ƠN LINH HỨNG THÁNH KINH VÀ VIỆC GIẢI THÍCH THÁNH KINH
|
KHOÁ VIII
ngày 18 tháng 11 năm 1965
HIẾN CHẾ TÍN LÝ VỀ MẠC KHẢI THIÊN CHÚA
(tiếp theo)
(Bản dịch của Ủy Ban
Giáo Lý Đức Tin, HĐGMVN)
CHƯƠNG III:
ƠN LINH HỨNG THÁNH KINH VÀ VIỆC GIẢI THÍCH THÁNH KINH
11. Ơn linh hứng và chân lý trong Thánh Kinh
Những gì Thiên Chúa mạc khải mà Thánh Kinh chứa đựng và trình bày, đều
được viết ra dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần 29*. Thật vậy, Giáo Hội Mẹ
thánh
chúng ta, nhờ đức tin tông truyền, xác nhận rằng toàn bộ các sách Cựu Ước cũng
như
Tân Ước với tất cả các phần đoạn đều là sách thánh và được ghi vào bản thư quy
Thánh Kinh: bởi lẽ được viết ra dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần (x. Ga
20,31; 2
Tm 3,16; 2 Pr 1,19-21; 3,15-16), các sách ấy có tác giả là chính Thiên Chúa và
được
truyền lại cho chính Giáo Hội với tư cách đó 1. Nhưng để viết ra các sách thánh,
Thiên
Chúa đã chọn những con người và dùng họ trong tài năng và sức lực của họ 2, để
khi
chính Ngài hành động trong họ và qua họ 3, họ viết ra như những tác giả đích thật
tất cả
những gì Chúa muốn, và chỉ những điều đó thôi 4.
Vì phải xem mọi lời tác giả được linh hứng, tức các thánh sử, viết ra, là những
điều Chúa Thánh Thần xác quyết, nên phải tuyên xưng rằng Thánh Kinh dạy ta cách
chắc chắn, trung thành và không sai lầm, chân lý 30* mà Thiên Chúa đã muốn Thánh
Kinh ghi lại nhằm cứu độ chúng ta 5. Bởi vậy “tất cả những gì viết trong Sách
Thánh đều
do Thiên Chúa linh hứng và có ích cho việc giảng dạy, biện bác, sửa dạy, giáo
dục để
trở nên công chính. Nhờ vậy, người của Thiên Chúa nên thập toàn, và được trang
bị
đầy đủ để làm mọi việc lành” (2 Tm 3,16-17 bản Hy-lạp).
12. Cách thức giải thích Thánh Kinh 31*
Tuy nhiên vì trong Thánh Kinh, Thiên Chúa đã nhờ loài người và dùng cách nói
của loài người mà phán dạy 6, nên để thấy rõ điều chính Ngài muốn truyền đạt cho
chúng ta, nhà chú giải Thánh Kinh phải cẩn thận tìm hiểu điều các thánh sử thật
sự có ý
trình bày và điều Thiên Chúa muốn diễn tả qua lời lẽ của các ngài.
Để tìm ra chủ ý của các thánh sử, giữa những phương pháp khác, cũng cần phải
đến “văn thể” 32*. Vì chân lý được trình bày và diễn tả qua nhiều thể văn khác
nhau,
như thể văn lịch sử, ngôn sứ, thi phú hoặc những thể văn diễn tả khác. Hơn nữa,
nhà
chú giải còn có bổn phận tìm hiểu ý nghĩa mà trong những trường hợp rõ rệt,
thánh sử
đã muốn diễn tả và thật sự đã diễn tả trong hoàn cảnh thời đại và văn hoá của
các ngài,
qua các lối văn được dùng trong thời đó 7. Thật vậy, để hiểu đúng ý nghĩa tác giả
thánh
muốn khẳng định trong bản văn, chúng ta phải chú tâm đúng mức đến các cách thức
tự
nhiên cảm nghĩ, nói năng hoặc tường thuật, thường được dùng vào thời đại của
thánh
sử, cũng như các cách thức mà người thời ấy quen dùng khi giao tế với nhau 8.
Nhưng bởi vì Thánh Kinh đã được viết ra bởi Chúa Thánh Thần, thì cũng phải
được đọc và giải thích nhờ chính Thánh Thần 9. Và để khám phá ra chính xác ý
nghĩa
của các bản văn thánh, cũng phải kỹ lưỡng xem xét đến nội dung và sự duy nhất
của
toàn thể Thánh Kinh, dựa trên Truyền Thống sống động của toàn thể Giáo Hội và sự
suy loại đức tin 33*. Các nhà chú giải có nhiệm vụ dựa theo những quy tắc đó mà
cố
gắng hiểu thấu và trình bày ý nghĩa Thánh Kinh cách sâu sắc hơn, ngõ hầu nhờ sự
học
hỏi có thể gọi là chuẩn bị đó, phán quyết của Giáo Hội được chín chắn. Quả vậy
mọi
điều liên hệ đến việc giải thích Thánh Kinh cuối cùng đều phải lệ thuộc vào
phán quyết
của Giáo Hội, vì Giáo Hội đã nhận từ Thiên Chúa mệnh lệnh và nhiệm vụ gìn giữ và
giải thích lời Thiên Chúa 10.
13. Sự “hạ cố” của Đức Khôn Ngoan
Vậy trong Thánh Kinh, tỏ hiện sự “hạ cố” kỳ diệu của Đức Khôn Ngoan vĩnh cửu,
mà vẫn không làm tổn thương sự chân thật và thánh thiện của Thiên Chúa, “để
chúng ta
học biết lượng nhân từ khôn tả của Thiên Chúa và biết, do quan phòng săn sóc đến
bản
tính chúng ta, Ngài đã thích ứng lời nói của Ngài đến mức nào” 11. Quả thế, các
lời của
Thiên Chúa, được diễn tả bằng ngôn ngữ loài người, đã trở nên tương tự với lời
nói loài
người, cũng như khi xưa Lời của Chúa Cha vĩnh cửu đã mặc lấy xác thịt yếu đuối
của
loài người, đã trở nên giống như loài người.
_____
chú thích
29*– Trong chương này, Công đồng bàn về những điểm gay go nhất của Thánh Kinh:
linh hứng, vô ngộ, chú giải.
Trước tiên là vấn đề linh hứng: lược đồ thứ nhất đề cập dài dòng về đề mục này,
nhưng
theo lối trình bày của các sách thần học nên bị giới hạn vì những tranh luận
chưa ổn
thoả. Với lập trường không nghiêng về luận đề này hay luận đề kia, Công đồng
dạy:
a) Có linh hứng Thánh Kinh, nghĩa là có ảnh hưởng của Chúa Thánh Thần theo hai
nghĩa: mạc khải các chân lý (ví dụ cho các ngôn sứ) và tác động giúp viết thành
văn bản
để lưu truyền, đồng thời bảo đảm kết quả.
b) Linh hứng ảnh hưởng đến toàn bản chính lục, bởi lẽ một cuốn sách được liệt kê
vào
bản chính lục là vì nó được linh hứng. Bản văn lập lại giáo thuyết của Vatican
I, và thêm
rằng giáo thuyết về linh hứng Thánh Kinh là di sản của các Tông đồ (đức tin tông
truyền).
c) Liên quan giữa các thánh sử và Chúa Thánh Thần, Đấng linh hứng: Thiên Chúa là
tác giả, còn thánh sử là người viết sách; người ta tránh gọi các thánh sử là
“dụng cụ”, vì
như vậy có vẻ quá thụ động. Cũng vậy, người ta sẽ tránh hiểu Thiên Chúa như tác
giả
“chính” mà thích nói Ngài là tác giả “siêu việt”. Thiên Chúa không là “thánh sử”
nhưng
Ngài dùng con người dầu vẫn để con người hoàn toàn tự do và tự phát (với lỗi lầm
của
họ). Đây là nền tảng của việc phê bình Thánh Kinh.
30*– Kết quả của ơn linh hứng là chân lý của Thánh Kinh. Trước kia là Lược đồ 2
chỉ
nói vô ngộ, sau đó bản thảo thứ ba lại thêm: vô ngộ và chân lý; trong bản thảo
thứ tư,
Uỷ Ban thêm tính từ “cứu độ” vào danh từ “ chân lý”. Điều này gây nên một cuộc
tranh
luận rộng lớn và sôi nổi, vì người ta cho rằng như thế sẽ hạn chế tính cách vô
ngộ của
Thánh Kinh vào những điều siêu nhiên và đi ngược lại giáo huấn của các Đức Giáo
hoàng gần đây. Uỷ Ban chấp nhận đề nghị sửa đổi của 73 Nghị Phụ: “nhằm cứu độ
chúng ta” trong khi nhấn mạnh là linh hứng không bị giới hạn vào một phần đoạn
nào
của Thánh Kinh. Nhưng câu này chỉ rõ đặc tính riêng biệt của chân lý Thánh Kinh,
nghĩa
là chiều hướng để hiểu đúng những xác quyết của Thánh Kinh. Chân lý Thánh Kinh
chứa đựng trong lời xác quyết hay lời giáo huấn của các tác giả chứ không trong
những
từ ngữ. Những giáo huấn ấy không bị giới hạn trong “đức tin và luân lý” bởi vì
“chân lý
cứu độ” cũng bao gồm những sự kiện lịch sử. Nên lưu ý là bản văn không nói:
“những
chân lý”, nhưng nói: “chân lý” theo số ít ở đây hiểu theo nghĩa Thánh Kinh nghĩa
là hàm
chứa sự biểu lộ của Thiên Chúa chân thật (chứ không theo nghĩa duy trí). Chân lý
lịch
sử của Thánh Kinh không nhất thiết hệ tại việc dựng lại các sự kiện theo thời
gian và
hoàn cảnh xã hội, nhưng hệ tại việc giải thích các sự kiện, nghĩa là dưới
phương tiện
những sự kiện đó diễn tả mối tương quan giữa con người và Thiên Chúa.
31*– Công đồng dạy rằng việc giải thích rất cần thiết để hiểu Thánh Kinh. Khoa
giải
thích tìm tòi những phương pháp văn chương của thánh sử để khám phá điều thánh
sử
muốn dạy. Thiên Chúa muốn dạy cũng điều đó và có lẽ còn hơn nữa: vấn đề nghĩa
thâm sâu (sensus plenior) mà Uỷ Ban không muốn quyết đoán.
32*– Đoạn này bàn về việc phê bình Thánh Kinh nghĩa là nhằm phân tích “khía cạnh
nhân loại” của Thánh Kinh: văn thể, phạm trù tri thức, hoàn cảnh lịch sử v.v...
như trong
bất cứ tác phẩm văn chương nào. Tầm quan trọng của “văn loại” được đặt lên hàng
đầu, dầu không kê khai đầy đủ. Ta nên lưu ý điểm này: phải công nhận sự hiện hữu
của
nhiều loại lịch sử khác nhau, vì trong các cuốn sách của Thánh Kinh, quan niệm
lịch sử
không có cùng một nghĩa như nhau. Ý tưởng sâu xa được hiểu ngầm ở đây là Lời
Chúa
đã trở thành lời thật sự của con người, nghĩa là lời nhập thể, như trình bày ở
số 13.
33*– Khoa học chưa đủ cho việc chú giải Kitô giáo. Cần phải có đức tin. Nhà chú
giải
cũng phải được hướng dẫn bởi cùng một Thánh Thần đã linh hứng các thánh sử. Tiếp
đến, phải đặt mỗi cuốn sách trong toàn bộ Thánh Kinh vì các sách không có cùng
một
giá trị như nhau. Phải nhớ rằng Mạc khải còn tiến triển: Tân Ước soi sáng Cựu
Ước và
Thánh Truyền của Giáo Hội lại soi sáng Tân Ước. Sau cùng, việc chú giải và Huấn
Quyền phải cộng tác theo cùng một mục đích là giúp hiểu biết thêm về Mạc khải. |
VỀ MỤC LỤC |
|
MẠNG LƯỚI XÃ HỘI: CÁNH CỬA CỦA SỰ
THẬT VÀ NIỀM TIN - TÂN KHÔNG GIAN ĐỂ HOÀNH DƯƠNG TIN MỪNG
|
(THÔNG ĐIỆP CỦA ĐỨC THÁNH CHA BIỂN
ĐỨC XVI VỀ NGÀY TRUYỀN THÔNG THẾ GIỚI)
Chuyển ngữ:
Nguyễn Tiến Cảnh
Anh chị em thân
mến,
Nhân ngày
Truyền Thông Thế Giới năm nay 2013 sắp đến, tôi muốn gửi tới
anh chị em một vài suy tư về một thực tế quan trọng liên
quan đến phương cách mà người dân ngày nay thường liên lạc
với nhau. Tôi muốn nói đến sự phát triển của mạng lưới xã
hội hiện đang tạo ra một tân “Agora” tức một công trường mở
rộng cho công chúng, trong đó mọi người cùng nhau chia sẻ tư
tưởng, ý kiến và tin tức; cũng trong đó những mối dây liên
đới mới và những hình thức tân cộng đồng có thể xuất hiện.
Những khoảng
không gian này, một khi được cam kết một cách khôn ngoan và
cân bằng, sẽ giúp cho đối thoại và tranh luận có hiệu quả,
và nếu được điều khiển một cách đứng đắn và tôn trọng bí mật
cá nhân, có trách nhiệm và yêu sự thật thì có thể làm tăng
sức mạnh đường dây hiệp nhất giữa những cá nhân với nhau và
khuyến khích sự hoà hợp gia đình nhân loại một cách hiệu quả.
Trao đổi tin tức có thể trở thành truyền thông thực sự, mối
dây nối kết chín mùi trở thành tình bạn, và các móc nối
khiến cho liên lạc được dễ dàng. Nếu mạng lưới được dùng để
thực hiện khả năng to lớn đó thì những ai can dự vào hệ
thống này phải cố gắng để trở nên chính thức, bởi vì, trong
khoảng không gian này, không phải chỉ có những tư tưỏng và
tin tức được chia sẻ, mà cuối cùng còn là chính chúng ta với
nhau nữa.
Sự phát triển
mạng lưới xã hội kêu gọi mọi người tham gia và cam kết kiến
tạo tình liên đới và làm bạn, tìm những giải đáp cho các vấn
nạn và để giải trí, nhưng đồng thời cũng tìm kiếm những kích
thích trí năng, chia sẻ kiến thức và hiểu biết. Mạng lưới
đang ngày càng trở thành một trong những cấu trúc của tổ
chức xã hội khi nó tập họp được thật nhiều người lại với
nhau trên nền tảng những nhu cầu căn bản này. Mạng lưới xã
hội vì vậy được nuôi dưỡng bởi những khát vọng bắt rễ từ
trong tâm con người.
Nền văn hóa
mạng lưới xã hội và sự thay đổi cách thức cùng đường lối
truyền thông đòi hỏi nhiều thách đố nơi những người muốn nói
lên sự thật và những giá trị của nó. Thông thường, như
trường hợp ta có nhiều cách truyền thông xã hội khác, thì ý
nghĩa và hiệu quả của những cách diễn tả khác nhau đó xem ra
được đánh giá bởi sự ưa thích của đa số quần chúng hơn là sự
quan trọng và giá trị thực của nó. Về sự ưa thích của quần
chúng thì thường dựa trên nhân vật nổi tiếng hoặc tài thuyết
phục hơn là biện luận hữu lý. Đôi khi có rất nhiều tư tưởng
hay nhưng phát biểu với giọng nói nhẹ nhàng và đều đều lại
bị thất bại vì không gây được sự chú ý của người nghe bằng
những người có giọng nói hùng hồn hấp dẫn có sức lôi cuốn.
Vì vậy, mạng lưới xã hội cần sự cam kết của tất cả mọi người
có ý thức sáng suốt về giá trị của đối thoại, tranh cãi hữu
lý và luận giải đúng cách cũng như cam kết của những người
chủ trương nhiều hình thái đàm thoại và cách thức diễn tả
khác nhau khả dĩ thu hút được những ước vọng cao quí nhất
của những người tham gia vào tiến trình truyền thông. Đối
thoại và tranh luận cũng có thể sinh hoa kết trái khi mà
chúng ta biết tôn trọng thực sự những ý kiến khác với ý kiến
của mình. “Trường hợp một thực tế của hiện trạng đa văn
hóa, người ta cần, không những chỉ chấp nhận sự hiện diện
văn hóa của người khác, mà còn phải ao ước được trở nên
phong phú hơn vì nó, cũng như cung hiến cho nó bất cứ cái gì
hay ho, đẹp đẽ và chân thật mà mình có.” (Diễn văn tại
buổi Tập Hợp Văn Hóa Thế Giới, Belem, Lisbon 12-5-2010)
Thách đố đang
phải đối diện với mạng lưới xã hội là làm sao có được tính
bao quát thực sự: Vậy, để có kết quả tốt thì cần phải có sự
tham gia trọn vẹn của những tín hữu ước mong được chia sẻ
thông điệp của chúa Giêsu và những giá trị nhân phẩm mà giáo
huấn của Chúa khuyến khích. Các tín hữu hiện đang ngày càng
nhận thức ra được là - không kể Tin Mừng Chúa cũng đã được
biết tới trong thế giới digital
-
có nhiều người có thể không biết đến điều đó trong khi cái
không gian này lại quan trọng đối với họ. Môi trường digital
không phải là một thế giới đi song hành hoặc hoàn toàn là ảo
ảnh, nhưng nó là một phần của kinh nghiệm hàng ngày của
nhiều người, đặc biệt giới trẻ. Mạng lưới xã hội là kết quả
của tình tương giao giữa con người với nhau, nhưng chính
những mạng lưới đó cũng góp phần vào việc uốn nắn lại sự
linh động của truyền thông hiện đang tạo ra tình liên đới.
Do đó hiểu biết về môi trường này như vậy phải là điều tiên
quyết. Sự hiện diện đầy ý nghĩa này là ở đó.
Linh động dùng
những loại ngôn ngữ mới là việc cần phải làm, không phải để
theo kịp trào lưu, nhưng là để giúp cho sự phong phú vô biên
của Tin Mừng tìm ra được những hình thức diễn tả khả dĩ có
thể đạt được tâm tư ý nghĩ của tất cả mọi người. Trong môi
trường digital thì chữ viết thường có tính tượng thanh tượng
hình. Truyền thông có hiệu quả - như trong các dụ ngôn của
chúa Giêsu - phải gợi được trí tưởng tượng và tình cảm của
những người mà chúng ta muốn mời gọi họ đến tiếp cận với màu
nhiệm của tình yêu Thiên Chúa. Ngoài ra, chúng ta biết rằng
truyền thống Kito giáo thì luôn luôn phong phú về dấu hiệu
và biểu tượng: Tôi lấy thí dụ thập tự giá, các ảnh tượng,
hình Mẹ Maria đồng trinh, máng cỏ Chúa Hài Đồng, các cửa
kính muôn màu sắc và các bức tranh treo ở các thánh đường.
Một phần đầy ý nghĩa của di sản thừa kế của nhân loại đã
được tạo nên bởi các nghệ sĩ và nhạc sĩ là những vị đã tìm
cách để diễn tả những sự thật của niềm tin.
Trong mạng lưới
xã hội, các tín hữu nói lên sự thành tâm của mình bằng cách
chia sẻ nguồn hy vọng và niềm vui sâu xa của họ là niềm tin
nơi Thiên Chúa đầy khoan dung và nhân ái được thể hiện qua
đức Giêsu Kitô. Sự chia sẻ này không phải chỉ là minh thị
diễn tả niềm tin của mình mà thôi, nhưng còn phải chứng tỏ
mình là chứng nhân trong cung cách truyền đạt “những chọn
lựa, những ưa thích và những phán đoán đúng với Tin Mừng một
cách trọn vẹn, ngay cả khi Tin Mừng không được nói đến một
cách đặc biệt” (Thông Điệp cho Ngày Truyền Thông Thế
Giới năm 2011). Một cách đặc biệt và có ý nghĩa để thể hiện
bằng chứng như vậy sẽ phải là ước muốn hiến thân mình cho
tha nhân bằng cách đưa ra những vấn nạn và nghi vấn một cách
bền bỉ và trân trọng khi họ đề xuất công tác tìm hiểu sự
thật và ý nghĩa sự hiện hữu của loài người. Cuộc đối thoại
nơi mạng lưới xã hội về niềm tin và sự tin tưởng sẽ xác định
sự quan trọng và thích đáng của tôn giáo trong những cuộc
tranh luận công khai và trong đời sống xã hội.
Đối với những
ai đã chấp nhận tặng phẩm niềm tin với một tấm lòng mở rộng,
thì đáp ứng căn bản nhất cho những vấn nạn về tình yêu, sự
thật và ý nghĩa cuộc sống của loài người - những vấn nạn này
chắc chắn là không thiếu ở mạng lưới xã hội - phải được tìm
thấy nơi con người chúa Giêsu Kitô. Nó rất tự nhiên đối với
những ai có niềm tin và ước muốn chia sẻ nó, một cách trang
trọng và khéo léo, với những người mà họ gặp nơi diễn đàn
digital. Tuy nhiên, cuối cùng nếu những cố gắng của chúng ta
muốn chia sẻ Tin Mừng có mang lại kết quả tốt, thì luôn luôn
là do quyền lực của chính lời Chúa đã đánh động lòng người
trước tất cả những cố gắng của chúng ta. Tin tưởng vào quyền
năng của Lời Chúa phải luôn luôn mãnh liệt hơn bất cứ một
tin tưởng nào mà chúng ta có ở sức con người. Cũng trong môi
trường digital, chỗ nào mà dễ dãi cho những phát ngôn nóng
bỏng và phân hóa, chỗ nào thường có những chuyện giật gân
xẩy ra thì chúng ta phải tới để lắng nghe hầu phân biệt phải
trái, đúng sai. Về chuyện này, để tôi nhắc lại trường hợp
tiên tri Elijah đã nhận ra tiếng Chúa gọi, không phải trong
tiếng gió thổi ào ào như vũ bão, rung chuyển như động đất
hay phừng phực như lửa cháy, mà là “tiếng nói êm đềm và
nhỏ nhẹ” (1Kg 19:11-12). Chúng ta cần tin tưởng vào thực
tế là ước vọng căn bản của con người để yêu và được yêu, để
kiếm ra ý nghĩa và sự thật – cái ước vọng mà chính Thiên
Chúa đã đặt để trong tâm của mỗi người nam và người nữ - để
giữ cho những bạn đồng nghiệp của chúng ta trên mạng luôn
luôn cởi mở với điều mà Chân phước Hồng y Newman gọi là “
ánh sáng hào hiệp” của niềm tin.
Mạng lưới xã
hội, cũng như là một phương pháp Phúc âm hóa, cũng có thể là
một yếu tố phát triển con người. Lấy thí dụ, trong một vài
hoàn cảnh địa dư văn hóa nào đó mà ở đó người Kito hữu cảm
thấy bị lẻ loi thì mạng lưới xã hội có thể củng cố thêm ý
thức hiệp nhất thực sự của họ với cộng đồng tín hữu thế giới.
Mạng lưới sẽ giúp họ chia sẻ dễ dàng những suối nguồn linh
đạo và phụng vụ, giúp người ta có ý thức cầu nguyện sát cánh
hơn với những người có cùng niềm tin. Việc cùng nhau chính
thức tham gia vào những vấn nạn và hồ nghi của những người
còn xa vời niềm tin sẽ khiến chúng ta cảm thấy có nhu cầu
nuôi dưỡng niềm tin của chúng ta bằng lời cầu nguyện và suy
niệm, trước mặt Chúa cũng như việc chúng ta thực thi bác ái:
“Nếu tôi nói được tiếng nói của mọi thứ người và của cả
thiên thần đi nữa mà tôi không có đức ái, thì tôi cũng chỉ
như cái thanh la kêu phèng phèng mà thôi” (1Cr 13:1).
Trong thế giới
digital, có những mạng lưới xã hội cung ứng cho những bạn
lưới của chúng ta những cơ hội để cầu nguyện, suy niệm và
chia sẻ lời Chúa. Nhưng những mạng lưới này cũng có thể mở
cửa cho nhiều chiều kích khác của niềm tin. Nhiều người hiện
đang khám phá ra - rõ ràng là nhờ ở tiếp cận với mạng - sự
quan trọng của va chạm trực tiếp, kinh nghiệm cộng đồng và
ngay cả việc hành hương, là những yếu tố luôn luôn quan
trọng trong hành trình đức tin. Khi cố gắng làm cho Tin Mừng
hiện diện trong thế giới digital, chúng ta có thể mời gọi
mọi người tụ họp lại để cầu nguyện hoặc cử hành phụng vụ
trong những nơi đặc biệt như nhà thờ hay nhà nguyện. Sẽ
không thiếu liên kết hay hiệp nhất trong việc diễn tả niềm
tin và làm chứng cho Tin Mừng trong bất cứ một thực tế nào
mà chúng ta được mời gọi để sống, hoặc trực tiếp hoặc ở diễn
đàn digital. Khi chúng ta hiện diện trước mọi người, bằng
bất cứ cách nào, chúng ta cũng được kêu gọi để làm cho mọi
người biết đến tình yêu Thiên Chúa, cả ở những nơi xa xôi
nhất tận cùng thế giới.
Tôi cầu nguyện
xin Chúa Thánh Thần đi theo anh chị em và luôn luôn soi sáng
cho anh chị em. Tôi thân ái chúc lành cho tất cả anh chị em,
để anh chị em có thể là những sứ giả và chứng nhân thực sự
của Tin Mừng. “Hãy đi khắp thế giới và rao giảng Tin Mừng
cho toàn thể nhân loại” (Mc 16: 15).
Vatican 24 Jan.
2013.
Lễ Thánh
Francis de Sales.
Giáo Hoàng Benedictus XVI
****
Nguyễn Tiến
Cảnh chuyển ngữ từ bản dịch tiếng Anh được Vatican đưa ra
ngày 24-1-2013 (Zenit.org)
Fleming Island,
Florida
Feb. 3, 2013
Digital là một danh từ chuyên môn của mạng
lưới truyền thông, hiện tiếng Việt mình chưa có một
từ nào tương ứng nói lên ý nghĩa của nó. Vì vậy xin
tạm giữ nguyên ngữ của nó.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
MẦU NHIỆM “LẮNG
NGHE” TRONG TÂN ƯỚC |
Lời Mời gọi của HĐGMVN:
Giáo Hội tại Việt Nam phải “phát động chương
trình mỗi gia đình một cuốn Kinh Thánh được đặt nơi xứng hợp, cổ
võ đọc và cầu nguyện với Lời Chúa”, khuyến khích học thuộc lòng
những đoạn Kinh Thánh cốt yếu. Mọi thành phần Dân Chúa, giáo
dân, chủng sinh, tu sĩ và các mục tử, cần tập thói quen đọc và
suy niệm Lời Chúa hằng ngày, đặc biệt theo phương thức
Lectio divina. (Thư Chung của HĐGMVN, ngày
1.5.2011, số 11)
Xin giới thiệu cho nhiều người thân tham gia Gia Đình
Lectio Divina
Lecdiv@gmail.comđể
có thể hiệp thông với nhau trong đời sống cầu nguyện và cùng
giúp nhau thực hành "điều cần thiết nhất trong mọi điều cần
thiết".
Đan
viện Xitô Thánh Mẫu Tâm Mỹ Ca, Nha Trang, sẽ cầu nguyện lâu dài
cho tất cả những ai trung thành thực hành và cố võ việc thực
hành Lectio divina.
Mọi thắc mắc về Lectio divina, xin gởi email cho cha Bảo
Tịnh, O.Cist
fr.baotinh@yahoo.fr
*****
Tác Phẩm: MỘT VỊ THIÊN CHÚA NGỎ LỜI!
Thiên Chúa tỏ mình cho con người thế nào?
Chuyển ngữ:
Thérèse Trần Thiết
Fr. Marie Bảo Tịnh O.Cist
Nguyên tác:
Michel HUBAUT
UN DIEU QUI PARLE!
Comment Dieu se révèle-t-il à l’homme?
Chương 11: MẦU NHIỆM “LẮNG NGHE” TRONG
TÂN ƯỚC
Khi Lời Chúa nhập thể
Tin Mừng của thánh Mác-cô mở đầu việc rao giảng công khai của
Thầy Giê-su bằng vài hàng tóm lược tất cả sứ vụ của Thầy và nét
chính yếu của niềm tin ki-tô hữu: “Sau khi ông Gio-an bị nộp,
Ðức Giê-su đến miền Ga-li-lê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa.
Người nói: "Thời kỳ đã mãn, và Triều Ðại Thiên Chúa đã đến gần.
Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”
(Mc 1, 14-15).
Ở đây Mác-cô không triển khai thêm nội dung chính xác của “Tin
Mừng”, vì đối với ông trước hết, Tin Mừng chính là con người của
Thầy Giê-su. Chính là sự thâm nhập vô hình của tình yêu Thiên
Chúa nơi Thầy Giê-su, Đấng đã đến đồng hành trên mọi nẻo đường
trần thế, để làm cho con tim và nhân tính của chúng ta nên phong
phú.
Thầy đã khai trương triều đại của tình yêu Thiên Chúa nơi chính
con người của Thầy, làm người để ở gần chúng ta. Thầy là Giao
Ước nhập thể, là con đường mới. Lời của Người nhập thể để “đưa
chúng ta về” với Thiên Chúa. Tin Mừng, Phúc Âm của Chúa không
phải là một “cuốn sách”, nhưng là một Người sống động, một biến
cố lịch sử.
“Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.” Chẳng phải ngẫu
nhiên mà Mác-cô liên kết chặt chẽ hai động từ cốt lõi này ở đây:
“sám hối” và “tin”. Vì đối với Mác-cô, sám hối, trước hết không
phải là đi từ tật xấu đến nhân đức, nhưng là tin vào biến cố vô
cùng trọng đại: Thiên Chúa đến ở giữa chúng ta. Tin rằng Giê-su
khai trương cho Vương Quốc của Thiên Chúa, Vương Quốc của Tình
Yêu, ngay trên mặt đất này của chúng ta.
Đúng là niềm tin đòi hỏi một cuộc hoán cải thực sự của tâm linh,
một cuộc hoán cải triệt để về mọi cách thế suy tư, tưởng nghĩ
của chúng ta về Thiên Chúa. Sự hoán cải, cũng như niềm tin của
ta là một xúc tiến sinh động, một lộ trình không bao giờ kết
thúc, vì sẽ chẳng bao giờ chúng ta hòa nhịp trọn vẹn được với
Tin Mừng của Thiên Chúa, chẳng bao giờ ta đón nhận cho đủ, với
lòng tín thác vào ơn thâm nhập vô hình của Thiên Chúa, Đấng đã
quyết định đến viếng thăm, cứu chuộc chúng ta qua Đức Giê-su
Ki-tô.
Vậy hoán cải chính là, với ơn thánh Chúa, thay đổi hướng đi của
cuộc đời, từ những toan tính nhỏ mọn hẹp hòi, nhắm vào tư lợi
chốc lát của ta, để “trở lại với Thiên Chúa”, bước theo Đức
Ki-tô là đường đi.
Hoán cải, chính là chấp nhận được giải cứu, được thành
toàn bởi một Người Khác, và hòa nhịp đời mình với sự kiện đó.
Hoán cải và niềm tin là một, không thể tách rời. Để hoán cải, để
thay đổi định hướng của cuộc đời, ta phải dám tín thác vào
Giê-su, dám đánh cuộc tương lai của ta với Thầy.
Hoán cải, không phải là chỉ hối tiếc tội lỗi mình, (bằng những
nghi thức thường có trong mọi tôn giáo), nhưng là xác tín rằng
con người Giê-su là Lời của Thiên Chúa, có quyền lực làm thay
đổi, “chuyển hướng” lòng tôi, mọi tư duy của tôi. Không thể có
hoán cải mà không có lòng tin: “Cái gì cũng có thể, đối với
người có lòng tin" (Mc 9, 23).
“Nếu các ông không tin là Tôi Hằng Hữu, các ông sẽ mang tội lỗi
mình mà chết” (Ga 8, 24).
Và Thầy Giê-su cũng lặp lại nhiều lần: “Hãy ra đi, đức
tin của con đã cứu con!”
Lắng nghe và tin
Đối với thánh Gio-an, hai động từ “lắng nghe” và “nghe” rất quan
trọng; chúng được dùng tới 58 lần trong Tin Mừng của ngài. Chúng
còn nằm trong số những từ vựng của mạc khải, mà đối tượng thường
là Thầy Giê-su, cũng có khi là Chúa Cha.
Ta nên nhớ Thầy Giê-su đã tự giới thiệu là người lắng nghe và
làm chứng về những gì chính Thầy đã nghe thấy. Giê-su liên lỉ
sống trong thái độ lắng nghe Cha. Thầy là Đấng đã "đến từ trời
cao (...) để làm chứng cho điều Người đã thấy và đã nghe"
(Ga 3, 31-32).
“Ðấng đã sai tôi là Ðấng chân thật; còn tôi, tôi nói lại cho
thế gian những điều tôi đã nghe Người nói”
(Ga 8, 26), “Thế mà bây
giờ các ông lại tìm giết tôi, là người đã nói cho các ông sự
thật mà tôi đã nghe biết từ Thiên Chúa”
(Ga 8, 40).
Là người Con, Thầy đã cho các môn đệ, như những người bạn thiết
nghĩa, biết tất cả những gì đã được “nghe thấy” nơi Cha của mình.
“Những gì Thầy nghe được nơi Cha của Thầy, Thầy đã cho anh em
biết” (Ga 15, 15).
Thánh Gio-an còn nhấn mạnh cách đặc biệt mối liên hệ chặt chẽ
giữa “nghe Lời” và “tin”. “Thật, tôi bảo thật các ông: ai
nghe lời tôi và tin vào Ðấng đã sai tôi, thì có sự sống đời đời”
(Ga 5, 24).
Lắng nghe Lời Thầy, nhận biết và tin rằng Thầy là Đấng Cha sai
đến, gắn kết với Lời Thầy như với chính Lời của Chúa Cha, thực
ra chỉ là một động tác. Việc lắng nghe và tin đòi
hỏi một sự chuẩn bị nội tâm, nhưng việc chúng ta đón nhận và
nghiền ngẫm trong thinh lặng của con tim mới là chính yếu. Niềm
tin không phải là kết quả của những buổi thảo luận, bàn cãi lâu
giờ, mà là của sự “thinh lặng để lắng nghe”, để tiếp đón sự linh
hứng nhiệm mầu của Chúa đã uốn lòng con người rộng mở cho mầu
nhiệm Mạc Khải.
“Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha, là Ðấng đã sai tôi,
không lôi kéo người ấy ... Xưa có lời chép trong sách các ngôn
sứ: Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ. Vậy phàm ai nghe và
đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi”
(Ga 6, 44-45).
Một chủ đề khác của thánh Gio-an là “nghe tiếng”, để nói về một
tương quan trực tiếp với con người của Thầy Giê-su; Thầy là
“tiếng nói”, người Con này của Thiên Chúa là suối nguồn của đời
sống vĩnh cửu. Cả những người đã chết, nhưng tin vào Lời Thầy,
cũng nghe được “tiếng nói” này.
“Thật, tôi bảo thật các ông: giờ đã đến - và chính là lúc này
đây giờ các kẻ chết nghe tiếng Con Thiên Chúa; ai nghe thì sẽ
được sống. Quả thật, Chúa Cha có sự sống nơi mình thế nào, thì
cũng ban cho người Con được có sự sống nơi mình như vậy”
(Ga 5, 25-26).
“Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian vì điều này: đó là để làm
chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”
(Ga 18, 37).
Đem so với “lời”, thì “tiếng” có một âm vang mạnh hơn của lời
gọi, của lời mời khẩn trương. “Nghe” và nhất là “nghe” “tiếng”,
ngầm nói lên một liên hệ thân thuộc song phương giữa người phát
ra tiếng và người nhận ra âm vang của tiếng. Bài giảng huấn về
“Vị Mục Tử nhân lành” minh chứng rõ điều này, và đồng thời nói
lên ý nghĩa thâm thuý của việc “nghe tiếng”.
“Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử. Người giữ cửa
mở cho anh ta vào, và chiên nghe tiếng của anh; anh gọi tên từng
con, rồi dẫn chúng ra. Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước
và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh”...
“Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo
tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải
diệt vong” (Ga 10, 3-4; 10,
27-28).
Bầy chiên “nghe tiếng Thầy” vì Thầy gọi mỗi con bằng tên riêng
của nó, nên chúng nhận biết tiếng của Thầy. Cũng như Ma-ri-a Ma-đa-lê-na
nhận ra tiếng Chúa Giê-su ngay khi nghe tên mình “Ma-ri-a!”
(x. Ga 20, 16). Cô
nhận ra Thầy không phải vì đã thấy Thầy – vì cô tưởng đó là
người làm vườn – nhưng bởi cô đã nghe tiếng của Thầy mình.
Cũng như Nàng của sách Diễm Ca đã “nhận ra tiếng của Chàng”
(x. Dc 2, 8; 5, 2; 8, 13).
Chẳng khác gì Gio-an Tẩy Giả tự ví mình như bạn chàng rể, “đứng
đó để nghe và vui mừng hớn hở vì được nghe tiếng chàng”
(Ga 3, 29). Lời của
Chúa chỉ có thể đụng chạm đến tâm hồn nào sẵn sàng trong thái độ
lắng nghe.
Lắng nghe và đem ra thực hành
Các văn bản của Tân Ước vẫn tiếp nối viễn tượng và bối cảnh của
Sách Thánh. Chúng ta thấy lời kêu gọi “lắng nghe”, theo Sách
Thánh, có nghĩa là “đem ra thực hành”:
“Mẹ và anh em Ðức Giê-su đến gặp Người, mà không làm sao lại
gần được, vì dân chúng quá đông. Họ báo cho Người biết: "Thưa
Thầy, có mẹ và anh em Thầy đang đứng ngoài kia, muốn gặp Thầy".
Người đáp lại: "Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai
nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thực hành”
(Lc 8, 19-21).
“Khi Ðức Giêsu đang giảng dạy, thì giữa đám đông có một người
phụ nữ lên tiếng thưa với Người: "Phúc thay người mẹ đã cưu mang
và cho Thầy bú mớm! Nhưng Người đáp lại: "Ðúng hơn phải nói rằng:
Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa”
(Lc 11, 27-28).
“Tại sao anh em gọi Thầy: "Lạy Chúa! Lạy Chúa!", mà anh em
không làm điều Thầy dạy? "Ai đến với Thầy, và nghe những lời
Thầy dạy mà đem ra thực hành, thì Thầy sẽ chỉ cho anh em biết
người ấy ví được như ai. Người ấy ví được như một người khi xây
nhà, đã cuốc, đã đào sâu và đặt nền móng trên đá. Khi xảy ra lụt,
dòng sông có ùa vào nhà, thì cũng không lay chuyển nổi, vì nhà
đã xây vững chắc” (Lc 6, 46-48).
Ngày Thầy Hiển Dung trên núi, có tiếng của Cha vọng ra từ đám
mây, cũng không nói gì khác hơn những gì các ngôn sứ đã không
ngừng kêu gọi trong Thánh Kinh: Hãy nghe Người!
“Các ông nghĩ sao: Một người kia có hai con trai. Ông ta đến
nói với người thứ nhất: "Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn
nho". Nó đáp: "Con không muốn đâu!" Nhưng sau đó, nó hối hận,
nên lại đi. Ông đến gặp người thứ hai, và cũng bảo như vậy. Nó
đáp: "Thưa ngài, con đây!" nhưng rồi lại không đi. Trong hai
người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?" Họ trả lời:
"Người thứ nhất". Ðức Giê-su nói với họ: "Tôi bảo thật các ông:
những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa
trước các ông” (Mt 21, 28-31).
Trình thuật trên đây đã nói lên tất cả tầm mức quan trọng của
việc lắng nghe và vâng phục trong niềm tin. Người con trả lời “vâng”,
rồi lại không đi, có lẽ muốn ám chỉ dân Giao Ước, họ nắm giữ Lề
Luật nhưng lại không biết “lắng nghe” sự mới mẻ của Lời Chúa
được mạc khải nơi Thầy Giê-su. Và người con nói “không” nhưng
sau đó đã lên đường, chắc chắn là ám chỉ các dân ngoại, các
người tội lỗi, nhưng lại sẵn sàng nghe Lời Chúa. Nên không phải
tất cả những ai nói “vâng” đều là những người nghe thực sự đâu!
Chúng ta cũng có thể nhân danh những thói quen đạo đức của mình
mà tự biến mình thành “vô cảm” trước những tiếng gọi của Chúa.
Đi lễ hằng ngày có ích gì nếu ta đặt “con tim” trong một thành
trì “bất khả thâm nhập”, trước những tiếng gọi của Thần Khí, của
anh em, của những biến cố muốn lay động thói quen cố hữu của
chúng ta?
Cũng như trong toàn bộ Sách Thánh, việc nghe Lời Chúa và
lòng tin yêu luôn gắn chặt với nhau. Ta chỉ có thể nghe
nếu ta tin tưởng vào người nói với mình, mà chỉ tin tưởng được
nếu cảm nhận được người đó yêu thương ta. Nghe bao giờ cũng là
“tin” vào một người khác. Chấp nhận trở nên dễ thấm nhập trước
lời nói của người khác. Tín thác. Chấp nhận một cách khiêm hạ
rằng mình không phải là trọng tâm của mọi sự, đón nhận một tia
sáng không phải chỉ do lý trí sáng suốt của tôi mà đến. Tin là
nghe, là rộng mở trước tiếng gọi do Thiên Chúa khởi xướng.
Trong Kinh Thánh, từ “tin”, “tin tưởng” (emunah), do gốc
tiếng Do-thái là “aman” chỉ những cây cọc mà dân du mục đóng
chung quanh lều trại của họ, để gió không thổi bay đi mất. Sau
đó dần dần từ ấy được dùng để chỉ sự vững chắc của mặt đất, một
hợp đồng giữa hai chi tộc, rồi cũng để chỉ sự vững bền của Thiên
Chúa, bền chắc như tảng đá để ta có thể nương tựa, là Đấng ta có
thể tin tưởng.
Vì thế mà Gio-suê, sau khi tập hợp mọi chi họ Ít-ra-en ở Si-khem,
đã nhắc nhở dân chúng tất cả những gì Thiên Chúa đã làm để giải
phóng dân, và ký giao ước với họ. Và sau khi đứng nghe đọc Lề
Luật diễn giải Giao Ước, toàn dân đồng thanh hô to: “A-men.
Chúng tôi sẽ phụng thờ Ðức Chúa, vì Người là Thiên Chúa của
chúng tôi” (Gs 24).
Đây cũng là điều mà chúng ta làm trong mỗi thánh lễ. Khi linh
mục lặp lại lời Thầy Giê-su tuyên bố một Giao Ước Mới được ký
kết bởi sự chết và phục sinh của Thầy, toàn thể cộng đoàn tham
dự đồng thanh đáp: “A-men”. Đúng vậy, chúng ta gắn kết với Giao
Ước Mới được ký kết bởi cuộc Vượt Qua của Đức Ki-tô, vì đó là
nền tảng vững bền, chúng ta có thể tín thác nơi Người: A-men.
Sự vâng phục của niềm tin được lưu
truyền bởi Lời
Chúng ta thấy nơi thánh Phao-lô ý nghĩa Thánh Kinh của việc nghe:
tin, vâng phục, đem ra thực hành. Chính vì vậy mà thánh nhân đã
dùng kiểu nói sự vâng phục của niềm tin. Hai chữ “vâng
phục” do nguồn gốc Hy-lạp, có nghĩa là “nghe”, “lắng tai”. Theo
ngữ học, từ “obéir” của tiếng Pháp cũng gợi lên cái mầu nhiệm
của sự lắng nghe này. Theo các tác giả Thánh Kinh, vâng phục
không phải là một sự chịu lụy mù quáng hay thụ động, mà là một
sự “vâng nghe của con tim”. Đối với thánh Phao-lô, niềm tin được
nẩy sinh từ việc “lắng nghe Tin Mừng”, Lời của Đức Ki-tô. Nó là
một sự gắn kết tự do vào chứng tá của các Tông Đồ, chứng nhân
của đức Ki-tô.
“Nhờ Người, chúng tôi đã nhận được các đặc ân và chức vụ Tông
Ðồ, làm cho hết thảy các dân ngoại vâng phục
Tin Mừng” (Rm 1, 5).
Sự “lắng nghe của niềm tin” này, theo Kinh Thánh, là một cam
đoan để sống, để đem ra thực hành Lời Chúa được mạc khải nơi Đức
Giê-su: “Người đáp lại: "Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những
ai nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thực hành”
(Lc 8, 21).
Đối với thánh Phao-lô, tin là theo Đức Ki-tô, sống hiệp thông
với Người. Thánh nhân đã không ngần ngại tuyên bố: “Tôi sống
nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi…”
(Gal 2, 20).
Nhưng để con người có thể lắng nghe Lời Mạc Khải này, Lời
đó cần phải được loan báo. Nên Phao-lô mới nói, Thiên
Chúa đã sai những vị “rao giảng” Tin Mừng trong toàn
thế giới, để mở lòng con
người cho niềm tin vào Lời Đức Ki-tô.
“Thế nhưng làm sao họ kêu cầu Ðấng họ không tin? Làm sao họ
tin Ðấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe, nếu không có ai
rao giảng? Làm sao mà rao giảng, nếu không được sai đi? Như có
lời chép: Ðẹp thay bước chân những sứ giả loan báo Tin Mừng!
Nhưng không phải mọi người đều đã vâng theo Tin Mừng; chính ngôn
sứ Isaia đã nói (52, 7):
Lạy Ðức Chúa, ai đã tin khi nghe chúng con giảng? Ấy vậy, có đức
tin là nhờ nghe giảng, mà
nghe giảng là nghe công bố lời Ðức Ki-tô”
(Rm 10, 14-17).
Phao-lô xác tín rằng sứ vụ tông đồ của ông chủ yếu là công bố
Lời, Tin Mừng, để thức tỉnh lòng mọi người niềm tin vào Đức
Ki-tô, đặc biệt là dân ngoại. Các tông đồ chỉ là những người
phụng sự, những sứ giả đem các “tín hữu” đến với niềm tin:
“Vậy A-pô-lô là gì? Phao-lô là gì? Ðó là những tôi tớ đã giúp
cho anh em có đức tin, mỗi người đã làm theo khả năng Chúa ban”
(1Cr 3, 5).
Lắng nghe của niềm tin là một ơn của
Thần Khí
Lời Chúa được mạc khải không cất giấu trên trời, nhưng đã được
loan báo bởi các chứng nhân, Lời ấy đã vang dội trong lòng chúng
ta, đã vào tận thâm cung con người chúng ta, để mỗi người có thể
đón nhận cách tự do và nhận biết rằng Đức Giê-su là “Chúa”. Lời
mạc khải này cũng không chỉ dành riêng cho một số người đã được
khai tâm, nhưng đó là một ơn ban cho mọi người:
“Lời Thiên Chúa ở gần bạn, ngay trên miệng, ngay trong lòng.
Lời đó chính là lời đức tin chúng tôi rao giảng. Nếu miệng bạn
tuyên xưng Ðức Giê-su là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa
đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ.
Quả thế, có tin thật trong lòng, mới được nên công chính; có
xưng ra ngoài miệng, mới được ơn cứu độ”
(Rm 10, 8-10).
Nhưng nếu Lời đã được ban tặng cho mọi người, thì mọi người cũng
cần phải đón nhận Lời cách hoàn toàn tự do nhờ ơn soi sáng của
Thần Khí, như thánh Phao-lô quả quyết: “Không ai có thể nói
rằng: "Ðức Giê-su là Chúa", nếu người ấy không ở trong Thần Khí”
(1 Cr 12, 3b).
Chính Phao-lô đã kinh nghiệm rằng niềm tin không dựa trên sự lỗi
lạc của lý trí, trên sự khôn ngoan của con người, mà là trên tác
động của Thiên Chúa, Thần Khí của Người thâm nhập vào tận đáy
lòng chúng ta và mở ra cho ơn Mạc Khải của Người. Phao-lô đã
nhắc nhở các tín hữu Cô-rin-tô, sau thất bại bên cạnh các nhà
hiền triết tại A-thê-na. Ở Cô-rin-tô, Phao-lô không tự giới
thiệu như một nhà hùng biện với những triết lý khôn ngoan đầy
sức thuyết phục nữa:
“Tôi nói, tôi giảng mà chẳng có dùng lời lẽ khôn khéo hấp dẫn,
nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thần Khí và quyền năng
Thiên Chúa. Có vậy, đức tin của anh em mới không dựa vào lời lẽ
khôn ngoan người phàm, nhưng dựa vào quyền năng Thiên Chúa”
(1 Cr 2, 4-5).
1. Trong Hy ngữ: hypakos pisteou. Từ hypakos, trong
các thư của thánh Phao-lô, do động từ akouein, nghe,
lắng nghe. Còn về từ “obéir” (vâng phục) của
Pháp ngữ, do từ la-tinh ob-audire, lắng nghe.
còn tiếp nhiều kỳ
|
VỀ MỤC LỤC |
|
ĐỐI THỌAI VỀ ĐỨC TIN - NHỮNG VẤN ĐỀ KHOA HỌC VÀ ĐỨC TIN
-
VẤN ĐỀ 1 |
LM ĐAN VINH
Năm nay Giáo Hội mở ra Năm Đức Tin. Đây là thời gian thuận lợi
để mọi thành phần tín hữu cùng nhau đào sâu tìm hiểu về đức tin,
thực hành và truyền đạt đức tin cho người khác. Việc tìm hiểu về
các vấn đề liên quan đến khoa học và đức Tin tôn giáo rất cần để
người tín hữu thêm xác tín và có khả năng trình bày đức tin cho
người muốn tìm hiểu những vấn đề liên quan đến khoa học và đức
tin tôn giáo như: Chứng minh sự hiện hữu của Thiên Chúa và của
linh hồn nơi con người; Về sự hình thành của vũ trụ vạn vật;
Giải đáp các thắc mắc theo quan điểm của Hội Thánh về sinh sản
vô tính, hôn nhân đồng tính, các phương pháp ngừa thai phá thai,
vấn đề an tử, các mầu nhiệm đức tin và các họat động trần thế
của Giáo Hội, cùng nhiều thắc mắc về hôn nhân gia đình v.v…
Đây là những vấn đề khá mới mẻ đối với phần đông các tín hữu,
đặc biệt là giới trẻ thanh thiếu niên Công Giáo chuẩn bị vào đời,
mà với vốn liếng giáo lý ít ỏi, thu lượm được trong thời thơ ấu,
không đủ để tự giải đáp thỏa đáng. Nhờ hiểu biết thêm về các vấn
nạn trên với cái nhìn đức tin, các tín hữu sẽ không bị mặc cảm
tự ti khi tiếp xúc với các người vô tín hay bạn bè khác tôn giáo.
Trong Năm Đức Tin này, các bạn trẻ cần được tập huấn trở thành
những tông đồ giáo dân nhiệt thành loan Tin Mừng cho bạn đồng
trang lứa với mình, như Công Đồng Va-ti-ca-nô đã khẳng định :”Giới
trẻ phải làm tông đồ trước tiên và trực tiếp cho giới trẻ” (Sắc
lệnh TĐGD số 12). Họ phải trở nên như nắm men giữa thúng bột xã
hội, để làm cho thúng bột dậy lên men tình yêu của Chúa (x Mt
13,33).
Nhằm mục đích giúp các vị hữu trách phần nào trong việc sọan tài
liệu dạy giáo lý cho các thành phần tín hữu chuẩn bị vào đời,
các lớp giáo lý dự tòng, hay các hội đòan Công Giáo Tiến Hành…
chúng tôi đã cố gắng thu thập và giải đáp các thắc mắc về đức
tin rồi sắp xếp thành NHỮNG VẤN ĐỀ KHOA HỌC VÀ ĐỨC TIN
Trong phần giải đáp, chúng tôi cố gắng khai triển, đào sâu đề
tài để giúp các giảng viên giáo lý tiện sử dụng khi giảng dạy.
Mỗi lời giải đáp gồm Lời Chúa, suy niệm đề tài, tóm kết, thảo
luận và lời cầu để xin Chúa ban thêm đức tin cho các học viên.
Những lời giải đáp này không nhằm mục đích cổ võ những cuộc
tranh luận vô bổ với ngừơi không cùng tín ngưỡng, mà chỉ nhằm
trình bày quan điềm của người có đức tin trước những vấn đề
thiết thực liên quan đến đức Tin và luân lý. Những lời giải đáp
này được tổng hợp từ nhiều nguồn khác nhau như: Giáo Lý Hội
Thánh Công Giáo; Giải quyết vấn đề nhân sinh; Người Công Giáo
trước vấn đề đức tin; Đi về đâu?; Đạo Công Giáo là gì?; Những
thắc mắc của cuộc đời; Trả lời vắn tắt; Lịch sử nhân lọai; Con
người và vấn đề Thương đế, và các tài liệu phong phú trên các
trang mạng công giáo…
Tuy nhiên, những lời giải đáp này chắc không tránh khỏi những
khuyết điểm sai sót, chưa phải là những lời giải đáp đầy đủ nhất...
Dù chỉ là viên gạch nhỏ bé tầm thường, nhưng chúng tôi hy vọng
được góp phần với Hội Thánh trong việc xây dựng Nhiệm Thể Chúa
Ki-tô và giúp anh em lương dân hiểu thêm về đức tin công giáo
trong Năm Đức Tin này.
I. VẤN ĐỀ TƯƠNG
QUAN GIỮA KHOA HỌC VÀ ĐỨC TIN
- VẤN ĐỀ 1 : Khoa học mới
là tiếng nói chân chính của lòai người tiến bộ. Vì khoa học có
khả năng giải đáp mọi vấn đề liên quan đến cuộc sống con người.
Còn Đức tin tôn giáo chẳng qua chỉ là sự mê tín, bắt nguồn từ sự
dốt nát của những người thời tiền sử. Ngày nào khoa học hòan
tòan tiến bộ, thì ngày ấy tôn giáo đương nhiên sẽ bị đào thải.
ĐÁP:
1. LỜI
CHÚA: “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, thanh không
kể ra sự nghiệp tay Ngài” (Tv 18,2).
2. SUY
NIỆM:
1. Thực ra Khoa học chỉ có giới
hạn, và không thể giải đáp được mọi vấn đề liên hệ đến con người
:
Vào thế kỷ
19, Khoa học đã tiến một bước nhảy vọt, đem lại những phát minh
mới lạ làm đảo lộn mọi hiểu biết của con người về vũ trụ thiên
nhiên, khiến cho một số người quá lạc quan, tin tưởng khoa học
có khả năng vô hạn, có thể giải quyết được mọi vấn đề đặt ra mà
không cần phải nại tới Thiên Chúa hay thần minh nào khác. RENAN
đã mạnh dạn tuyên bố: ”Tổ chức nhân lọai theo phương pháp khoa
học. Đó là câu nói cuối cùng của Tân Khoa Học. Dĩ nhiên lý trí
sẽ điều định nhân lọai trước, rồi điều định tới Thiên Chúa sau…”
(L ‘Avenir de la science p.37).
Nhưng giây
phút phấn khởi ban đầu qua đi mau chóng, và người ta đã dần dần
ý thức được sự bất lực của khoa học, sản phẩm của trí khôn con
người. Những giả thuyết khoa học mà người đi trước coi là chân
lý, đã không còn đứng vững trước những khám phá mới lạ hợp lý
hơn của người đi sau. P. TERMINÉ đã khiêm tốn hơn khi thú nhận:
”Khoa học liền với bất khả tri. Khoa học đầy bí ẩn mà phần lớn
không giải thích được. Khoa học khêu gợi bí nhiệm hơn là giải
thích chúng”,
Thực vậy,
ngay trong lãnh vực vật chất là đối tượng nghiên cứu của khoa
học, thế mà các nhà bác học cũng gặp rất nhiều trở ngại không
thể vượt qua. Chẳng hạn : Nhìn một bông lúa ngòai đồng, do quá
trình quan sát khoa học có thể cho biết bông sẽ nảy sinh ra hạt
lúa. Nhưng lại bất lực không thể hiểu thấu bí nhiệm của việc nảy
mộng như thế nào. Cho đến nay, sau bao nhiêu cố gắng, các nhà
bác học vẫn không thể làm được một con vật bé nhỏ tầm thường với
đời sống tự lập như một con sâu, một con kiến… Đang khi chung
quanh họ có không biết bao nhiêu sinh vật khác phức tạp gấp bội
phần vẫn chưa được khoa học tìm hiều nghiên cứu.
Như vậy, phải
công nhận rằng : Khoa học có giới hạn và không thể tự hào
giải quyết được mọi vấn đề, nhất là những vấn đề siêu hình không
thuộc đối tượng nghiên cứu của nó như : Thiên Chúa, linh hồn,
đời sau… Những vấn đề này thuộc phạm vi đức tin và chỉ có triết
học và thần học mới có khả năng và có quyền lên tiếng mà thôi.
2. Đức Tin không phải là mê tín.
Nhưng là thái độ cần thiết và hợp lý của con người có trí khôn :
a) Đức Tin
chân chính khác hẳn mê tín dị đoan :
-Mê tín
là quá tin một điều gì cách mù quáng và vô lý. Mê tín do sự ngu
dốt, kém hiểu biết khoa học mà ra. Chẳng hạn ngày xưa người ta
tin các hiện tượng thiên nhiên như mưa bão sấm chớp… là những vị
thần minh, mà con người nếu muốn được an thân, cần cầu khấn lễ
bái để được các vị thần ấy che chở phù giúp. Hoặc ngày nay ở các
dân tộc bán khai, dân chúng u mê tin tưởng vào tài chữa bệnh của
các thày mo, thày pháp… Thay vì phải uống thuốc chữa bệnh theo
toa bác sĩ, họ lại theo lời quỉ thần mách bảo để dâng lễ vật và
uống tàn nhang, nước thải… Trong trường hợp này, khi con người
càng tiến bộ về khoa học, thì những điều mê tín kia cũng bị sẽ
bị đào thải.
-Trái lại,
Đức Tin chân chính là chấp nhận chân lý cách sáng suốt, dựa
trên những bằng chứng đáng tin như : Dù mắt ta không nhìn thấy
Thiên Chúa, nhưng khi nhìn xem vũ trụ mênh mông vô tận, với
những trật tự lạ lùng hòan hảo, hoặc khi nghiên cứu các bộ phận
trong cơ thể con người, người ta sẽ trực giác nhận biết phải có
một Đấng nào đó đã sáng tạo và an bài mọi sự. Đấng ấy được gọi
là Thiên Chúa, Ông Trời hay Đấng Tạo Hóa…
b) Đức Tin
là điều hợp lý và cần thiết :
- Hợp lý
vì ngay trong đời sống thường ngày, con người muốn tiến bộ và
sống an vui hạnh phúc cũng cần tin cậy lẫn nhau như: Chúng ta
tin các kiến thức khoa học được dạy ở nhà trường là đúng, dù
chúng ta chưa hề kiểm chứng. Ta tin tưởng giao chìa khóa nhà cho
bà con hàng xóm giữ dùm khi ra khỏi nhà, để ngươi thân về trước
có thể mở khóa vào nhà được… Thế thì tại sao một khi đã nhận
biết có Thiên Chúa, ta lại không tin tưởng những lời Ngài mặc
khải, nếu những điều ấy có bằng chứng đáng tin, phát xuất từ
những nguồn gốc có giá trị mặc khải, có những phép lạ đi kèm,
đồng thời rất nhiều lời tiên báo đã được ứng nghiệm trong lịch
sử ? Lời Chúa dù do nhiều tác giả viết ra trong nhiều thời điểm
khác nhau, nhưng vẫn luôn đồng nhất trong tòan bộ giáo lý.
Đàng khác,
Đức Tin chân chính không phải là mê tín, vì không phủ nhận
vai trò tìm hiểu của trí khôn. Trí khôn là một tài năng đặc biệt
của con người, có quyền điều tra tìm hiểu những bằng chứng thiết
yếu, trước khi quyết định chấp nhận. Đức Giáo Hòang Pi-ô 9 đã
viết như sau :”Để tránh mọi lầm lạc lừa dối trong một vấn đề quá
quan trọng như thế, lý trí con người phải điều tra rất cẩn thận
xem sự việc Thiên Chúa mặc khải có thật không? Để biết chắc chắn
rằng Thiên Chúa đã nói thực sự.” (Thông Điệp Qui
pluribus.-1846).
- Đức Tin
còn cần để đạt hạnh phúc vĩnh cửu:
Đời sống con người không phải chỉ gồm các việc ăn uống, ngủ nghỉ,
chời đùa… sinh ra rồi chết đi như một con vật tầm thường. Trái
lại, con người chúng ta có giá trị trổi vượt vì có hồn thiêng
bất tử. Chết ikhông phải là hết, nhưng linh hồn con người sẽ tồn
tại mãi, và con người sẽ lãnh nhận hậu quả là được hạnh phúc hay
bị đau khổ do những việc đã làm khi còn sống. Chỉ những người
biết mở lòng chấp nhận đức tin và trung thành thể hiện đức tin
ấy trong cuộc sống thường ngày, mới hy vọng được ơn cứu độ như
lời Đức Giê-su: ”Ai tin Ta sẽ được sống đời đời” (Ga 6,47). Và
ngược lại: ”Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi” (Ga 3,18).
TÓM KẾT:
Tuy khoa học
ngày nay đã có những tiến bộ vượt bậc trong việc khám phá những
sự kỳ diệu trong vũ trụ thiên nhiên và nơi con người. Nhưng sự
tiến bộ mới chỉ ở lãnh vực tìm hiểu và lai tạo bắt chước chứ
không phải sáng tạo từ không ra có, không thay đổi được những
trật tự kỳ diệu trong vũ trụ. Do đó, sự tiến bộ không phải là lý
do để con người phủ nhận Thiên Chúa. Khoa học cũng không thể tự
hào giải quyết được mọi vấn đề liên quan đến con người. Vì khoa
học chỉ là sản phẩm của trí khôn con người. Đối tượng nghiên cứu
của nó là vật chất hữu hình, có thể cân đo đong đếm và nhìn thấy
được… thì làm sao có cao vọng lên tiếng trong những vấn đề ngòai
lãnh vực thực nghiệm của nó như: Thiên Chúa, linh hồn… Khoa học
không thể phủ nhận đức tin chân chính, nhưng có vai trò thanh
luyện đức tin, làm cho đức tin ngày một bền vững sáng tỏ hơn.
3.THẢO LUẬN:
1)Theo bạn
đức tin có phải là mê tín không? Tại sao ?
2)Khoa học
có giải đáp được mọi vấn nạn liên quan đến vũ trụ thiên nhiên và
số phận của lòai người không? Tại sao?
4. LỜI CẦU :
Lạy Chúa, xin
mở mắt con để nhìn xem những công trình kỳ diệu Chúa đã làm
trong vũ trụ thiên nhiên và trong bản thân mỗi người chúng con.
Con cảm nghiệm quyền năng của Chúa luôn hiện diện và tác động
trong từng đường gân thớ thịt, từng góc cạnh sâu thẳm trong tâm
hồn con. Xin cho con biết nghiên cứu về khoa học và tâm lý để
thêm hiểu biết về những kỳ công Chúa làm vì yêu thương lòai
người. Nhờ đó, con thêm xác tín vào quyền năng và tình thương
của Chúa, và dâng lời ngợi khen cảm tạ tình thương của Chúa như
lời Thánh Vịnh: “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa.
Thanh không kể ra sự nghiệp tay Ngài” (Tv 18,2)- A-men.
LM ĐAN VINH
www.hiephoithanhmau.com |
VỀ MỤC LỤC |
|
NĂM ĐỨC TIN : Ý NGHĨA VÀ TẦM QUAN
TRỌNG CỦA BÍ TÍCH THÁNH THỂ
|
Các bí tích mà
Chúa Kitô đã thiết lập và ban cho Giáo Hội cử hành, đều rất quan
trọng và cần thiết cho mục đích cứu độ con người nhờ công nghiệp
của Chúa Cứu Thế Giêsu. Do đó, mọi tín hữu trong Giáo Hội đều
được kêu gọi năng lãnh nhận các bí tích tối quan trọng là Thánh
Thể và Hòa giải sau khi đã được tái sinh qua Phép Rửa và củng cố
đức tin qua Bí tích Thêm sức.Nhưng muốn sống sung mãn và lớn lên
trong đức tin thì phải siêng năng chạy đến với Bí tích Thánh Thể
là phương thế hữu hiệu nhất để giúp trở nên thánh thiện nhờ được
tham dự vào đời sống thần linh của Chúa Ba Ngôi mỗi khi được kết
hợp mật thiết với Chúa Kitô qua Bí tích Thánh Thể cử hành trong
khuôn khổ Thánh lễ Tạ Ơn.
Thật vậy,
có thể nói : Bí
tích Thánh Thể là bí tích ban ơn cứu độ quan trọng nhất mà Chúa
Kitô đã trao cho Giáo Hội cử hành để tiếp tục công trình cứu độ
nhân loại của Người cho đến ngày mãn thời gian.
Nói được như
vậy, là vì qua việc cử hành Bí Tích quan trọng này trong khuôn
khổ Thánh lễ Tạ Ơn ( Eucharist), Chúa Kitô lại thực sự hiện diên
nơi các thừa tác viên con người là linh mục và giám mục để dâng
lại Hy Tế cực trọng mà Người đã một lần dâng lên Chúa Cha trên
thập giá năm xưa để xin ơn tha thứ cho toàn thể nhân loại đáng
phải phạt vì tội lỗi.
Hiến Chế Tin Lý
Lumen Gentium của Đại Công Đồng Vaticanô II đã nói rõ về mục
đích và ơn ích của Thánh lễ Tạ Ơn như sau :
“ mỗi lần Hy
tế thập giá được cử hành trên bàn thờ, nhờ đó “ Chúa Kitô, Chiên
vượt qua của chúng ta chịu hiến tế” ( 1 Cor 5, 7), thì công cuộc
cứu chuộc chúng ta được thực hiện.” ( LG. số 3)
Nghĩa là mỗi
khi Thánh lễ tạ Ơn được cử hành ở bất cứ nơi nào trong Giáo Hội,
thì Hy tế cứu chuộc của Chúa Kitô lại được diễn ra để xin ơn tha
thứ cho chúng ta ngày nay cùng thể thức và mục đích mà Chúa Kitô
đã một lần dâng Hy tế của Người trên thập giá xưa kia.Chỉ có sự
khác biệt là xưa trên thập giá , chính Chúa Kitô – vừa là bàn
thờ, vừa là linh mục và là của lễ- đã đích thân dâng Hy Tế của
Người qua khổ nạn thập giá và máu Người đã đổ ra từ canh sườn và
trong toàn thân từ đầu, mình và chân tay, vì bị đánh đập tàn
nhẫn, bị đóng đanh và đầu đội mão gai..Chúa đã dâng tất cả sự
đau khổ lớn lao đó và cả mạng sống của mình làm giá chuộc cho
muôn người. Trên thập giá Người đã thực sự đổ máu và bị sát tế
như Chiên Vượt qua để cho chúng ta được hưởng nhờ công ơn cứu
chuộc vô giá của Người.
Ngày nay, trên
bàn thờ, Chúa dùng tay mà miệng của các thừa tác viên tư tế là
linh mục và Giám mục để dâng lại cách bí nhiệm Hy Tế thập giá
của Người cũng như diễn lại Bữa Tiệc ly để ban mình và máu Người
làm của ăn và của uống cho chúng ta được nuôi dưỡng về mặt
thiêng liêng và nhất là có hy vọng được sống đời đời với Chúa
như Người đã phán hứa xưa kia:
“ Ai ăn thịt và uống máu Ta, thì
được sống muôn đời, và Ta sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau
hết.” ( Ga 6 :54)
Chỉ có qua bí
tích Thánh Thể cử hành trong Thánh Lễ Tạ Ơn mà chúng ta được dự
bàn tiệc thánh để ăn uống Mìnhvà Máu thánh Chúa hiện diện thực
sự ( real presence) dưới hai hình Thánh Thể là bánh và rượu nho.
Như thế, tham
dự và cử hành bí tích Thánh Thể trong khuôn khổ Thánh lễ Tạ Ơn
là việc vô cùng quan trọng trong đời sống của Giáo Hội và của
mọi người tín hữu Chúa Kitô, vì đây chính là “ nguồn mạch và
chóp đỉnh của tất cả đời sống Kitô giáo” ( x. LG ,số 11) như
Giáo Hội dạy.
Là nguồn mạch
và là chóp đỉnh của đời sống Kitô giáo, vì chỉ qua Hy tế thập
giá được cử hành trên bàn thờ ngày nay mà Thiên Chúa, Cha chúng
ta, lại tuôn đổ muôn ơn thánh của Người cho chúng ta nhờ công
nghiệp của Chúa Kitô với Hy tế một lần của Người trên thập giá
và nay đang được tiếp tục dâng lại trên bàn thời qua tác vụ của
Giáo Hội.Chính nhờ Hy tế cực trọng này mà con người được giao
hòa lại với Thiên Chúa và có hy vọng được cứu rỗi để vào Nước
Trời hưởng Thánh Nhan Chúa là nguồn vui và hạnh phúc bất tận.Và
cũng chỉ nhờ có Hy tế thập giá mà mọi ơn ích của các bí tích
khác được kiện toàn và thêm phong phú.
Cụ thể, sau khi
được tái sinh qua bí tích Rửa tội, trẻ em hay người lớn không
thể lớn lên trong đức tin và thân tình với Chúa nếu không được
bồi dưỡng bởi ơn đặc biệt của phép Thánh Thể nhờ lãnh nhận Mình
Máu Chúa Kitô hiện diện cách trọn vẹn nhưng bí nhiệm trong bánh
và rượu nho.
Nói khác đi,
không có việc đạo đức hay cử hành phụng vụ nào quan trọng và có
giá trị về mặt thiêng liêng hơn Thánh lễ Tạ ơn, vì qua Bí tích
cao trọng này, Giáo Hội tưởng niệm và cử hành Bữa ăn sau hết và
Hy Tế thập giá của Chúa Kitô với Nhóm Mười Hai Tông Đồ trong đêm
Người bị nộp, vì Giuđa phản bội. Trong bữa ăn cuối cùng này, “Chúa
Cứu Thế đã lập hy lễ Thánh Thể của Mình và Máu Người để lưu
truyền vạn đại lễ hy sinh thập giá của Người đến muôn đời, cho
tới khi Người đến, và cũng là để trao lại cho Giáo Hội là Hiền
thê yêu quí của Người bí tích của tình yêu, dấu chỉ của hiệp
nhất, sợi dây liên kết của đức ái. Với Bữa tiệc Vượt qua, trong
đó Chúa Kitô được ban làm lương thực , linh hồn ta được đổ tràn
đầy ân sủng là bảo chứng cho vinh quang mai sau đã được ban cho
chúng ta.( x. SGLGHCG số 1323)
Trong Thánh Lễ
Tạ Ơn , Giáo Hội hiệp cùng Chúa Kitô dâng lời chúc tụng tạ ơn
Thiên Chúa Cha về hồng ơn cứu chuộc con người nhờ Chúa Kitô,
Đấng đã thực sự đổ máu trên thập giá để “ lập Giao Ước
mới ”, có giá trị cứu chuộc vượt trên hết mọi giao ước cũ.
Có giá trị cứu
rỗi hơn , vì với Giao Ước mới, Chúa Kitô được ví như Chiên vượt
qua bị sát tế để cho muôn người được cứu độ như tác giả Sách
Khải Huyền đã viết :
“ Ngài xứng đáng lãnh nhận cuốn sách
Và mở ấn niêm phong
Vì Ngài đã bị giết
Và đã lấy máu đào
Chuộc về cho Thiên Chúa
Muôn người thuộc mọi chi tộc và ngôn ngữ
Thuộc mọi nước mọi dân.”
( x. Kh 5: 9)
Như thế, chính
nhờ Hy Tế thập giá qua đó Chúa Kitô bị sát tế như chiên bị giết
làm tế vật trong phụng vụ thời Cựu Ước, mà nhân loại được thứ
tha mọi tội lỗi cho đến ngày nay và còn mãi về sau cho đến khi
mãn thời gian.Nói rõ hơn, cử hành bí tích Thánh Thể trong Thánh
Lễ Tạ Ơn là diễn lại Hy tế đền tội của Chúa Kitô để những ai tin
và sống theo đường lối của Chúa sẽ được ơn cứu độ nhờ Người đã
một lần đổ máu ra trên thập giá cho muôn người được cứu độ.
Do đó, khi tham
dự hay cử hành Thánh lễ Tạ Ơn là tham dự trước hết vào Bữa Ăn mà
Chúa Kitô tiếp tục khoản đãi với thực phâm hảo hạng là chính
mình và máu Người hiện diện thực sự nhưng bí tích dưới hai hình
bánh và rượu nho.Đây chính là thần lương nuôi dưỡng và bổ sức
cho ta trong cuộc lữ hành tiến về quê Trời.
Mặt khác khi
tham dự và dâng Thánh lễ, chúng ta cũng được nghe lời Chúa, là
lời ban sự sống và cũng là của ăn thiêng liêng cần thiết cho ta
lớn lên trong đức tin, đức cậy và đức mến.
Quan trọng hơn
nữa là chúng ta được hiệp nhất với Chúa Kitô trong mục đích dâng
lại Hy tế cực trọng của Người lên Chúa Cha để xin ơn tha thứ cho
chúng ta và cho mọi người còn sống hay đã qua đời.. Chỉ có sự
khác biệt là xưa trên thập giá Chúa Kitô đã thực sự đổ máu mình
ra, nhưng nay trên bàn thờ Chúa đổ máu cách bí nhiệm nhưng cùng
mục đích là để ban ơn cứu chuộc cho chúng ta mỗi khi chúng ta
sốt sắng tham dự và sạch tội trọng để xứng đáng lãnh nhận Mình
Máu thánh Chúa trong phần hiệp lễ ( communion). Về điểm này,
Giáo lý và giáo luật của Giáo Hội dạy rằng:
“ Ai muốn
rước lấy Chúa Kitô trong phần hiệp lễ Thánh Thể, thì phải ở
trong tình trạng có ân sủng.Nếu ai biết mình đã phạm tội trọng,
thì không làm lễ và rước lễ , nếu không nhận được ơn tha thứ
trước đó qua bí tích hòa giải ( sám hối)” ( x SGLGHCG số
1415,giáo luật số 916)
Được kết hợp
với Chúa Kitô trong bí tích Thánh Thể là được tham dự ngay từ
đời này vào đời sống thần linh của Thiên Chúa Ba Ngôi, vì ở đâu
có Chúa Con thì ở đó có Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Như thế,
thật hạnh phúc biết bao cho chúng ta được thông phần sự sống của
Thiên Chúa mỗi khi ta tham dự Thánh Lễ Tạ Ơn với tư cách là tín
hữu hay cử hành với tư cách là tư tế ( linh mục và Giám mục).
Thánh Lễ Tạ Ơn quả thật là đỉnh cao của đời sống Kitô giáo vì
không còn phương thế nào có giá trị cứu rỗi cao hơn nữa, cũng
như cho ta được lãnh nhận ơn Chúa dồi dào hơn nữa.
Trong Bữa ăn
sau cùng , Chúa Cứu Thế Giêsu không những đã lập Phép Thánh Thể
và Chức Linh mục thừa tác ( Ministerial priesthood) để “
anh em làm việc này mà tưởng nhớ
đến Thầy”( Lc 22: 19) mà còn lập Giao Ước mới ký kết
bằng chính máu của Người đổ ra ngày hôm sau trên thập giá. Chúa
đã loan báo Giao Ước mới này khi Người trao chén máu thánh cho
các Tông Đồ hiện diện và nói: “
anh em hãy lãnh nhận mà uống vì này
là chén máu Thầy, máu giao ước mới và vĩnh cửu sẽ đổ ra cho anh
em và nhiều người được tha tội…”( 1 Cr 11: 25;
Lc 22: 20).
Như thế Bữa ăn
cuối cùng của Chúa cũng liên kết mật thiết với Hy Tế thập giá vì
đã loan báo trước việc Chúa đổ máu trên thập giá ngày hôm sau để
hoàn tất công cuộc cứu chuộc nhân loại mà Chúa Cha đã trao phó
cho Người. Ngày nay, trên bàn thờ, mỗi khi Thánh Lễ Tạ Ơn được
cử hành, Chúa Kitô cũng đổ máu cách bí nhiệm, như Chiên Vượt qua
bị sát tế để “ nhờ đó công cuộc cứu chuộc chúng ta được
thực hiện. ( x LG số 11)..Nghĩa là khi tham dự Thánh Lể
Tạ Ơn hay cử hành bí tích Thánh Thể, chúng ta được tham dự Bữa
Ăn của Chúa và cùng với Chúa dâng mọi đau khổ, sướng vui của mỗi
người chúng ta hiệp thông với khổ nạn của Chúa Kitô dâng lên
Chúa Cha đễ xin Người tha thứ mọi tội lỗi cho ta được ơn cứu
chuộc là mục đích của Hy tế thập giá xưa và nay.
Đây cũng là
phương cách thi hành chức vụ tư tế thông thường của người giáo
dân ( common Priesrhood of the Laity) hiệp thông với hàng tư tế
thừa tác hay phẩm trật ( hierarchical or ministerial Sacerdos)
trong việc cử hành và tham dự Thánh lễ Tạ Ơn.
Sau nữa, nhờ
việc cử hành Thánh Lễ, “ chúng ta được kết hợp với Phụng vụ
trên trời và được thấy trước sự sống vĩnh cữu sẽ diễn ra
khi Thiên Chúa sẽ là mọi sự trong mọi người.” như Thánh
Phaolô đã dạy.( 1 Cor 15: 28) ( x SGLGHCG số 1326)
Tóm lại, Bí
tích Thánh Thể là phương thế hữu hiệu nhất cho ta được hưởng nhờ
công ơn cứu chuộc của Chúa Kitô vì được kết hợp mật thiết với
Người ngay từ trong cuộc sống ở đời này trước khi được chiêm
ngưỡng Chúa trên Nước Trời mai sau. Do đó, mọi tín hữu được mời
gọi siêng năng chạy đến với Chúa trong bí tích cao trọng này đặc
biệt trong năm Đức Tin đang được mở ra trong toàn Giáo Hội, vì
đây cũng là cách sống đức tin cụ thể và sống động nhất của mọi
tín hữu Chúa Kitô trong hoàn cảnh thế giới tục hóa, phi luân
ngày nay.
Lm Phanxicô
Xaviê Ngô Tôn Huấn
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Những năm Tỵ trong lịch sử Giáo hội tại Việt Nam |
CHÚC MỪNG NĂM MỚI QUÝ TỴ 2013:
WHĐ
(04.02.2013) – Trước thềm Năm mới Quý Tỵ,
WHĐ điểm lại một số sự kiện của lịch sử
Giáo hội tại Việt Nam diễn ra trong các
năm Tỵ, từ những ngày đầu tiên Tin Mừng
được loan báo trên quê hương Việt Nam.
Đặc biệt năm mới Quý Tỵ 2013 đánh dấu
480 năm sự kiện giáo sĩ Inêkhu đến Việt
Nam truyền giáo:
Quý Tỵ
1533 – Quý Tỵ 2013.
Tin Mừng bắt đầu được rao giảng tại Việt
Nam:
Theo sách Khâm định Việt sử thông giám
cương mục: năm 1533, giáo sĩ Inêkhu đến
Việt Nam, truyền giáo tại các làng thuộc
tỉnh Nam Định: Ninh Cường, Quần Anh và
Trà Lũ.
Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên ra sắc chỉ
cấm đạo.
–Cha Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ) thành
lập Nhà Đức Chúa Trời (Hội Kẻ giảng).
–Chúa Trịnh Tráng ra sắc chỉ cấm đạo.
Chúa Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần ra sắc
chỉ cấm đạo.
Dòng Anh Em Thánh
Augustinô (Augustiniani Scalzi) vào Việt
Nam, bắt đầu truyền giáo tại miền Bắc
trong 64 năm (năm 1765 ngưng hoạt động).
Chúa Võ Vương
Nguyễn Phúc Khoát ra sắc chỉ cấm đạo.
Đức cha Valerian Rist, dòng Phan Sinh,
phó Giám quản tông tòa giáo phận Đàng
Trong, hiệu tòa Myndus, tấn phong ngày
28-04-1737, qua đời ngày 15-09-1737.
Thánh Vincentê
Nguyễn Thế Ðiểm, linh mục, chào đời tại
An Do, Quảng Trị.
– Thánh Phêrô Lê
Tùy, linh
mục, chào đời tại Bằng Sở, Hà Ðông.
– Chúa Trịnh Sâm ra
sắc chỉ cấm đạo.
–
Thánh Henricô Gia (Henricus Castaneda),
linh mục dòng Đa Minh, tử đạo ngày 7-11
tại Đồng Mơ.
– Thánh Vinh Sơn Lê
Quang Liêm,
linh mục dòng Đa Minh, tử đạo ngày 7-11
tại Đồng Mơ.
Hoàng đế Thái Ðức (Nguyễn
Nhạc, nhà Tây Sơn) ra sắc chỉ cấm đạo.
Thánh Phanxicô Ðỗ
Văn Chiểu,
thày giảng, chào đời tại Trung Lễ, Liên
Thủy, Nam Ðịnh.
Thánh
Gioan Tân (Jean Charles Cornay), linh
mục Hội Thừa sai Paris, chào đời tại
Loudun, Poitiers, Pháp.
– Thánh Melchor
Xuyên (Garcia Sampedro),
giám mục, dòng Đa Minh, chào đời tại
Cortes Asturias, Tây Ban Nha.
– Thánh Giuse Tuân,
linh mục, dòng Đa Minh, chào đời tại
Trần Xá, Hưng Yên.
–
Vua
Minh Mạng ra sắc chỉ cấm đạo.
–Dòng
Phanxicô ngưng hoạt động tại Việt Nam,
sau khi tu sĩ cuối cùng là linh mục
Odoric de Collodi (cố Phương), cha sở
Cái Nhum (Chợ Lách, Bến Tre), bị bắt
(1833), bị đày lên Lao Bảo và chết rũ tù
ngày 23-05-1834.
–Thánh
Phanxicô Kính (Francois Isidore Gagelin),
linh mục, Hội Thừa sai Paris, tử đạo
ngày 17-10, tại Bãi Dâu, Huế.
–Vua Tự Đức ban hành sắc lệnh cấm đạo.
–Thánh
Phaolô Lê Bảo Tịnh, linh mục, bị xử trảm
ngày 6-04, tại Bảy Mẫu, Nam Định.
–Thánh
Micae Hồ Ðình Hy, giáo dân, quan Thái
bộc, bị xử trảm ngày 22-05, tại An Hòa,
Huế.
–Thánh
Phêrô Ðoàn Văn Vân, thầy giảng, bị xử
trảm ngày 25-05, tại Sơn Tây.
–
Thánh Giuse An (Maria Diaz Sanjurjo),
giám mục, dòng Ða Minh, thừa sai người
Tây Ban Nha, bị xử trảm ngày 20-07 tại
Nam Ðịnh.
–Ngày 19-03: lễ tấn phong giám mục Đức
cha Giuse Trương Cao Đại, Giám quản tông
tòa giáo phận Hải Phòng.
–Thư chung của HĐGM Đông Dương về “Phân
biệt phạm vi Công giáo và phạm vi chính
trị”.
–Ngày 22-03: Đức giáo hoàng Phaolô VI bổ
nhiệm Đức cha Giacôbê Nguyễn Ngọc Quang
làm giám mục giáo phận Cần Thơ (tấn
phong ngày 5-05).
–Ngày 14-10, Đức giáo hoàng Phaolô VI
thiết lập hai giáo phận mới tại Việt
Nam: Xuân Lộc và Phú Cường, đồng thời bổ
nhiệm hai giám mục tiên khởi: Đức cha
Giuse Lê Văn Ấn (Xuân Lộc, tấn phong
giám mục ngày 9-01-1966), Đức cha Giuse
Phạm Văn Thiên (Phú Cường, tấn phong
giám mục ngày 6-01-1966).
– Ngày 7-12:
Lễ bế mạc Công đồng Vatican II
Các Nghị phụ Việt Nam gồm: Đức TGM
Phaolô Nguyễn Văn Bình (Sài Gòn), Đức
TGM Phêrô Ngô Đình Thục (Huế), ĐGM
Philipphê Nguyễn Kim Điền (Cần Thơ), ĐGM
Micae Nguyễn Khắc Ngữ (Long Xuyên), ĐGM
Giuse Trần Văn Thiện (Mỹ Tho), ĐGM Đa
Minh Hoàng Văn Đoàn (Quy Nhơn), ĐGM
Phêrô Phạm Ngọc Chi (Đà Nẵng), ĐGM Paul
Seitz (Kon Tum), ĐGM Marcel Piquet (Nha
Trang).
–Ngày
24-04: lễ tấn phong Đức cha Giuse Nguyễn
Thiện Khuyến, giám mục phó giáo phận
Phát Diệm.
–Ngày 2-05: Các giám mục Giáo tỉnh Sài
Gòn họp tại Trung tâm Công giáo.
– Ngày
10-09:ĐHY
Giuse Maria Trịnh Như Khuê và Đức TGM
Phaolô Nguyễn Văn Bình sang Roma tham dự
Thượng Hội đồng Giám mục về Dạy Giáo lý
trong thời đại ngày nay.
– Ngày 24-02: Ðức
cha Giuse Trần Văn Thiện, giám mục Mỹ
Tho, từ trần.
– Ngày 14-03: Ðức
cha Giuse Ðinh Bỉnh, Giám mục Thái Bình,
từ trần.
– Ngày 27-03:Đức
cha Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, TGM
phó Sài Gòn, sang Rôma (sau khiđược trả
tự do năm 1988).
– Từ ngày 1 đến
17-07: ĐHY Roger Etchegaray, đại diện
Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II thăm Việt
Nam.Đây là lần đầu tiên, kể từ năm 1975,
một viên chức cao cấp của Toà Thánh đến
thăm Giáo hội tại Việt Nam.
–Từ ngày 6 đến 14-12: Hội đồng Giám mục
Việt Nam họp tại Hà Nội; Hội đồng bầu
Ban Thường vụ mới. Đức cha Phaolô Maria
Nguyễn Minh Nhật (Xuân Lộc) được bầu làm
Chủ tịch HĐGM.
–Ngày 21-02: Đức giáo hoàng Gioan Phaolô
II nâng Đức TGM Phanxicô Xaviê Nguyễn
Văn Thuận, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh
về Công lý và Hòa bình, lên hàng Hồng y.
– Từngày 10 đến 12-6: Tại Hà Nội, ban
Thường vụ HĐGMVN họp và làm việc với
Pháiđoàn Toà Thánh sang công tác tại
Việt Nam.
–Ngày 4-07: Đức giáo hoàng Gioan Phaolô
II bổ nhiệm ba tân giám mục: Đức cha
Giuse Hoàng Văn Tiệm (GM Bùi Chu), Đức
cha Giuse Vũ Duy Thống (GM phụ tá TGP
Sài Gòn), Đức cha Phaolô Nguyễn Thanh
Hoan (GM phó Phan Thiết).
– Từngày 16 đến 22-09: Đại hội lần VIII
của HĐGMVN tại Hà Nội. Đức cha Phaolô
Nguyễn Văn Hòa được bầu làm Chủ tịch
HĐGMVN.
–Từ ngày 30-09 đến 27-10: Hai giám mục
Việt Nam tham dự Thượng HĐGM Thế giới
tại Roma về Sứ vụ Giám mục: Đức TGM GB
Phạm Minh Mẫn (Sài Gòn) và ĐGM Phêrô
Nguyễn Soạn (Qui Nhơn).
–29-12: Hội nghị bất thường của HĐGMVN,
gồm Ban Thường vụ và các Chủ tịch Uỷ ban
Giám mục.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
NGỤ NGÔN THỜI BẤN LOẠN (KỲ 32)
|
Ngụ ngôn 98
Con mèo nhỏ có tên
là Truth rong chơi vào bìa rừng gặp con chó sói. Truth và chó
sói nói chuyện với nhau ra chiều tâm đắc. Trời sập tối, Truth
nói “Em phải về nhà, sợ chủ mong”. Chó sói cười vang: “Thời đại
khoa học kỹ thuật này mà còn tin có người, có chủ sao, ôi mê tín
dị đoan. Tôi chưa thấy con người nên không tin là trên đời này
có sinh vật gọi là con người”.
Cô bé mèo Truth
không nói gì, chỉ lẳng lặng bỏ đi, nghĩ thầm “Sao có kẻ mê muội
và kiêu ngạo thế không biết”. Chó sói chạy theo và nói: “Niềm
tin là niềm tin, lý trí vẫn là lý trí”. Mèo Truth bỗng bật cười:
“Anh vào rừng sống với mớ lý trí ấy đi. Còn em, em đã sống với
con người nên em không dám ngang tàng và hoang dại như anh”.
Trên đường về
hang, sói thấy bóng người đang bẫy thú. Hắn vênh váo: “Chỉ là ảo
ảnh thôi mà. Xem các người làm gì được ta”. Vừa nói hắn vừa nhảy
vào chiếc bẫy thú, và chỉ kịp kêu to: “Thôi rồi”.
Ngụ ngôn 99
Mưa, mưa tầm tã
suốt ngày suốt đêm. Mưa giội mạnh lên những thân cây và tán lá.
Thú rừng ướt át và lạnh lẽo trốn vào hang hay trú mình dưới hốc
đá ấm áp.
Nhưng
kỳ lạ thay, giữa cơn mưa tối mịt núi rừng, có một loài chim nhỏ
xíu cứ hót líu lo. Ướt vẫn hót. Bị thú dữ tấn công vẫn hót. Bị
mấy con voi già cằn nhằn, vẫn hót.
Khi
nắng lên, núi rừng hoan hỉ thì loài chim ấy lặng lẽ nép mình để
nghỉ ngơi. Khi một ký giả tò mò hỏi tại
sao cứ cất tiếng hót lúc trời mưa gió, con chim đầu đàn trả lời:
“Chúng em chỉ muốn nhắc cho những loài chung sống trong rừng
rằng thế nào mưa bão cũng qua đi. Và nhờ đó, những sinh vật nhỏ
nhoi yếu ớt đủ niềm hy vọng mà sống qua cơn mưa lũ ấy”.
Ngụ ngôn đặc biệt 100
Hỏi: Sao không chơi với ai giàu sang phú quý? Chim oanh đáp: Lệ
thuộc vào họ, chúng em bị nhốt trong lồng không ca hát được.
Hỏi: Sao cứ phải bênh vực mấy con thỏ bé xíu ấy? Voi đáp: Không
có chúng, rừng chẳng có những bóng dáng xinh xinh.
Hỏi: Sao cứ phải lên tiếng đuổi chồn cáo cho chúng nó ghét? Con
công đáp: Là mẹ phải bảo vệ con mình và những đám bạn nhỏ của
chúng.
Hỏi: Sao không lo kiếm ăn mà phải bỏ giờ đi phỏng vấn mấy con
chuột bạch, mấy chú ong thợ và mấy con kiến càng kia? Sơn ca
đáp: Chúng nhỏ bé nhưng chúng dạy cho rừng xanh biết nhìn vẻ đẹp
của Tạo Hoá.
Và
câu hỏi tiếp theo: Viết về thú vật trong rừng có lợi gì đâu? Ong
vò vẽ đáp: Là thú vật mà biết ca ngợi Đấng Tạo Thành mình và
biết lẽ phải thì còn hơn muôn loài to xác mà chẳng nhận ra mình
chỉ là thân kiến cỏ trong vũ trụ bao la.
Gioan Lê Quang Vinh, VRNs |
VỀ MỤC LỤC |
|
CHÌA KHÓA CỦA CÔNG ĐỒNG VATICANÔ
II: CHÚA THÁNH THẦN (BÀI GIẢNG THỨ HAI MÙA VỌNG CỦA CHA
CANTALAMESSA)
|
Năm mươi
năm sau Công Đồng Vaticanô II
Dưới đây
là bản dịch bài giảng thứ hai Mùa Vọng của Cha Raniero
Cantalamessa, vị giảng thuyết của phủ Giáo Hoàng. Bài này dịch
phần lớn từ tiếng Pháp với tham khảo bản tiếng Anh.
Mời đọc bản tiếng Anh và tiếng Pháp tại:
http://www.conggiaovietnam.net/index.php?m=home&v=detail&ia=10891
1.
Công Đồng: cách chú giải gián đoạn
và tiếp tục
Trong bài suy
niệm này tôi muốn suy nghĩ về nguyên nhân lớn thứ nhì của việc
cử hành năm nay: kỷ niệm 50 năm khai mạc Công Đồng Chung
Vaticanô II.
Trong những
thập niên gần đây, những nỗ lực nhằm lượng giá Công Đồng
Vaticanô II đã gia tăng [1]. Đây không phải là dịp để theo đuổi
dòng tư tưởng này, và thì giở cũng không cho phép. Đôi khi, song
song với những chú giải phân tích cũng có những cố gắng giải
tổng hợp, nói cách khác, có một cuộc tìm kiếm một chìa khóa cho
việc giải thích biến cố Công Đồng. Tôi muốn góp phần của mình
vào nỗ lực này và cố gắng đề ra một cách đọc những chìa khóa
khác nhau trong việc giải thích này.
Có ba chìa
khóa chính yếu: aggiornamento (cập nhật hóa), đoạn tuyệt
và canh tân trong sự tiếp tục. Khi công bố Công Đồng cho
thế giới, ĐTC Gioan XXIII dùng đi dùng lại từ “aggiornamento” (cập
nhật hóa), mà nhờ công lao của ngài đã đi vào tự vựng phổ quát.
Trong bài huấn từ khai mạc Công Đồng, ngài đưa ra định nghĩa đầu
tiên về ý nghĩa của từ này, theo ý ngài: “Công Đồng Chung thứ
21 […] muốn truyền đạt giáo lý Công Giáo một cách tinh tuyền và
toàn vẹn, không một chút giảm bớt hay méo mó […]. Tuy nhiên,
nhiệm vụ của chúng ta không phải chỉ là canh giữ kho tàng quí
báu này, như thể chúng ta chỉ quan tâm đến quá khứ, mà còn dấn
thân một cách mau mắn và không sợ hãi vào những công việc mà
thời đại đang đòi hỏi chúng ta, trong khi theo đuổi con đường mà
Hội Thánh đã từng đi theo trong gần 20 thế kỷ qua […]. Điều cần
thiết là giáo lý chắc chắn và bất biến này, mà chúng ta phải
chấp nhận trung thành, phải được học hỏi và trình bày theo cách
thế mà thời chúng ta đòi hỏi” [2].
Tuy nhiên,
theo đà tiến triển của các công việc và các khóa của Công Đồng,
hai mặt trận đối lập nhau đã từ từ được hình thành, tùy thuộc
vào việc người ta nhấn mạnh đến mục đích thứ nhất hay thứ nhì
được nhắc đến ở trên: thí dụ như việc tiếp tục với quá khứ hay
canh tân nó. Đối với mặt trận thứ nhì, từ “aggiornamento” đã bị
thay thế bởi từ “đoạn tuyệt”, nhưng nó mang trong mình một tinh
thần và những chủ ý rất khác biệt. Đối với những người được gọi
là cấp tiến, đó là một thành quả phải được nhiệt tình chào đón.
Đối với mặt trận đối lập, thì (việc đoạn tuyệt) đó lại là thảm
cảnh cho toàn thể Hội Thánh.
Đứng giữa hai
mặt trận này, tức là hai mặt trận đồng ý với nhau về sự kiện đã
xảy ra nhưng chống đối nhau về phán đoán của họ về sự kiện ấy,
chúng ta thấy lập trường của Huấn Quyền Giáo Hoàng về “canh
tân trong sự tiếp tục”. Trong thông điệp Ecclesiam Suam,
ĐTC Phaolô VI trở lại với từ “aggiornamento” của ĐTC Gioan XXIII
để tuyên bố rằng ngài muốn nó được coi như “nguyên tắc hướng
dẫn” [3]. ĐTC Gioan Phaolô II cũng đã nhắc lại quan điểm của
vị tiền nhiệm của ngài ngay từ thủa ban đầu của triều đại ngài
[4], và trong nhiều dịp, đã tự ý nói lên cùng một cách. Tuy
nhiên, trên hết, Đức Đương Kim Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã giải
thích điều được Huấn Quyền Hội Thánh có ý nói về “canh tân
trong sự tiếp tục”. Ngài đã làm điều đó chỉ vài tháng sau
khi được bầu cử, trong một huấn từ dành cho Giáo Triều Rôma ngày
22 tháng 12, năm 2005. Chúng ta hãy lắng nghe vài đoạn:
“Vấn đề
được đặt ra là: tại sao việc thực thi Công Đồng lại khó khăn đến
thế trong phần lớn của Hội Thánh? Đúng, việc này hoàn toàn tùy
thuộc vào cách giải thích đúng về Công Đồng, hay như chúng ta có
thể nói thời nay, tùy thuộc vào sự chú giải đúng của nó, là chìa
khóa đúng đắn cho việc giải thích và áp dụng của Công Đồng.
Những vấn đề trong việc thực thi nó phát sinh từ sự kiện này là
có hai cách chú giải đối chọi và bất đồng với nhau. Một cách tạo
ra sự lẫn lộn, trong khi cách kia, tuy âm thầm nhưng càng ngày
càng rõ ràng hơn, đã và đang đem lại hoa trái. Một đàng, là cách
giải thích tôi tạm gọi là ‘chú giải gián đoạn và đoạn tuyệt’;
cách chú giải này thường chiếm được cảm tình của các phương tiện
truyền thông, và cũng là một chiều hướng của thần học hiện đại.
Đàng khác, là ‘chú giải canh tân’”.
Đức Thánh Cha
nhìn nhận rằng quả thực đã xảy ra một số gián đoạn và đoạn tuyệt
nào đó. Tuy nhiên, nó không liên quan gì đến những nguyên tắc và
chân lý căn bản của đức tin Kitô Giáo, nhưng đúng hơn liên quan
đến một số quyết định trong lịch sử. Được kể trong số đó, là sự
xung đột giữa Hội Thánh và thế giới hiện đại, mà cao điểm là
việc lên án toàn diện chủ thuyết hiện đại (modernist) dưới triều
ĐTC Piô IX. Tuy nhiên, nó cũng liên quan đến những tình trạng
gần đây, như những tình trạng phát sinh từ các phát triển khoa
học cũng như quan hệ mới giữa các tôn giáo, với những dính lứu
của nó đến vấn đề tự do lương tâm. Chưa kể đến việc Tàn Sát
Người Do Thái (Holocaust), là điều đòi buộc chúng ta phải suy
nghĩ lại những thái độ đối với dân Do Thái. ĐTC viết:
“Rõ ràng
là trong những lãnh vực ấy, cùng góp phần vào việc hình thành
một vấn đề duy nhất, một loại gián đoạn nào đó có thể xẩy ra.
Thực thế, một sự gián đoạn đã lộ ra nhưng trong đó, sau khi phân
biệt giữa những hoàn cảnh lịch sử cụ thể và những đòi hỏi của
chúng, người ta đã chứng minh được rằng sự liên tục của những
nguyên tắc đã không bị loại bỏ. Người ta dễ bỏ sót sự kiện này
khi nhìn thoáng qua. Bản chất của việc canh tân đích thực hệ tại
ở chính sự kết hợp giữa sự tiếp tục và gián đoạn ở những mức độ
khác nhau này.”
Nếu chúng ta
đi từ mức độ giá trị (axiological), nghĩa là mức độ của những
nguyên tắc và giá trị, sang mức độ thời gian (chronological),
chúng ta có thể nói rằng Công Đồng tiêu biểu cho một sự gián
đọan với quá khứ gần nhưng tiêu biểu cho một sự tiếp tục với quá
khứ lâu đời. Về nhiều điểm, nhất là những điểm chính yếu liên
quan đến quan niệm về Hội Thánh, Công Đồng muốn tạo ra việc trở
vể nguồn gốc của mình, những nguồn Thánh Kinh và Giáo Phụ của
đức tin.
Cách giải
thích về Công Đồng mà Huấn Quyền đưa ra, nghĩa là canh tân trong
sự tiếp tục có một tiền đề xuất sắc trong “Khảo Luận về Việc
Phát Triển Giáo Lý Kitô Giáo” của ĐHY Newman, người thường
được gọi là “Nghị Phụ vắng mặt của Vaticanô II”. Châ Phước Gioan
Newman chứng tỏ rằng, khi chúng ta đương đầu với những tư tưởng
triết học hay niềm tin tôn giáo lớn như Kitô Giáo chẳng hạn thì:
“Người ta không thể xét đoán ở
những bước đầu những gì sẽ là
tiềm năng của
nó và những mục tiêu mà nó đang tìm kiếm. […]. Trong nhiều tương
quan mới mà người ta có thể gặp sẽ xuất hiện những nguy cơ và
những hy vọng; và những nguyên tắc cũ tái xuất hiện dưới những
hình thức khác. Nó thay đổi với chúng để vẫn luôn còn nguyên.
Trong một thế giới siêu nhiên những sự việc qua đi một cách
khác, nhưng ở đây, dưới thế thì sống có nghĩa là thay đổi, và sự
hoàn hảo là kết quả của nhiều cuộc biến đổi”
[5].
Thánh
Grêgôriô Cả một cách nào đó đã tiên liệu xác tín này. Ngài nói
rằng Thánh Kinh “cum legentibus crescit”,“lớn lên với người
đọc nó” [6]; nghĩa là, nó lớn lên qua việc thường xuyên được
đọc và sống, theo nhịp điệu của những vấn đề mới và thách đố mới
nảy sinh trong lịch sử. Như thế, giáo lý đức tin thay đổi nhưng
chỉ để cho nó vẫn còn chân thật với chính mình; nó thay đổi theo
những bất ngờ xảy ra trong lịch sử, ngõ hầu còn nguyên trong bản
chất, như ĐTC Bênêđictô XVI đã nói.
Như trường
hợp ngôn ngữ, có một thí dụ khá tầm thường nhưng lại đầy ý
nghĩa. Chúa Giêsu đã nói ngôn ngữ của thời đại Người; không phải
tiếng Hipri, là ngôn ngữ trang trọng của Thánh Kinh (Tiếng La
Tinh của thời đại Người), nhưng tiếng Aram của thường dân. Việc
trung thành với sự kiện khởi đầu ấy không thể hệ tại ở việc cứ
tiếp tục nói tiếng Aram với tất cả những ai lắng nghe Tin Mừng
trong tương lai, nhưng nói tiếng Hy Lạp với người Hy Lạp, tiếng
La Tinh với người La Tinh, tiếng Armênia với người Armênia,
tiếng Cop với người Cop, và vân vân cho đến tận thời đại chúng
ta. Như ĐHY Newman đã nói, chính nhờ thay đổi mà người ta trung
thành nhất với những chỉ thị ban đầu.
2. Chữ viết giết chết, Thần Khí
ban sự sống
Với tất cả sự
kính trọng và mền phục đóng góp bao la và tiên phong của ĐHY
Newman, một thế kỷ rưỡi sau tiều luận của ngài, và dưới ánh sáng
của tất cả những gì mà Kitô giáo đã trải qua từ ngày đó, chúng
ta cũng vẫn thấy có điều gì thiếu sót trong việc khai triển lý
luận của ngài: là việc hầu như hoàn toàn vắng mặt của Chúa Thánh
Thần. Trong động năng của việc phát triển giáo lý Kitô giáo,
người ta không kể đến một cách đầy đủ vai trò ưu tiên mà Chúa
Giêsu dành cho Đấng An Ủi ngõ hầu Ngài mặc khải cho các môn đệ
những chân lý mà các ông chưa “có sức chịu nổi”, và hướng dẫn
các ông “đến toàn thể chân lý” (Ga 16:12-13).
Thực ra, điều
gì cho phép chúng ta giải quyết được sự nghịch lý của việc canh
tân trong sự tiếp tục và của tính cố định trong thay đổi, nếu
không phải là hành động của Chúa Thánh Thần trong Hội Thánh?
Thánh Irênê hoàn toàn hiểu điều này khi ngài viết rằng mặc khải
giống như “một vật báu được giữ trong một bình quí, nhờ Chúa
Thánh Thần, luôn đổi mới sự tươi trẻ của nó, làm cho chính bình
chứa đựng nó cũng đổi mới sự tươi trẻ của mình” [7]. Chúa
Thánh Thần không nói những lời mới. Ngài không tạo ra các bí
tích mới và các cơ chế mới, nhưng Ngài luôn luôn đổi mới và sinh
động hóa các lời nói, các bí tích và các cơ chế mà Chúa Giêsu đã
thiết lập. Ngài không làm những điều gì mới, nhưng Người làm mới
mọi sự!
Việc thiếu
chú tâm đến vai trò của Chúa Thánh Thần này giải thích đại đa số
những khó khăn đã phát sinh trong việc tiếp nhận Công Đồng
Vaticanô II. Thánh Truyền, mà nhân danh nó một số người đã bác
bỏ Công Đồng, là một loại Thánh Truyền mà trong đó Chúa Thánh
Thần chẳng đóng một vai trò nào cả. Nó chỉ là một mớ những niềm
tin và thực hành được ấn định một lần dứt khoát, chứ không phải
là làn sóng giảng huấn tông truyền, một làn sóng luôn tiến về
phía trước và lan truyền qua các kỷ nguyên, và như tất cả mọi
làn sóng, người ta không thể theo kịp nó nếu không di chuyển
cùng với nó. Băng đá hóa Thánh Truyền bằng cách làm nó bắt đầu
hay kết thúc ở một thời điểm nhất định nào đó có nghĩa là làm nó
trở thành một truyền thống chết, không giống như điều được Thánh
Irênê mô tả là “Thánh Truyền sống động.” Thi sĩ Charles
Péguy đã giải thích chân lý thần học này như sau:
“Chúa Giêsu đã chẳng cho chúng ta những lời đã chết,
Để chúng ta có mà đóng kín trong những hộp bè con (hay những hộp
to).
Và để chúng ta có mà gìn giữ trong đống dầu ôi…
Như những xác ướp Ai Cập.
Chúa Giêsu Kitô đã chẳng cho chúng ta những lời đóng hộp
Để giữ,
Nhưng Người đã cho chúng ta những lời hằng sống
Để nuôi dưỡng …
Người lệ thuộc vào chính chúng ta, những kẻ yếu đuối và xác
thịt,
Để làm cho sống, để nuôi dưỡng và giữ cho sống mãi với thời gian
Những lời được công bố sống động trong thời gian” [8].
Tuy nhiên,
chúng ta phải nói ngay rằng ở mặt trận đối lập cực đoan bên kia,
sự việc chẳng khác gì. Ở đó, người ta cố ý nói đến một “tinh
thần Công Đồng”, nhưng tiếc thay, tinh thần ấy không phải là
tinh thần của Chúa Thánh Thần. Qua “Tinh thần Công Đồng”
người ta đã nghe thấy thôi thúc lớn lao [hướng đến điều mới lạ],
về can đảm sáng kiến, là những điều không thể được đưa vào bản
văn của Công Đồng vì bị một số [nghị phụ] chống đối, và vì nhu
cầu cần phải có sự nhượng bộ giữa các bên [để đạt được sự nhất
trí].
Giờ đây tôi
muốn cố gắng minh họa điều, đối với tôi, tạo thành sự giải thích
theo Thần Khí thật sự của Công Đồng, nghĩa là vai trò của Chúa
Thánh Thần trong việc thực thi Công Đồng. Tái sử dụng một tư
tưởng táo bạo của Thánh Augustinô liên quan tới lời Thánh Phaolô
về chữ viết và Thần Khí (2 Cor 3:6), Thánh Tôma Aquinô viết
rằng:
“Chữ viết
chỉ tất cả mọi luật lệ được viết ra mà ở ngoài con người, kể cả
những luật luân lý trong Tin Mừng; chính vì thế cả chữ viết của
Tin Mừng sẽ giết chết nếu ở bên trong không được nối kết với ân
sủng thanh tẩy của đức tin”
[9].
Cũng trong
cùng bối cảnh này, Thánh Tiến Sĩ viết: “Luật Mới chủ yếu là
chính ơn Chúa Thánh Thần được ban cho những ai tin vào Đức Kitô”
[10]. Các luật của Tin Mừng cũng tạo thành Luật Mới, nhưng theo
nghĩa tài liệu (material sense), như nội dung; ơn Chúa Thánh
Thần mới là Luật Mới theo nghĩa chính thức (formal sense), vì
chỉ có nó mới ban sức mạnh để đem những luật Tin Mừng này ra
thực hành. Thánh Phaolô nó gọi là “luật thần khí ban sự sống
trong Chúa Giêsu Kitô” (Rm 8:2).
Đây là nguyên
tắc phổ quát áp dụng cho mọi luật lệ. Nếu không có ơn Chúa Thánh
Thần, ngay cả những luật của Tin Mừng cũng chỉ một “chữ viết
giết người”, thì chúng ta phải nói gì về những luật lệ của Hội
Thánh, và trong trường hợp của chúng ta, phải nói gì về các sắc
lệnh của Công Đồng Vaticanô II? Như thế, việc “thực thi” hay thi
hành Công Đồng không phải là áp dụng cách thẳng thừng.
Không được tìm cách áp dụng Công Đồng theo nghĩa đen, và
hầu như một cách máy móc, nhưng “trong Thần Khí”, bằng cách lắng
nghe Chúa Thánh Thần, chứ không phải một ‘tinh thần Công Đồng”
mơ hồ, mở ra cho tất cả mọi chủ nghĩa chủ quan. Huấn Quyền Giáo
Hoàng là huấn quyền đầu tiên nhận ra nhu cầu cấp bách ấy. ĐTC
Gioan Phaolô II viết trong năm 1981 rằng:
“Tòan thể
công trình canh tân trong Hội Thánh mà Công Đồng Vaticanô II đã
đề ra và mở đầu một cách đầy quan phòng, một cuộc canh tân vừa
phải cập nhật hóa ("aggiornamento") vừa phải củng cố điều vốn là
trường cửu và tạo thành sứ vụ Hội Thánh, chỉ có thể thi hành
được trong Chúa Thánh Thần, nghĩa là, với sự giúp đỡ của ánh
sáng và quyền năng của Ngài” [11].
3. Phải tìm những hoa quả của Công
Đồng Vaticanô II ở đâu?
“Lễ Hiện
Xuống Mới” mà người ta nóng lóng mong đợi đã thực sự xảy ra
chưa? Một học giả nổi tiếng quen thuộc với tư tưởng của ĐHY
Newman, là Ian Ker, đã đưa ra bằng chứng về tất cả đóng góp mà
ngài có thể cung cấp, không những chỉ để hiểu sự phát triển của
Công Đồng, mà cũng để hiều thời hậu Công Đồng [12]. Tiếp theo
xác định về tính Bất Khả Ngộ của Giáo Hoàng nhân dịp Công Đồng
Vaticanô I năm 1870, ĐHY Newman đã được đề cử hướng dẫn một buổi
suy niệm chung về các công đồng và những xác định của chúng.
Ngài đã kết luận rằng các công đồng thường hay có những hiệu quả
ngoài ý định của các vị tham dự lúc ấy. Các ngài có thể thấy
nhiều hơn hay ít hơn, so với những gì mà những quyết định ấy có
thể đem lại sau đó.
Bằng cách này,
ĐHY Newman đã không làm gì khác hơn là áp dụng vào những xác
định của Công Đồng cùng một nguyên tắc phát triển, là nguyên tắc
mà ngài đã minh họa liên quan đến giáo lý Kitô giáo nói chung.
Như mọi tư tưởng vĩ đại khác, một tín điều sẽ không được hiểu
một cách hoàn toàn cho tới khi người ta thấy những kết quả của
nó cũng như phát triển lịch sử của nó. Theo hình ảnh của ngài:
chỉ sau khi dòng sông rời khỏi mảnh đất gồ ghề mà từ đó nó phát
sinh, nó mới có lòng sông và cuối cùng trở thành sâu rộng và
tràn đầy [13]. Điều ấy đã xẩy ra với việc xác định tín điều bất
khả ngộ của Giáo Hoàng: trong bầu khí nóng bỏng của lúc đó,
nhiều người nghĩ rằng họ tìm thấy trong đó nhiều hơn chính Hội
Thánh và chính vị Giáo Hoàng đưa ra. Xác định này đã không làm
cho các công đồng chung khác trong tương lai trở nên vô dụng như
một số người thời ấy lo sợ hoặc hy vọng. Công Đồng Vaticanô II
minh xác điều này [14].
Chúng ta tìm
thấy sự chứng thực về tất cả những điều này trong nguyên tắc chú
giải về “lịch sử của những hiệu quả” (Wirkungsgeschichte)
của Hans-Georg Gadamer.
Theo
nguyên tắc này, để hiểu một bản văn, người ta cần phải xem xét
những hiệu quả mà nó đã tạo ra trong lịch sử qua việc trở nên
một phần của lịch sử ấy và bước vào cuộc đối thoại với nó [15].
Nguyên tắc này xảy ra một cách mô phạm trong việc giải thích
nghĩa thiêng liêng của Thánh Kinh. Nó không chỉ giải thích bản
văn theo những gì đã xẩy ra trước nó, như cách giải thích theo
lịch sử và triết học, là những cách tự giới hạn trong việc
nghiên cứu các nguồn, nhưng cũng theo những gì xẩy ra sau đó. Nó
giải thích lời tiên tri theo những điều ứng nghiệm nơi Đức Kitô,
nó giải thích Cựu Ước trong ánh sang của Tân Ước.
Tất cả những
điều ấy chiếu một ánh sáng độc đáo trên thời đại hậu Công Đồng.
Có lẽ ở đây cũng thế, việc thể hiện Công Đồng thực sự nằm ở
những nơi khác với những nơi chúng ta nhìn đến. Phần chúng ta,
chúng ta nghĩ đến một “sự thay đổi” trong những cấu trúc và
những cơ chế, chúng ta nghĩ đến một sự phân phối quyền hành
khác, chúng ta bận tâm về ngôn ngữ dùng trong phụng vụ, mà không
ý thức rằng đó chỉ là những thay đổi quá nhỏ so với những điều
mà Chúa Thánh Thần đã thực hiện. Chúng ta tưởng rằng mình có thể
xé rách bầu rượu cũ bằng đôi tay mình, trong khi đó Thiên Chúa
ban cho ta phương pháp để xé rách những bầu rượu cũ ấy bằng cách
đổ đầy chúng bằng rượu mới.
Đối với câu
hỏi liệu có một ngày Hiện Xuống Mới không, chúng ta phải trả lời
mà không ngần ngại rằng: Có! Nhưng đâu là những dấu chỉ khả tin?
Đó là một sự canh tân về phẩm chất của đời sống Kitô hữu ở bất
cứ nơi nào Lễ Hiện Xuống này được tiếp nhận. Biến cố chủ yếu về
tín lý của Công Đồng Vaticanô II có thể được tìm thấy trong hai
chương đầu của Hiến Chế Lumen Gentium, trong đó, Hội
Thánh được định nghĩa như “bí tích” và như “dân Thiên Chúa” đang
lữ hành dưới sự điều khiển của Chúa Thánh Thần, được sinh động
hóa nhờ các đặc sủng của Ngài, dưới sự hướng dẫn của hàng giáo
phẩm. Tóm lại, Hội Thánh là mầu nhiệm và cơ chế, là sự hiệp
thông (koinonia) trước khi là phẩm trật (gerarchia).
ĐTC Gioan Phaolô II củng cố cái nhìn này và biến việc thực thi
nó thành ưu tiên hàng đầu khi Hội Thánh bước vào thiên kỷ niên
mới [16].
Chúng ta tự
hỏi: Ở đâu hình ảnh về Hội Thánh này đã chuyển từ những văn kiện
sang sự sống? Ở đâu nó mặc lấy “thịt và máu” [17]? Ở đâu đời
sống Kitô hữu được sống theo “luật Thần Khí” một cách hân hoan
và đầy xác tín vì được lôi cuốn thay vì bị bó buộc? Ở đâu Lời
Chúa được trân quý nhất? Ở đâu các đặc sủng đang được tỏ tường
nhất? Ở đâu ao ước tha thiết một cuộc tân phúc âm hóa và hiệp
nhất Kitô giáo được người ta cảm nhận?”
Vì chúng ta
đang đối phó với một thực tại nội tâm, xẩy ra trong tâm hồn con
người, nên câu trả lời tối hậu cho những câu hỏi này chỉ có một
mình Thiên Chúa biết. Về lễ Hiện Xuống mới, chúng ta nên nhắc
lại điều Chúa Giêsu nói về Nước Thiên Chúa: “Không ai nói;
‘Này, nó ở đây!’ hay ‘Nó ở kia!’ Quả thực, này, nước Thiên Chúa
đang ở giữa các ông” (Lc 17:21). Tuy nhiên, chúng ta vẫn có
thể cảm nhận được những dấu chỉ, cũng nhờ khoa xã hội học tôn
giáo, là khoa chuyên về những vấn đề này. Từ quan điểm này, câu
trả lời cho câu hỏi này, mà người ta luôn luôn và thưởng xuyên
nghe là: những phong trào Hội Thánh!
Tuy nhiên, có
một điều cần phải nhấn mạnh ngay lập tức. Những phong trào Hội
Thánh cũng bao gồm, qua chất lượng của chúng nếu không phải là
dưới hình thức của chúng, các giáo xứ, các đoàn thể tín hữu (hiệp
hội tín hữu) và các cộng đồng mới trong đó cùng một sự hiệp
thông và cùng một phẩm chất của đời Kitô hữu đang được sống.
Dưới khía cạnh này, các phong trào và giáo xứ không được đặt ở
vị thế đối nghịch hay cạnh tranh nhau, nhưng hợp nhất trong việc
thực thi cùng một mô thức của đời sống Kitô hữu [theo nhiều cách
thế khác nhau]. Cũng được kể trong số này những cộng đồng được
gọi là “cộng đồng cơ bản”, là những cộng đồng mà trong đó ít
nhất yếu tố chính trị không lấn át yếu tố tôn giáo.
Chúng ta cần
phải khẳng định danh xưng chính xác: các phong trào “Hội
Thánh” chứ không phải các phong trào “giáo dân”. Đa
số các phong trào này được thành lập, không phải do một thành
phần mà do tất cả mọi thành phần trong Hội Thánh: chắc chắn là
có các giáo dân, nhưng cũng có các giám mục, linh mục, tu sĩ nam
nữ nữa. Họ đại diện tập thể đặc sủng, là “dân Thiên Chúa” như
được diễn tả trong Lumen Gentium. Chỉ vì những lý do thực
tiễn (vì đã có hai Thánh Bộ Giáo Sĩ và Thánh Bộ Tu Sĩ), nên “Hội
Đồng Giáo Hoàng về Giáo Dân” phụ trách những phong trào này.
ĐTC Gioan
Phaolô II đã nhìn thấy trong những phong trào và những cộng đồng
giáo xứ sinh động này “những dấu chỉ của một mùa xuân mới của
Hội Thánh” [18]. Trong nhiều dịp, ĐTC Bênêđictô XVI cũng đã đã
diễn tả cùng một cảm nghĩ như thế [19]. Trong bài huấn từ lễ
Truyền Dầu Thứ Năm Tuần Thánh (2012), ngài đã nói:
“Bất cứ ai quan tâm đến lịch sử của thời
hậu Công Đồng đều có thể nhận ra động năng của việc canh tân
thực sự, một động năng thường mang những hình thức bất ngờ trong
những phong trào đầy sinh động và hầu như hữu hình hóa sức sống
không bao giờ cạn của Hội Thánh, tức là sự hiện diện và sự hữu
hiệu của Chúa Thánh Thần.”
Khi nói đến
những dấu chỉ của Lễ Hiện Xuống mới, chúng ta không thể không
nhắc đến Phong Trào Canh Tân Đặc Sủng, hay Canh Tân Trong Thần
Khí. Nói cho đúng, đây không phải là một phong trào Hội Thánh
theo nghĩa xã hội học của thuật ngữ này (vì không có người sáng
lập và cơ cấu hay linh đạo riêng), nhưng đúng hơn, nó là luồng
ân sủng nhằm tự phân tán khắp nơi trong Hội Thánh, như một dòng
điện trong quần chúng, và cuối cùng biến đi như một thực thể
riêng biệt.
Lần đầu tiên
trong năm 1973, một trong những nhà thiết kế vĩ đại của Công
Đồng Vaticanô II, ĐHY Suenens, khi nghe nói về hiện tượng này,
đã viết một cuốn sách nhan là “Chúa Thánh Thần, Nguồn Mạch
của Mọi Hy Vọng của Chúng Ta” và đây là điều ngài kể lại
trong hối ký của ngài:
“Tôi đã
ngừng lại để diễn tả cuốn sách này. Tôi đã nghĩ rằng việc chú
tâm đến hành động của Chúa Thánh Thần là một vấn đề có tính
thống nhất cơ bản nhất, bất kể sự biểu lộ ấy có kinh ngạc như
thế nào. Tôi đặc biệt quan tâm khi người ta nói đến việc đánh
thức các đặc sủng; ở Công Đồng, tôi từng bênh vực chính việc
đánh thức như thế.”
Và đây là
điều ngài đã viết sau khi đã đích thân kiểm chứng và thực sự cảm
nghiệm hiện tượng này cách cá nhân (hiện tượng đang được hàng
chục triệu người Công Giáo chung chia sẽ):
“Bỗng
dưng, Thánh Phaolô và Sách Tông Đồ Công Vụ dường như trở nên
sống động và trở thành một phần của hiện tại; điều thực sự có
thật xưa kia dường như đang xẩy ra một lần nữa trước mắt chúng
ta. Đó là việc khám phá ra hành động thật sự của Chúa Thánh
Thần, Đấng luôn hành động, như Chúa Giêsu đã hứa. Người đã giữ
‘lời’. Một lần nữa lại có sự bùng cháy của Chúa Thánh Thần trong
Ngày Lễ Ngũ Tuần, một niềm vui vốn đã trở thành xa lạ với Hội
Thánh”
[20].
Các phong
trào Hội Thánh và các cộng đồng mới chắc chắn không làm cạn tất
cả những tiềm năng và cuộc canh tân mong đợi của Công Đồng,
nhưng chúng đáp ứng được điều quan trọng nhất trong những điều
ấy, ít là dưới mắt Thiên Chúa. Chúng không thiếu yếu điểm và đôi
khi một phần nào bị trôi giạt lững lờ. Nhưng có cuộc canh tân vĩ
đại nào trong lịch sử Hội Thánh mà không có thiếu sót do con
người tạo ra? Có phải điều ấy đã không xẩy ra ở đầu thế kỷ mười
ba khi những dòng khất sĩ xuất hiện? Ở thời đại chúng ta cũng
thế, chính các Đức Giáo Hoàng, đặc biệt là Đức Giáo Hoàng
Innôcentê III, là đấng đầu tiên nhận ra và đón nhận ân sủng của
thời điểm, cùng khuyến khích các giám mục khác cũng làm như thế.
4. Lời hứa đã được ứng nghiệm
Như thế, chúng ta tự hỏi, ý nghĩa của Công Đồng (Vaticanô II) là
gì, khi được hiểu như bộ sưu tập các văn kiện do nó xuất bản:
Dei Verbum (Lời Chúa), Lumen Gentium (Ánh Sáng Muôn Dân),
Gaudium et spes (Vui Mừng Và Hy Vọng), Nostra aetate (Thời Đại
Chúng Ta), v.v...? Chúng ta có nên bỏ chúng qua một bên rồi
mong đợi mọi sự từ Chúa Thánh Thần hay không? Câu trả lời được
tìm thấy trong thuật ngữ mà Thánh Augustinô dùng để tóm lược sự
liên hệ giữa lề luật và ân sủng: “Lề luật được ban cho để
người ta tìm kiếm ân sủng, ân sủng được ban cho để người ta tuân
giữ lề luật” [21]. Như thế, Chúa Thánh Thần không miễn trừ
cho chúng ta sử dụng chữ viết, nghĩa là các văn kiện của Công
Đồng Vaticanô II. Ngược lại, chính Ngài thục giục chúng ta học
hỏi chúng và đem ra thực hành. Và thực sự, ngoài các phạm vi
kinh viện và đại học, là những nơi các sắc lệnh này được dùng
làm tài liệu để thảo luận và nghiên cứu, thì chính trong các
phong trào Hội Thánh được nhắc đến ở trên, chúng rất được trân
quý.
Tôi đã kinh
nghiệm điều này trong chính cuộc đời tôi. Tôi đã loại trừ được
các thành kiến chống người Do Thái và chống người Tin Lành, là
những thành kiến tôi đã hấp thụ trong những năm được đào luyện,
không phải nhờ đọc Nostra Aetate, nhưng vì đã cảm nghiệm
được Lễ Hiện Xuống mới bằng cách nhỏ bé riêng của mình, nhờ sự
giúp đỡ của một số huynh đệ. Sau đó tôi cảm thấy cần phải đọc
lại Nostra Aetate, và tôi cũng đọc lại cả Dei Verbum
sau khi Chúa Thánh Thần đánh động trong tôi một lòng yêu
thích mới đối với Lời Chúa và việc phúc âm hóa. Tuy nhiên sự di
chuyển này có thể xảy ra theo hai chiều khác nhau. Một số người,
mượn lời Thánh Augustinô, được dẫn từ chữ viết đến việc tìm kiếm
Thần Khí, trong khi những người khác được Chúa Thánh Thần đánh
động để tuân giữ chữ viết.
Thi sĩ T.S.
Eliot đã viết những vần thơ có thể soi sáng chúng ta về ý nghĩa
của các việc cử hành 50 năm kỷ niệm Công Đồng Vaticanô II:
“Chúng ta
không bao giờ được ngừng thăm dò
Và ở cuối cuộc thăm dò
Chúng ta sẽ đến nơi mà chúng ta bắt đầu
Và lần đầu biết nơi ấy” [22].
Sau quá nhiều
thăm dò và tranh luận, chúng ta đã đến địa điểm mà chúng ta đã
bắt đầu; nghĩa là đến chính biến cố Công Đồng. Tuy nhiên, mọi
khổ công mà chúng ta đã thực hiện để đi vòng quanh nó đều không
phải là vô ích, vì theo một nghĩa sâu xa nhất, chỉ đến bây giờ
chúng ta mới có thể “biết nơi ấy lần đầu”, nghĩa là biết lượng
giá ý nghĩa thật sự của nó, ý nghĩa mà ngay cả các Nghị Phụ cũng
không thể nhìn trước được.
Điều này cho
phép chúng ta nói rằng có một sự cố kết giữa thân cây lớn lên từ
Công Đồng và hạt giống mà từ đó nó đã phát sinh. Thực thế, Công
Đồng đã phát sinh từ điều gì? Những từ ngữ mà ĐTC Gioan XXIII đã
dùng để mô tả cảm xúc đi kèm với “việc nở hoa bất ngờ trong
tâm hồn và trên môi ngài vì hai chữ Công Đồng” [23] có tất
cả mọi dấu chỉ của một linh hứng tiên tri. Trong diễn từ bế mạc
khoá thứ nhất, ngài nói đến Công Đồng như “Lễ Hiện Xuống mới
và rất được ước ao, sẽ phong phú hóa Hội Thánh với nhiều năng
lực thiêng liêng” [24].
Năm mươi năm
sau, chúng ta chỉ có thể kết luận rằng Thiên Chúa đã giữ lời hứa
của Ngài với Hội Thánh qua môi miệng tôi trung Ngài là chân
phước Gioan XXIII. Nếu chúng ta coi việc nói về Lễ Hiện Xuống
mới như một việc có ít nhiều gia dĩ, vì tất cả những vấn đề và
tranh luận xuất hiện trong Hội Thánh sau Công Đồng và vì Công
Đồng, thì chúng ta chỉ cần đọc lại sách Tông Đồ Công Vụ để ghi
nhận rằng sau Lễ Hiện Xuống Thứ Nhất, cũng không thiếu những vấn
đề và những cuộc tranh luận. Và chúng cũng đã chẳng kém nóng
bỏng hơn những vấn đề và tranh luận ngày nay.
Phaolô Phạm Xuân
Khôi chuyển ngữ từ bản tiếng Pháp.
____________
Ghi chú:
[1]
Cf. Le Concile Vatican II. Réception et actualité à la
lumière du Jubilé, par R. Fisichella, Ed. San Paolo, 2000.
[2]
Jean XXIII, Discours à l’ouverture du Concile, nr. 6,5.
[3]
Paul VI, Enc. Ecclesiam suam, 52; cf. aussi
Enseignements de Paul VI, vol. IX (1971), p. 318.
[4]
Jean-Paul II, Audience générale du 1er août 1979.
[5]
J. H. Newman, Le développement de la doctrine chrétienne,
Bologne, Il Mulino 1967, pp. 46 s.
[6]
Grégoire Le Grand, Commentaire du livre de Job XX, 1
(CC 143 A, p. 1003).
[7]
S. Irénée, Contre les hérésies, III, 24, 1.
[8]
Ch. Péguy. Le Porche du mystère de la deuxième vertu,
La Pléiade, Paris 1975, pp. 588 s.
[9]
Thomas d’Aquin, Summa theologiae, I-IIae, q. 106, a. 2.
[10]
Ibid., q. 106, a. 1; cf. Augustin, De Spiritu et
littera, 21, 36.
[11]
Jean-Paul II, Lettre apostolique A Concilio
Constantinopolitano I, 25 mars 1981, dans AAS 73 (1981)
515-527.
[12]
I. Ker, Newman, the Councils, and Vatican II, in «
Communio ». International Catholic Review, 2001, pp. 708-728.
[13]
Newman, op. cit. p.46.
[14] Một thí dụ còn rõ ràng hơn nữa đã xẩy ra trong Công Đồng
Chung Êphêsô năm 431. Việc xác định Đức Maria là Theotokos (Mẹ
Thiên Chúa), theo ý định của Công Đồng này, và nhất là của vị cổ
động chính là Thánh Cyril Thành Alexandria, chỉ nhằm khẳng định
tính duy nhất của ngôi vị Đức Kitô. Thực ra, nó đã mở đường cho
việc nở hoa bao la của việc sùng kính Đức Maria, và đến việc xây
những vương cung thánh đường đầu tiên để kính Mẹ, trong đó có
vương cung Thánh Đường Đức Bà Cả ở Rôma. Sự duy nhất của ngôi vị
Đức Kitô sau đó còn được xác định trong một bối cảnh khác và một
cách quân bình hơn ở Công Đồng Chalcedon năm 451.
[15]
Cf. H. G. Gadamer, Wahrheit und Methode, Tübingen 1960.
[16]
Novo millennio ineunte, 42.
[17]
I. Ker, art. cit. p.727.
[18]
Jean-Paul II, Novo millennio ineunte, 46.
[19]
Cf. Discours aux mouvements ecclésiaux à la veille de la
Pentecôte 2006 in: The Beauty of Being a Christian.
Movements in the Church. Proceedings of the Second World
Congress on the Ecclesial Movements and New Communities (Frascati
31 mai – 1er juin 2006), Rome, Libreria Editrice Vaticana, 2007.
[20]
Card. L.-J. Suenens, Souvenirs et Espérances, Dublin,
Veritas 1992, p. 267.
[21]
Augustin, De Spiritu et littera ,19, 34.
[22]
T.S. Eliot, Four Quartets V , The Complete Poems
and Plays, Faber & Faber, Londres 1969, p.197:
“We shall not
cease from exploration
And the end
of our exploring
Will be to
arrive where we started
And know the
place for the first time.”
[23]
Jean XXIII, Discours à l’ouverture du concile Vatican
II, 11 octobre 1962, n. 3, 1
[24]
Jean XXIII, Discours à la clôture de la première phase
du Concile, 8 décembre 1962, n. 3, 6. |
VỀ MỤC LỤC |
|
Linh mục và
Thiên Chúa quan phòng |
Nguyên tác: Taking Flight - Bay Lên Đi
Tác giả:
Anthony de Mello, S.J.
Chuyển ngữ: Lm. Minh Anh (Gp. Huế)
Chỉ dẫn:
Tốt nhất,
các câu chuyện sẽ được đọc theo thứ tự như đã sắp xếp. Mỗi
lần đọc không quá một hoặc hai mẩu chuyện nếu bạn ước ao có
được một cái gì đó hơn là chỉ giải trí.
Lưu ý:
Các chuyện
kể trong tập sách này đến từ nhiều đất nước, nhiều nền văn
hoá và tôn giáo khác nhau; chúng thuộc về những di sản
thiêng liêng, những câu chuyện hài hước được ưa chuộng của
dòng đời nhân loại.
Những gì tác
giả làm là xâu kết chúng lại với nhau theo một ý hướng đặc
thù. Công việc của tác giả là công việc của người thợ dệt và
thợ nhuộm, tác giả chẳng có công trạng gì về những tấm vải
và những sợi chỉ.
LTS. Chỉ
dẫn và lưu ý trên đây là của tác giả. Tuy nhiên, vì Đặc San
GSVN chỉ phát hành 2 tuần một lần nên mỗi số báo BBT xin
giới thiệu trung bình từ 5 đến 7 mẫu chuyện. Bạn đọc có thể
lưu lại để nghiền ngẫm suy tư.
Chủ đề : Ân Sủng
115. Linh mục và Thiên Chúa quan phòng
Một linh mục đang ngồi soạn bài về sự quan phòng trên chiếc bàn
cạnh cửa sổ thì nghe một tiếng gì đó phát ra như tiếng nổ. Ngay
sau đó, ông thấy người ta hớt ha hớt hãi, chạy tới chạy lui và
ông biết… đập vỡ, sông tràn, người ta đang di tản.
Linh mục thấy nước tràn trên đường, thật khó khăn để ông kìm nén
cảm giác sợ hãi đang dâng lên trong lòng, nhưng ông tự nhủ, “Ở
đây, mình đang chuẩn bị bài giảng về sự quan phòng và đang có cơ
hội để thực hành điều mình giảng. Mình sẽ không chạy trốn với
những người khác. Mình sẽ ở ngay đây và tín thác vào sự quan
phòng của Chúa”.
Nước lên tới cửa sổ, một chiếc thuyền đầy người ghé qua.
“Cha ơi, nhảy vào”, họ la lên. “Ồ không, các con
ạ”, Cha nói đầy tin tưởng, “Cha tin vào sự quan phòng của Chúa”.
Dẫu vậy, ông cũng đã leo lên mái nhà và khi nước dâng lên đến đó,
một con thuyền đầy người khác ghé qua, hối thúc ông lên thuyền
với họ. Ông lại từ chối.
Lần này, ông leo lên đến đỉnh tháp chuông. Khi nước lên đến đầu
gối, một nhân viên thuyền máy được gửi đến cứu ông. “Không, cám
ơn anh nhân viên”, ông cười bình thản bảo, “Anh thấy đấy, cha
tín thác vào Chúa. Ngài sẽ không bao giờ để cha thất vọng”.
Kết cục, vị linh mục chết đuối, khi vào thiên đàng, điều đầu
tiên là ông phàn nàn với Chúa, “Con tín thác vào Chúa! Thế tại
sao Chúa không làm gì để cứu con?”.
“Ồ”, Chúa nói, “con biết là Ta đã gửi đến ba chiếc thuyền”.
ڰ
116. Thu tích và từ bỏ
Hai thầy dòng đi nghỉ. Một trong hai người thực hành linh đạo
thu tích, người kia tin vào sự từ bỏ. Suốt ngày họ nói đến linh
đạo riêng của mình cho đến một tối nọ, khi họ đến một bờ sông
thì chuyện xảy ra.
Bây giờ người tin vào sự từ bỏ không mang tiền theo nói, “Chúng
ta không thể thuê thuyền để qua sông, nhưng tại sao phải quấy
nhiễu thân xác? Chúng ta sẽ qua đêm ở đây, ca tụng Chúa, và chắc
chắn ngày mai chúng ta sẽ gặp một tâm hồn quảng đại nào đó,
người sẽ trả lộ phí cho chúng ta”.
Người kia bảo, “không có ngôi làng nào ở sông này, không có lán
trại, nơi trú ẩn cũng không. Chúng ta sẽ bị thú dữ ăn thịt, bị
rắn cắn hay bị cái lạnh làm cho chết cóng. Ở bờ bên kia, chúng
ta có thể qua đêm an toàn và thoải mái. Tôi có tiền trả người
đưa đò”.
Khi họ đã an toàn qua bờ bên kia, thầy dòng thứ hai quở trách
người bạn đường, “Anh đã thấy giá trị của việc giữ tiền chưa?
Tôi có thể cứu mạng anh và tôi. Điều gì sẽ đến với chúng ta nếu
tôi cũng là người từ bỏ như anh?”.
Người kia đáp, “Chính sự từ bỏ của anh đã mang chúng ta đến sự
an toàn, vì anh đã từ bỏ tiền bạc của anh để trả cho người đưa
đò? Ngoài ra, tôi không có một đồng xu dính túi, nhưng túi của
anh trở thành túi của tôi. Tôi nhận thấy mình không bao giờ đói
khổ, tôi luôn luôn được cung cấp”.
ڰ
117. Động đất
Tại một bữa tiệc ở Nhật, vị khách được giới thiệu một thức uống
nổi tiếng của xứ sở hoa anh đào. Sau khi nếm thử, vị khách thấy
đồ đạc trong phòng xoay quanh.
“Đây là một loại thức uống rất mạnh”, ông nhận xét với chủ.
“Không có gì đặc biệt cả”, chủ đáp, “Đang có động đất”.
ڰ
118. Cầu rung
Một con voi lạc bầy chạy qua một chiếc cầu nhỏ bằng gỗ vắt ngang
một khe núi.
Chiếc cầu mục lung lay, kêu cót két và hầu như không chịu được
sức nặng của con voi.
Khi đã qua bên kia bờ an toàn, từ trong tai nó, một con bọ chét
la lên với sự thỏa mãn đầy anh dũng, “Cậu à, chúng ta đã làm
rung chiếc cầu!”.
ڰ
119. Gà gọi mặt trời
Với độ chính xác có tính khoa học, một bà cụ quan sát nhưng
không hiểu làm sao, con gà trống nhà bà cất tiếng gáy ngay trước
lúc mặt trời mọc mỗi ngày. Vì thế bà đi đến kết luận, tiếng gà
của bà làm cho mặt trời mọc.
Vì thế, khi con gà chết, bà nhanh chóng thay con gà khác vì sợ
rằng mặt trời sẽ không mọc vào sáng hôm sau.
Ngày kia, sau khi cãi nhau với người hàng xóm, bà quyết định dời
nhà ra khỏi làng để sống với người chị cách đó vài dặm.
Sáng hôm sau, khi con gà trống nhà bà gáy và một chốc sau đó,
mặt trời mới bắt đầu mọc lặng lẽ ở chân trời. Bà cả tin với
những gì mình biết từ trước đến nay: giờ này, mặt trời mọc ở đây
và chắc chắn làng của bà đang chìm trong bóng tối. Ôi, họ phải
kêu nài bà thôi!
Tuy nhiên, bà lại thắc mắc không hiểu tại sao những người ở làng
của bà không đến để xin bà mang con gà trống trở về với họ. Bà
nghĩ, họ thật ngoan cố và ngu xuẩn.
ڰ
120. Lần đầu đi máy bay
“Thế đây là lần đầu tiên ông đi máy bay? Ông có sợ không?”.
“Ồ, nói thật, tôi đã không dám đặt toàn bộ trọng lượng của tôi
lên chỗ ngồi nữa”.
ڰ
còn tiếp nhiều kỳ |
VỀ MỤC LỤC |
|
LINH MỤC GIÁO PHẬN SỐNG SỨ VỤ TRONG CÁC MỐI TƯƠNG QUAN MỤC VỤ |
Lm. Micae-Phaolo Trần Minh Huy, pss.
BẢN THẢO
ỨNG SINH LINH MỤC HỌC & SỐNG LINH ĐẠO LINH MỤC GIÁO
PHẬN
GIÁO TRÌNH TU ĐỨC LỚP THẦN II & III
ĐẠI CHỦNG VIỆN THÁNH GIUSE HÀ NỘI
2011-2012
CHƯƠNG HAI
ỨNG SINH LINH MỤC GIÁO PHẬN
HỌC VƯỢT LÊN KHỦNG HOẢNG VÀ TÁI ĐỊNH HƯỚNG ĐỜI
SỐNG VÀ SỨ VỤ ƠN GỌI LINH MỤC
PHẦN PHỤ LỤC:
A. LINH MỤC GIÁO PHẬN SỐNG SỨ VỤ TRONG CÁC MỐI TƯƠNG
QUAN MỤC VỤ
Các nhà tu đức nói
rằng linh mục không lên thiên đàng hay xuống hỏa ngục một mình, mà còn kéo theo
nhiều người khác nữa, nhất là những người được trao phó cho sự chăm sóc mục vụ
của linh mục. Linh mục không sống trong ốc đảo, mà sống với, sống vì và sống cho
các linh hồn. Vì thế đời sống thánh thiện hay không của linh mục được thể hiện
trong các mối tương quan, nhờ các mối tương quan hay do các mối tương quan, nhất
là đối với linh mục giáo phận: nên thánh bằng các thừa tác vụ của mình.
Ngày nay người ta
nhấn mạnh nhiều về Giáo Hội tham gia, Nguyên lý bổ trợ và Thần học mục vụ dấn
thân, cũng như sự cộng tác và vai trò của giáo dân trong hoạt động dưỡng giáo và
truyền giáo của Giáo Hội, nhằm giúp linh mục thực thi sứ vụ cách tốt đẹp trong
lòng Giáo Hội và Xã Hội Việt Nam đang biến đổi từng ngày, mà mỗi người phải biết
thay đổi chính mình cho thích hợp và hiệu quả, không đợi đến lúc bị bó buộc phải
thay đổi, sợ e đã quá muộn chăng: vì một khi người ta muốn một người phải thay
đổi đường lối mà không được thì họ sẽ tìm cách thay thế (loại bỏ) con người đó,
ít nhất là vô hiệu hóa hoạt động, uy tín và ảnh hưởng của người đó!
Chính trong định
hướng mục vụ này, chúng ta sẽ xét đến đề tài “Linh mục giáo phận sống sứ vụ
của mình trong các mối tương quan.” Thật ra đây là đúc kết các bài làm nhóm
có hướng dẫn, được cập nhật và hiệu đính sau mấy khóa học của các lớp Thần học
Đại chủng viện thánh Giuse Hà Nội và lớp Thần học Bổ túc Bùi Chu. Sự hợp tác
giữa giáo viên và học viên này vừa áp dụng phương pháp sư phạm Kích Biện Pháp
vừa sử dụng Phương Pháp Luận Sáng Tạo. Nỗ lực để tăng cường, củng cố và
cải thiện các mối tương quan tốt lẽ ra phải có sự tương tác đối xứng về cả hai
phía, nhưng ở đây nhấn mạnh hơn về phía các linh mục giáo phận tương lai vì mục
đích đào tạo và tự đào tạo của họ.
1.
Tương quan với Giám Mục Bản Quyền
1.a Những gì nên
cư xử, nói và làm
·
Thái độ của linh mục đối với Giám
mục Bản quyền là hợp tác, vâng lời, tình bạn; nhìn thấy nơi Ngài một người cha
thực sự và vâng phục Ngài với tất cả lòng kính trọng, thương yêu, thảo hiếu. Sự
vâng lời càng đến từ con tim thì mối tương quan giữa Giám Mục và linh mục càng
trở nên gần gũi và tốt đẹp.
·
Thánh
Giêrônimô dạy “hãy vâng phục và đón nhận Giám mục như đấng sinh thành linh
hồn ta”. Thánh Ignaxiô thì nói “hãy theo Giám Mục như Chúa Giêsu theo
Chúa Cha.” Còn thánh Augustinô căn dặn “Người dưới cần vâng phục người
trên như chính mình muốn những người dưới mình vâng phục mình. Hãy giữ tôn ti
trật tự, hãy tìm sự an bình.”
·
Quảng đại
cam kết trung thành tuân giữ tất cả và từng quy luật, tránh mọi hình thức tuân
giữ từng phần theo tiêu chuẩn chủ quan, gây chia rẽ ảnh hưởng đến giáo dân và dư
luận công cộng, thiệt hại nặng nề về mục vụ.
·
Cởi mở trong
đối thoại và hiệp thông trong tình yêu thương chân thành, cùng linh mục đoàn
hiệp nhất chung quanh ngài.
·
Báo cáo hiện
tình giáo xứ. Trình bày những khó khăn của mình (những vấn đề cá nhân cũng như
khi thi hành sứ vụ); trình bày chương trình, kế hoạch của giáo xứ.
·
Sẵn sàng hợp tác và thi hành nhiệm
vụ được Đấng Bản Quyền trao; sẵn sàng rời bỏ nhiệm vụ và nhiệm sở khi ngài cần.
Vâng lời trong trạng thái nội tâm và sẵn sàng làm theo ý ngài.
·
Thánh Phaolô
đã nói về Chúa Giêsu “đã vâng lời đến chết và chết trên thập giá”, vì thế
cần vâng lời triệt để. Thánh nhân còn dạy: “Chúa Giêsu đã học biết thế nào là
vâng lời nhờ các đau khổ của Người.”
·
Vâng lời,
kính trọng, hợp tác với Giám mục trong tất cả công việc của giáo phận. Sống tình
bạn, gần gũi, yêu mến, nâng đỡ Ngài bằng lời cầu nguyện hằng ngày để giúp ngài
chu toàn trách nhiệm nặng nề mà ngài phải gánh vác. Thông cảm với Giám mục, vì
ngài cũng có thể có yếu đuối, thiếu sót và bất toàn của con người như chúng ta.
·
Tóm lại, sự
vâng phục chẳng làm mất giá trị của linh mục, nhưng đề cao giá trị trách nhiệm
Chúa trao cho; vâng lời với tất cả lòng kính trọng và vâng phục đến từ con tim
chứ không phải bởi quyền lực và lý lẽ.
1.b Những gì không
nên cư xử, nói và làm
·
Không vận
động xin được bổ nhiệm chức vụ; không tự ý xin nhiệm sở, hay đến một nơi nào;
không từ chối đến nơi nào khi được Bản quyền yêu cầu.
·
Không lạm
dụng lòng khoan dung, nhân từ, rộng lượng, cởi mở của ngài mà cầu vinh, “a dua,
xu nịnh” kiểu “lừa thầy phản bạn” và “đội trên đạp dưới.”
·
Làm mọi việc theo ý Đấng đã sai
mình, chứ không phải là làm theo ý kiến cá nhân của mình. Không bao giờ làm gì
ngoại lệ tại giáo xứ mình được trao phó mà không được phép của Đấng Bản Quyền.
·
Để giữ sự
hòa hợp trong giáo xứ, không tùy tiện làm theo ý riêng hay ý của một người hay
nhóm nào đó trong giáo xứ, mà phải làm theo qui định chung của Giáo Phận.
·
Không vào bè phái, phe nhóm, gây
áp lực, khó dễ, hay nói với giáo dân và những người khác những điều không cần
thiết về Giám mục của mình.
·
Tránh lối
tùng phục “bằng mặt mà không bằng lòng” hay “quyền phục, lý phục mà
tâm không phục.”
·
Không nên
vội vàng và nông nổi phê bình, chỉ trích, chống đối, xa lánh Giám mục khi ngài
có những quan điểm và cách làm không giống ta; không nói hành, nói xấu, than
phiền về ngài với anh em như “đổ dầu vào lửa” dẫn đến tình trạng bất hợp
tác, kính nhi viễn chi.
·
Trong những chuyện gay cấn và xung
đột, không được giấu diếm hay dối trá với Giám Mục. Phải thành thực trình bày rõ
ràng đúng thực tế, không che đậy hay phóng đại. Nêu rõ các phải trái, lỗi lầm
của mình và của đối phương, để giúp Giám mục sáng suốt phân định cách xử trí
đúng đắn. Không tìm gây ảnh hưởng trên Giám mục và lừa dối Ngài để kéo Ngài về
phe mình và công nhận việc mình làm, trái với sự thật và công bằng.
2.
Tương quan với các linh mục đàn anh,
nhất là cha sở
2.a Những gì nên
cư xử, nói và làm
·
Kính trọng
các linh mục đàn anh vì họ là người đi trước, nhiều kinh nghiệm, nhiều hy sinh
và nhiều cống hiến cho Giáo Hội. Yêu mến trong tình huynh đệ bí tích; hợp tác
trong công việc; hiệp nhất trong linh mục đoàn.
·
Tỏ lòng biết
ơn và luôn giữ mối tương quan trong tình tương thân tương ái, hiểu hoàn cảnh cụ
thể của các ngài.
·
Cầu nguyện
cho các ngài để các ngài bền vững trong ơn gọi linh mục của mình, vì dẫu là linh
mục của Chúa đã nhiều năm nhưng vẫn còn đó sự yếu đuối của con người, lại thêm
sự mỏi mệt của trách nhiệm, tuổi tác và bệnh tật.
·
Cảm thông
với người lầm lỗi; trung dung trong các tranh cãi; khiêm tốn học hỏi kinh
nghiệm. Tìm dịp thuận tiện để thăm viếng, an ủi các đấng ốm đau, bệnh tật.
·
Cần học hỏi
kinh nghiệm, đời sống thiêng liêng, và đời sống tông đồ của các ngài. Nhiệt
thành làm những gì cha xứ phân chia, vì vinh danh Thiên Chúa và cứu rỗi các linh
hồn, theo đúng lý tưởng, ơn gọi và thiên chức linh mục.
·
Luôn đặt cha xứ ở vị trí ưu tiên,
nhìn nhận ngài là người có trách nhiệm trong mọi hoạt động và đời sống của giáo
xứ. Bàn hỏi, xin ý kiến và sự hướng dẫn của ngài, cũng
như chia sẻ kinh nghiệm mục vụ và thiêng liêng để đời sống và công việc đạt được
kết quả tốt.
·
Luôn giữ mối
liên lạc với các linh mục trong cùng một địa bàn hay cùng hạt mà mình phục vụ.
Năng lui tới và sống hiệp thông với các ngài.
·
Đích thân và
cổ vũ anh em năng đến thăm các vị đã nghỉ hưu. Có thể nhờ các ngài giải tội và
linh hướng.
·
Kính trọng
tuổi tác và kinh nghiệm của các linh mục đàn anh, kể cả các linh mục “đàn anh
ít tuổi hơn” vì chịu chức trước. Bàn hỏi, học tập kinh nghiệm mục vụ, cộng
tác với các ngài trong việc chăm sóc các linh hồn. Giúp đỡ và cảm thông khi các
ngài gặp khó khăn, chia sẻ của cải, nhất là
đối với các vị đau yếu, phiền muộn, cô đơn, bị hiểu lầm, bị bách hại.
2.b Những gì không
nên cư xử, nói và làm
·
Không xem
thường những vị già nua, tuổi tác; không tự cao, tự đại vì kiến thức mới mẻ, vì
sức khoẻ hơn người.
·
Không tách mình ra xa, cục bộ;
không bè phái, chia rẽ. Không chê trách, chỉ trích, nói xấu, công kích khi có
bất đồng hoặc a dua cùng những người chống đối để hạ giá uy tín của các ngài,
ham dành phần thắng và so đo tính toán thiệt hơn.
·
Không làm
việc vượt quá giới hạn của mình, qua mặt và phớt lờ cha xứ, khi liên quan đến
việc chung của giáo xứ. Không làm việc gì liên quan đến giáo xứ mà không bàn
hỏi, xin ý kiến, và sự giúp đỡ của ngài.
·
Không nên tỏ
thái độ bất hợp tác với cha xứ trong một số công việc mà mình cảm thấy không hợp
lý hay không vừa ý.
·
Không chê bỏ vị tiền nhiệm đã làm
việc nơi giáo xứ mà nay mình đang phục vụ. Không bài xích vị tiền nhiệm dựa vào
câu nói “tân quan tân chế”, không phá đổ hay vội chỉnh sửa những công
trình, vật chất cũng như tinh thần, của vị tiền nhiệm, kẻo chuốc lấy sự chống
đối của những người ủng hộ ngài.
·
Không phê bình hay đòi họ phải làm
giống như thế hệ của mình. Không tìm “khẳng định mình” mà vùi người lầm lỗi
xuống hố.
·
Không bỏ rơi
các linh mục đàn anh, khi các ngài gặp khó khăn thử thách về tuổi cao sức yếu,
tình cảm, tính nết, nỗi cô đơn, hay sự chê trách chống đối của giáo dân.
·
Không phê bình, chỉ trích những
thiếu sót, những lỗi lầm của các linh mục đàn anh, đặc biệt đối với cha xứ, vì
đó có thể là những lỗi lầm của mình trong tương lai, nếu Chúa không giữ gìn.
·
Không coi
thường hay thiếu kính trọng, chê bai các ngài lạc hậu không cập nhật với thời
đại, khó tính, không hiểu và thông cảm với linh mục trẻ. Hãy tự hỏi mình đã làm
được gì cho các ngài?
3.
Tương quan với các linh mục đàn em,
nhất là cha phó
3.a Những gì nên
cư xử, nói và làm
·
Yêu thương
huynh đệ, gần gũi, cởi mở chia sẻ; sẵn sàng trao đổi kinh nghiệm và kiến thức.
Ân cần, khiêm tốn, tận tình khi được yêu cầu góp ý, xây dựng.
·
Hợp tác
trong công việc; hợp nhất, nâng đỡ, động viên người gặp khó khăn, cảm thông với
người lầm lỗi. Trung dung trong các tranh cãi; mau giải hoà những bất đồng.
·
Cần lo liệu
cho các linh mục trẻ, nhất là cha phó của mình, trong những năm đầu đời linh mục
có những điều kiện dễ dàng về đời sống và công việc mục vụ.
·
Cầu nguyện cho các linh mục đàn em
còn trẻ trong sứ mạng mới, đón nhận họ như những người em thực sự và giúp đỡ họ
trong những công tác và gánh nặng đầu tiên của sứ vụ linh mục.
·
Luôn tìm cách giúp đỡ, đề bạt và
cộng tác làm việc với các linh mục trẻ trong địa hạt của mình. Thông cảm và tạo
điều kiện cho linh mục đàn em làm việc mục vụ tốt hơn mình càng tốt.
·
Tôn trọng những ý kiến và sáng
kiến của các ngài trong đời sống thiêng liêng và mục vụ. Đồng thời phải biết
lắng nghe các ngài sửa lỗi, góp ý và xây dựng cho đời sống linh mục của mình.
·
Cố gắng hiểu tâm trạng của họ, dù
khác với tâm trạng mình, và quan tâm đến các dự tính của họ với lòng nhân hậu.
Chia sẻ những kinh nghiệm mục vụ cho họ, vì chắc chắn họ còn rất bỡ ngỡ, nhất là
những kinh nghiệm mình đã trải qua, những bài học mình đã học được. Nêu gương
sáng về đời sống thiêng liêng và nhân bản, và sống xứng đáng như những người anh
thực sự.
·
Đón nhận họ
như những người em, giúp đỡ họ trong những công tác đầu tiên của sứ vụ linh mục,
hiểu tâm trạng, các dự tính của họ cách thiện chí. Tạo điều kiện để họ làm việc
mục vụ cũng như phát triển nhân cách và nhân đức.
·
Quan tâm đời
sống tinh thần, vật chất, chia sẻ kinh nghiệm mục vụ, cách ứng xử trong giao
tiếp với các hội đoàn cũng như mọi thành phần trong xã hội.
·
Chia sẻ công
việc và quyền điều hành, tiền bạc rõ ràng, công bằng, đối thoại cởi mở, sống vui
tươi hiệp nhất, sửa lỗi cho nhau trong tình huynh đệ. Giúp nhau trong đời sống
thiêng liêng, tri thức, vật chất.
3.b Những gì không
nên cư xử, nói và làm
·
Không nói
hành, nói xấu. Không hống hách, trưởng giả, tự cao, tự đại. Không cục bộ; chỉ
trích, công kích khi có bất đồng. Không bè phái, chia rẽ, đố kỵ. Không sống bất
hoà cho dù có những bất đồng.
·
Không ham dành phần thắng, so đo
tính toán thiệt hơn. Không tìm “khẳng định mình” bằng cách vùi đàn em lầm lỗi
xuống hố.
·
Không phê
bình, nhưng tìm mọi cách nâng đỡ đàn em, vì những khó khăn và thử thách ban đầu
của đời sống thực tế rất khác với những gì đã học trong Chủng Viện.
·
Không để
linh mục trẻ nghĩ mình đã học đầy đủ hết mà không tự đào tạo bản thân để trưởng
thành hơn và thích nghi với môi trường phục vụ.
·
Không nên
thử sức nhau về kiến thức, trắc nghiệm nhau về những vấn đề ngoài phạm vi sứ vụ
để đánh giá nhau. Không phân ranh giới và để mặc đàn em phải tự xoay sở một mình
hoặc “khoán trắng” và nhắm mắt làm ngơ trước những công việc họ được giao phó.
·
Không bảo
thủ, độc đoán, thành kiến, coi thường những sáng kiến mới và cách làm việc mới
cũng như suy nghĩ mới của họ. Không chê bai những bỡ ngỡ, thiếu sót của họ mà cố
gắng động viên để họ làm tốt hơn.
·
Không sợ
linh mục trẻ giỏi hơn mình rồi tìm cách chê bai trẻ tuổi, thiếu kinh nghiệm, đối
xử như người giúp việc, có khi còn nói tiếng nặng, tiếng nhẹ... cậy mình là đàn
anh để coi thường và dùng quyền lấn át.
·
Không tranh
chấp, dành giật với các linh mục đàn em, nói xấu, kể chuyện của họ với giáo dân
và người khác, nhưng phải có sự quan tâm nâng đỡ, góp ý chân thành trong tinh
thần tương trợ lẫn nhau. Anh em linh mục nâng đỡ nhau là một thành trì vững chắc
cho cả hai.
4.
Tương quan với các chủng sinh, dự
tu, lễ sinh
4.a Những gì nên
cư xử, nói và làm
·
Yêu thương,
khích lệ, nâng đỡ tinh thần và vật chất cho các chủng sinh, dự tu và lễ sinh/
·
mầm non ơn
gọi giáo sĩ, nhất là các em trong giáo xứ của mình, vì Giáo hội không thể tồn
tại nếu không có các thừa tác viên nối tiếp sứ vụ Chúa Giêsu.
·
Các chủng
sinh và mầm non ơn gọi giáo sĩ là những người tiếp nối ta trong việc loan báo
Tin Mừng. Luôn mang trong mình thao thức tìm những ơn gọi cho Chúa và Giáo Hội,
vì tìm ơn gọi và nuôi dưỡng ơn gọi linh mục tương lai là bổn phận và trách nhiệm
đặc biệt của các cha xứ.
·
Hãy nuôi
dưỡng, động viên, khích lệ, giúp đỡ vật lực cho các mầm non ơn gọi đó, nhất là
những gia đình nghèo. Tạo sự gần gũi và môi trường thuận lợi cho các em sinh
hoạt định kỳ. Hướng dẫn việc học tập, giáo huấn, rèn luyện các em về những kiến
thức nhân bản và tu đức.
·
Kêu gọi các
em tham gia các hoạt động trong các hội đoàn của giáo xứ như: giúp lễ, giáo lý
viên, giới trẻ, ca đoàn... Nhờ việc tham gia vào các hội đoàn này, các em gần
gũi với Chúa, hăng say việc tông đồ, hun đúc tinh thần tu trì và tinh thần sống
cộng đoàn, gần gũi với nhiều người, dễ cảm thông với con người, chia sẻ những
khó khăn mà họ gặp.
·
Giúp cho các
em yêu mến Chúa, yêu mến đời sống cầu nguyện, giúp các em năng lãnh nhận bí tích
Hoà Giải và Thánh Thể, viếng Mình Thánh Chúa, lần chuỗi Mân côi...
·
Cung cấp
sách thiêng liêng, hạnh các thánh, sách đào tạo linh mục và những sách liên quan
đến ơn gọi tu trì hầu giúp các em có được ý thức tích cực về đời sống thánh
hiến.
·
Giúp các em hiểu biết dần về ơn
gọi linh mục-tu sĩ, mở ra cho các em cái nhìn tích cực về ơn gọi linh mục và tu
trì, giúp các em tập sống đời tu ngay trong môi trường các em sinh sống như gia
đình, trường học cũng như các nơi sinh hoạt khác.
·
Tạo điều
kiện thuận lợi cho các em gặp gỡ và sinh hoạt định kỳ với nhau, để giúp các em
yêu thương nhau, giúp đỡ lẫn nhau, hy sinh cho nhau, chia sẻ đời sống cho nhau.
·
Giúp cho các em thêm nhiệt tâm, có
trách nhiệm về ơn gọi của mình và của người khác. Giúp các em có đời sống vui
tươi, cởi mở, sẵng sàng tiếp đón và nâng đỡ những người cần đến các em.
·
Nhất là giúp các em tiếp xúc và
làm quen với Lời Chúa qua việc đọc, suy ngẫm, tâm niệm Lời Chúa hằng ngày và lấy
Lời Chúa làm châm ngôn để sống trong ngày. Tập các em yêu mến Mẹ Maria và các
thánh, đọc sách hạnh các thánh, noi gương các thánh, tập sống các nhân đức của
các ngài, đặc biệt gương Mẹ Maria.
·
Để tâm giải thích cho các em về sự
cao quý và cần thiết của chức linh mục. Cổ vũ ơn kêu gọi trong các giáo xứ mà
mình có trách nhiệm, qua các bài giảng, các giờ giáo lý và nhu cầu của Giáo Hội
địa phương, nhất là bằng chính đời sống phục vụ vô vị lợi của mình.
·
Khuyến khích
lập Hội Cổ Võ và Bảo Trợ Ơn Gọi. Lập Gia Đình Ơn Gọi trong giáo xứ (gồm tất cả
những người đang tu, đang tìm hiểu ơn gọi, và có ý hướng đi tu), sinh hoạt mỗi
năm một lần vào dịp Tết (liên hoan, tặng quà).
·
Giúp các Ơn
Gọi trong giáo xứ sinh hoạt học hỏi hàng tuần. Quan tâm tìm biết hoàn cảnh của
từng em để có thể giúp đỡ cách thích hợp và hiệu quả về tinh thần lẫn vật chất.
·
Đón nhận tất cả các em muốn đi tu.
Tạo điều kiện để các em có thể phục vụ Phụng vụ cộng đoàn (giúp lễ, ca đoàn).
Lấy tình cha con chăm sóc, hướng dẫn các em sống ơn gọi để nối tiếp mình sau
này. Trao cho họ vài công việc vừa sức họ, để huấn luyện họ.
·
Kêu gọi, cầu
nguyện, khích lệ, động viên, nâng đỡ các ơn gọi. Lo cho giáo lý ơn gọi, huấn
luyện các em giúp lễ, tiếp xúc với từng em để phát hiện những tài năng và ý Chúa
nơi các em, giúp các em can đảm lựa chọn.
·
Sống trong
sáng, vui tươi và nhiệt thành hợp tác với chủng viện trong việc đào tạo linh mục
tương lai. Cố gắng tạo cơ hội làm việc để hiểu biết chủng sinh và trở nên một
phần trong việc đào tạo họ, mà một ngày kia họ sẽ hội nhập với mình trong sứ vụ
linh mục.
·
Vai trò và
sự đóng góp của cha xứ rất quan trọng trong việc đào tạo ứng sinh: Cung ứng cho
chủng sinh nhiều cơ hội thuận lợi để anh được kinh nghiệm và tham dự vào sứ vụ
giáo xứ; phát triển đời sống cầu nguyện của anh ngay trong bối cảnh đời sống
giáo xứ, vì đó sẽ là cuộc sống thực sự của anh sau này; học hỏi với cha xứ mà
anh đang sống với ngài như người tập sự; được làm quen với nhiều giáo xứ khác
nhau trong Giáo phận; đem những gì đã học trong chủng viện ra hành động trong
những hoàn cảnh thực tế; kinh nghiệm được cuộc sống nhà xứ; qua việc phục vụ và
cộng tác với giáo dân, chủng sinh có thể học được nơi họ rất nhiều điều, đó là
một chuẩn bị tuyệt vời cho sứ vụ của anh sau này. Sự hiện diện hữu hình của các
chủng sinh ở trong giáo xứ cũng sẽ thăng tiến việc thúc đẩy và phát triển các ơn
gọi linh mục và tu sĩ.
4.b Những gì không
nên cư xử, nói và làm
·
Không dửng dưng, vô trách nhiệm,
hoặc xa lánh việc kêu gọi những người có thiện chí dấn thân phục vụ Chúa, phục
vụ Giáo Hội và các linh hồn trong đời sống tu trì. Không vì sợ mất thời gian
hoặc tốn kém tiền của mà từ chối các ơn gọi đến với mình.
·
Không làm
vơi đi lòng nhiệt thành của các em đang có thiện chí dấn thân phục vụ Chúa, Giáo
Hội và các linh hồn. Không kể khổ, hay đưa ra những khó khăn như muốn thử thách
mức chịu đựng của các mầm non ơn gọi.
·
Không nên có
thái độ nhăn nhó khó chịu hay gây khó khăn cho một ơn gọi nào đó muốn tìm đến
với đời sống này. Trái lại phải hết sức nâng đỡ các mầm non về vật chất, chỉ dạy
về đời sống thiêng liêng và động viên về đời sống tri thức để các ơn gọi này có
thể triển nở.
·
Không nên
coi việc đào tạo chủng sinh là trách nhiệm riêng của Chủng viện và Giám mục giáo
phận, vì nó là trách nhiệm của toàn thể Hội thánh, nhất là hàng giáo sĩ.
·
Không được
nói cũng như làm những gì gây ấn tượng xấu trước các chủng sinh đàn em trong
tình cảm, cách sống, cách cư xử hay trong cung cách làm mục vụ của mình.
·
Không nên
nói nhiều đến mặt trái cuộc đời của con người linh mục, hoặc gây gương mù có thể
làm cho những mầm non ơn gọi này “vỡ mộng”.
·
Không lợi
dụng, khai thác họ như người giúp việc cho mình. Không trao cho họ công việc quá
sức mà họ không thể làm được khiến họ chán nản bỏ cuộc.
·
Không tránh
né, thờ ơ lãnh đạm với việc cầu nguyện, kêu gọi, khích lệ động viên, giáo dục,
hướng dẫn, để cung cấp những ơn gọi cho Giáo hội.
·
Không sống
ngược với điều mình dậy bảo và làm gương xấu cho mầm non ơn gọi.
còn tiếp
|
VỀ MỤC LỤC |
|
BỆNH
VIÊM PHỔI.
|
Với thời tiết
mưa lạnh thay đổi bất thường như hiện nay, thì số người mắc bệnh
Viêm Phổi cũng gia tăng.
Viêm phổi là
bệnh khá phổ biến. Tại Hoa Kỳ mỗi năm có từ 2-3 triệu người bị
Viêm phổi với cả gần 50,000 tử vong trong khi đó, tại các quốc
gia đang phát triển thỉ bệnh là nguyên nhân tử vong hàng đầu
trong dân chúng.
Nguyên nhân.
Nguyên nhân
gây ra Viêm phổi là do các loại vi khuẩn, virus có mặt thường
xuyên trong môi trường mà ta sinh sống. Khi sức đề kháng với
bệnh tật bị suy yếu, các vi sinh vật này sẽ vượt qua hàng rào
bảo vệ, xâm nhập phổi và gây ra bệnh.
Vi khuẩn
Streptococcus pneumonia là vi khuẩn gây viêm phổi thông thường
nhất.
Dấu hiệu bệnh
Khi bị viêm
phổi do vi khuẩn thì các dấu hiệu bệnh xuất hiện khá
nhanh.
- Bệnh nhân
bắt đầu ho ra đàm đôi khi lẫn máu. Đàm là những chất nhớt tiết
ra từ phổi khi bi các vi sinh vật kích thích. Ho là phản ứng của
cơ thể để loại bỏ đàm nhớt, nếu không thì sự hố hấp trao đổi
không khí sẽ bị trở ngaị.
- Sốt: Nhiệt
độ cơ thể tăng, có khi tới 39 C hoặc 102F. Bệnh nhân cũng thấy
ớn lạnh run lập cập và đổ mồ hôi.
- Khó thở,
đau ngực. Hơi thở ngắn và dồn dập nhanh, không đủ thì giờ cho sự
trao đổi giữa dưỡng khí và thán khí, bệnh nhân mệt mỏi, xanh sao.
Nếu màng phổi
cũng bị viêm nhiễm thì cơn đau ngực lại gia tăng như xé cắt lồng
ngực, nhất là khi ho hoặc thở mạnh hít vào.
- Nhức đầu,
nhịp tim nhanh có khi lên tới trên 100 nhịp/phút.
- Cơ thể mệt
mỏi, yếu sức uể oải không muốn cất nhắc làm bất công việc nặng
nhẹ nào.
- Nhiều người
bị nôn mửa, thậm chí kèm theo tiêu chẩy.
Ở người cao
tuổi, nhiệt độ đôi khi lại không cao lắm, ho lại không có đàm
khiến cho họ không chú tâm tới bệnh, tới khi bệnh trầm trọng thì
quá trễ.
Với viêm
phổi do virus gây ra thì dấu hiệu lạị không rõ ràng, đôi khi
có thể lầm tưởng là mình chỉ bị common cold.
Nhiều trường
hợp, Cảm lạnh và Cúm tạo cơ hội cho vi khuẩn xâm nhập cơ thể,
gây ra Viêm Phổi, là biến chứng trầm trọng, có thề gây ra tử
vong ở trẻ em và người tuổi cao mà sức đề kháng suy kém.
Ai hay bị Viêm phổi?
-Tuổi tác.
Hai lớp người dễ bị viêm phổi là người trên 65 tuổi và các cháu
bé dưới 1 tuổi. Ở người trên 65 tuổi, tính miễn dịch của cơ thể
giảm còn ở các cháu bé thì sức đề kháng với vi khuẩn chưa được
phát triển đầy đủ.
- Hút thuốc
lá làm suy yếu hệ miễn dịch khiến cho viêm phổi dễ dàng xảy ra
dù là ở người trai tráng khỏe mạnh.
- Người đang
có bệnh kinh niên như tim mạch, tiểu đường, bệnh hen suyễn hoặc
đang trải qua hóa trị hơặc xạ trị với các bệnh ung thư.
- Uống nhiều
rượu;
- Đang dùng
các loại thuốc chống acid bao tử như Prisolex;
- Làm việc
trong môi trường không khí ô nhiễm với bụi bậm hóa chất như tại
nông trại, công trường…
- Sống chung
với nhiều người như trường học, nhà dưỡng lão, bệnh nhiễm dễ lây
lan từ người nyày sang người khác.
Làm sao xác định bệnh
Khi các dấu
hiệu bệnh kể trên kéo dài sau vài ba ngày mà không thuyên giảm
thì nên đi bác sĩ để khám tìm bệnh.
-Thường
thường, chụp X-ray phổi xác định bệnh với các vết mờ của các
vùng phổi bị viêm xuất hiện trên phim.
-Thử máu để
đo số lượng bạch huyết cầu. Nếu số lượng lên cao thì đó là dấu
hiệu của sự nhiễm trùng, vì các tế bào này được sản xuất nhiều
để chống lại sụ xâm nhập của tác nhân gây bệnh.
Bác sĩ cũng
thử đàm hoặc chất tiết từ cơ quan hô hấp để tìm ra các loại vi
sinh vật có thể gây ra bệnh rồi dùng các dược phẩm thích hợp.
Ta cũng thấy
bác sĩ dùng ống khám bệnh để nghe hơi thở bất thường trên ngực
trên lưng bệnh nhân: những tiếng khò khè vỉ ống phổi có đàm,
những vùng phổi bị thương tích không truyền được âm thanh của
hơi thở.
Bệnh Viêm phổi có nguy hiểm không?
Với người
khỏe mạnh, có sức đề kháng cao và được điều trị đúng lúc, đúng
cách với kháng sinh hữu hiệu, họ có thể vượt khỏi các biến chứng
của bệnh viêm phổi. Nhưng với người cao tuổi hoặc trẻ em quá nhỏ,
viêm phổi có thể đưa tới các biến chứng trầm trọng như:
- Nhiễm trùng
huyết: khi vi khuẩn từ tế bào phổi xâm nhập dòng máu ở các phế
nang, đưa tới nhiễm vi khuẩn tổng quát, gây nguy hại cho các bộ
phận khác của cơ thể thậm chí cả tử vong.
- Túi mủ
trong phổi khi mà vi sinh vật tích tụ trong phổi tạo ra các túi
mủ, hủy hoại sự hô hấp và gây tổn thương cho phổi.
- Viêm nhiễm
màng phổi, màng phổi ứ nước gây đau đớn khó khăn khi thở.
- Khi phổi bị
viêm gây ra tổn thương ở nhiều vùng, sự hố hấp giảm đưa tới rối
loạn trao đổi không khí, ảnh hưởng tới sức khỏe chung của con
người.
Bác sĩ chữa viêm phổi ra sao?
- Viêm phổi
gây ra do virus thường mau lành dù không điều trị. Vả lại, cũng
không có thuốc đặc trị cho virus viêm phổi. Kháng sinh không có
công hiệu gì với virus. Bệnh nhân chỉ cần nghỉ ngơi tĩnh dưỡng
tự chăm sóc ít ngày là vượt qua, ngoại trừ khi lại bị bội nhiễm
với các loại vi khuẩn.
- Với viêm
phổi do vi khuẩn, bác sĩ có thể lựa nhiều loại kháng sinh thích
hợp để loại trừ vi khuẩn đó. Thời gian uống kháng sinh tùy theo
tình trạng nặng nhẹ của bệnh cũng như sức khỏe của mỗi người, có
thể là 2 tuần lễ. Xin uống thuốc theo đúng hướng dẫn của bác sĩ.
Không tự ngưng thuốc khi thấy dấu hiệu bệnh thuyên giảm, vì vi
khuẩn chưa bị tiêu diệt hoàn toàn và chúng có thể trở nên quen
nhờn với thuốc.
Ngoài ra,
thuốc hạ nhiệt độ như Tylenol, Ibuprofen cũng cần dùng tới. Xin
đừng cho trẻ em dùng thuốc Aspirin vì thuốc có thể gây ra tác
dụng phụ quan trọng.
Hỏi ý kiến
bác sĩ coi có cần uống thêm thuốc ho, vì ho là để loại bỏ nhớt
đàm từ phổi. Nếu cần, chỉ nên uống vừa đủ thuốc ho để bớt khó
chịu và ngủ dễ dàng.
Nên uống
nhiều nước để đàm loãng, dễ được ho loại bỏ khỏi cơ thể.
Thường thường
viêm phổi có thể điều trị tại nhà, uống các dược phẩm do bác sĩ
biên toa. Chỉ vào bệnh viện nếu trên 65 tuổi, ho nhiều, khó thở,
nhịp tim nhanh, huyết áp xuống thấp, cần thở với bình dưỡng khí,
không ăn uống được.
Có thể phòng ngừa bệnh viêm phổi
không?
Sau đây là
một số biện pháp mà mọi người có thể áp dụng để giảm thiều rủi
ro bị bệnh Viêm Phổi.
1. Ngưng hút
thuốc lá, nếu đang hút.
2. Đừng tiếp
xúc quá gần với người đang bị bệnh truyền nhiễm như cảm lạnh,
cúm, viêm phổi.
3. Rửa tay
thường xuyên để giảm thiểu sự lây lan của bệnh vì vi sinh vật
gây bệnh dính trên tay của mình, rồi đưa tay dơ lên miệng, lên
mũi. Nếu không có dịp rửa tay bằng nước với xà bông, có thể tạm
thời lau chùi tay với dung dịch có chất cồn.
Khi ho, hắt
hơi, dùng giấy hoặc khuỷu tay áo để che mũi miệng thay vì dùng
bàn tay.
4. Chích ngừa
Với người
trên 65 tuổi, người hút thuốc lá, hoặc người có bệnh kinh niên
được chích loại vaccine dành riêng cho họ gọi là PPSV (Pneumococcal
polysaccharide vaccine.
Với trẻ em là
pneumococcal conjugate vaccine PCV.
Xin hỏi bác
sĩ về lịch trình chích ngừa cho từng loại tuổi.
Ngoài ra, mọi
người cũng cần chích ngừa các bệnh có thể gây ra viêm phổi, như
chích ngừa cúm mỗi năm; chích ngừa thủy đậu, ban sởi nếu chưa
bao giờ mắc các bệnh này hoặc chưa bao giờ chích ngừa chúng.
Tự chăm sóc
Ngoài việc
uống thuốc theo toa bác sĩ, bệnh nhân nên có chương trình tự
chăm sóc, như là:
- Nghỉ ngơi
đầy đủ để dưỡng bệnh và trị bệnh;
- Không đi
làm hoặc đi học cho tới khi hết nóng sốt để tránh truyên bệnh
của mình cho người khác;
- Uống nhiều
chất lỏng như nước, các loại súp để tránh thiếu nước trong cơ
thể và để long đàm, dễ loại ra ngoài;
- Giữ hẹn tái
khám với bác sĩ.
Kết luận
Một vài kết
luận nên ghi nhớ:
- Tuy Viêm
phổi là nguyên nhân tử vong đứng hàng thứ 6 trong số các bệnh
tại Hoa Kỳ.
- và bệnh
viêm phổi rất dễ lây lan tử người này qua người khắc, bằng những
hạt nước nhỏ li ti từ mũi miệng người bệnh đưa vào không khí mà
mọi người hít thở.
- Nhưng Viêm
phổi là bệnh có thể phòng ngừa và điều trị được.
Bác sĩ Nguyễn Ý
Đức
www.bsnguyenyduc.com
|
VỀ MỤC LỤC |
Bệnh tùy hứng vô định |
(Ghi lại bài nói chuyện của Đức Tổng Giám mục Phanxicô
Xaviê Nguyễn Văn Thuận với giới trẻ Việt Nam
tại Strasbourg, Pháp, chiều ngày 12.9.1998)
Giới thiệu
Muốn thành công trước hết phải chữa trị tận gốc mười (10)
chứng bịnh làm băng hoại xã hội ngày nay.
Cuộc sống cộng đồng và Giáo hội, không những ở Việt Nam mà ngay
cả ở hải ngoại, hiện đang có những bất ổn. Không hoặc chưa phát
huy được nét tích cực của mình. Do đâu ?
Có rất nhiều căn nguyên. Những căn nguyên này là những chứng
bịnh vừa nguy hiểm vừa truyền nhiễm đang hoành hành trong xã
hội, và có cơ nguy làm cho cuộc sống xã hội băng rã. Tôi qui
chúng lại thành mười bệnh lớn:
Thập đại bịnh.
8. Bệnh tùy
hứng vô định
Người không
có lý tưởng rõ ràng. Đời vô định hướng. Ai xúi thì nhắm mắt làm
theo, bất kể hay dở, khôn dại. Xong rồi phủi tay. Chẳng có dự án
và chẳng có một người nào làm lý tưởng cho đời mình. Đây là loại
người tùy hứng.
Người ta hay
nói đời là một giấc mơ. Nhưng đời có thật là một giấc mơ không ?
Mơ là chuyện mộng, không bắt buộc phải hiện thực. Nhưng đời trái
lại là cuộc sống thực tế của mỗi người, bắt mình phải hoàn
thành.
Thánh Kinh
nói đến giấc mơ của Thánh Giuse. Ông mơ thiên thần báo phải đem
Hài nhi và mẹ người trốn sang Ai Cập. Cái đặc biệt ở đây là
Giuse đã thực hiện giấc mơ đó và nhờ vậy Chúa Giêsu thoát chết.
Người trẻ
cần có lý tưởng và phải thực hiện cho bằng được. Nhưng phải định
hướng cho trúng. Truyện kể có người khi còn trẻ quyết tâm sẽ
thay đổi cả thế giới. Khi đứng tuổi thấy mình chả thay đổi được
ai, bèn chuyển mục tiêu gần hơn: sẽ thay đổi gia đình mình. Đến
khi về già quay lại thấy mình cũng chả thay đổi được gia đình,
mới nhận chân ra rằng muốn thay đổi gia đình hay thế giới trước
hết phải thay đổi chính con người của mình đã !
Đức Hồng Y Phanxicô
Xaviê Nguyễn Văn Thuận
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|