Thật ra, cá nhân Phạm Văn Đồng
(PVĐ) chỉ là kẻ thừa hành, vai Thủ
tướng của PVĐ chỉ là vai tuồng! Bộ
Chính Trị (BCT) Đảng CSVN chính
là đầu não định đoạt mọi việc lớn
nhỏ của cả nước.
Năm 1958 là thời kỳ vàng son của
CSVN do Hồ Chí Minh (HCM) làm Chủ
tịch Đảng, kiêm nhiệm chức Tổng Bi Thư,
kiêm luôn chức Chủ tịch nước! Bộ
Chính Trị (BCT) Đảng CSVN thời điểm ấy gồm
những tay sừng sỏ nhất của Đảng CS như Hồ
Chí Minh, Trường Chinh, Phạm Văn
Đồng, Lê Văn Lương, Võ Nguyên
Giáp, Lê Duẩn, Phạm Hùng, Tố
Hữu…
Thực ra Trường Chinh đã là Tổng
Bí Thư từ năm 1951, nhưng do thất bại trong
Cải Cách Ruộng Đất, Hồ Chí Minh
(HCM) thu hồi chức Tổng Bí Thư Đảng về tay
mình và thay thế Trường Chinh từ
Tháng 10/1956 tới Tháng 11/1958
trong chức vụ ấy, trong khi vẫn đảm nhiệm chức Chủ
tịch Đảng kiêm Chủ tịch Nước. Công
hàm Phạm Văn Đồng ra đời trong thời điểm
quyền uy tột đỉnh ấy của HCM – ngày
14/9/1958.
Theo nguyên tắc tổ chức Đảng CSVN “tập
thể chỉ huy, cá nhân phụ
trách,” PVĐ không có quyền
ký một Công hàm thuộc tầm cỡ
quốc tế mà không thông qua HCM
và quyết định của BCT.
Phủ
nhận quyền làm chủ
Ngày 4/9/1958 Trung Cộng đưa ra Bản
Tuyên Bố khẳng định vùng biển
Đông với hai quần đảo Tây Sa và
Nam Sa (tức Hoàng Sa và Trường Sa)
là lãnh thổ của Trung Quốc. Hai
hôm sau, ngày 6/9/1958, tờ Nhân
Dân, cơ quan ngôn luận của Đảng CSVN
tung ra bài tường thuật rất chi tiết về Bản
Tuyên Bố ấy và nêu rõ
rằng “kích thước lãnh hải của nước
Cộng Hoà Nhân dân Trung Hoa
là 12 hải lý và điều
này được áp dụng cho tất cả
các lãnh thổ của phía Trung
Hoa, bao gồm tất cả các quần đảo trên
biển Nam Trung Hoa.”
Vào thời điểm năm 1958, Tố Hữu là Ủy
viên BCT giữ chức Trưởng ban Tuyên
Huấn Đảng. Ban Tuyên Huấn kiểm soát
mọi phương tiện truyền thông trong nước
VNDCCH ở Miền Bắc. Riêng báo
Nhân Dân là tiếng nói
CHÍNH THỨC của Đảng CSVN, do chính
Ban Tuyên Huấn điều hành và
kiểm soát trực tiếp.
Việc kiểm tra, sàng lọc từng chữ từng
câu một bài báo trên
báo Nhân Dân là “sứ mạng
quan trọng” của Ban Tuyên Huấn này.
Tố Hữu và BCT không thể không
biết tới bài báo quan trọng ấy.
Bài viết trên báo Nhân
Dân đã làm nhiệm vụ “tiền
trạm” cho Công hàm do PVĐ ký
mười ngày sau Bản Tuyên Bố của Trung
Cộng và 8 ngày sau bài
báo của tờ Nhân Dân, tức
ngày 14/9/1958. Công hàm
này chính thức tuyên bố
Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa (VNDCCH) “tán thành” Bản
Tuyên bố của Trung Cộng, minh thị
nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc
trên hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa! Tức là công khai khước từ
chủ quyền của Việt Nam trên hai hải đảo ấy,
một chủ quyền mà sử sách đã
khẳng định từ hàng trăm năm về trước
và bao thế hệ đã đổ cả máu ra
để bảo vệ.
Như vậy, nói mà không sợ
lầm rằng HCM và BCT Đảng CSVN đã
“nhất trí thông qua” nội dung
Công hàm trước khi PVĐ ký
tên và đệ nạp lên “Đồng
chí Chu Ân Lai, Tổng lí Quốc
vụ viện Trung Quốc.” Đúng là
“tập thể phản quốc, cá nhân chịu
tiếng.”
Công hàm 1958 đâu phải
là một tờ giấy nguệch ngoạc mấy chữ vội
vàng hay một lời nói cao hứng bất
chợt! Nó cũng không phải là
một “bức thư” như nhà ngoại giao CS
“lão thành” Lưu Văn Lợi biện hộ.
Nó là một văn kiện chính thức
đã được cân nhắc kỹ càng, được
tính toán lợi hại hơn thiệt
và được báo Nhân Dân dọn
đường trước.
Thật ra trước báo Nhân Dân,
từ năm 1956 khi tiếp ông Li Zhimin, xử
lý thường vụ Toà Ðại Sứ Trung
Cộng tại Việt Nam, Thứ trưởng ngoại giao (VNDCCH)
Ung Văn Khiêm cũng đã tuyên bố:
“theo những dữ kiện của Việt Nam (?), hai quần đảo
Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa
(Trường Sa) là một bộ phận lịch sử của
lãnh thổ Trung quốc.” Ông Lê
Lộc, quyền Vụ trưởng Á châu Sự vụ
thuộc Bộ Ngoại giao VNDCCH, có mặt
lúc đó, xác nhận thêm
rằng xét về mặt lịch sử thì
các quần đảo này đã
hoàn toàn thuộc về Trung quốc từ
thời nhà Tống (!?)
Cũng như PVĐ, Ung Văn Khiêm hay Lê
Lộc đâu có quyền phát
ngôn “bừa bãi” và tuyên
bố “lếu láo” ngay tại nước ngoài một
vấn đề quốc gia hệ trọng mà không
thỉnh thị trước ý kiến của lãnh đạo
cấp cao? Một bài viết trên báo
tường, một bài cảm tưởng của học sinh
ngày kết thúc niên học…
mà còn bị sửa đi sửa lại đến
không mất hết chữ nghĩa của bản thảo được
người viết đệ trình huống hồ là một
văn bản chính trị hay một lời phát
biểu mang tínhchất quốc tế.
Phạm
Văn Đồng nói gì về Công
hàm 1958?
Năm 1977, đề cập đến cái Công
hàm do chính mình đã
ký, ông Phạm văn Đồng gượng gạo bảo
rằng «đó là thời chiến
nên phải nói như vậy
thôi». Ông Đồng đâu phải
“nói như vậy thôi.”
Thời chiến hay thời bình đều
không phải là cái cớ để biện
minh cho hành vi phản quốc! Thời chiến với
một cuộc chiến tiến hành nhân danh
“cứu nước” càng không cho phép
viện cớ để phát biểu vung vít
vô trách nhiệm như vậy. Một người
lính đào ngũ trong cuộc chiến vệ
quốc phải ra tòa đại hình về “tội
phản quốc trong thời chiến” thì tội chối từ
chủ quyền quốc gia trên một phần lãnh
thổ của Tổ quốc giữa cuộc chiến thì chỉ
có án tử hình là
thích hợp nhất thôi!
Hơn nữa, PVĐ đâu chỉ nói
mà thôi. Ông ký
tên đóng dấu trên giấy trắng
mực đen hẳn hoi với lời lẽ hết sức trịnh trọng
“Chúng tôi xin trân trọng
báo tin để Đồng chí Đổng lý
rõ: Chính phủ Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hòa ghi nhận và tán
thành bản tuyên bố ngày 4
tháng 9 năm1958 của nước Cộng Hòa
nhân Dân Trung Hoa, quyết định về hải
phận của Trung Quốc.”
Rõ ràng PVĐ không tự
mình “tán thành.” Ông
chỉ làm nhiệm vụ thông tri cho
phía Trung Cộng biết “Chính phủ
VNDCCH tán thành…” dầu bản
thân ông có muốn tán
thành hay không. Chính phủ
đó do Hồ Chí Minh đứng đầu và
đó là một Chính phủ do Đảng
lãnh đạo! Về mặt Đảng, ông Hồ cũng
là nhân vật chóp bu: Chủ Tịch
kiêm Tổng Bí Thư Đảng! Quyền lực của
Tổng Bí Thư Đảng cùng với BCT Đảng
luôn luôn là quyền tuyệt đối!
Một kinh nghiệm gần đây nhất cho thấy
quyền tuyệt đối ấy. Quốc Hội CSVN mặc sức
bàn cãi, tha hồ đưa ra nghị quyết
này nọ! Nhưng khi Đảng bảo rằng Đảng
đã quyết, thì chuyện Quốc Hội
cãi nhau, rồi đồng thuận, rồi đưa ra Nghị
quyết… đều trở thành trò hề!
Nó hoàn toàn vô
giá trị! Vụ Bauxite Tây Nguyên
là một trong trăm ngàn điển
hình!!! Ông Đồng ơi! Ông
đâu có nói khơi khơi cho
có nói! Bút sa gà
chết! Verba volant, scripta manent! Lời nói
bay đi, chữ viết tồn tại! Công hàm
1958 của nước VNDCCH còn sờ sờ đó!
Người dân Việt Nam không ai nghĩ
Công hàm đó là sản phẩm
của cá nhân ông đâu!
Lập
luận của Lưu Văn Lợi
Theo sự nhìn nhận của ông Lưu Văn
Lợi trong quyển sách của ông dưới
nhan đề “CUỘC TRANH CHẤP VIỆT-TRUNG VỀ HAI QUẦN
ĐẢO HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA” do
Nhà xuất bản CÔNG AN NHÂN
DÂN xuất bản năm 1995 (Chương V), thì
cái gọi là Chính phủ Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hòa (CS miền Bắc) năm
1965 cũng đã cả quyết Hoàng Sa
và Trường là của Trung Quốc.
Ông Lợi khẳng định: “Việc nói
Tây Sa [Hoàng Sa] là của
Trung Quốc trong bản tuyên bố của
Chính phủ nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà năm 1965 … hay câu
nói của thứ trưởng ngoại giao Ung Văn
Khiêm về Tây Sa là có
thật.” Nhưng liền sau lời xác nhận
này, ông Lợi vội biện bạch:
“Đó không phải là lời
tuyên bố từ bỏ chủ quyền đối với quần đảo
Hoàng Sa, càng không phải
là từ bỏ chủ quyền đối với quần đảo
Trường Sa.”
Sau khi biện hộ cho bản tuyên bố năm
1963 của nước VNDCCH và cho câu
nói của Ung Văn Khiêm, ông Lợi
cũng dùng một kiểu nói ấy để
bênh vực Công hàm năm 1958 của
PVĐ. Rất tiếc, ông Lợi chẳng những
không đưa ra một lý luận hay chứng từ
nào cụ thể có giá trị thuyết
phục mà còn làm nổi rõ
hơn tính chất phản quốc hàm
súc trong Công hàm ấy.
Lưu Văn Lợi vốn là một nhà ngoại
giao kỳ cựu của CSVN, từng tham gia hòa
đàm Paris với tư cách trợ lý
của Lê Đức Thọ và Xuân Thủy
(1972-1973), sau đó là Trợ lý
Bộ Ngoại giao CSVN, rồi Trưởng ban Biên giới
của Hội đồng Bộ trưởng (1978-1989). Lời chứng của
ông đáng tin cậy. Tuy nhiên,
lý luận của Lưu Văn Lợi chỉ xoay quanh
cái trục “tình đồng chí”
và “nghĩa vụ quốc tế” của CSVN đối với CS
Trung Quốc, “mối quan hệ giữa nhân dân
hai nước ‘vừa là đồng chí vừa
là anh em’, trong ý nghĩ ‘Trung-Việt
nhất gia’, do đó coi bản công
hàm đó là biểu hiện của
tình hữu nghị Trung-Việt.”
Ông Lợi nhấn mạnh: “Việt Nam lại
là một nước xã hội chủ nghĩa, một
nước láng giềng anh em, ‘núi liền
núi, sông liền sông’ đối với
Trung Quốc. Trong tình hình
đó, Trung Quốc trở thành đồng minh
trên thực tế của Việt Nam về chính
trị, tinh thần và vật chất. Họ đã
gửi sang Việt Nam vũ khí, đạn dược, lương
thực, xe cộ và dành con đường
quá cảnh cho hàng viện trợ của
Liên Xô và Đông
Âu và các nước khác.
Người Việt Nam và Trung Quốc coi quan hệ
giữa hai nước như “môi với răng”.
Từ lý luận trên đây, Lưu
Văn Lợi kết luận rằng cả Công hàm
1958 lẫn các lời tuyên bố cùng
các văn kiện sau đó của phía
CSVN với Trung Cộng là một biểu hiện của
“tình đoàn kết quốc tế.”, là
“bổn phận ơn đền nghĩa trả” của Việt Nam đối với
người đồng-chí-anh-em-răng-liền-răng
mà CSVN phải thực thi.
Lưu Văn Lợi vô tình hay cố
ý bỏ qua yếu tố trách nhiệm của
các quan chức và bộ máy
công quyền đã sản sinh ra Công
hàm, các văn bản và những lời
tuyên bố phản bội trắng trợn chống lại lịch
sử cũng như quốc gia dân tộc!
Mặc dầu quanh co bao biện cho phe đảng, Lưu
Văn Lợi cũng đã phải công nhận điều
này: “Về mặt hành chính,
theo Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 Việt Nam tạm
chia làm hai miền với vĩ tuyến 17
làm giới tuyến quân sự tạm thời
trong khi chờ đợi thống nhất. Miền Nam Việt Nam,
Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà
đã tiếp quản hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa từ năm 1956 khi Pháp
rút khỏi Đông Dương và từ
đó đã tổ chức hai quần đảo về mặt
hành chính, tổ chức khảo
sát và khai thác tài
nguyên về biển đồng thời kiên quyết
bảo vệ hai quần đảo chống lại những hành
động và ý đồ xâm chiếm của
Bắc Kinh cũng như các nước khác.
Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà cũng
bảo vệ lợi ích và chủ quyền của
mình tại các hội nghị và tổ
chức quốc tế.”
Sự công nhận quá muộn màng
ấy của một cá nhân Lưu Văn Lợi (1995)
chẳng nói lên được gì cả, bởi
vì trước đó, năm 1974, tập
đoàn CSVN tại Hà Nội chẳng những
dửng dưng im hơi lặng tiếng mà còn
đứng đằng sau tán dương và cổ
súy Trung Cộng xua quân tấn
công bắn giết Hải quân VNCH trấn thủ
đảo Hoàng Sa để chiếm đoạt hải đảo
này.
Chúng ta biết, Hiệp ước Paris về Việt
Nam đã ký và có hiệu
lực kể từ năm 1972. Theo Hiệp ước này, lực
lượng Hoa Kỳ chấm dứt hoàn toàn
trách nhiệm quân sự của họ tại Việt
Nam kể từ thời điểm đó. Cho nên, cả
Trung Cộng lẫn CSVN đều biết rõ Hoa Kỳ
không còn có thể can thiệp
bằng vũ lực vào bất cứ biến cố quân
sự nào xảy ra ở bất cứ phần đất nào
của VNCH. Đó là cơ hội ngàn
vàng để CSVN “bật đèn xanh” cho
Trung Cộng “lấy mạnh hiếp yếu” xua quân
tàn sát chiến sĩ hải quân VNCH
và xâm chiếm Hoàng Sa.
Chưa nói tới những xúi giục ngấm
ngằm đằng sau, chỉ cái việc Hà Nội
hoàn toàn im lặng trước cuộc
xâm lăng này của Trung Cộng
vào lãnh hải của nước Việt Nam cũng
đủ tố cáo tội ác tày trời của
CSVN đối với đất nước và dân tộc,
ít ra họ phản bội chính họ và
chống lại chính lời họ tuyên bố “Nước
Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam
là một…” hoặc “Các Vua Hùng
có công dựng nước, bác
cháu ta cùng nhau GIỮ NƯỚC.” Nực
cười thay! Hô hào “chống Mỹ cứu nước”
để mà “rước Tàu cướp nước!”
Mâu thuẫn và giả dối đến thế
là cùng!
Cho nên thật là ngụy biện mơ hồ
khi cho rằng vào các thời điểm ấy
(1956, 1958, 1963, 1965, 1974), Việt Nam gồm hai
quốc gia riêng rẽ: Miền Bắc là VNDCH;
miền Nam là VNCH; và rằng
Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về miền
Nam tức là của VNCH chứ không
dính dáng gì tới VNDCCH!
Sau này (năm 1995) Lưu Văn Lợi
xác nhận “Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 Việt
Nam tạm chia làm hai miền với vĩ tuyến 17
làm giới tuyến quân sự tạm thời trong
khi chờ đợi thống nhất.” Có bao giờ HCM
và tập đoàn CS miền Bắc coi VNCH
là một nhà nước chính danh
đâu! Trái lại luôn luôn
họ gắn chữ “ngụy” lên đầu chính quyền
và quân đội VNCH – ngụy quân,
ngụy quyền!
Nhân đây chúng ta lại
xét tới một điểm khác mà Lưu
Văn Lợi đã đề cập đến trong sách của
ông. Sau khi nhìn nhận VNCH
“kiên quyết bảo vệ hai quần đảo,” ông
Lợi viết thêm: “Chính phủ cách
mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam
cùng với Chính phủ Sài
Gòn đã tham gia ký kết Định
ước về Việt Nam và đã tuyên bố
chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa.”
Không rõ cái gọi là
Chính phủ cách mạng lâm thời
Cộng hoà miền Nam – công cụ của
Hà Nội có ký một Định ước
nào không và có
“tuyên bố chủ quyền của Việt Nam đối với hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa” hay
không và vào lúc
nào? Nhưng bảo rằng Chính phủ ma ấy
đã “cùng với Chính phủ
Sài Gòn” (tức chính quyền
VNCH) tham gia ký kết Định ước là
điều rất đáng ngờ bao lâu tác
giả chưa dẫn nguồn chứng minh thời điểm, địa điểm,
hoàn cảnh và nội dung văn kiện về sự
kiện ấy!
Phải chăng phịa ra “sự kiện” này,
ông Lợi nhằm đánh lừa dư luận quần
chúng về tính hợp pháp của
chính thể “Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam” ít ra trong vấn đề
Hoàng Sa và Trường Sa trên
danh nghĩa là một chính phủ nối tiếp
một chính phủ của Miền Nam Việt Nam (!?)
trong khi mọi người đều biết Chính phủ
cách mạng lâm thời Cộng hoà
miền Nam chỉ là lá bài của CS
Bắc Việt để thôn tính Miền Nam VN.
Chính thể “Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam” sau năm 1975 là sự
tiếp nối chính thể “Việt Nam dân chủ
cộng hòa” của Miền Bắc cũng do những
khuôn mặt chính quyền miền Bắc ấy
tiếp tục nắm quyền cai trị trên cả nước
như Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn
Đồng, Đỗ Mười… Trong khi Nguyễn Hữu Thọ, Trịnh
Đình Thảo, Huỳnh Tấn Phát, Tạ
Bá Tòng, Nguyễn Hộ, Nguyễn Thị
Bình… chỉ đóng vai bù
nhìn để rồi bị đẩy dần vào
bóng tối… vỡ mộng công hầu!
Thế nên trong các vụ Hoàng
Sa, Trường Sa, đường ranh biển và
biên giới phía Bắc Việt Nam,
toàn dân đã rõ ai
chính, ai tà! Ai chính nghĩa,
ai phi nghĩa! Ai vì dân vì
nước, ai phản dân bán nước! Như vậy,
chúng ta đã có đủ cơ sở để
mà xác quyết rằng chính thể
Cộng sản là một chính thể phi nghĩa,
vô tổ quốc.
Nguyễn
Mạnh Cầm ca ngợi nguồn hỗ trợ to lớn và
giá trị
Trước Lưu Văn Lợi, ông Nguyễn Mạnh Cầm,
nguyên Bộ trưởng Ngoại giao CSVN, nhân
buổi họp báo ngày 2 tháng 12
năm 1992 tại Hà Nội, cũng đưa ra những
lý luận quái gở mà
Thông tấn xã CS Việt Nam đã
đăng tải ngày 3 tháng 12 năm 1992:
“Các nhà lãnh đạo của ta
lúc trước xác nhận về Hoàng
Sa và Trường Sa [thuộc về Trung Cộng] như
vậy là do theo hiệp định Genève năm
1954 về vấn đề Đông Dương thì tất cả
lãnh thổ từ vĩ tuyến thứ 17 trở vào
Nam là thuộc chính quyền miền Nam,
kể cả hai quần đảo này.”
Đem Hiệp định Genève để biện hộ tức
là tự tố cáo mình vậy. Cộng
sản VN từng rêu rao “Hiệp Định Genève
tạm chia hai miền Nam Bắc,” chứ có bao giờ
nói Việt Nam là hai nước riêng
rẽ biệt lập đâu. Không lạm dụng danh
nghĩa “Nước Việt Nam là một. Dân tộc
Việt Nam là một…” HCM và tập
đoàn CSVN chắc chắn không thể
nào lôi kéo được người Việt
nào theo họ. Vì trót nghe lời
tuyên truyền xảo quyệt của Hồ Chí
Minh và CS Bắc Việt, một số “nhân sĩ,
trí thức” Miền Nam Việt Nam đi theo CS,
cuối đời ân hận thì sự đã
muộn.
Ông Cầm còn biện bạch: “Thêm
vào đó, vào lúc ấy
Việt Nam phải tập trung hết mọi lực lượng
vào cuộc chiến chống Mỹ nên cần bạn
bè khắp nơi. Tình hữu nghị
Việt-Trung đang thắm thiết và hai nước
hoàn toàn tin cậy lẫn nhau. Việt Nam
xem Trung Quốc là một nguồn hỗ trợ to lớn
và giá trị. Trong tinh thần đấy
thì do tình thế cấp bách,
quan điểm của lãnh đạo ta là cần
thiết vì nó phục vụ cho cuộc chiến
bảo vệ Tổ quốc.” Nại tới “tình hữu nghị
thắm thiết”, nại tới “nguồn hỗ trợ to lớn
và giá trị” để mang lãnh thổ
và lãnh hải của Tổ quốc ra
dâng nộp thì còn gì
quái gở khốn nạn bằng?
Ông Nguyễn Mạnh Cầm còn đưa ra
một lý luận khác khá ấu trĩ
và hồ đồ. Ông nói: “Đặc
biệt, việc này [việc Công
hàm 1958 nhìn nhận Hoàng Sa
và Trường Sa là của Trung Cộng]
còn nhắm vào nhu cầu cấp thiết
lúc đó là ngăn ngừa đế quốc
Mỹ không sử dụng các quần đảo ấy để
tấn công chúng ta.” Ngăn ngừa
đế quốc Mỹ sử dụng các quần đảo đó
để tấn công chúng ta, chúng ta
lại rước tên tướng cướp Tàu hung
hãn gấp bội vào chiếm đóng
và hoành hành như vậy sao?
Cũng liên quan tới Công hàm
1958, Nguyễn Mạnh Cầm còn lớn tiếng ngụy
biện: “lãnh đạo ta tạm công nhận như
thế!” Ôi! Phải chi PVĐ ghi thêm
bên dưới cái Công hàm
lời ghi chú “lãnh đạo ta tạm
công nhận” thì bây giờ
báo Đại Đoàn Kết đâu phải vất
vả biện luận lý giải quanh co?
Một chi tiết mà Nguyễn Mạnh Cầm
luôn lặp đi lặp lại, đó là mọi
quyết định đều do “lãnh đạo ta” tức do Bộ
Chính Trị, bộ phận lãnh đạo cao nhất
của Đảng CSVN ở mọi thời kỳ quyết định, chứ chẳng
phải ông Phạm Văn Đồng, ông Ung Văn
Khiêm hay ông Lê Lộc nào
trách nhiệm cả. Nhắc lại: BCT Đảng CSVN
vào thời kỳ 1958 do Hồ Chí Minh đứng
đầu với 2 tư cách: Chủ Tịch kiêm Tổng
Bí Thư!
Lời
bào chữa mới nhất từ tiếng nói của
Mặt Trận Tổ Quốc VN
Chúng ta trở lại với bài
báo “Công
hàm 1958 với chủ quyền Hoàng Sa
và Trường Sa của Việt Nam” của
Nhóm PV báo Đại Đoàn Kết
thuộc Mặt Trận Tổ Quốc VN (do CSVN chi phối).
Để biện hộ cho Công hàm 1958 của
PVĐ, bài báo nêu rằng “theo
Thạc sĩ Hoàng Việt, Quỹ Nghiên cứu
Biển Đông, công hàm 1958 của
Thủ tướng Phạm Văn Đồng ra đời trong bối cảnh quan
hệ VNDCCH – Trung Quốc lúc đó “vừa
là đồng chí vừa là anh em”.
Hoặc: “Công hàm 1958 của Thủ
tướng Phạm Văn Đồng xuất phát từ mối quan
hệ rất đặc thù với Trung Quốc trong thời
điểm VNDCCH đang rất cần tranh thủ sự ủng hộ
và giúp đỡ của các quốc gia
trong khối xã hội chủ nghĩa bấy giờ…”
Hoặc: “Về thực chất, công hàm
1958 chỉ là sự thể hiện một thái
độ chính trị, một cử chỉ hữu nghị với
tuyên bố giới hạn lãnh hải 12 hải
lý của Trung Quốc để tranh thủ sự ủng hộ
của Trung Quốc mà thôi.”
Và còn nhiều những lời biện bạch
lý giải như vậy. Giống hệt những gì
Nguyễn Mạnh Cầm và Lưu Văn Lợi đã
nói tới. Cũng vẫn luận điệu: “cử chỉ hữu
nghị… tranh thủ sự ủng hộ…”, “biểu lộ ơn đền nghĩa
trả” “vừa là đồng chí vừa là
anh em”…
Thiết tưởng MTTQVN có cả quyền hạn
và trách nhiệm lên tiếng
phân bua biện bạch với Trung Quốc, muốn
nói sao với người “anh em, đồng chí”
thì nói. Nhưng không
nói với Trung Quốc mà chỉ nói
với chính người dân Việt Nam,
thì không chừng đảng và
nhà nước CSVN càng lộ bản chất phản
dân hại nước đấy!.
Thôi thì cứ ôm lấy 16 chữ
vàng: “Ổn định lâu dài,
hướng tới tương lai, láng giềng hữu nghị,
hợp tác toàn diện” và 4 tốt
(tứ hảo): “Láng giềng tốt, bạn bè
tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”
như là bản sắc phong của Hán triều
ban câp cho bầy tôi trung,
nên… im mồm đi có lẽ hay hơn! Phần
quan thầy Trung Quốc, trước sau họ cứ như một,
chỉ muốn thủ đắc một tốt mà thôi –
“nhất hảo” là “hảo xực”cái
món… LƯỠI BÒ Biển Đông”.
Chuyện
“bên lề” Hội Nghị Genève 1954
Một chi tiết khác trong bài viết
trên báo chính dòng
CSVN nghe hay hay thiết tưởng cũng cần nêu
ra để chúng ta cùng cười lên
một tiếng cho vui nhà vui cửa. Chi tiết
gì đây? Thưa, đó là lời
tiết lộ của bài báo, rằng: “Tất
cả những hành động ngoại giao của Thủ
tướng Phạm Văn Đồng trong công hàm
1958 có thể hiểu không phải
là ông không nhìn thấy
mọi ý đồ của Trung Quốc đối với
cách mạng Việt Nam vì ông
đã có kinh nghiệm trong bàn
đàm phán Genève năm 1954,
khi mà Trung Quốc đã có
không ít động thái rất bất
lợi cho VNDCCH.”
Động thái gì của Trung Cộng
trong Hội nghị Genève năm 1954 “rất bất lợi
cho VNDCCH” đến nay mới lôi ra? CSVN từ hơn
nửa thế kỷ qua có thấy điều đó
không và đã có lần
nào dám nói thẳng sự phản đối
của mình chống lại động thái của
Tàu Cộng chưa? Hay đã phải “ngậm
miệng” ăn tiền, chấp nhận một sự đồng lõa
đáng ghê tởm?
Sự thật là thế này:
Hội nghị Genève về Đông Dương
khai mạc ngày 26/4/1954, và kết
thúc ngày 21/6/1954 với sự tham dự
của 9 phái đoàn: Anh, Pháp,
Mỹ, Liên Xô, Trung Cộng, Quốc gia Việt
Nam, Cộng sản Việt Nam, Lào, Campuchia.
Riêng phái đoàn Trung Cộng
do Chu Ân Lai (Thủ tướng kiêm Ngoại
trưởng) dẫn đầu là lực lượng đông đảo
hùng hậu nhất: 200 người! (Xem quyển “Vai
trò của Chu Ân Lai tại
Genève năm 1954”) (1).
Qua quyển sách về họ Chu này, người
ta còn thấy phái đoàn Trung
Cộng hoàn toàn khống chế phái
đoàn Cộng sản Bắc Việt của Phạm Văn Đồng.
Kết thúc Hội nghị, người quyết định tuyến
phân ranh (vĩ tuyến 17) là Chu
Ân Lai và Pháp, chứ
không phải Phạm Văn Đồng. Điều ấy đủ bộc lộ
cái nham hiểm của Tàu Cộng và
sự lệ thuộc hèn hạ của Cộng sản Bắc Việt
vào người “đàn anh nước lớn” của họ.
Chưa kể việc Phạm Văn Đồng hạ bút ký
Hiệp định, dâng phần đất phía nam vĩ
tuyến 17 cho Pháp và đặt phần đất
bắc vĩ tuyến 17 dưới sự kềm chế và lũng
đoạn của Trung Cộng, dọn đường cho những mưu toan
xâm lược của bắc phương vào Việt Nam
sau này!
Lúc bấy giờ phía Quốc gia Việt
Nam do Ngoại trưởng Nguyễn Quốc Định làm
trưởng đoàn, sau đó được thay thế
bởi Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ. Ngày
16/6/1954, giữa lúc Hội nghị Genève
đang tiến hành, ông Ngô
Đình Diệm được mời làm Thủ tướng
Quốc gia Việt Nam. Tại Hội nghị Genève,
nhận chỉ thị của tân Thủ Tướng, ngoại trưởng
Trần Văn Đỗ, nhân danh chính phủ quốc
gia Việt Nam tuyên bố: “Đoàn đại biểu
Quốc Gia Việt Nam dứt khoát từ chối
ký vào bất kỳ hiệp định đình
chiến nào dẫn tới Việt Nam phân trị”
(Sđd trên: Vai trò…).
Do không ký tên, Quốc Gia
Việt Nam, tức Việt Nam Cộng Hòa,
không hề nhìn nhận Hiệp định
Genève về Đông Dương nói
chung, về Việt Nam nói riêng do
các cường quốc, đặc biệt là
Liên Xô, Trung Cộng và
Pháp với Cộng sản Bắc Việt cùng
âm mưu áp đặt, chia để trị.
Nhắc lại biến cố Hội nghị Genève năm
1954, sách Chính Đề Việt Nam (CĐVN)
của tác giả Tùng Phong viết từ thời
kỳ 1960 (ấn bản 2011) cho biết, tham dự Hội nghị
trên, Trung cộng đạt 3 điều lợi, mà
điều lợi thứ hai của họ lại là hiểm họa to
lớn cho Việt Nam.
Điều lợi thứ hai đó là
gì?
Tác giả CĐVN cho biết: “Điều lợi thứ
nhì cho Trung cộng là một thắng lợi
về ranh giới và lãnh thổ.”
Theo CĐVN, khi Hội nghị Genève đặt vấn
đề phân chia lãnh thổ Việt Nam
thành hai miền, CSVN ban đầu “yêu
sách lấy vĩ tuyến 13 làm ranh giới,”
vì họ muốn thâu tóm luôn
các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi,
Bình Định… vào miền Bắc… còn
Pháp thì đòi vĩ tuyến 18.
Nhưng, “dưới áp lực của Trung cộng, ranh
giới đã lui lại đến vĩ tuyến 17… Những tham
vọng đất đai của Trung Cộng đối với Việt Nam
đã thỏa mãn.” (207). Tác giả
Tùng Phong giải thích:
“…vùng đất thiết yếu cho nước Tàu
là các vùng hai bên
sông Nhị Hà, con đường tháo ra
biển, thiên nhiên của vùng
Tây Nam Trung Hoa.”
Theo tác giả CĐVN, “việc ấn định ranh
giới ở vĩ tuyến 17, vừa xác nhận tham vọng
đất đai, bất di bất dịch của Tàu đối với
Việt Nam, vừa chứng minh sự lệ thuộc của
chính phủ Bắc Việt đối với Trung Cộng.”
(Chính Đề Việt Nam, trang 209).
Như vậy, ý đồ của Trung Cộng dẫu sao
cũng mang lại phần lợi cho đàn em là
CSVN. Nếu không, HCM và BCT Đảng CSVN
đã chẳng cho Phạm Văn Đồng ký
vào Hiệp Định để nhận lấy phần đất
phía bắc và nhận cả những viện trợ
to lớn của đàn anh, chia phần phía
nam cho Pháp! Bây giờ CSVN bỗng trở
giọng kêu ca đàn anh chơi xỏ… Tập
đoàn CSVN lộ chân tướng bán
nước! Bán nước chinh thức bắt đầu từ năm
1954!
Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa là…
quốc gia thứ ba
Bài báo “Công hàm
1958 với chủ quyền Hoàng Sa và
Trường Sa của Việt Nam” trên tờ Đại
Đoàn Kết của MTTQVN có mấy đoạn
đáng chú ý sau đây:
· “Theo Hiệp định Genève
1954, hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa nằm phía Nam vĩ tuyến 17 tạm
thời thuộc quyền quản lý của Chính
phủ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Trong thời
điểm đó, dưới góc độ tài
phán quốc tế, thì Chính phủ
VNDCCH không có nghĩa vụ và
quyền hạn hành xử chủ quyền tại hai quần
đảo này theo luật pháp quốc tế.”
· “Trên phương diện
pháp lý, nước VNDCCH lúc
đó không phải là một quốc
gia trong cuộc tranh chấp đối với hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa. Trước năm
1975, các quốc gia và lãnh
thổ tranh chấp gồm: Trung Quốc, Đài Loan,
Việt Nam Cộng hòa và Philippines.
Như vậy, những lời tuyên bố của VNDCCH xem
như lời tuyên bố của một quốc gia thứ ba
không có ảnh hưởng đến vụ tranh
chấp. Nếu đặt giả thuyết VNDCCH và CHXHCN
Việt Nam là một thì dựa trên
luật quốc tế, những lời tuyên bố đó
cũng không có hiệu lực.”
Hai đoạn nghị luận trên cho thấy
chính quyền Hà Nội tự mâu
thuẫn nghiêm trọng: Vừa hô hào
rằng chính quyền Sài Gòn
là NGỤY QUYỀN, vừa nhìn nhận VNCH
hoàn toàn có tư cách
là một QUỐC GIA được quốc tế công
nhận. Nếu bảo rằng trong vụ tranh chấp
Hoàng Sa, Trường Sa, VNDCCH ở Miền Bắc chỉ
là một quốc gia thứ ba, thì đương
nhiên VNCH là “quốc gia thứ nhất”
có đầy đủ chủ quyền và tư
cách tranh chấp với Trung Quốc. Như vậy
việc CSVN xua quân vào Nam
đánh đổ chính thể VNCH là một
hành động xâm lược trắng trợn cũng
giống như Trung Cộng xâm lăng Hoàng
Sa năm 1974!
Mặt khác, Hà Nội xem
Chính phủ VNCH chỉ “tạm thời quản
lý” các quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa và tự nhận mình
được “nhân dân” trao phó nhiệm
vụ lãnh đạo công cuộc “CỨU NƯỚC”
và “DỰNG NƯỚC,” cụ thể là “trọng
trách GIẢI PHÓNG MIỀN NAM VIỆT NAM”
khỏi “bè lũ ngụy quyền” Sài
Gòn? Giải phóng cái gì
mà liên tiếp 2 lần dâng đảo cho
Tàu Cộng? Lần 1: minh thị bằng Công
hàm 1958. Lần 2: biểu lộ lòng trung
thành với lời cam kết ghi trong Công
hàm khi Tàu Cộng đánh chiếm
Hoàng Sa năm 1974 – không một lời
phản đối – dù là phản đối
suông bằng một vài ngôn từ
công thức.
Căn cứ vào lập luận của báo Đại
Đoàn Kết cũng như của một số nhân vật
chóp bu CSVN, chúng ta khẳng định
rằng: Trung Cộng đã xâm lăng hải đảo
Hoàng Sa của VNCH bằng vũ lực thế
nào thì CS Miền Bắc cũng dùng
vũ lực xâm lăng nội địa VNCH thế ấy! CSVN
còn mắc thêm tội dối lừa cả một
dân tộc cốt để phục vụ cho quyền lợi đảng
trị và cướp bóc mà
thôi!
Một sự
nhìn nhận… thiếu vắng lòng
sám hối
Bài báo trên tờ Đại
Đoàn Kết viết: “Chính quyền
VNCH, theo Hiệp định Genève 1954,
đã liên tục hành xử chủ
quyền lâu đời của người Việt Nam
trên hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa bằng các văn bản
hành chính nhà nước cũng
như bằng việc triển khai thực thi chủ quyền thực
tế trên hai quần đảo này. Đỉnh cao
của sự khẳng định chủ quyền Việt Nam trên
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
trong giai đoạn này là trận hải
chiến quyết liệt của Hải quân VNCH chống
lại sự xâm lược của tàu chiến
và máy bay Trung Quốc tại quần đảo
Hoàng Sa năm 1974.”
Trước hết, xin nhắc lại, phía VNCH
không ký vào Hiệp định
Genève 1954, nên không hề bị
Hiệp định ấy ràng buộc hay chi phối. VNCH
hành động bảo vệ “chủ quyền lâu đời
của người Việt Nam trên hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa” là
vì ý thức dân tộc, vi tinh
thần quốc gia, vì trách nhiệm
thiêng liêng đối với từng tấc đất do
tiền nhân để lại chứ không vì
Hiệp định Genève. VNCH khẳng định chủ quyền
Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa không phải chỉ bằng văn
bản mà bằng sự hiện diện của
mình trên hai quần đảo ấy….
Và cụ thể năm 1974 chiến sĩ hải quân
VNCH đã đổ máu đào của
mình để xác định chủ quyền quốc gia
trên Hoàng Sa…chứ không ngồi ở
một xó góc co ro cúm
rúm tuyên bố, phát biểu vu vơ!
Biến cố ấy tỏ rõ bản lãnh yêu
nước và giữ nước của tập thể dân
và quân VNCH. Sự khác biệt
này chứng minh chính xác ai
là chính nghĩa, kẻ nào
là phi nghĩa!
Cho nên việc Mặt Trận Tổ Quốc VN hay Nguyễn
Mạnh Cầm, Lưu Văn Lợi (đã trưng dẫn
trên) hoặc bất kỳ quan chức CSVN nhìn
nhận vai trò đúng đắn của
phía VNCH trong nghĩa vụ bảo vệ chủ quyền
quốc gia trên bất cứ phần đất nào của
Việt Nam chỉ là sự nhìn nhận
què quặt và dối trá bao
lâu sự nhìn nhận ấy không được
thể hiện bằng một thái độ và
hành động sám hối tích cực.
Điều này thật khó có thể xảy
ra nơi người CSVN trừ phi Đảng của họ bị triệt
tiêu hoàn toàn!
Lời
dạy của tiền nhân
Trên báo điện tử Talawas
(đã đóng cửa) trước đây diễn
ra một cuộc tranh luận khá sôi nổi
và lý thú về vấn đề Biển
Đông.
Có ý kiến (Trương Nhân
Tuấn) (2)cho rằng công
hàm ô nhục năm 1958 đã
“làm cho lý lẽ của phía Việt
Nam yếu đi” và cũng là một “yếu tố
quan trọng được Trung Cộng khai thác tối đa
để xâm chiếm Hoàng Sa và
Trường Sa,” công hàm ấy đã hợp
thức hóa chủ quyền của Trung Hoa CS
trên Biển Đông. Nhưng Dương Danh Huy
thì lại bảo rằng: “Chưa chắc gì
Công hàm 1958 có hiệu lực
ràng buộc VN ngày nay. Chưa chắc
gì thế giới cho là nó
có hiệu lực ràng buộc VN
ngày nay. Chưa chắc gì Toà
sẽ cho như thế.”
Cứ “chưa chắc, chưa chắc” mà
không chứng minh cái “chắc” nó
ở đâu, Dương Danh Huy (3)
lại trách cứ: “Điều đáng buồn
là thay vì nghiên cứu
nghiêm túc nó có hiệu
lực gì và tìm lý lẽ
phản biện nó thì có khi người
ta lại đem nó ra để phê phán
nhau, vv.” Ông Huy cảnh báo “người
Việt không nên góp phần
làm tăng giá trị tuyên truyền
cho Trung Quốc.”
Thật ra, TÁC NHÂN “làm tăng
giá trị tuyên truyền” cho Trung Quốc
chính là Công hàm 1958
chứ không ai khác hay cái
gì khác. Mỗi lần Biển Đông dậy
sóng là mỗi lần Trung Cộng trưng
cái Công hàm ấy ra trước
công luận, vì sao? Có nhục
không? Có đau không?
Đặt lại vấn đề Công hàm 1958,
chúng tôi không “nối
giáo cho giặc” Trung Cộng, không tạo
cho họ cái cớ để xâm chiếm đất nước
Việt Nam! Chính những kẻ ám muội
âm mưu cấu kết đẻ ra cái quái
thai “Công hàm 1958” cùng
các văn kiện cắt đất nhượng biển
khác cho quân xâm lược phương
bắc mới là thủ phạm đích thực “nối
giáo cho giặc”!
Tuy thuộc hàng dân dã
quê mùa, chúng tôi
dám thách thức bất cứ ai chứng minh
điều ngược lại với những gì trình
bày trên!
Hãy
nghe đây chỉ dụ của vua Lê
Thánh Tông dẫn từ Đại Việt Sử
ký Toàn thư, Bản kỷ Thực lục, Kỷ
Nhà Lê: “Một thước
núi, một tấc sông của ta, lẽ
nào lại có thể vứt bỏ? Ngươi
phải kiên quyết tranh biện, chớ cho họ
lấn dần. Nếu họ không nghe, còn
có thể sai sứ sang phương Bắc
trình bày rõ điều ngay lẽ
gian. Nếu ngươi dám đem một thước
sông, một tấc đất của Thái tổ
làm mồi cho giặc, thì phải tội
tru di!”
Hãy nghe
đây di chúc của Vua Trần Nhân
Tôn: “… Cái họa lâu đời của
ta là họa Trung Hoa. Chớ coi thường
chuyện vụn vặt xảy ra trên biên ải…
Họ gậm nhấm đất đai của ta, lâu dần họ sẽ
biến giang san của ta từ cái tổ đại
bàng thành cái tổ chim
chích. Vậy nên các người
phải nhớ lời ta dặn: Một tấc đất của tiền
nhân để lại, cũng không được để lọt
vào tay kẻ khác. Ta để lời nhắn
nhủ đó như một lời di chúc cho
muôn đời con cháu.”
Kết
luận
Chúng ta biểu tình chống Trung
Quốc xâm lăng, khí thế yêu nước
hừng hực, lẽ nào chúng ta lại
quên lột mặt nạ kẻ nội thù phản
dân hại nước khoác áo “giải
phóng dân tộc” sặc sỡ để âm mưu
cấu kết với giặc ngoại xâm bắc phương
“nô lệ hóa dân tộc”?
Bao lâu cái Đảng đẻ ra Công
hàm 1958 còn tồn tại trị vì
đất nước và dân tộc Việt Nam với
lá cờ đỏ sao vàng, bấy lâu
dân tộc Việt Nam còn khốn đốn,
không sao thoát khỏi nanh vuốt
Tàu Cộng do thái độ yếu hèn
của CSVN.
Xét về mặt tình tự dân
tộc, những kẻ phản dân phải bị đào
thải và không xứng đáng thuộc
về huyết tộc con Rồng cháu Tiên.
Xét về phương diện quốc gia, phải hạ bệ
tức khắc bọn phản quốc khỏi mọi quyền bính
trong xã hội và lấy luật nước
nghiêm minh sửa trị.
Có người bảo: Công hay tội, xin
đừng xét vội mà hãy để lịch
sử phán xét.
Lịch sử ư? Lịch sử mãi quốc cầu vinh
kéo dài liên tục đã hơn
50 năm… Dân tộc Việt Nam mất đất, mất đảo
đang bị đẩy vào chỗ diệt vong! Còn
chờ đợi lịch sử nào nữa?
Chúng ta hãy cùng vùng
lên, đáp lời sông núi!
Hoàng Sa, Trường Sa là
máu thịt Việt Nam.
Chủ quyền lãnh hải, lãnh thổ
Việt Nam thuộc về toàn dân Việt Nam,
dứt khoát không thuộc về một
nhóm nhỏ đảng trị “ươn hèn với giặc,
mặt sắt với dân!”
© Lê thiên
© Đàn Chim Việt
—————————————————
Ghi chú:
(1) Vai trò của Chu Ân Lai tại
Genève năm 1954 là bản dịch cuốn
sách “Chu Ân Lai Dữ Nhật Nội
Ngoã Hội Nghị”, nhà xuất bàn
Trung Cộng Đảng Sử Xuất Bản Xá, 2005,
tác giả là Tiền Giang, dịch giả
là Dương Danh Dy.
(2) Xin đọc thêm “Tìm
hiểu hồ sơ thềm lục địa của Việt Nam” của
Trương Nhân Tuấn trên Talawas
ngày 16/5/2009 cùng các
bài viết và các ý kiện
phản biện chung quanh cuộc tranh luận về Biển
Đông..
(3) (Dương Danh Huy trả lời Nguyễn Hòa
ngày 14/5/2009. Phần phản hồi sau
bài viết của Dũng Vũ trên Talawas
ngày 13/5/2009: Hoàng Sa – Trường
Sa, một bài học cho xứ nhược tiểu).
“Năm 1473 khi Lê Duy Cảnh đi trấn giữ ở
vùng biên giới giáp với tỉnh
Quảng Tây, vua Lê Thánh
Tông đã trao cho ông một sắc
dụ, trong đó viết: “Một thước núi,
một tấc sông của ta không nên
vứt bỏ, ngươi nên cố cãi
THEO DÒNG SỰ KIỆN:
- Báo VN bàn về
công hàm 1958
- 14 tháng 9 Năm 1958 –
Ngày Phạm Văn Đồng ký công
hàm
- Làm sao giải quyết
“công hàm 1958″ của ông
Phạm Văn Đồng?
- Asia Times nhắc đến công
hàm 1958, Việt Nam nói
gì?
- Trên đường đi đến
“thiên đàng …” Tản mạn của một
người theo Cộng sản [2]
- Trên đường đi đến
“thiên đàng …” Tản mạn của một
người theo Cộng sản [1]