amiral
Thierry d’Argenlieu, Chronique d’Indochine, 1945-1947 (Paris:
Albin
Michel,
1985),
tr.
168. [431-432:
từ
tháng
11/1945,
HCM
chứng
tỏ
sự bất an và trở nên
biết điều [compréhensif] hơn. Họ chống lại Tàu]. [Sẽ dẫn:
Chronique]; Zhai, 2000:13;
46. Vu Ngu Chieu, “Social
and Cultural Change in Vietnam Between 1940 and
1946;” Part III: “Brutality of World Politics,” chap. 11; unpublished
Ph.D. dissertation, Dec 1984, University of Wisconsin-Madison,
47. France, Annales de
l’Assemblée nationale [AAN] (Paris), 1947, p. 856, col 2; Fall,
1965:196 [March 14-18, 1947: Robert Schumann, MRP, moderate Catholic;
Ramadier, Socialist]
48. János
Radványi, Delusion and Reality: Gambit, Hoaxes,
& Diplomatic One-Upmanship in Vietnam (South Bend,
Indiana: Gateway, 1978), tr. 4-5,269n1. [Mùa Thu 1950, Thorez
tuyên bố tại Tòa Ðại sứ Hungary rằng Stalin
không tin tưởng Hồ, vì Hồ hợp tác quá lộ
liễu với tình báo Bri-tên và OSS Mỹ, giải
tán Ðảng CSÐD, không tham khảo ý kiến
Stalin. Ðại biện Hungary
tại Paris, Zoltán Szánto,
người từng hoạt động với Comintern, tán đồng nhận xét của
Thorez [Szanto thought that Thorez’s summation of Stalin’s attitudes
and politics on Vietnam
was entirely accurate]. [5] Năm 1952, Pierre Courtade, chủ biên
L’Humanité, gọi Hồ là Tito của Viễn Ðông
[editor of L’Humanité, described HCM as a nationalist
Communist–the Tito of the Far East]. Ibid., 1978:20. Năm 1959, Vyacheslav M. Molotov cho rằng
cả HCM và Phạm Văn Ðồng là những người cứng đầu, chỉ
quan tâm đến Việt Nam, không lo cho Quốc tế Cộng Sản [Both
HCM and Pham Van Dong were stubborn men, interested only on Vietnam,
not international movement. (1978:20) Từ đầu thập
niên 1930, nhóm Trần Phú-Hà Huy Tập
đã đưa ra lập luận này.
49. FRUS,
1949, VII:67; L. Podkopayev, “Viet-Nam Fights for Independence;”
New Times [Tân Thời Báo], số 16 (13/4/1949), tr. 11-13.
50. Nikita S.
Khrushchev, Khrushchev Remembers, trans. and ed. by
Strobe Talbott (Boston: 1970), tr. 482; Idem., Khrushchev
Remembers:
The
Glanost
Tapes
(Boston: Little
& Brown, 1990), tr. 154-156; Ilya V. Gaiduk,
The Soviet Union and the Vietnam War
(Chicago: I. R. Dee, 1996); Idem., Confronting Vietnam:
The Soviet Policy toward the Indochinese Conflict, 1954-1963
(Wahington, DC: Woodrow Wilson Center Press, 2003); Zhai,
2000:226-227n34. [According to Khrushchev, Stalin was
indifferent to Ho in Moscow].
51. Hoan, 1987:330;
Radványi, 1978:4-5, 20, 269n1; Trương Quảng Hoa, “Quyết
sách,” trong La Quí Ba et al., Ghi chép về việc
đoàn cố vấn Quân sự Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống
Pháp (Bắc Kinh: 2002), bản dịch tiếng Việt Trần Hữu Nghĩa
và Dương Danh Dy (tài liệu nội bộ), 2008:19-20; Idem.,
“Cố vấn QS,” LQB, 2008:218] [Tháng 3/1953, đúng
ngày Stalin chết, HCM tiết lộ với Vi Quốc Thanh lời dặn
dò của “Người,” vào tháng 11/1952, là
không thể đứng giữa một đòn gánh, hoặc đứng về
phía quần chúng, hoặc nhập phe phong kiến. (Vu Hoá
Thẩm [Vương Chấn Hoa], “Vi Quốc Thanh,” LQB, 2008:59]) Có lẽ
vì thế từ tháng 1/1953, Hội nghị TW lần 4, khóa
II, đã nghị quyết CCRÐ & chỉnh huấn chính trị
QÐNDVN].
52. Zhai,
2000:16-17; Giáp, CÐTVV, 2001:331. Theo một tài liệu
truyền khẩu TC, Stalin nói cách nào để giải
thích về sự có mặt của Hồ tại Mat-scơ-va để ký
hiệp ước, Hồ nửa đùa nửa thực: Stalin có thể cho Hồ
lên phi cơ, bay vòng quanh Mat-scơ-va, rồi tổ chức lễ
đón rước, v.. v.. Trương Quảng
Hoa, “Quyết sách,” trong La Quí Ba et al., Ghi
chép về việc đoàn cố vấn Quân sự Trung Quốc viện
trợ Việt Nam chống Pháp (Bắc Kinh: 2002), bản dịch tiếng Việt
Trần Hữu Nghĩa và Dương Danh Dy (tài liệu nội bộ),
2008:21.
53. Chen Jian, “China and the First Indo-China War, 1950-1954,”
The China Quarterly 132 (March 1993), p. 93 [85-110]; Trương Quảng Hoa,
“Cố vấn QS,” trong La Quí Ba et al., Ghi chép về
việc đoàn cố vấn Quân sự Trung Quốc viện trợ Việt Nam
chống Pháp (Bắc Kinh: 2002), bản dịch tiếng Việt Trần Hữu Nghĩa
và Dương Danh Dy (tài liệu nội bộ), 2008:218. Xem
thêm Võ Nguyên Giáp, Ðường tới Ðiện
Biên Phủ (Hà Nội: NXBQÐND, 2001), tr. 14. Giap, CDTVV, 2001:350-351]
54. Zhou gửi Hồ,
7/7/1950, Zhou nianpu, 1:53; Zhai 2000: 15, 17-18, 19; Hoan,
1987:325ff.; Hiến, 2004:II:380-1; La
Quí Ba et al., Ghi chép về việc đoàn
cố vấn quân sự TQ Việt Nam chống Pháp (Bắc Kinh:
Nghiên Cứu Lịch Sử Ðảng, 2002), LQB, 2002:5-6) Nguyên
bản đăng trong Tưởng Nhớ Mao Trạch Ðông [Lưu Thiếu Kỳ ?]
(1993)
[Luo
Guibo,
“Shaoqi
tongzhi
paiwo
chushi
Yuenan”
[Comrade Shaoqi sent me to Viet
Nam], in He Jingxiu et al. (ed),
Mian huai Liu Shaoqi [Recalling Liu Shaoqi] (Beijing: 1988), tr. 235; Idem., 1995:
152-153 [150-176]; dẫn trong Qiang Zhai, 2000:15. Luo Guibo, “Lishi de
huigu: Zhongguo yuan Yue kangFa yu ZhongYue liangdang liangguo jishi”
[Recalling History: A Factual Account of China’s Assistance to Vietnam
against the French and Relations between the Two Parties and Two
Countries of China and Vietnam], trong Fu Hao & Li Tongcheng (eds),
Zhongguo waijiaoguan congshu: Kaiqi guomen–Waijiaoguan de fengcai
[Chinese Diplomats Series: Opening the Gate of the Country–the Glory of
Diplomats] (Beijing: 1995), tr. 152-153 [150-176]];
55. Igor Bukharkin, “Moscow and Ho Chi
Minh, 1945-1969,” 1996:3-7.
56. Hiến, 2004, II:340.
341, 444. 28/6/1950: HCM muốn lên chức Tổng Tư lệnh, Võ
Nguyên Giáp xuống làm Phó Tổng Tư lệnh
kiêm Tổng Tham Mưu Trưởng, Nguyễn Chí Thanh, Chủ nhiệm
TC/CT. Trần Ðăng Ninh, Chủ nhiệm TC/Hậu Cần. (Thông tri
ngày 28/6/1950; VKÐTT, 11, 2001:346-347) 10/7/1950 HCM tạm
hoãn kiêm chức TTL/QÐ. Võ Nguyên
Giáp tiếp tục làm TTL. [VKÐTT, 11, 2001:380-381]
9/7/1950: Hồ Tùng Mậu, Thanh tra chính phủ, báo
cáo về tình trạng thiếu thóc ăn cho bộ đội; về
việc thi hành luật Tổng động viên: thi hành,
không giải thích. (Hiến, II, 2004:340)
10/7/1950: HCM bế mạc HÐCP. Cho lệnh “quân sự
hóa” các cơ quan. (Hiến, 2004, II:341) Về Việt Nam,
Mao đưa ra những giải pháp: Quân sự, giải phóng
Trung du và các miền quan hệ về sản xuất. Tăng gia sản
xuất và bớt 2% số người không sản xuất. TC giúp
nuôi một số người (quân nhân, cán bộ, thiếu
sinh). (Hiến, 2004, II:444)
57. Nhân Dân
[ND], 11/3/1951; dẫn trong Hoàng Văn Hoan, Giọt nước trong bể cả
(Bắc Kinh: 1987), tr. 357-8.
58. Ibid., 1987:369;
[1982:35]; Qiang Zhai,
China
and the Vietnam Wars, 1950-1975 (Chaptel Hill: North Carolina Press,
2000), tr.18-42.
59. Văn Kiện Ðảng
Toàn Tập [VKÐTT], vol 12:1950 (Hà Nội: 2001), tr. 495.
60.
“Ðáp từ trong buổi lễ trình quốc thư của Ðại sứ
Nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa;” Nhân
Dân, số 221 (4-6/9/1954); Hồ Chí Minh Toàn Tập
[HCMTT], 7:1953-1955 (Hà Nội: NXBCTQG, 1996), tr. 343;
Hoàng Văn Hoan, “Tuyển tập Hồ Chí Minh với tên phản
bội Lê Duẩn;” Tin Việt Nam, số 21 (Tháng 11/1982), tr.
10-11 [1-40].
61. Lê Tắc, An Nam
Chí Lược [ANCL], bản dịch Chen Ching Ho [Trần Kính
Hòa] (Huế: Ðại học Huế, 1961), q. 5, tr. 102-103 [101-103]. [Duy Nhật Nam toái nhi chi bang, hình phục nhi
tâm do vị hóa, tuy nhậm thổ tu phương chi cống, bất khuyết
nhi vị tận kỳ thành, vấn tội hưng sư, cố đại bang chi
chính lý. Tàng phong ti nhuệ, diệc tiểu quốc nhi
ti tình. [101]
KÐVSTGCM ghi
là Tháng 10 Tân Mão [24/10-21/11/1291]. CM VIII:17; 1998, I:544. ÐVSKTT không ghi
tháng, chỉ nói sứ Nguyên muốn thuyết phục
Nhân Tông vào chầu. Năm sau, sai Nguyễn Ðại Phạp
sang cáo từ là đang có tang. (ÐVSKTT, Bản kỷ,
V, 1967, II:68). [Nguyên Vũ Vũ Ngự Chiêu, “Ðất
đai Việt Nam bị
Trung Hoa Nhân Dân Cộng Hòa Quốc xâm chiếm;”
Hợp Lưu Magazine (Fountain
Valley, CA),
No. 105 (5-6/2009), tr. 5-32]
62. Tin Việt Nam,
số
41
(Tháng
7/1984),
tr.
17. Xem
thêm Hoàng Văn Hoan, Giọt Nước Trong Biển Cả (Bắc Kinh:
1987); Tin Việt Nam;
Hoàng
Văn
Hoan,
“Tuyển
tập
Hồ
Chí Minh với tên phản
bội Lê Duẩn;” Tin Việt Nam, số 21 (Tháng
11/1982), tr. 1-40.
63. Kissinger, 1979:1064.
64. Edgar Snow, Red Star
Over China, 119; dẫn trong Stuart Schram, Mao Tse tung (NY: Penguin
Books, 1966, 1977), tr. 23. Mao tôn sùng Sun Yatsen
[Tôn Dật Tiên], K’ang Yuwei [Khang Hữu Vi] và Liang
Qichao [Liang Ch’i Chao = Lương Khải Siêu], cùng tổ chức
T’ung Meng hui của Sun. Albert Sarraut, tân Toàn quyền
Ðông Dương, cũng từng được chứng kiến khí thế Ðại
Hãn dài theo hành trình từ Paris tới
Sài Gòn đáo nhậm nhiệm sở như Singapore–biểu lộ
qua việc cắt bỏ mái tóc đuôi sam.
65. CHXHCNVN, Bộ Ngoại
Giao, Sự Thật về Bang Giao Việt Trung (Hà Nội:
4/10/1979), tr. 11-12, 16-. [Sẽ dẫn: Sách Trắng]; Francois
Joyaux,
1981:64.
Nên
ghi
thêm
là
từ năm 1947,
chính phủ Tưởng Giới Thạch cũng đã công bố bản đồ
TH bao gồm những dấu chấm ở miền Nam, chờ ngày quân đội TH
điền vào chỗ trống.
66. Sách Trắng,
1979:99-100. Xem thêm, Nhân Dân (Hà Nội),
25/3/1984, 3-5/5/1984 (Hồi ký Nguyễn Thành Lê);
Trần Việt Dũng, “Lại một tên bồi bút không biết xấu
hổ;” Việt Nam
(Bắc Kinh), số 41 (tháng 7/1984), tr. 10-15. Nguyễn Thành
Lê cũng nêu lên vấn đề Chu Ân Lai mời Ngô
Ðình Luyện qua thăm Bắc Kinh, và lập tòa
lãnh sự ở Bắc Kinh trong dạ tiệc ngày 22/7/1954.
Ngô Ðình Luyện và Trần Văn Ðỗ đều
xác nhận điều này với tác giả năm 1985 tại Paris.
|