Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

 

 

 

ĐỰƠC CHỌN GIỮA LOÀI NGƯỜI
VÀ CHO LOÀI NGƯỜI  (x. Dt, 5.1)

 

GIÁO SĨ:

Xuất phát từ giáo dân, hiện diện vì giáo dân và cậy dựa vào giáo dân

 

ĐỂ CÙNG LÀM VINH DANH THIÊN CHÚA

 

www.conggiaovietnam.net                          giaosivietnam@gmail.com

Đặc San Điện Tử    Giáo Sĩ Việt Nam    Số 186, Chúa Nhật 16.12.2012


MỤC LỤC 

PORTA FIDEI (tiếp theo)                                                                               Bản dịch của WHĐ

TIN ! LÀ ĐÓN NHẬN VÀ ĐI VÀO TÌNH YÊU CỦA THIÊN CHÚA           Jos.Vinc. Ngọc Biển, SsP.

Một cộng đoàn bị phân tán và được đoàn tụ  
Chuyển ngữ: Thérèse Trần Thiết + Fr. Marie Bảo Tịnh O.Cist

MARIA NAZARETH, NGƯỜI ĐƯỢC GỌI, ĐƯỢC ĐỀ TẶNG VÀ ĐƯỢC CHỌN ĐỂ THUẦN NHẤT VỚI CHÚA GIÊSU  Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh

NĂM ĐỨC TIN : HỌC HỎI TÀI LIỆU CỦA CÔNG ĐỒNG VATCANÔ II     Lm. PX. Ngô Tôn Huấn

CON ĐƯỜNG LOAN BÁO TIN MỪNG HÔM NAY                                      Lm. VĨNH SANG, DCCT

Bản phúc trình về tình hình công lý, hòa bình và nhân quyền trong xã hội Việt Nam hiện nay ỦY BAN CÔNG LÝ & HÒA BÌNH / HĐGMVN

THƯƠNG TIẾC BÁC CHÍN (1920 - 2012)                                         Luật sư Đoàn Thanh Liêm

Con chó và con cáo                                                                            Lm. Minh Anh chuyển ngữ

LINH MỤC GIÁO PHẬN TÁI ĐỊNH HƯỚNG ĐỜI SỐNG VÀ SỨ VỤ TRONG VIỄN ẢNH QUYỀN BÍNH VÀ VÂNG LỜI                                                       Lm. Micae-Phaolô Trần Minh Huy, pss.

NHÌN DA CHẨN ĐOÁN BỆNH                                                                    Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức

Bệnh cá nhân chủ nghĩa                                                                  HY. PX. Nguyễn Văn Thuận


PORTA FIDEI

 

PORTA FIDEI Tông thư – Tựsắc của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI, công bố Năm Đức Tin 2012 – 2013

(tiếp theo)

11. Để hiểu biết một cách có hệ thống về nội dung đức Tin, mọi người đều có thể tìm thấy sự trợ giúp quý báu và không thểthiếu trong Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo. Đó là một trong những thành quả quan trọng nhất của Công đồng chung Vatican II. Trong Tông hiến Fidei depositum (Kho tàng đức Tin), không phải ngẫu nhiên được ký vào ngày kỷ niệm 30 năm khai mạc Công đồng chung Vatican II, Đức Chân phước Gioan Phaolô II đã viết: “Sách Giáo lý này sẽ mang lại một đóng góp quan trọng cho công cuộc canh tân toàn thể đời sống Giáo hội… Tôi nhìn nhận Sách này như một dụng cụ giá trịvà hợp pháp phục vụ sự hiệp thông trong Giáo hội và như một chuẩn mực chắc chắnđể giảng dạy đức Tin” [21].

Theo đó, Năm Đức Tin phải thểhiện quyết tâm tái khám phá và học hỏi nội dung cơ bản của đức Tin được trình bày trong Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo với sự tổng hợp có hệ thống và gắn bó hữu cơ. Quả thật, ở đây chúng ta thấy sự phong phú của giáo huấn mà Giáo hội đã đón nhận, gìn giữ và giới thiệu trong hai ngàn năm lịch sử của mình. Từ Kinh Thánh tới các Giáo phụ, từ các bậc Thầy về thần học cho đến các Thánh qua các thế kỷ, sách Giáo lý là bản ghi nhớ vĩnh viễn về biết bao cách thức Giáo hội suy ngẫm về đức Tin và tạo sự tiến triển trong giáo thuyết, nhằm giúp các tín hữuđược vững vàng trong đời sống đức Tin.

Qua cách cấu trúc, Sách Giáo Lý Hội Thánh Công giáo trình bày sự phát triển đức Tin vươn đến tận những đềtài lớn của đời sống hằng ngày. Qua các trang sách, có thể thấy điều được trình bày trong sách Giáo Lý không phải là một lý thuyết, nhưng là một cuộc gặp gỡ với một Người đang sống trong Giáo hội. Quả thật, sau phần Tuyên xưng đức Tin, là phần giải thích đời sống bí tích, trong đó Chúa Kitô hiện diện, hoạt động và tiếp tục xây dựng Giáo hội của Người. Nếu không có phụng vụ và các bí tích thì việc tuyên xưng đức Tin sẽ không hiệu quả, vì thiếu ân sủng nâng đỡ việc làm chứng của các Kitô hữu. Cũng vậy, giáo huấn của sách Giáo Lý về đời sống luân lý đạt trọn vẹn ý nghĩa nếu được đặt trong tương quan vớiđức Tin, phụng vụ và cầu nguyện.

12. Vì thế, trong Năm Đức Tin, Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo sẽ là một công cụ đích thực nâng đỡ đức Tin, nhất là cho những người quan tâm đến việc huấn luyện các Kitô hữu, một điều rất quan trọng trong bối cảnh văn hóa ngày nay. Với mục đích ấy, tôi đã mời gọi Bộ Giáo lý đức Tin, cùng với các Cơ quan hữu trách khác của Tòa Thánh, soạn một Bản hướng dẫn,đề ra cho Giáo hội và các tín hữu một số chỉ dẫn để sống Năm Đức Tin này một cách hiệu quả và thích hợp hơn, phục vụ cho lòng tin và công cuộc truyền giáo.

Quả thật, nhiều hơn so với trước đây, đức Tin hiện đang phải đối diện với một loạt vấn đề, do não trạng con người đã thay đổi, nhất là ngày nay cho rằng sự chính xác hợp lý thuộc về lĩnh vực chinh phục của khoa học và công nghệ. Tuy nhiên Giáo hội không bao giờ sợ chứng minh rằng không có bất kỳ xung đột nào giữađức Tin và khoa học chân chính, vì cả hai đều hướng đến chân lý, mặc dù bằng những con đường khác nhau [22].

13. Một điều quan trọng trong Năm Đức Tin là điểm lại lịch sử đức Tin của chúng ta, được ghi dấu bằng mầu nhiệm lạ lùng về sự đan xen giữa thánh thiện và tội lỗi. Lịch sử thánh thiện cho thấy sự đóng góp lớn lao của những người, nam và nữ, cho sự tăng trưởng và phát triển cộng đoàn bằng chứng từ cuộc sống của mình, còn lịch sử tội lỗi thúc đẩy mỗi người phải thành tâm và thường xuyên hoán cải để cảm nghiệm lòng thương xót của Chúa Cha, Đấng đang đến gặp gỡ mọi người.

Lúc này, chúng ta hãy ngắm nhìn Chúa Giêsu Kitô “là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin” (Dt 12, 2): nơi Người mọi khổ đau và khát vọng của tâm hồn con người được hoàn tất. Niềm vui yêu thương, câu trả lời trước bi kịch khổ ải và đớnđau, sức mạnh của tha thứ khi bị xúc phạm, và chiến thắng của sự sống trước hưkhông của sự chết, tất cả đều tìm được sự hoàn tất trong mầu nhiệm Nhập thể, mầu nhiệm Chúa làm người, chia sẻ sự yếu đuối của chúng ta để biến đổi nó bằng quyền năng sự phục sinh của Người. Nơi Đấng đã chịu chết và sống lại để cứu chuộc chúng ta, đã ngời sáng lên biết bao tấm gương đức Tin, in dấu trong suốt hai ngàn năm lịch sử cứu độ của chúng ta.

Nhờ lòng tin, Đức Maria đã đón nhận lời Thiên thần, và trong tinh thần vâng phục, Mẹ đã tin vào lời loan báo Mẹ sẽ trở thành Mẹ của Thiên Chúa (Lc 1, 38). Khi đến thăm bà Isave, Mẹ cất bài ca chúc tụng Đấng Tối Cao vì những kỳ công Người thực hiện nơi tất cả những ai đã đặt niềm tin nơi Người (x. Lc 1, 46-55). Mẹ sinh hạ người Con duy nhất trong vui mừng và lo âu, mà giờ đây Mẹ vẫn còn nguyên vẹn đồng trinh (x. Lc 2, 6-7). Tín nhiệm nơi Thánh Giuse, hôn phu của Mẹ, Mẹ mang Chúa Giêsu sang Ai Cập để cứu con khỏi cuộc bách hại của Hêrôđê (x. Mt 2, 13-15). Với đức Tin, Mẹ theo Chúa lúc Người đi rao giảng và ở với Chúa cho đến tận đồi Golgotha (x. Ga 19, 25-27). Với đức Tin, Mẹ Maria đã hưởng nếm những hoa trái của cuộc phục sinh của Chúa Giêsu, và gìn giữ từng kỷ niệm trong lòng (x. Lc 2, 19.51), và Mẹ truyền lại những kỷ niệm ấy cho Nhóm Mười hai tụ họp với Mẹ trong Nhà Tiệc lyđể nhận lấy Chúa Thánh Thần.

Nhờ đức Tin, các Tông đồ đã từ bỏ mọi sự để theo Thầy (x. Mc 10, 28). Các ngài tin vào lời Chúa loan báo Nước Chúa đã đến và được thực hiện nơi Người (x. Lc 11, 20). Các tông đồ sống đời sống kết hiệp với Chúa Giêsu, Đấng dùng lời giáo huấn mà dạy dỗ các ngài, để lại cho các ngài luật sống mới, qua đó, người ta nhận ra các ngài là môn đệ của Chúa sau khi Người chịu chết (x. Ga 13, 34-35). Nhờ đức Tin, các tông đồ đã đi khắp thế giới, theo lệnh truyền mang Tin Mừng cho mọi thụ tạo (x. Mc 16, 15) và không chút sợ hãi, các tông đồ loan báo cho mọi người niềm vui Phục sinh mà chính các vị đã là những chứng nhân trung thành.

Nhờ đức Tin, các môn đệ hình thành cộng đoàn đầu tiên, quy tụ quanh giáo huấn của các Tông đồ, cùng cầu nguyện, cử hành Thánh Thể, đưa những gì mình có làm của chung để giúp đỡ những anh chị em túng thiếu (x. Cv 2, 42-47).

Nhờ đức Tin, các vị tử đạo hiến mạng sống mình làm chứng cho chân lý Phúc Âm, chân lý đã làm cho họ được biến đổi và đạt tới ơn cao trọng nhất của tình yêu là tha thứ cho những kẻ bách hại mình.

Nhờ đức Tin, những người nam và nữ đã dâng hiến đời mình cho Chúa Kitô, bỏ mọi sự để sống đơn sơ theo tinh thần Phúc Âm, vâng phục, khó nghèo và khiết tịnh, là những dấu chỉ cụ thể của niềm mong chờ Chúa sắp đến. Nhờ đức Tin,đông đảo Kitô hữu đã thúc đẩy những hoạt động bênh vực công lý để cụ thể hóa Lời Chúa, Đấng đã đến loan báo cho mọi người được giải thoát khỏi áp bức và được hưởng một năm hồng ân (x. Lc 4, 18-19).

Nhờ đức Tin, qua các thế kỷ, những người nam người nữ thuộc mọi lứa tuổiđược ghi tên trong Sách Sự Sống (x. Kh 7, 9; 13, 8) đã nói lên nét đẹp khi bước theo Chúa Giêsu tại những nơi họ được kêu gọi để làm chứng về cuộc sống làm người Kitô hữu: trong gia đình, nơi làm việc, trong xã hội, khi sống ơn đoàn sủng và thực thi các thừa tác vụ họ đã được kêu gọi.

Nhờ đức Tin, chính chúng ta cũng đang sống: qua việc nhìn nhận một cách sống động Chúa Giêsu đang hiện diện trong cuộc sống chúng ta và trong dòng lịch sử.

14. NămĐức Tin cũng sẽ là cơ hội tốt để tăng cường làm chứng bằng thực thi bác ái. Thánh Phaolô nhắc nhở: “Hiện nay đức Tin, đức Cậy, đức Mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức Mến” (1 Cr 13,13). Với những lời còn mạnh hơn nữa nhằm thúc giục các Kitô hữu, Thánh Tông đồ Giacôbê khẳng định: “Thưa anh em, ai bảo rằng mình có đức Tin mà không hành động theo đức Tin, thì nào có ích lợi gì? Đức Tin có thể cứu người ấy được chăng? Giả như có người anh em hay chịem không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: ‘Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no’, nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì? Cũng vậy, đức Tin không có việc làm thì quả là đức Tin chết. Đàng khác, có người sẽbảo: ‘Bạn, bạn có đức Tin; còn tôi, tôi có việc làm. Bạn thử cho tôi thấy thếnào là tin mà không có việc làm, còn tôi, qua việc làm tôi cho bạn thấy đức Tin của tôi’” (Gc 2,14-18).

Đức Tin không có đức Mến sẽ chẳng mang lại kết quả, còn đức Mến không có đức Tin, sẽ là một tình cảm luôn phó mặc cho ngờ vực.Đức Tin và đức Mến cần có nhau đến mức nhân đức này giúp cho nhân đức kia thể hiện chính mình. Thực tế có nhiều Kitô hữu hiến đời mình để yêu thương những người cô thế, bị gạt ra ngoài lề, bị loại trừ, coi họlà những người đầu tiên cần phải đến gặp và là những người chủ yếu phải được nâng đỡ, vì nơi họ phản chiếu gương mặt của chính Chúa Kitô. Nhờ đức Tin, chúng ta có thể nhận ra gương mặt Chúa phục sinh nơi những người đang mong được chúng ta yêu thương: “Tất cả những gì các con đã làm cho một trong những người anh em bé nhỏ nhất của Thầy đây, tức là các con đã làm cho chính Thầy” (Mt 25, 40): nhữngđiều Chúa nói chính là lời cảnh báo không được phép quên, và là một lời mời gọi không ngừng đáp lại tình yêu Chúa đã chăm sóc chúng ta. Chính đức Tin giúp nhận ra Chúa Kitô và chính tình yêu của Chúa thôi thúc chạy đến cứu giúp Chúa mỗi khi Người trở thành người thân cận của chúng ta trên nẻo đường cuộc sống. Đượcđức Tin nâng đỡ, với niềm hy vọng chúng ta hãy nhìn đến công cuộc dấn thân của chúng ta trong thế giới, trong khi chờ đợi “trời mới đất mới, nơi công lý ngựtrị” (2 Pr 3, 13; x. Kh 21, 1).

15. Vào cuối đời, Thánh Tông đồ Phaolô truyền cho môn đệ Timôthê “hãy nỗ lực đạt được đức Tin” (2 Tm 2, 22), với lòng kiên trì như lúc còn trẻ (x. 2 Tm 3, 15). Chúng ta hãy nghe lời mời gọi này được gửi đến mỗi người chúng ta, để đừng ai biếng nhác trong đời sống đức Tin. Đức Tin là bạn đồng hành suốt đời, đem lại một cái nhìn luôn mới mẻ để nhận ra những kỳ công Chúa đang thực hiện cho chúng ta. Nhằm nắm bắt những dấu chỉ thời đại hiện nay của lịch sử, đức Tin thúc đẩy mỗi người chúng ta trởthành dấu chỉ sống động về sự hiện diện của Đấng Phục sinh trong thế giới. Điều mà thế giới ngày nay đặc biệt cần đến, đó là chứng từ đáng tin cậy của những người được Lời Chúa soi sáng nơi tâm trí, có khả năng khai mở tâm trí của biết bao người đang khao khát Thiên Chúa và sự sống thật, sự sống vô cùng vô tận.

“Ước gì Lời Chúa hoàn tất hành trình của mình và được tôn vinh” (2 Tx 3,1): ước gì Năm Đức Tin này làm cho tương quan của chúng ta với Chúa Kitô vững chắc thêm mãi, vì chỉ trong Người chúng ta mới vững lòng nhìn về tương lai và được bảo đảm về một tình yêu đích thực và lâu bền. Những lời thánh Tông đồ Phêrô chiếu tỏa tia sáng cuối cùng về đức Tin:“Anh em sẽ được hớn hở vui mừng, mặc dầu còn phải ưu phiền ít lâu giữa trăm chiều thử thách. Những thử thách đó nhằm tinh luyện đức Tin của anh em là thứ quý hơn vàng gấp bội, - vàng là của phù vân, mà còn phải chịu thửlửa. Nhờ thế, khi Đức Giêsu Kitô tỏ hiện, đức Tin đã được tinh luyện đó sẽ trởthành lời khen ngợi, và đem lại vinh quang, danh dự. Tuy không thấy Người, anh em vẫn yêu mến, tuy chưa được giáp mặt mà lòng vẫn kính tin. Vì vậy, anh emđược chan chứa một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang, bởi đã nhận được thành quả của đức Tin, là ơn cứu độ con người” (1 Pr 1, 6-9). Các Kitô hữu cảm nghiệm niềm vui và đau khổ. Biết bao vị thánh đã từng trải qua nỗi cô đơn! Biết bao tín hữu, kể cả ngày nay, bị thửthách vì Thiên Chúa vẫn im lặng trong khi họ muốn được nghe lời Người an ủi! Những thử thách của cuộc sống, đang khi giúp chúng ta hiểu được mầu nhiệm Thập giá và dự phần vào đau khổ của Chúa Kitô (x. Cl 1, 24), là khúc dạo đầu cho niềm vui và hy vọng mà đức Tin dẫn đến: “Khi tôi yếu đuối, chính là lúc tôi mạnh mẽ” (2 Cr 12, 10). Chúng ta vững vàng tin tưởng mạnh mẽ Chúa Giêsu đã chiến thắng cái ác và sự chết. Với niềm tín thác, chúng ta trao phó bản thân cho Chúa: Chúa hiện diện giữa chúng ta và chiến thắng quyền lực của ác thần (x. Lc 11, 20) và Giáo hội, cộng đoàn hữu hình của lòng Chúa thương xót, ở lại trong Chúa như dấu chỉgiao hòa rõ rệt với Chúa Cha.

Chúng ta hãy phó thác thời điểm ân sủng này cho Mẹ Thiên Chúa. Mẹ được tuyên xưng là “Có phúc vì đã tin” (Lc 1, 45).

Ban hành tại Đền thờ Thánh Phêrô, Rôma,

ngày 11 tháng Mười 2011,

năm thứ 7 sứ vụ Giáo hoàng của tôi

Bênêđictô XVI, Giáo hoàng

(Đức Thành chuyển ngữ)

 

Chú thích

[11] Hiến chế về Giáo hội Lumen Gentium, số 8.

[12] De utilitate credendi, 1, 2.

[13] x. Augustinô thành Hippo, Confessions, I, 1.

[14] Hiến chế về Phụng Vụ Sacrosanctum Concilium, số 10.

[15] x. Gioan Phaolô II, Tông hiến Fidei depositum (ngày 11 tháng Mười 1992): AAS 86 (1994), 116, DC 90 (1993), tr. 1-3.

[16] Bài giảng 215, 1.

[17] Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số167.

[18] x. Hiến Chế Tín Lý Dei Filius, Ch. III: DS 3008-3009; Hiến Chế Tín Lý Dei Verbum, số 5.

[19] Bênêđictô XVI, Huấn từ tại Collège des Bernardins, Paris (ngày 12 tháng Chín 2008): AAS 100 (2008), 722, DC 105 (2008), tr. 827.

[20] x. Augustinô thành Hippo, Confessions, XIII, 1.

[21] Gioan Phaolô II, Tông hiến Fidei depositum (ngày11 tháng Mười1992): AAS 86 (1994), 115et 117, DC 90 (1993), tr. 1-3.

[22] x. Thông điệp Fides et Ratio (ngày 14 tháng Chín 1998), ss. 34 và 106: AAS 91 (1999), 31-32, 86-87. DC 95 (1998), tr.913 và 938.

 
VỀ MỤC LỤC
TIN! LÀ ĐÓN NHẬN VÀ ĐI VÀO TÌNH YÊU CỦA THIÊN CHÚA
 

Jos.Vinc. Ngọc Biển, SsP.

Khi tôi còn nhỏ, tôi vẫn thường nghe thấy người lớn dạy con cái, cháu chắt của mình rằng: “chúng ta là con nhà có hồn có xác, phải biết phụng thờ Thiên Chúa bằng việc siêng năng đi lễ nhà thờ, chịu khó lần hạt để thể hiện niềm tin của mình vào Chúa”[1]. Khi lớn lên một chút, có dịp đi đây đó, học hỏi và từng trải trong cuộc sống, tôi mới khám phá ra rằng: tin không phải là chỉ có chuyện đi lễ nhà thờ, đọc năm ba câu kinh, lần một vài tràng chuỗi Mân côi là xong. Không phải chỉ có thế, mà tin ở đây còn phải là một thái độ, một hành vi lựa chọn. Tin Thiên Chúa thì cũng có nghĩa là ở lại trong Người. Ở lại trong Người là gì nếu chẳng phải là Tình yêu được nên một với Người!

Đọc lại lịch sử Giáo Hội thời sơ khai ta thấy rất rõ về những hành vi sống và bảo vệ đức tin của các Tông đồ và những tín hữu tiên khởi. Khi bị truy lùng và cấm đạo suốt III thế kỷ, các ngài đã phải bới đất, đào hầm để lẩn chốn (hầm đó ngày nay người ta gọi là hang toại đạo). Chấp nhận thiếu thốn tư bề: ốm đau, bệnh tật, dơ bẩn...để bảo vệ đức tin, để trung thành phụng sự và yêu mến Chúa, Đấng đã yêu mình trước.

Lược qua lịch sử Giáo Hội Việt Nam, những thử thách đau khổ của cha ông ta cũng không kém gì các tông đồ và những tín hữu thời Giáo Hội sơ khai. 300 năm bắt đạo, cũng là 300 năm tổ tiên chúng ta sống trong đau khổ liên lỉ, đôi khi sự cấm cách có trùng xuống, nhưng đấy cũng chỉ là hình thức hoãn binh để chuẩn bị cho một cuộc bắt bớ mới ác liệt, tàn khốc hơn mà thôi. Những hình khổ như: xiềng xích, gông cùm, bỏ đói, phơi nắng, đánh đòn, voi giầy, phân thây, thắt cổ, thiêu sống, trôi sông và cuối cùng là đầu rơi máu đổ...đã không làm cho các ngài sợ hãi, ngược lại, đứng trước những đau khổ dã man, các ngài được Tình yêu Đức Kitô thúc bách” (2 Cr 5, 14) nên đây lại là cơ hội thuận tiện để các ngài biểu lộ tình yêu tuyệt đối của mình vào Chúa cách mãnh liệt hơn. Vì thế, các ngài đón nhận tất cả, đánh đổi tất cả, ngay cả cái chết để tin có Thiên Chúa và chọn Thiên Chúa là gia nghiệp của mình. Chỉ có tình yêu với Thiên Chúa và niềm tin mãnh liệt vào Người mới có thể giúp các ngài vượt qua được vũ lực, quyền bính, ma quỷ và yếu đuối của chính mình.

Qua những hành vi lựa chọn của cha ông, chúng ta thấy toát lên một chân lý là: tin đồng nghĩa với việc đón nhận thập giá: “Ai muốn đi theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. (Lc 14,27), tin là chấp nhận thân phận của hạt lúa gieo vào lòng đất: “Thầy bảo thật anh em: nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, nó sẽ trơ trọi một mình. Còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24), tin là đi vào quỹ đạo của tình yêu, một tình yêu dẫn đến cả cái chết, chết cho người mình yêu: “Không có tình thương nào cao hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình”( Ga 15,13).

Hành vi đức tin đó được khởi đi và gợi hứng từ việc chiêm ngắm Đức Kitô, một Đức Kitô đã được Chúa Cha đem trồng vào trong mảnh vườn Giáo Hội qua cung lòng Đức Maria: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.” (Ga 3,16). Hạt giống đó được ví như hạt lúa mì gieo vào lòng đất, chấp nhận thối đi để sinh nhiều bông hạt khác.

Là môn đệ của Thầy Giêsu, chúng ta không có con đường nào khác ngoài con đường mà Đức Giêsu đã đi. Con đường của hạt lúa gieo vào lòng đất. Chấp nhận mọi đau thương để đổi lấy hạnh phúc. Chấp nhận lên đồi Canvê để có Đêm Thánh Phục Sinh. Chấp nhận chén đắng cuộc đời để có mật ngọt của tình yêu là ơn cứu độ.

Như vậy, đức tin là một quà tặng của Thiên Chúa cho con người, con người phải đón nhận nó như một hồng ân. Hồng ân đó không mua được bằng tiền, không có được bằng quyền, mà phải đánh đổi bằng cả cuộc sống qua thái độ biết ơn và bằng con đường tình yêu. Tin là tin vào Thiên Chúa. Tin cũng là đi vào Tình Yêu của Người. Tin cũng có nghĩa là sống Tình Yêu đó trong cuộc đời: “Vạn sự đã do Tình yêu sáng tạo, vạn sự được Tình yêu nâng đỡ, vạn sự đi về Tình yêu và đi vào trong Tình yêu” ( R.Tagore).

Giáo Hội của Chúa luôn hướng về nội dung đức tin là Thiên Chúa, nhưng lại hiện hữu rất sống động qua hành vi đức tin được thể hiện nơi con cái của mình trong mọi thời đại. Sự kết hợp giữa hai chiều kích này đã được Đức Bênêđictô nói rõ: “Có sự hiệp nhất sâu xa giữa hành vi tin tưởng và nội dung đức tin mà chúng ta chấp nhận”[2]. Quả thật, cũng như cái xác không hồn là cái xác chết. Đức tin không có việc làm là đức tin chết (Gc 2,26).

Ước mong sao khi tin, chúng ta không chỉ dừng lại ở một niềm tin mang tính thụ động, nhưng niềm tin đó phải được thể hiện cách sống động trong đời thường của chúng ta, đức tin ấy: “dẫn chúng ta vào đời sống hiệp thông với Thiên Chúa và vào Giáo Hội[3].

 

Như vậy, tin có nghĩa là đi vào Tình Yêu của Thiên Chúa. Đỉnh cao của Tình Yêu này chính là Thánh Giá cứu chuộc. Vì vậy, đón nhận Thánh Giá trong cuộc đời là một sự can đảm để sống đức tin và cũng là biểu hiện của người đang ở trong Tình Yêu của Thiên Chúa.


[1] Đây là lối sống và dạy đạo truyền thống tại các làng quê. Những hình thức này ngày nay không còn đáp ứng đủ cho những đòi hỏi và lối sống đạo đương thời. Nhưng lối sống đạo bình dân này đã nuôi sống đức tin của Giáo Hội Việt Nam qua bao thế kỷ.

[2] Bênêđictô XVI, Tự sắc Cánh cửa đức tin, số 10.

[3] Ibid, số 1.

 

Jos.Vinc. Ngọc Biển, SsP.

VỀ MỤC LỤC
Một cộng đoàn bị phân tán và được đoàn tụ

Lời Mời gọi của HĐGMVN:

Giáo Hội tại Việt Nam phải “phát động chương trình mỗi gia đình một cuốn Kinh Thánh được đặt nơi xứng hợp, cổ võ đọc và cầu nguyện với Lời Chúa”, khuyến khích học thuộc lòng những đoạn Kinh Thánh cốt yếu. Mọi thành phần Dân Chúa, giáo dân, chủng sinh, tu sĩ và các mục tử, cần tập thói quen đọc và suy niệm Lời Chúa hằng ngày, đặc biệt theo phương thức Lectio divina. (Thư Chung của HĐGMVN, ngày 1.5.2011, số 11)

Xin giới thiệu cho nhiều người thân tham gia Gia Đình Lectio Divina Lecdiv@gmail.comđể có thể hiệp thông với nhau trong đời sống cầu nguyện và cùng giúp nhau thực hành "điều cần thiết nhất trong mọi điều cần thiết". Đan viện Xitô Thánh Mẫu Tâm Mỹ Ca, Nha Trang, sẽ cầu nguyện lâu dài cho tất cả những ai trung thành thực hành và cố võ việc thực hành Lectio divina.

Mọi thắc mắc về Lectio divina, xin gởi email cho cha Bảo Tịnh, O.Cist fr.baotinh@yahoo.fr

*****

Tác Phẩm: MỘT VỊ THIÊN CHÚA NGỎ LỜI!

Thiên Chúa tỏ mình cho con người thế nào?

Chuyển ngữ:

Thérèse Trần Thiết

Fr. Marie Bảo Tịnh O.Cist

Nguyên tác:

Michel HUBAUT

UN DIEU QUI PARLE!

Comment Dieu se révèle-t-il à l’homme?

 

Chương 8 -

ĐC GIÊ-SU, NHÀ CHÚ GII KINH THÁNH

Các môn đ làng Em-mau (Lc 24, 13-35) - (tiếp theo)

 

Một cộng đoàn bị phân tán và được đoàn tụ

Câu 33-35 - “Ngay lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở lại Giê-ru-sa-lem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó. Những người này bảo hai ông: "Chúa sống lại thật rồi, và đã hiện ra với ông Si-mon". Còn hai ông thì thuật lại những việc đã xảy ra dọc đường, và mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh”.

Động tác đầu tiên của các môn đệ là “đứng dậy”. Một động từ chẳng tầm thường chút nào, vì đó là một trong hai động từ của Tân Ước để diễn tả sự Phục Sinh. Sự sống lại của Đức Ki-tô là nguồn mạch cho sự “sống lại” của các môn đệ, lúc này đây đối với họ là tìm lại được lẽ sống. Cơ-lê-ô-pát và người bạn của anh không muốn giữ lại cho riêng họ cái Tin Mừng lớn lao này. Họ mong muốn chuyền thông và chia sẻ với mọi người niềm vui của họ. Tại Giê-ru-sa-lem, họ tìm lại nhóm nới rộng là “nhóm Mười Một và những người cùng ở với họ”. Nếu họ “tụ họp lại với nhau”, - chứ không còn tản mát nữa - chính vì họ cũng đã đi từ khó tin được đến niềm xác tín. Chính việc tuyên xưng niềm tin chung đã qui tụ họ lại trong Giáo Hội.

Thầy đã tới với các Tông Đồ trước, đặc biệt với Phê-rô, vì chứng tá của họ được ưu tiên hơn của các môn đệ làng Em-mau. Hai vị này chỉ có thể đem lại kinh nghiệm vượt qua của họ sau lần tuyên xưng Đức Ki-tô Phục Sinh trong cộng đoàn Giáo Hội, về niềm tin vào Đức Ki-tô Giê-su Phục Sinh. Tên gọi Thầy Giê-su trong trình thuật cũng từ từ được cải đổi: Từ “Giê-su thành Na-da-rét”, “Vị Ngôn sứ”, “Đấng Ki-tô” (được xức dầu) “Chúa”, đó là cách thánh Lu-ca muốn nói lên lộ trình đức tin của các tín hữu.

 “Chúa đã (được) sống lại thật.” Động từ ở thể thụ động “được cho sống lại”, có nghĩa là động tác sống lại chỉ được dành riêng cho Thiên Chúa Tạo Hoá. Chính Người đã đưa Thầy Giê-su ra khỏi sự chết. Thánh Lu-ca còn thêm “thật sự” để nhấn mạnh cách chắc chắn hơn. “Và đã hiện ra với Si-mon!” Phê-rô đã là người đầu tiên được diễm phúc thấy Chúa Giê-su phục sinh hiện ra. Trong các bài giảng huấn của các Tông Đồ, Phê-rô là nhân chứng đầu tiên và công khai được thấy Chúa phục sinh, nhưng ông luôn tự đặt mình vào trong nhóm với các Tông Đồ khác đã được thiết lập nhờ Tin Mừng. Niềm Tin của Giáo Hội vừa mang tính cộng đồng vừa có tính cách cá nhân.

Câu 35 - “Còn hai ông thì thuật lại những việc đã xảy ra dọc đường, và mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh”.

Chứng tá của các môn đệ làng Em-mau không có tính cách nền tảng, nhưng bổ túc cho những chứng tá khác. Đến lượt mình, các môn đệ làng Em-mau thuật lại sự kiện phục sinh mà họ đã trải qua. Phân biệt rõ ràng hai giai đoạn: trên đường đi và ở bàn ăn. Một sự kiện mà “Lời nói và cử chỉ” không thể tách rời nhau. Tác giả Lu-ca muốn chỉ định rõ ràng rằng sự kiện Em-mau cần được tái diễn nơi mỗi Thánh Lễ, và cử chỉ “bẻ bánh[1]” trong mỗi Thánh Lễ là đỉnh điểm, vừa mang ý nghĩa của sự chết và sự sống, của đứt đoạn và chia sẻ. Đón nhận Đức Ki-tô Thánh Thể là chấp nhận chia sẻ lộ trình vượt qua và sứ vụ của Thầy. Giê-su vẫn đang sống. Làm sao nhận ra được sự hiện diện mới mẻ của Thầy? Trong bài giáo lý được lồng vào một chứng cứ lịch sử, thánh Lu-ca đề nghị ba yếu tố cần thiết:

- Đọc lại những biến cố trong cuộc đời Thầy Giê-su dưới ánh sáng Kinh Thánh.

- Trân trọng cử chỉ bẻ bánh trong khi tham dự Thánh Lễ.

- Trao đổi và củng cố niềm tin trong cộng đoàn Giáo Hội.

Lộ trình nhận diện này dành cho các tín hữu, tuy không được thấy Đức Giê-su bằng con mắt xác thịt, nhưng lại có một chiều kích cộng đoàn Giáo Hội hiển nhiên hơn. Một sự nhận diện không bởi một cuộc hiện ra chói lòa của Đức Ki-tô phục sinh, nhưng bởi những bước đi nhẫn nại và chậm chạp. Đức Giê-su nay vẫn còn đang sống, nhưng là sống trong chiều kích của Thiên Chúa, tuy vẫn sát cánh với con người. Đó chính là bài học của Sách Thánh. Đó còn là chứng tá của Thánh Lễ tạ ơn. Và sự phục sinh của Đức Ki-tô trở nên dễ nhìn ra, dễ nhận thấy trong sự biến đổi của các môn đệ.

Nhưng căn tính thánh thiêng của Thầy Giê-su không bị che khuất bởi căn tính con người của Thầy: không một trình thuật phục sinh nào nhấn mạnh thực tại thể xác của Thầy bằng trình thuật về làng Em-mau. Thầy bước đi, nói năng, ăn uống… Không nhìn thấy trước mặt không có nghĩa là hoàn toàn vắng mặt. Vẫn có thể liên hệ được, vì đức tin nhận biết Thầy Giê-su Ki-tô như một người bạn đường, con đường của sự sống thật. Tin chính là tiến bước bên cạnh Thầy, Thầy đến gần và nghe chúng ta.

 

[1]   4. Kiểu nói này diễn tả cử chỉ làm vào đầu bữa ăn trong gia đình Do-thái, đối với thánh Lu-ca, trong Công Vụ Tông Đồ, chỉ tiệc Thánh Thể của Giáo Hội sơ khai (x. Cv 2, 42; 20, 7.11; 1 Cr 10, 16), điều mà thánh Phao-lô gọi là bữa tiệc của Chúa”

VỀ MỤC LỤC
MARIA NAZARETH, NGƯỜI ĐƯỢC GỌI, ĐƯỢC ĐỀ TẶNG VÀ ĐƯỢC CHỌN ĐỂ THUẦN NHẤT VỚI CHÚA GIÊSU

Nguyễn Tiến Cảnh, MD

Hàng năm vào ngày 8 tháng 12, Giáo Hội lại kính mừng lễ Đức Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội. Giáo Hội Công Giáo tin rằng Maria không mắc tội tổ tông từ lúc sinh ra và được Đức Giáo Hoàng Pio IX tuyên bố tín điều này năm 1854.

Trong khi Giáo Hội vẫn còn nhiệt tình với Đức Mẹ thì quan niệm vô nhiễm lại là một vấn đề khá phức tạp, làm bận tâm các nhà thần học nhiều hơn là những giáo dân bình thường. Nhiều người vẫn nhầm lẫn Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội với Đức Mẹ Trinh Thai (thụ thai mà vẫn còn đồng trinh). Thực ra, chúng ta tin Đức mẹ Maria không vướng tội từ lúc thụ thai trong bụng mẹ là nhờ hồng ân đặc biệt của Thiên Chúa. Nhưng một cản trở lôi thôi đối với nhiều người công giáo là tội tổ tông. Chúng ta ngày nay ít có người để ý và biết đến tội tổ tông là gì. Vì không có ý niệm rõ ràng về tội tổ tông nên chuyện Đức Mẹ được vô nhiễm nguyên tội trở thành vô nghĩa.

Vì vậy, sau này Đức Giám Mục Fulton Sheen vào năm 1974 đã diễn nghĩa theo một cách khác khi bàn về chuyện mất ý nghĩa ấy của tội. Ngài nói: “Thường chỉ có người Công Giáo là tin rằng Đức Mẹ Vỗ Nhiễm Nguyên Tội. Nhưng bây giờ thì mọi nguời đều tin là Đức Mẹ Vô Nhiễm Thụ Thai.”

Đức Pio IX tuyên bố tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm vào năm 1854, nhưng ý niệm về Đức Mẹ sinh ra không vưóng tội lỗi không phải tự nhiên mà có. Nó đã thành hình sau nhiều cuộc tranh cãi lâu dài và phức tạp về thần học. Tuy nhiên, cuộc tranh luận này vẫn còn tiếp tục ở một vài khía cạnh. Vào thời Giáo Hội sơ khai, các tín hữu Kitô giáo đã coi đức Maria là một người mẫu mực lý tưởng về thánh thiện rồi, và vào thế kỷ VIII, các Kito hữu Đông Phương đã mừng lễ kính Đức Mẹ Maria Thụ Thai.

Qua nhiều thế kỷ, các nhà thần học đã cảm thấy ngần ngại khi nói Đức Mẹ hoàn toàn không vướng tội tổ tông, bởi vì các ngài nghĩ là có cái gì ngược lý với giáo lý đức tin về ơn cứu độ phổ quát. Vào thế kỷ III, cha Duns Scotus dòng Phanxico, một chuyên viên thần học về Đức Mẹ vô nhiễm đã nghĩ ra một cách mới để tìm hiểu vấn đề. Ngài cho rằng nhiệm vụ đặc biệt của Đức Mẹ không phải là làm cho Mẹ được miễn trừ ơn cứu độ, mà đơn thuần chỉ là trung gian giữa chúa Kito và nhân loại, một hình thức khác thường của hồng ân Thiên Chúa.

Đức Giáo Hoàng Pio IX khi tuyên bố tín điều thì ngài trích dẫn rõ ràng lời Thiên Thần Gabriel chào đức Maria khi báo tin Đức Mẹ sẽ thụ thai chúa Giêsu: “Kính mừng Maria, đầy ơn phúc…”. Câu chào này phải được hiểu là Đức Mẹ không bao giờ vướng tội. Không một người trần nào có thể cộng tác được với Chúa Giêsu trong công cuộc cứu chuộc như đức Maria. Giáo hội sơ khai đã cố gắng cắt nghĩa một cách hợp lý là làm sao Con Thiên Chúa lại có thể “ hoàn toàn là người mà lại không mang tội lỗi.” Câu trả lời là, Mẹ Thiên Chúa cũng phải là người không vướng tội lỗi.

Trong truyền thống Công Giáo La Mã, chúng ta đã đặt cho người môn đệ siêu việt này nhiều danh xưng và danh hiệu vượt mức yêu thương và danh dự. Chúng ta mừng ba khoảng thời gian lớn của đời Mẹ vì biết rằng đó cũng là những giai đoạn của đời chúng ta. Theo tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội thì Thiên Chúa đã tiên thiên hiện diện và di chuyển vào đời Mẹ. Hồng ân Thiên Chúa thì vĩ đại hơn cả tội lỗi. Nó vượt lên trên sức mạnh của tội lỗi và sự chết. Nhờ tình trạng Vô Nhiễm Nguyên Tội, mẹ Maria đã được chọn để thi hành một sứ mệnh đặc biệt.

Thời gian thứ hai của đời Mẹ là thời Nhập Thể. Qua huyền nhiệm sinh Chúa Giêsu mà vẫn còn đồng trinh, chúng ta có thể cảm nhận được rằng Thiên Chúa di chuyển vào cuộc đời chúng ta một cách mạnh mẽ. Đáp ứng của chúng ta lúc đó phải là chấp nhận, khiêm cung, cởi mở, đón chào cũng như kính trọng và tôn vinh phẩm giá và mạng sống con người từ lúc khởi đầu sự sống cho đến giây phút cuối cùng. Qua hành động Nhập Thể, mẹ Maria đã sinh ra Ngôi Lời làm người.

Thời gian thứ ba là cuộc hành trình sau cùng của Mẹ Maria trọn vẹn hồn xác trở về vương quốc nước trời do Tín điều tuyên bố bởi Đức Thánh Cha Pio XII vào năm 1950. Từ khởi đầu đến lúc cuối đời của Mẹ, Thiên Chúa đã hoàn thành nơi Mẹ tất cả mọi lời hứa với chúng ta. Chúng ta cũng sẽ được lên thiên đàng như Mẹ. Mẹ Maria là hình ảnh của cả con người lẫn Thiên Chúa. Thiên Chúa thực sự thoải mái nơi con người chúng ta cũng như chúng ta được sung mãn nơi Thiên Chúa. Trên nước trời, mẹ Maria đã có một địa vị danh dự đặc biệt cùng với Thiên Chúa.

Điều gì xẩy ra với mẹ Maria cũng sẽ xẩy ra với những tín hữu Kito giáo. Chúng ta được kêu gọi, được đề tặng, được chọn để thuần nhất với chúa Giêsu. Khi chúng ta vinh danh Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa với tước hiệu “Vô Nhiễm Nguyên Tội”, là chúng ta chấp nhận nơi Mẹ một mẫu mực tinh tuyền, trong trắng, tin cậy, đơn sơ, tôn kính và hài hòa trong cuộc sống. Ở đời ít khi ta thấy cả vẻ tôn kính lẫn kiểu cách, cả lý tưởng lẫn thực tế, cả tinh tuyền, đơn sơ lẫn đam mê, trong cùng một người như chúng ta thấy nơi mẹ Maria. Con người chúng ta thì thường muốn tỏ ra đơn sơ, trong sạch, tươi trẻ và tin cẩn. Nếu chúng ta đánh mất những đức tính đó thì ta thường tỏ ra gắt gỏng, không vui, như thể vì ta thiếu kinh nghiệm, không mở mắt lớn đủ đề nhìn đời, do hiểu biết mà không khôn ngoan. Chúng ta nên đặt sự khôn ngoan, đơn sơ và kinh nghiệm của chúng ta vào đúng chỗ của nó. Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa sẽ chỉ dạy chúng ta phải thực thi những đức tính đó sao cho trúng cách.

Xin chia sẻ với quí vị một bài thơ của một bà soeur mà tôi quên mất tên. Xin tạm phóng nghĩa dưới đây để chúng ta cùng suy niệm. Bài thơ có tên The Beauty.

 

Vẻ Đẹp / Beauty.

Xin đừng cười, hỡi anh chị em,

Xin đừng nhúng vai nheo mắt.

 

Việc Chúa làm muôn điều tuyệt mỹ,

Vượt không gian quá mức con người.

Chúa đã nhìn Bà và đã yêu thuơng,

Yêu trìu mến trước khi coi diện mạo,

Tìm vẻ đẹp ẩn kín trong tim.

 

Chúa tìm Bà dòng giống vô danh,

Nơi xa xôi hang cùng hẻo lánh,

Là kẻ bếp núc lầm than,

Là người khiêm tốn cơ hàn,

Người chẳng bao giờ hé miệng,

Vì quen phận nghèo khó khổ hèn.

Chúa nhìn Bà thấy Bà toàn mỹ,

Bà với Chúa cùng nhau hòa kết,

Chúa với Bà yêu thương sống chết.

Muôn thế hệ tung hô bà Diễm Phúc.

Chúa nhìn Bà…

tên đặt Maria!

 

Khi Bà tận hiến, Bà tin…

Trong đêm tối nơi hang động,

Bà kêu la đau đớn…Thiên Chúa Con ra đời.

Mang an bình cứu thế,

Là kho tàng đời đời muôn thế hệ.

 

Bà chấp nhận, không bao giờ hối tiếc…

Bà tự tin dù đêm tối bao phủ,

dù phân vân đè nặng âm u.

 

Từ đây danh Bà được tung hô,

Chúa nhận Bà và Bà tặng Chúa…

Bà, Maria, là của chúng ta.

Thiên Chúa vinh danh Bà …đội triều thiên

muôn sao vàng lấp lánh,

mặc áo Bà với mặt trời chói sáng ,

Dưới chân Bà mặt trăng lộng sáng .

 

Tên Bà, danh hiệu Maria!

Bạn nhìn Thiên Chúa của Bà,

Vì trái đất tràn đầy người cả nam lẫn nữ,

Bạn đã nhìn thấy vẻ thần tiên Thiên Chúa !

 

Fleming Island, Florida

Dec 12, 2012

NTC 

VỀ MỤC LỤC
NĂM ĐỨC TIN : HỌC HỎI TÀI LIỆU CỦA CÔNG ĐỒNG VATCANÔ II
 

Năm đức tin được mở ra trong Giáo Hội vào đúng ngày kỷ niệm lễ khai mạc Thánh Công Đông Vaticanô II cách nay 50 năm.

 

Ngày 11 tháng 10 năm 1962 Đức cố Giáo Hoàng Gioan XXIII đã long trọng khai mạc Đại Công Đồng Vaticanô II (tức Công Đồng Đại Kết = Ecumenical Council) tại Đền Thánh Phêrô , La Mã với sự có mặt, tham dự của 2300 giám mục và đại diện các giáo hội đang hiệp thông hay muốn tiến đến hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ.

 

Đây là sự kiện lịch sử lớn lao nhất của Giáo Hội trong thế kỷ 20 và cũng là Đại Công Đồng thứ hai sau cuộc Cải Cách (Reformation) của nhóm Tin lành trong thế kỷ 16. Đức cố Giáo Hoàng Gioan 23 (nay là Chân Phước = Blessed) đã loan báo quyết định mở Công Đồng này ngày 25 tháng 1 năm 1959, với hy vọng thổi một luồng gió mới vào buồng phổi của Giáo Hội

 

Như vậy, công cuộc chuẩn bị cho Công Đồng đã kéo dài trong suốt 3 năm (1959-1962) để các vị phụ trách có đủ thì giờ chuẩn bị kỹ càng cho biến cố trọng đại này trong đời sống của Giáo Hội.

 

Cũng cần nói thêm là Công Đồng Đại kết (Ecumenical Council) là dịp cho Giáo Hội , dưới quyền lãnh đạo tối cao của Đức Thánh Cha, tức Giám Mục Roma, họp với các giám mục hiệp thông trong toàn Giáo Hội, cùng với các nhà chuyên môn về thần học, giáo luật, phụng vụ.. để bàn thảo về những việc trọng đại liên quan đến đời sống đức tin, bí tích , phụng vụ và sứ mệnh rao truyền đức tin Kitô Giáo của Giáo Hội trong hoàn cảnh thế giới thế giới xưa và nay.

 

Từ trước cho đến nay, mới chỉ có 21 Công Đồng Đại Kết hay còn gọi là Công Đồng Chung (General Council) đã được triệu tập trong Giáo Hội.Công Đồng Vaticanô II là Công Đồng Đại Kết thứ nhất được triệu tập trong thế kỷ 20, và là Công Đồng Đại kết thứ hai được triệu tập sau Phong Trào Cải Cách của nhóm Tin Lành như đã nói ở trên.

 

Trong giới hạn của bài biên khảo này, tôi chỉ xin lượt qua một vài kết quả cụ thể của Công Đồng Vaticanô II để mong giúp quý tín hữu khắp nơi thêm hiểu rõ về những thành quả lớn lao của Công Đồng Đại Kết này hầu thêm yêu mến và vâng phục Giáo Hội là Thân Thể Nhiệm Mầu (Mystical Body) của Chúa Kitô trong sứ mệnh bảo vệ và loan truyền Đức tin Kitô Giáo dựa trên Chính Chúa Kitô và Tin Mừng Cứu Độ của Người cho mọi dân tộc trên toàn thế giới cho đến ngày mãn thời gian.

 

Thành quả của Công Đồng Vaticanô II.

 

Sau 3 năm làm việc dưới sự nâng đỡ và soi sáng cách riêng của Chúa Thánh Thần, Công Đồng đã đạt được những thành quả phi thường khiến cho bộ mặt của Giáo Hội đã thay đổi về mọi phương diện như chúng ta đã chứng kiến từ sau Công Đồng (1962-65) đến nay.

 

Liên quan đến Phụng Vụ Thánh (Sacred Liturgy) và trực tiếp liên hệ đến việc sống đạo của các tin hữu, Công Đồng đã chấp thuận và đươc Đức Thánh Cha Phaolô VI ban hành năm 1970 Nghi thức mới (Novus Ordo) về cử hành Thánh lễ Misa- tức Thánh lễ tạ Ơn (The Eucharist) hoàn toàn bằng các ngôn ngữ địa phương thay vì thống nhất bằng tiếng LaTinh như Nghi Thức cũ được Đức Thánh Cha Piô V ký ban hành ngày 4 tháng 7 năm 1570 cho áp dụng trong toàn Giáo Hôi cho đến ngày ban hành Nghi thức mới nói trên..

 

Nghi thức mới này (Novus Ordo) được gọi là hình thức thông thường (Ordinay Form) trong khi Nghi thức cũ (dùng tiếng LaTinh) trở thành hình thức bất thường (Extraordinay Form) trong Phụng Vụ Thánh, cụ thể là cử hành Thánh Lễ Tạ Ơn theo Sách Lễ Rôma (Roman Missal).

 

Nhưng đến ngày 7 tháng 7 năm 2011 vừa qua, Đức Thánh Cha Bê-nê-đich-tô 16 đã ban hành Tông Thư Summorum Pontificum cho phép sử dụng rộng rãi Nghi thức cũ (bằng tiếng Latinh ) song song với Nghi thức mới (bằng các ngôn ngữ địa phương) ban hành năm 1970. Nghĩa là từ nay, nơi nào có nhu cầu thực sự muốn cử hành Thánh lễ bằng tiếng Latinh thì không còn phải xin phép trước Đấng Bản Quyền (Ỏrdinary = Giám mục giáo Phận) hay Tòa Thánh như trước nữa, nếu có nhu cầu chính đáng và có linh mục sử dụng được tiếng Latinh.

 

Có người đã vội cho rằng Đức đương kim Giáo Hoàng đã làm một cuộc cách mạng về Phụng vụ thánh với quyết định trên. Thật ra không phải vậy, vì Thánh Lễ cử hành theo Nghi thức cũ dùng tiếng Latinh hay Nghi thức mới dùng các ngôn ngữ địa phương thì cũng cử hành đúng theo Sách lễ Rôma, thể hiện đúng Luật cầu nguyện ( lex orandi=law of prayer) của Giáo Hội mà thôi. Tuy nhiên, với quyết định cho phép nói trên của Đức Thánh Cha, người ta có thể coi đây là cố gắng hòa giải của Tòa Thánh đối với một số người vẫn còn âm ỷ bất mãn về những thay đổi của Công Đồng Vaticanô II. Cụ thể là nhóm theo Tổng Giáo Mục Lefebre (người Pháp đã qua đời) vẫn bất tuân những thay đổi của Công Đồng và tiếp tục cử hành Thánh lễ bằng tiếng Latinh cho đến nay. Hy vọng với quyết định trên của Đức Thánh Cha sẽ giúp lôi kéo nhóm ly khai này trở lại hiệp thông với Giáo Hội

 

Ngoài Thánh lễ ra, các bí tích khác của Giáo Hội cũng được cử hành bằng các ngôn ngữ địa phương, giúp tín hữu hiểu rõ hơn về các nghi thức này.

 

Một điều rất quan trọng nữa là Kinh Thánh (Bible) được dịch ra các ngôn ngữ của các dân nói các ngôn ngữ khác nhau , như Anh , Pháp, Đức, Việt Nam …nên Lời Chúa được quảng bá sâu rộng hơn trong cộng đồng tín hữu ở khắp nơi trên thế giới. Từ đó, việc đọc và học hỏi Thánh Kinh đã trở thành một nhu cầu lớn ở khắp nơi trong Giáo Hội, giúp nâng cao trình độ hiểu biết và sống Lời Chúa của giáo dân.

 

Cũng liên quan đến giáo dân, kể từ sau Công Đồng , gíáo dân được phép đọc Sách Thánh (Lector) và làm thừa tác viên trao mình Thánh Chúa trong Thánh lễ, (Extraordinary Minister of the Holy Communion) một điều mà trước Công Đồng giáo dân không được phép làm.

 

Đây là một vinh dự lớn cho Giáo dân được tham dự vào những hoạt động phụng vụ, một lãnh vục mà trước Công Đồng Vaticanô II, chỉ dành cho hàng giáo sĩ (phụ phó tế, phó tế linh mục, và giám mục) mà thôi.

 

Trong phạm vi bài này, tôi xin được nói rõ hơn về một vài tài liệu rất quan trọng của Công Đồng mà các tín hữu cần biết và học hỏi trong năm Đức Tin này.

 

Trước hết là Hiến Chế tin lý Lumen Gentium (Dogmatic Contitution Lumen Gentium= Ánh Sáng muôn dân).

 

I- Hiến Chế Lumen Gentium ( LG)

 

Có thể nói đây là Hiến Chế quan trọng nhất của Công Đồng Vaticanô II về Mầu nhiệm, và Sứ mệnh của Giáo Hội trong trần thế, theo đó Giáo Hội nhận biết rõ mình là Thân Thể Mầu Nhiệm của Chúa Kitô trên trần gian với sứ mệnh mà Chúa Kitô đã trao cho các Thánh Tông Đồ trước khi Người về Trời : “ Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” ( Mt 28: 19-20). Nghĩa là Giáo Hội được trao phó trọng trách tiếp tục rao giảng Tin Mừng và ban phát ơn cứu độ của Chúa Kitô cho mọi dân tộc thuộc mọi ngôn ngữ và văn hóa cho đến ngày mãn thời gian.Do đó, ai nghe Giáo Hội là nghe chính Chúa Kitô như Người đã nói với các môn đệ xưa :

 

Ai nghe anh em là nghe Thầy; và ai khước từ anh em là khước từ Thầy

Mà ai khước từ Thầy là khước từ Đấng đã sai Thầy.” ( Lc 10: 16)

 

Hiến Chế Lumen Gentium đã dành trọn hai Chương Một và Hai, để nói về Mầu nhiệm Giáo Hội ở hai chiều kích siêu nhiên và nhân bản theo dòng thời gian của lịch sử cứu độ, qua đó Thiên Chúa tỏ mình trước hết cho dân Do Thái.Rồi qua các ngôn sứ trong thời Cựu Ước và cuối cùng qua chính Con Một Người là Chúa Kitô, Thiên Chúa đã mặc khải trọn vẹn ý muốn cứu độ con người qui tụ thành một cộng đoàn đức tin là Giáo Hội với sứ mệnh rao giảng Tin Mừng và cử hành các bí tích mang ơn cứu độ như Phép Rửa, Thêm Sức , Thánh Thể và Hòa Giải.

 

Tiếp theo các chương Ba và Bốn nói về cơ cấu phẩm trật của Giáo Hội, đặc biệt là chức Giám Mục với ba nhiệm vụ rất quan trọng là giáo huấn, thánh hóa và cai quản. Giám Mục là “ những người kế vị các Tồng Đồ với sứ mệnh dạy dỗ muôn dân và rao giảng Phúc Âm cho mọi tạo vật , hầu cho mọi người được cứu rỗi nhờ lãnh nhận đức tin, phép rửa và chu toàn giới răn của Chúa.” ( LG. số 24). Liên quan đế vai trò và địa vị của Giáo Dân, Công Đồng cũng đặc biết nhận mạnh đến sứ mệnh của người giáo dân, một thành phần rất quan trọng được “ kêu mời làm cho Giáo Hội hiện diện và hoạt động trong những nơi và hoàn cảnh mà nếu không có họ, Giáo Hội sẽ không trở thành muối của thế gian.” ( LG số 33).

 

Chương Năm của Hiến chế dành kêu gọi mọi thành phần Dân Chúa trong Giáo Hội phải cố gắng trở nên thánh thiện vì Chúa Kitô , là “ Đấng thánh duy nhất” đã yêu thương Giáo Hội như hiền thê của mình. ( LG, số 39). Chương Sáu dành riêng để nói về ơn gọi của hàng tu sĩ, tức những người có ơn gọi sống ba lời khuyên của Phức Âm là khó nghèo, vâng phục và khiết tịnh ( chastity). Chương Bẩy nói về đặc tinh lữ hành của Giáo Hội trong trần thế nhưng hiệp nhất với Giáo Hội vinh quang chiến thắng trên Trời. Sau cùng là Chương dành riêng nói về vai trò của Đức Trinh Nữ Maria trong Mầu Nhiệm Chúa Kitô và Giáo Hội.

 

Sau đây là những điểm căn bản trong tám chương nói trên của Hiến Chế Lumen Gentium:


 

a. Mầu Nhiệm và Sứ mệnh của Giáo Hội

 

Giáo Hội là Nhiệm Tích ( Sacrament) của Chúa Giêsu trong trần thế.với sự mệnh tiếp tục công trình cứu độ của Chúa qua nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng Cứu độ, và cử hành các bí tích nhất là Bí Tích Thánh Thể để “ mỗi lần hy tế thập giá được cử hành trên bàn thờ, nhờ đó Chúa Kitô chiên vượt qua của chúng ta chịu hiến tế ( 1 Cor 5, 7) thì công trình cứu chuộc chúng ta được thực hiên.” ( x.LG , số 3)

 

Nghĩa là, Chúa Kitô đã một lần dâng Hy tế trên thập giá để đền tội cho nhân loại. Người đã hoàn tất công trình cứu độ của Người qua khổ hình thập giá, chết, sống lại và lên trời.Nhưng công trình cứu chuộc này còn được tiếp tục ban phát cho nhân loại cho đến ngày mãn thời gian, vì Thiên Chúa “ Đấng cứu độ chúng ta, Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý.”( 1 Tm 2 : 4)

 

Vì Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu độ nhờ Chúa Kitô, nên bao lâu còn có con người sinh ra trên trần thế này, thì bấy lâu Tin Mừng Cứu Độ và Hy Tế thập giá của Chúa Kitô còn tiếp tục được rao giảng và cử hành để mang lợi ích thiêng liêng cho mọi người sinh ra sau này mà chưa được biết Chúa Kitô và Tin Mừng cứu độ của Người.

 

Đây chính là sự mệnh mà Chúa Kitô đã trao phó trước tiên cho Giáo Hội sơ khai với 12 Tông Đồ rường cột . Các Tông Đồ đã trao lại cho các vị kế tục, tức là cho Tông Đồ Trưởng là Đức Thánh Cha và các giám mục hiệp thông và vâng phục Ngài trong Giáo hội theo Truyền thống Tông Đồ (Apostolic succession) cho đến nay và còn mãi về sau cho đến ngày cánh chung, tức là mãn thời gian. Trung thành với sứ mệnh này, Giáo Hội đã hăng say rao giảng Tin Mừng của Chúa Kitô cho mọi dân tộc trên thế giới và làm nhân chứng cho Chúa, mặc dù gặp phải nhiều gian nan khốn khó như Chúa đã báo trước cho các môn đệ :

 

“ Trong thế gian

Anh em sẽ phải gian nan khốn khó

Nhưng can đảm lên !

Thầy đã thắng thế gian. ( Ga 16 : 33)

 

Chúa đã thắng thế gian và tội tỗi qua sự chết và sống lại của Người để cho chúng ta hy vọng cũng sẽ được sống lại như Chúa sau khi kết thúc hành trình nhân thế qua cái chết trong thân xác của mọi người chúng ta.

 

Như thể, khi tham dự Thánh lễ Tạ ơn , chúng ta không những hiệp cùng Giáo Hội dâng lời cảm tạ Thiên Chúa và dâng mọi vui buồn, đau khổ của chúng ta hiệp với sự đau khổ của Chúa Kitô làm của lễ dâng lên Chúa Cha để xin ơn tha thứ cho chúng ta ngày nay cùng thể thức mà Hy Tế của Chúa Kitô dâng lên Chúa Cha lần đầu tiên trên thập giá để xin ơn tha thứ cho toàn thể nhân loại. Đó là tất cả ý nghĩa “công trình cứu chuộc chúng ta được thực hiện khi Chúa Kitô chịu hiến tế” cách bí nhiệm mỗi khi Thánh lễ Tạ Ơn được cử hành trên bàn thờ, như Giáo Hội dạy ( LG số 3)

 

Do đó, Thánh lễ Tạ Ơn là đỉnh cao của đời sống Giáo Hội và của mọi tín hữu Chúa Kitô, vì mỗi khi Thánh lễ được cử hành, Chúa Kitô lại hiện diện cách bí tích qua các thừa tác viên con người là linh mục hay giám mục để nhắc lại Giao Ước mới đã được đóng ấn bằng chính máu Chúa đã đổ ra thực sự trên thập giá làm Hy Tế đền tội cho cả loài người đáng bị phạt vì tội lỗi. Chính nhờ Hy Tế này mà con người được giao hòa lại với Thiên Chúa và có hy vọng được cứu rỗi để vui hưởng hạnh phúc Nước Trời mai sau.

 

Phải nói có hy vọng thôi chứ chưa chắc chắn bảo đảm như vậy vì con người còn có tự do để cộng tác với ơn cứu đô của Chúa để sống theo đường lối của Người hay khước từ Chúa để sống theo ý muốn cá nhân và lãnh nhận hậu quả của tự do chọn lựa này.

 

Chính trong chiều hướng muốn được cứu độ, mà Hiến Chế Tín lý- trong Chương thứ Năm, đã kêu gọi mọi thành phần dân Chúa trong Giáo Hội- từ Hàng Giáo Phẩm, giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân phải cố gắng nên thánh, vi: “ Cha của anh em trên Trời là Đấng Thánh” ( Mt 5 : 48). Đây là ơn gọi chung của mọi tín hữu trong Giáo Hội, phải sống để trở nên giống Chúa Kitô, Đấng đã vui lòng hiến mạng sống mình “ làm giá chuộc cho muôn người”.( Mt 20: 28)

 

Mặt khác, cũng trong khát vọng được cứu rỗi nhờ Chúa Kitô trong Giáo Hội của Người mà mọi tín hữu được mong đợi sống đời nhân chứng cho Chúa Kitô trước mặt người đời chưa biết và tin yêu Chúa như chúng ta. Nói khác đi, là những tín hữu Chúa Kitô , chúng ta được mời gọi mang Chúa đến cho người khác qua lời nói và việc làm của chính mình nhằm nêu cao những giá trị của Tin Mừng Cứu độ như công bình, bác ái, yêu thương , tha thứ và trong sạch để đương đầu với “văn hóa của sự chết” tôn thờ vật chất và mọi vui thú vô luân, vô đạo, như thực trạng sống của con người ở khắp nơi trên thế giới ngày nay.

 

(còn tiếp kỳ sau)

Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

VỀ MỤC LỤC
CON ĐƯỜNG LOAN BÁO TIN MỪNG HÔM NAY

 

Trong mấy số báo Ephata liên tiếp vừa qua, chúng tôi có dịp chia sẻ nỗi băn khoăn của chúng ta về công cuộc loan báo Tin Mừng, làm sao để Tin Mừng được lan tỏa hiệu quả trên quê hương đất nước chúng ta, làm sao để ngày càng có nhiều người nhận biết Tin Mừng và tin theo Chúa. Thời các Thừa Sai ban đầu đền Việt Nam, các ngài đã tìm kiếm để khám phá ra cách loan báo Tin Mừng cho dù gặp biết bao khó khăn về ngôn ngữ, hoàn cảnh chính trị, trình độ văn minh, các ngài đã hết mình dấn thân cho công cuộc, hy sinh tất cả ngay mạng sống của các ngài, đeo đuổi con đường đó để vun trồng cho mùa lúa bội thu của chúng ta.

 

Ngày nay hoàn cảnh đã thay đổi, những khó khăn ngày ấy có cái bây giờ không còn nữa, có cái đã thay đổi và cũng có cái khó khăn hơn, đồng thời xuất hiện thêm những khó khăn mới. Cũng vậy, hoàn cảnh mới chúng ta có thêm những thuận lợi mới, Chúa Giêsu nói “phải biết rút ra những cái cũ và cái mới” ( Mt 13, 51 ). Hiện tượng toàn cầu hóa và sự xuất hiện của mạng thông tin giúp ta nối liên lạc với toàn thế giới, biến cả nhân loại này trở thành một ngôi làng, mọi biến cố dù ở đâu cũng tác động lên các vùng còn lại của địa cầu. Nếu những thành tựu của một Giáo Hội bạn, Giáo Hội láng giềng ngày xưa khó có điều kiện trở thành bài học cho Giáo Hội của đất nước chúng ta, thì ngày nay cái khó đó không còn nữa, ngược lại, bài học quý giá ấy nhanh chóng được phô diễn ra ngay trước mắt chúng ta với nhiều chi tiết đắt giá.

 

Trong các số báo trước chúng tôi đã đặt vấn đề “hiện tượng Hàn Quốc”, chẳng phải ngôi sao ca nhạc hay minh tinh màn bạc, nhưng là Giáo Hội Công Giáo Hàn Quốc với sự phát triển “thần kỳ”, vì đâu mà họ tự tin và đạt được hiệu quả cao và nhanh như thế ? Dĩ nhiên không dễ dàng gì có thể khám phá ra hết những kinh nghiệm quí báu của họ, nhưng chúng ta thử xem một vài hiện tượng.

 

Số báo Tuổi Trẻ ra ngày thứ tư 28.11.2012 mới đây có bài của một vị luật sư ký tên Hà Hải, tựa đề “Giúp cô dâu Việt thoát bạo hành” đăng nơi trang 9. Bài báo đề cập đến hiện trạng các cô dâu Việt trên đất Hàn lâm cảnh bơ vơ khốn cực khi có những mâu thuẫn nảy sinh trong đời sống hôn nhân, bài này tiếp nối nhiều bài khác khi trong những ngày vừa qua có một người phụ nữ Việt đã ôm hai đứa con nhảy lầu tử tự vì bị dồn vào đường cùng nơi đất khách quê người. Bài báo này ra đời sau khi vị luật sư tác giả nói chuyện với một đồng nghiệp luật sư ở Hàn Quốc. Tác giả lược qua hoàn cảnh bất lợi của các cô dâu Việt và thế bề tắc lâm phải ở Hàn Quốc, rồi tác giả viết những dòng cuối như kết luận “… cách tốt nhất là các cô dâu Việt chạy đến một Nhà Thờ gần nhất. Nơi đây sẽ cưu mang và bảo vệ các cô dâu cơ nhỡ, bị bạo hành, nếu sự việc nghiêm trọng thì đại diện Nhà Thờ có thể thay mặt cô dâu Việt khởi kiện, tố cáo người chồng”.

 

Chúng ta tạm dừng lại ở kinh nghiệm của vị luật sư này:

 

  • Chạy đến một Nhà Thờ gần nhất: Vậy là ở Hàn Quốc đã có khá nhiều Nhà Thờ ở nhiều nơi và Nhà Thờ nào cũng là nơi người ta có thể chạy đến cầu cứu bất cứ lúc nào.

  • Nơi đây sẽ cưu mang và bảo vệ: Giáo Hội sẵn sàng đứng ra cưu mang và bảo vệ, đứng về phía người cô thân cô thế, đứng về phía nạn nhân, đừng về phía người bị áp bức, người bị bỏ rơi. Nên biết trước đó, tác giả đã phân tích tính bất hợp pháp về phương diện pháp luật của các cô dâu Việt.

  • Đại diện Nhà Thờ có thể thay mặt cô dâu khởi kiện, tố cáo người chồng: Trước đó tác giả nói rằng có thể cô dâu không có tiền để thuê luật sư bảo vệ, nghĩa là Nhà Thờ chấp nhận tốn kém vì sự sống, vì sự bình an và vì sự công bằng của con người.

 

Đó là kinh nghiệm của Giáo Hội Hàn Quốc và có lẽ đó là một trong những lý do người ngoại giáo nhìn về Giáo Hội Hàn Quốc với ánh mắt yêu mến và khâm phục, từ đó gương mặt Đức Kitô được trình bày hết sức cụ thể qua từng sự việc liên quan đến con người: một Đức Kitô vì người nghèo, vì người đau khổ, vì người bị áp bức. Và có lẽ khởi sự từ đó mà người ta tin theo Đạo, vì những người có Đạo đã “không sống cho mình, đã không chết cho mình, mà có sống là sống cho Chúa, có chết là chết cho Chúa” ( Rm 14, 7 – 9 ).

 

Bài học này có hiệu lực thế nào đối với chúng ta ?

 

Lm. VĨNH SANG, DCCT, 1.12.2012 (Ephata 538)
 

VỀ MỤC LỤC
Bản phúc trình về tình hình công lý, hòa bình và nhân quyền trong xã hội Việt Nam hiện nay

Nguồn: http://conglyvahoabinh.org/ban-phuc-trinh-ve-tinh-hinh-cong-ly-hoa-binh-va-nhan-quyen-trong-xa-hoi-viet-nam-hien-nay/2012/11/

 Kính gửi: Đức cha Chủ tịch HĐGM/VN,

Đức Hồng y và quý Đức cha,

Để đáp ứng lời mời gọi của Thư Mục vụ Năm Đức Tin, Ủy Ban Công lý và Hòa bình (CLHB) xin phúc trình cùng Đức Hồng y và quí Đức cha một số tình hình xã hội Việt Nam hiện nay đang được dư luận quan tâm. Xin giản lược vào mấy nét tiêu biểu dưới đây:

1. Án xử bất công

Trong bản Nhận Định công bố ngày 15/05/2012, Ủy Ban CLHB đã nhận xét: “Việc áp dụng luật pháp chưa nghiêm minh và tùy tiện (…) đã dẫn đến những oan sai và đôi khi đẩy người dân đến bước đường cùng. Bộ luật tố tụng hình sự đã quy định các thủ tục bắt người; vậy mà trong một số trường hợp, vẫn có các công dân bị bắt sai trái với các quy định của bộ luật ấy, cũng như với các tuyên ngôn và công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia.”

Tình hình đó chưa thay đổi, thậm chí còn diễn ra xấu hơn. Điển hình là vụ xét xử ba thanh niên Công Giáo tại Vinh ngày 29/09/2012 và vụ xử các Bloggers ngày 24/9, tại TP. HCM với các bản án vô lý và đầy bất công. Để che đậy nó, người ta đã cho mở phiên tòa xét xử công khai, nhưng lại không cho dân chúng tự do tham dự và ngay cả thân nhân của các bị cáo cũng bị ngăn chặn khi đến tòa án, thậm chí có những người còn bị tạm giữ hay bị khủng bố tinh thần.

Bên cạnh đó, những vụ khiếu kiện đông người về đất đai ngày càng gia tăng hoặc kéo dài. Điều đó chứng tỏ cách giải quyết của chính quyền các cấp không thỏa đáng, có thể vì thiếu thiện chí giải quyết vấn đề đúng pháp luật và lẽ phải hay vì bênh vực quyền lợi của các nhà đầu tư và các nhóm đặc quyền. Để biện minh cho cách giải quyết này người ta thường chụp lên đầu những người phản kháng cái mũ “bị kích động của thế lực thù địch”.

2. Dùng bạo lực để giải quyết các tranh chấp dân sự

Bạo lực ở đây là việc sử dụng “côn đồ” chứ không chỉ các biện pháp nghiệp vụ của cơ quan công an để vãn hồi trật tự. Biện pháp này được dùng ngày càng nhiều, để đàn áp các cá nhân lẫn các đám đông, từ đám tang riêng lẻ đến các vụ khiếu kiện tập thể hay biểu tình. Điều đó đang làm cho bạo lực ngự trị trong đời sống xã hội khi giải quyết tranh chấp.

3. Tham nhũng thành quốc nạn

Những diễn biến và xáo trộn trong mấy tháng vừa qua chứng tỏ mô hình kinh tế hiện tại đang làm giàu cho nhóm đặc quyền đặc lợi, đặc biệt là giới ngân hàng, hơn là cho toàn dân. Lạm phát gia tăng cũng làm tăng đói nghèo, không những gây khó khăn hơn cho cuộc sống của người dân, mà cho cả các doanh nghiệp. Từ đầu năm đến nay hơn 40.000 doanh nghiệp phải giải thể.

Việt Nam hiện nằm trong nhóm các quốc gia thiếu minh bạch nhất thế giới. Tham nhũng đã trở thành quốc nạn, mà nguyên nhân chủ yếu là do cơ chế điều hành, lãnh đạo. Chính vì vậy, không những nó nguy hiểm cho tiền đồ đất nước mà hầu như bất khả loại trừ trong bối cảnh kinh tế – chính trị hiện nay.

4. Chủ quyền đất nước

Khi ý thức rằng: “Việc chung sống giữa các dân tộc được xây dựng trên các giá trị từng làm nền tảng để kiến tạo các mối quan hệ giữa người với người: đó là sự thật, công lý, liên đới tích cực và tự do” (TLGHXHCG số 433) thì chúng ta thấy hiện nay nền tự do, độc lập, chủ quyền quốc gia của Việt Nam đang bị đe dọa nặng nề bởi sự gây hấn và xâm lược của láng giềng Trung Quốc. Người dân không được biết sự thật về những “thỏa hiệp” hay “thỏa ước” giữa chính quyền hai nước, nhưng lại phải gánh chịu nhiều hậu quả tai hại do “mối giao hảo” ấy gây nên cả về chính trị lẫn kinh tế.

Trong bản Nhận định về một số tình hình hiện nay của Việt Nam, Ủy Ban CLHB đã nhấn mạnh: “Vào những thập niên cuối cùng của thế kỷ XX, Biển Đông đã một vài lần nổi sóng. Nhưng trong những năm gần đây, sự căng thẳng đã lên đến mức độ nguy hiểm. Nhà cầm quyền Trung Quốc một mặt dùng lời lẽ hoa mỹ, với thông điệp rất êm tai, nhưng mặt khác, các hành động của họ về chủ quyền trên Biển Đông ngày càng phản ánh rõ rệt chủ trương Đại Hán.

Trong khi đó phản ứng của Nhà cầm quyền Việt Nam quá yếu ớt, tạo cớ cho các lực lượng thù nghịch lấn tới. Khó hiểu hơn nữa là việc chính quyền đã mạnh tay đàn áp các tổ chức và các cá nhân yêu nước phản đối hành động xâm lược trắng trợn của Trung Quốc. Thái độ lập lờ, thiếu nhất quán của các nhà lãnh đạo trong vấn đề phân định lãnh thổ vùng biên giới và bảo vệ chủ quyền ở Biển Đông đang gây bất bình trong dư luận.”

5. Phẩm giá con người

Phẩm giá con người bị chà đạp và xúc phạm nặng nề. Nạn buôn người và buôn bán phụ nữ chuyển từ tình trạng lén lút sang công khai, núp dưới hình thức “hợp tác lao động”, “môi giới kết hôn với người ngoại kiều” qua trung gian các công ty có giấy phép kinh doanh. Đây là loại hình tội phạm đáng lo ngại với các thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, hoạt động xuyên quốc gia, siêu lợi nhuận, ngày càng gia tăng và thêm phức tạp.

Hiện tượng ấy dường như là hậu quả của một điều đã diễn ra từ lâu và rất đáng lo ngại. Trong xã hội Việt Nam hôm nay, con người dễ bị tha hóa trở thành công cụ, hay bị coi là công cụ để phục vụ các mục tiêu chính trị, kinh tế hơn là một nhân vị, chủ thể của các thực tại xã hội. Lý do có thể giải thích là vì nền giáo dục Việt Nam hiện nay không những lạc hậu, mà còn lạc hướng, chạy theo hình thức và phô trương thành tích nhằm tạo ra những con người chỉ có khả năng phục vụ cho những mục tiêu chính trị chứ không nhằm đào tạo con người có nhân cách, phát triển tâm và trí toàn diện. Nói cách khác, hệ thống giáo dục đang đào tạo con người công cụ hơn là con người nhân vị có tự do, có khả năng chịu trách nhiệm và sáng tạo.

6. Tự do Ngôn luận

Theo luật lệ Việt Nam hiện hành, truyền thông triệt để trực thuộc Nhà nước. Vì vậy, mặc dù cả nước có hơn 700 cơ quan báo chí và hầu như tỉnh nào cũng có truyền thanh và truyền hình, nhưng tất cả bị kiểm duyệt và kiểm soát gắt gao. Trước mắt, xã hội dân sự chưa được xuất hiện và chưa thực sự góp phần năng động cho truyền thông.

Cuộc cách mạng thông tin đã bùng nổ qua các trang web và các blog cá nhân. Đây là một hình thức thông tin mới, tức thời, hấp dẫn, năng động, đa diện, vừa bằng chữ viết, vừa kèm theo hình ảnh hay minh họa. Với webblog các nhân, người đưa tin chia sẻ và nối kết với nhau thành mạng xã hội, giải phóng sự thật khỏi những rào cản và quyền lực truyền thống, cũng như thách thức ngay cả các tập đoàn truyền thông vốn áp đặt thông tin ở quy mô quốc gia hay toàn cầu. Tất nhiên cái gì cũng có mặt trái của nó, cần phải được hướng dẫn và điều chỉnh các lạm dụng, sai trái. Tuy nhiên, các biện pháp kiểm soát, cấm đoán, phá hoại các trang web, các blog cá nhân, nhất là việc bắt bớ, kết án các Bloggers đã đi tới tình trạnh vi phạm nhân quyền nặng nề. Vụ án các Bloggers thuộc câu lạc bộ các nhà báo tự do đã bị xét xử vừa qua là ví dụ cụ thể cho tình trạng vi phạm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí.

7. Tự do tôn giáo

Mặc dù hiến pháp, luật, pháp lệnh, nghị định và thông tư đã quy định về tự do tôn giáo, tự do tín ngưỡng, nhưng việc thực hiện các quy định trên tại nhiều địa phương lại rất tùy tiện. Chính vì vậy, ở một số nơi, việc cử hành các lễ nghi tôn giáo và thiết lập các điểm sinh hoạt tôn giáo ngoài cơ sở thờ tự rất nhiêu khê và tùy thuộc nhiều vào cảm tính của giới chức chính quyền địa phương. Đặc biêt, do lịch sử, có những “Xã” hay “Huyện anh hùng” mà ở đó có tiêu chí “vùng trắng tôn giáo”, thì việc cố gắng phục hồi các nhà nguyện và tổ chức các buổi cầu nguyện của các giáo hội địa phương gặp rất nhiều khó khăn. Tình trạng này, tùy lúc, đã và đang diễn ra tại một số giáo phận như Kontum, Hưng Hóa, Ban Mê Thuột, Vinh…

Kính thưa Đức Hồng y, quí Đức cha,

Khi gửi Bản phúc trình này, Ủy Ban CLHB chỉ nêu lên một số hiện tượng tiêu biểu hoặc vấn đề đáng quan tâm. Làm như thế, chúng ta muốn chứng tỏ rằng người Công Giáo không hề thờ ơ với tình hình đất nước, nhưng luôn thể hiện một tình yêu nước nồng nàn và nỗ lực kiếm tìm giải pháp tích cực dựa trên GHXH của Giáo hội để xây dựng hòa bình. Cổ vũ hòa bình là một phần tất yếu trong sứ mạng của Giáo Hội khi tiếp tục công trình của Đức Kitô trên trần gian. Thật vậy, trong Đức Kitô, Giáo Hội là một bí tích, tức là dấu chỉ và công cụ của hòa bình trên thế giới và cho thế giới (x. TLGHXHCG Số 516). Ủy Ban CL&HB ước mong nhận được những góp ý tích cực, hướng dẫn cụ thể và đầy tình hiệp thông của Đức Hồng Y và quí Đức Cha để có thể góp phần loan báo Tin Mừng trong lãnh vực chính trị, kinh tế, xã hội… đầy khó khăn và thách đố này.

Lễ Các Thánh, ngày 1/11/2012

ỦY BAN CÔNG LÝ & HÒA BÌNH / HĐGMVN

VỀ MỤC LỤC
THƯƠNG TIẾC BÁC CHÍN (1920 - 2012)

 

Đoàn Thanh Liêm

* * *

Bác Chín là tên gọi thân thiết riêng tư trong nhóm bạn hữu chúng tôi ở Saigon sau năm 1975 để gọi Bác Chín Tân (Chân Tín) - nhằm tránh sự theo dõi của mấy người công an mật vụ vốn thường bám sát những “đối tượng khả nghi”. Còn thông thường, thì mọi người đều gọi ông là Cha Chân Tín – nguời Mỹ thì gọi ông là Father Chân Tín.

Ở vào tuổi 92 (1920 – 2012), theo đúng với quy luật “Sinh Lão Bệnh Tử”, thì sự ra đi của ông vào ngày 1 tháng 12 vừa rồi tại Saigon là điều không mấy ai ngạc nhiên. Mặc dầu vậy, tôi cũng đã nhận được điện thư của mấy người bạn – họ bày tỏ “sự bàng hòang” (anh Nguyễn Xuân Sơn ở New York, bào đệ của họa sĩ Thái Tuấn) hay : “đó là sự mất mát lớn cho Việt nam” (chị Sophie Quinn-Judge ở Philadelphia).

Là người có duyên được quen biết gần gũi với ông từ trên 40 năm nay, tôi xin được ghi lại một số kỷ niệm thân thương với ông qua một số bạn hữu và một số chuyện, đặc biệt là sau năm 1975.

1 – Trước hết là nhóm người cùng bị bắt với ông vào tháng 4 & 5 năm 1990.

Trong đó có những người đã ra người thiên cổ như Tạ Bá Tòng, Nguyễn Hộ, Nguyễn Ngọc Lan, Đỗ Trung Hiếu và Roxanna Brown. Còn anh Đỗ Ngọc Long, Lê Văn Trinh và tôi, thì hiện đang sinh sống trên đất Mỹ. Mike Morrow hiện còn làm ăn ở Hongkong. Nhóm chúng tôi bị bắt giữ trong đợt này là do chính ông Mai Chí Thọ Bộ trưởng Nội vụ hồi đó là người đứng ra chỉ đạo chiến dịch mẻ lưới lớn “bắt giữ để phòng ngừa” (preventive arrests).

2 – Kỷ niệm với Mục sư Tullio Vinay (1909 - 1996) ở Italia.

Vào năm 1989, mục sư TullioVinay ở thành phố Turin Italia đã chuyển tòan bộ giải thưởng ông nhận được từ bên nước Đức cho cha Chân Tín, số tiền lên đến trên 11,000 US dollar. Và dĩ nhiên là cha đã chia hết cho những dự án xã hội ở Saigon và ở Cần Giờ. Bây giờ, thì ông cha có thể đi gặp lại người bạn mục sư thân thương và rất mực tốt bụng đó thôi.

3 – Chuyến viếng thăm của Nghị sĩ George McGovern năm 1972.

Thượng Nghị sĩ McGovern là ứng cử viên đại diện đảng Dân chủ trong cuộc bàu cử Tổng thống năm 1972. Trong chuyến viếng thăm Saigon vào giữa năm đó, ông dành thời gian để đến thăm Linh mục Chân Tín. Nhưng ông lại bị lực lượng an ninh tìm cách cản trở, nên cuộc thăm viếng đã không thể thực hiện được. Sự kiện này đã gây sôi nổi trong công luận ở Mỹ lúc đó. Vài tháng trước đây, thì Nghị sĩ McGovern cũng vừa mới qua đời – như thế thì hai ông lần nay sẽ dễ dàng gặp lại nhau, khỏi bị ai đó ngăn cản nữa.

4 – Câu chuyện xung quanh vụ Phong Thánh Tử Đạo năm 1988.

Suốt trong hai năm 1987 – 88, Nhà nước cộng sản mở chiến dịch chống phá việc Giáo hội Công giáo tổ chức Phong Thánh Tử Đạo cho những vị bị sát hại trong thời cấm đạo ở Việt nam thời trước. Trong hàng ngũ tu sĩ và giáo dân có can đảm đứng ra bênh vực lập trường của Giáo hội, thì có Linh mục Chân Tín và Giáo sư Nguyễn Ngọc Lan là hai vị viết những bài có sức thuyết phục cao đối với quần chúng giáo dân, nên được phổ biến cùng khắp cả nước - khiến gây e ngại cho giới cầm quyền, vì họ sợ chuyện “già néo bứt giây”.

Vì thế, mà trong dân gian bà con đã ví von gọi hai ông là “cặp kiện tướng Gullitt/Van Basten” của đội bóng tròn Hòà Lan là vô địch Âu châu năm 1988.

5 – Cuộc thẩm vấn của Đại tá Quang Minh tại trại giam B34 ở Saigon.

Trong suốt 3 tháng 5, 6 và 7 năm 1990, tôi bị Đại tá Quang Minh Ngô Văn Dần thẩm vấn liên tục. Ông này là thủ trưởng của bộ phận Phản gián ở miền Nam. Ông tra hỏi tôi rất kỹ về mối liên hệ giữa tôi với linh mục Chân Tín và ông Tám Cần Tạ Bá Tòng. Ông còn nói với tôi : Ông Chân Tín là người bạn lớn của ông mà ! (nguyên văn tiếng Pháp : votre grand ami). Trong thời gian thẩm vấn dài ngày đó, cũng ông Quang Minh này đã tặng cho tôi một danh hiệu dữ dằn khác nữa, đó là : “ kẻ sát nhân ngọai hạng “(assassin de génie).

Tôi còn rất nhiều kỷ niệm vui buồn khác nữa với Bác Chín. Đại khái như lúc bác rưng rưng nước mắt xác nhân với anh em chúng tôi là cháu Thiên Hương ái nữ của nhà văn Duyên Anh và chồng là David người quốc tịch Anh đều đã tử nạn máy bay ở Bangkok năm 1988. Và vào cuối năm 1974, nhân dịp đến thăm các tù nhân chính trị đang tá túc tại chùa Ấn Quang, tôi còn dẫn Bác đến thăm Thày Trí Quang tại đây nữa. Đây có thể là lần duy nhất mà Bác Chín trực tiếp chuyện trò trao đổi với Thày Trí Quang.

Vào năm 1989, một số anh chị em giáo dân chúng tôi đã hội họp tại văn phòng của Bác để sọan thảo Thư Ngỏ gửi đến Hội Đồng Giám Mục Việt Nam và cả đến Tổng Giám Mục Saigon Nguyễn Văn Bình nữa.

Nhưng vì khuôn khổ của bài báo có giới hạn, nên tôi xin tạm ngừng tại đây.

Nay thì Bác Chín đã lìa xa cõi tạm này để đi gặp lại, quây quần xum họp với bao nhiêu người thân thiết yêu thương của Bác.

Xin vĩnh biệt Bác Chín với lòng quý mến muôn vàn

Và xin cầu chúc Bác luôn thanh thản nơi cõi Vĩnh Hằng.

 

Westminster California, tháng 12 năm 2012

Luật sư Đoàn Thanh Liêm

VỀ MỤC LỤC
Con chó và con cáo

Nguyên tác: Taking Flight - Bay Lên Đi

Tác giả: Anthony de Mello, S.J.

Chuyển ngữ: Lm. Minh Anh (Gp. Huế)

Chỉ dẫn:

Tốt nhất, các câu chuyện sẽ được đọc theo thứ tự như đã sắp xếp. Mỗi lần đọc không quá một hoặc hai mẩu chuyện nếu bạn ước ao có được một cái gì đó hơn là chỉ giải trí.

Lưu ý:

Các chuyện kể trong tập sách này đến từ nhiều đất nước, nhiều nền văn hoá và tôn giáo khác nhau; chúng thuộc về những di sản thiêng liêng, những câu chuyện hài hước được ưa chuộng của dòng đời nhân loại.

Những gì tác giả làm là xâu kết chúng lại với nhau theo một ý hướng đặc thù. Công việc của tác giả là công việc của người thợ dệt và thợ nhuộm, tác giả chẳng có công trạng gì về những tấm vải và những sợi chỉ.

LTS.Chỉ dẫn và lưu ý trên đây là của tác giả. Tuy nhiên, vì Đặc San GSVN chỉ phát hành 2 tuần một lần nên mỗi số báo BBT xin giới thiệu trung bình từ 5 đến 7 mẫu chuyện. Bạn đọc có thể lưu lại để nghiền ngẫm suy tư.

Chủ đề : TÔN GIÁO (tiếp theo)

 

96. Con chó và con cáo

Một thợ săn lệnh con chó của mình đuổi theo một con vật nào đó đang di chuyển sau hàng cây. Nó đuổi theo và dồn con cáo vào chỗ chủ nó có thể bắn.

Con cáo sắp chết nói với con chó, “Người ta không bao giờ nói cho anh biết cáo là anh em với chó sao?”.

“Thực sự là có”, con chó trả lời. “Nhưng điều đó dành cho những người duy tâm và những tên ngốc. Đối với người có đầu óc thực tế, tình huynh đệ được tạo thành bởi căn tính của sở thích”.

Một người Kitô hữu nói với một Phật tử, “Thực ra chúng ta có thể là anh em nhưng điều đó dành cho những người duy tâm và những tên ngốc. Đối với người có đầu óc thực tế, tình huynh đệ cốt tại căn tính của niềm tin”.

Than ôi, hầu hết mọi người có đủ tín ngưỡng để ghét nhưng không đủ để yêu.

ڰ

97. Mahatma Gandhi và đạo Công giáo

Trong cuốn tự truyện của mình, Mahatma Gandhi cho biết vào thời sinh viên của ông ở Phi Châu, ông rất quan tâm đến Thánh Kinh, đặc biệt là Bài Giảng trên Núi.

Ông đoan chắc, Kitô giáo là câu trả lời cho chế độ phân cấp vốn đã tác hại đất nước Ấn Độ qua hàng thế kỷ và ông nghiêm túc xem xét việc trở thành một Kitô hữu.

Ngày kia ông đến nhà thờ để tham dự Thánh lễ và thụ huấn. Người ta chặn ông ở lối vào và nhẹ nhàng bảo nếu ông muốn dự lễ, ông sẽ được chào đón trong một nhà thờ dành cho người da đen.

Ông quay gót bỏ đi và không bao giờ trở lại.

ڰ

98. Tuyệt thông cả Chúa

Một người phạm tội công khai bị vạ tuyệt thông và không được phép vào nhà thờ.

Ông thổ lộ nỗi muộn phiền cùng Chúa. “Lạy Chúa, họ không cho con vào vì con là người tội lỗi”.

“Con than phiền làm chi...”, Chúa nói, “họ cũng không cho Ta vào!”.

ڰ

99. Giới hạn của tôn giáo

Một nhà thờ hay một hội đường cần quyên tiền nếu muốn tồn tại. Có lần trong một hội đường Do Thái, người ta không chuyền tay chiếc oi xin tiền chung quanh như trong các nhà thờ Công giáo. Cách họ quyên tiền là bán vé ghế dành riêng vào các Ngày Lễ Trọng vì đó là lúc cộng đoàn tụ tập đông nhất và là lúc người ta hào phóng nhất.

Vào một ngày lễ trọng nọ, một đứa trẻ vào hội đường để tìm cha mình, nhưng những người hướng dẫn không cho cậu vào vì cậu không có vé.

“Xin xét cho”, thằng nhóc thưa, “đây là một vấn đề rất quan trọng”.

“Đó là điều mà tất cả mọi người đều nói”, người hướng dẫn đáp lại lạnh lùng.

Cậu bé trở nên nôn nóng và van xin, “Xin ông vui lòng để cháu vào. Đây là một vấn đề sống còn. Cháu sẽ vào chỉ một phút thôi”.

Người hướng dẫn động lòng, “Ồ, nếu quan trọng thì được”, ông ta nói. “Nhưng đừng để ta bắt gặp cháu cầu nguyện đấy nhé!”.

Than ôi, tôn giáo có tổ chức vẫn có giới hạn của nó!

ڰ

100. Tại sao không khóc?

Một nhà giảng thuyết có tài hùng biện đặc biệt và mọi người, hầu hết mọi người, đều cảm động đến rơi nước mắt. Ồ, chính xác không phải là hết mọi người vì ở hàng đầu có một quý ông ngồi trước mặt nhà giảng thuyết hoàn toàn vô cảm trước bài giảng.

Vào cuối bài giảng, ai đó nói với ông “Ông có nghe bài giảng không?”, “Có, dĩ nhiên”, người đàn ông lạnh lùng đáp, “tôi đâu có điếc”.

“Ông nghĩ gì về bài giảng?”

“Tôi nghĩ nó quá cảm động đến nỗi tôi có thể khóc”.

“Tôi xin phép hỏi, vậy tại sao ông không khóc?”.

“Bởi vì”, người đàn ông trả lời, “Tôi không thuộc họ đạo này”.

ڰ

(còn tiếp)

VỀ MỤC LỤC
LINH MỤC GIÁO PHẬN TÁI ĐỊNH HƯỚNG ĐỜI SỐNG VÀ SỨ VỤ TRONG VIỄN ẢNH QUYỀN BÍNH VÀ VÂNG LỜI

Lm. Micae-Phaolo Trần Minh Huy, pss.

 

BẢN THẢO

ỨNG SINH LINH MỤC HỌC & SỐNG LINH ĐẠO LINH MỤC GIÁO PHẬN

GIÁO TRÌNH TU ĐỨC LỚP THẦN II & III

ĐẠI CHỦNG VIỆN THÁNH GIUSE HÀ NỘI

2011-2012

CHƯƠNG HAI

ỨNG SINH LINH MỤC GIÁO PHẬN

HỌC VƯỢT LÊN KHỦNG HOẢNG VÀ TÁI ĐỊNH HƯỚNG ĐỜI SỐNG VÀ SỨ VỤ ƠN GỌI LINH MỤC (tiep theo)

 

E. LINH MỤC GIÁO PHẬN TÁI ĐỊNH HƯỚNG ĐỜI SỐNG VÀ SỨ VỤ TRONG VIỄN ẢNH QUYỀN BÍNH VÀ VÂNG LỜI

E.1. Trong Viễn Ảnh Quyền Bính Đích Thực

Ngày nay vấn đề quyền bính lắm khi gây đau đớn và chia rẽ trong Giáo Hội. Quyền bính của chính Chúa Giêsu cũng đã bị đặt thành vấn đề: “Do quyền bính nào mà ông làm những việc ấy? Ai cho ông quyền đó?.”[387] Dưới chân thập giá, các thủ lãnh chế nhạo Chúa Giêsu: “Nó cứu được người khác; hãy để nó tự cứu lấy mình, nếu nó là Đấng Kitô của Thiên Chúa, Kẻ Ngài Tuyển Chọn!” Binh lính cũng chế nhạo quyền bính Ngài: “Nếu ông là vua dân Dothái, hãy cứu lấy mình đi![388] Thách đố ấy ngày nay vẫn tiếp diễn. Quyền bính của các Tông đồ và những người kế vị tiếp tục bị thách đố, như chúng ta thấy trong thời gian gần đây ở trong Giáo Hội hoàn vũ cũng như tại Việt Nam chúng ta. Nhiều cá nhân tự phụ giải thích quan điểm và ý kiến của mình như qui phạm, lại đặt thành vấn đề giáo huấn và kỷ luật của Giáo Hội.

 

Mới đây, 144 trong số 400 nhà thần học của Đức, Áo và Thụy Sĩ cùng ký tên đưa ra một Bản Kêu Gọi “Giáo Hội 2011, một sự canh tân thiết yếu,” trong đó họ kêu gọi một cuộc đối thoại cởi mở nhằm canh tân Giáo Hội mà một số Giám mục Đức cũng đã đề xướng. Với tư cách những nhà thần học, họ muốn góp phần vào một cuộc khởi hành mới đích thực biến năm 2011 là năm đổi mới của Giáo Hội. Họ lấy tư cách là những nhà thần học nhưng đề xuất những cái thiếu thần học như nêu nguyên tắc “cái gì liên quan đến mọi người thì phải được mọi người quyết định” để rồi đòi cho giáo dân tham gia vào việc bổ nhiệm các Giám mục và Cha xứ, hủy bỏ luật độc thân linh mục, phong chức linh mục cho phụ nữ và những người đã lập gia đình, cho hôn nhân đồng tính và ly dị tái hôn.

 

Nhà báo công giáo Peter Seewald đã lên tiếng phê phán Bản Kêu Gọi là nổi loạn, mị dân quá mức, các luận điểm đưa ra có tính cách mạng và có thể dẫn đến ly giáo. Ông nhắc lại rằng Đức Thánh Cha đã luôn ý thức những tấn công tồi tệ nhất chống lại Giáo Hội luôn đến từ chính bên trong Giáo Hội, nhưng Giáo Hội sẽ không lùi bước trước bất cứ lời thóa mạ nào. Theo ông, Giáo Hội luôn nỗ lực đi theo con đường đúng đắn, nhằm đến việc thanh tẩy, tái sinh các giá trị, trình bày một dáng vẻ trong sáng hơn về Giáo Hội trong thế giới hiện đại, và làm cho sứ điệp của Chúa Kitô rõ ràng hơn. Đó là một thách đố, nhưng phải chỉ rõ: Giáo Hội ở nơi đâu người ta cầu nguyện, nơi đâu có Đức Maria, nơi đâu có Phêrô, nơi đâu có Chúa Giêsu, Đấng đã nói “Con là Đá, và trên đá này Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy.” Thánh Phaolô đã nói chí lý: “sẽ đến thời người ta không còn chịu nghe giáo lý lành mạnh, nhưng theo những dục vọng của mình mà kiếm hết thầy này đến thầy nọ, bởi ngứa tai muốn nghe. Họ sẽ ngoảnh tai đi không nghe chân lý, nhưng hướng về những chuyện hoang đường” (2 Tm 4, 3-4).[389]

 

Tuy nhiên, các Giám Mục Áo sau Hội Nghị khoáng đại, ngày 11/11/2011 đã nhận định rằng Giáo Hội cũng như xã hội đang trải qua một thời khắc xáo trộn sâu xa và trả lời cho số linh mục Áo ký bản “lời kêu gọi bất tuân phục” rằng các ngài thực sự bận tâm đến những sáng kiến thúc giục những đổi thay trong Giáo Hội, rằng phải đổi mới trong sự trung thành với Công đồng Vatican II, và kêu gọi xem xét vấn đề với thiện chí hơn là muốn áp đặt những khuôn mẫu mâu thuẫn nghiêm trọng với căn tính Kitô giáo làm thiệt hại sự hiệp nhất của Giáo Hội, vì nó không chỉ là một vấn đề tổ chức của Giáo Hội mà là một vấn đề căn bản về căn tính công giáo. Linh mục Helmut Schüller, nguyên tổng đại diện giáo phận Vienne, là phát ngôn viên của nhóm các linh mục này cho biết gần 400 linh mục Áo ủng hộ lời kêu gọi có những thay đổi tận căn trong giáo huấn và kỷ luật của Giáo Hội Công Giáo, hy vọng phong trào này sẽ đạt được chiều kích quốc tế và những quyết định sẽ không thể chỉ đến từ Rôma. Báo La-Croix ngày 27/1/2012 đưa tin ĐHY Christoph Schönborn, Tổng giám mục Vienne, hướng dẫn một phái đoàn các giám mục Áo đến Rôma tham khảo ý kiến vị hữu trách Vatican về vụ này.[390]

 

Nguồn gốc quyền bính bị lẫn lộn. Người ta đi tìm những kiểu mẫu mới của quyền bính, như minh tinh màn bạc, cầu thủ bóng đá, tiểu thuyết gia, nghệ sĩ dân nhạc… Quá nhiều người rập khuôn cách “nô lệ” lối sống của mình theo gương các “ngôi sao” hay thần tượng ấy. Có một số người đảo lộn giá trị và mục đích khi đưa ra mẫu linh mục mới phải có ba bằng (lái xe, vi tính, ngoại ngữ)! Quyền bính đã không được nhìn đúng theo ý nghĩa và mục đích của nó.

 

Việc đặt thành vấn đề quyền bính của Giáo Hội phải được nhìn trong một bối cảnh rộng lớn hơn và tích cực hơn. Giáo Hội được Chúa Kitô thiết lập trên nền tảng các tông đồ, được tuyên xưng là công giáo, thánh thiện và tông truyền. Mọi quyền bính đều phát xuất từ Thiên Chúa nên sứ vụ giảng dạy, thánh hóa và điều khiển Dân Chúa của Giáo Hội dựa trên thần quyền, được trao phó cho những con người trong từng thời đại phát triển khác nhau, nên cũng chịu những ảnh hưởng của từng thời đại. Và cũng trong từng giai đoạn lịch sử đó, chính Giáo Hội cũng nhìn nhận nhu cầu phải kiểm điểm và canh tân chính mình. Câu Ecclesia semper reformanda rõ ràng kêu gọi một cái nhìn thẳng thắn, thường xuyên và triệt để về quyền bính mà Giáo Hội đang thực thi. Tuy nhiên, việc kiểm điểm đó sẽ không thành công, nếu nó chỉ được giới hạn vào các chuẫn mực và nguyên tắc tâm lý hay xã hội của loài người. Mọi quyền bính trong Giáo Hội đều bắt nguồn từ Chúa Giêsu. Do đó, để xem xét quyền bính, chúng ta phải quay trở lại với Chúa Giêsu, Đấng cai trị từ Thập giá. Ánh sáng của thập giá Chúa Kitô phải soi sáng mầu nhiệm quyền bính của Giáo Hội.

 

Bản chất quyền bính của Chúa Giêsu đã bị hiểu sai, thì bản chất quyền bính của Giáo Hội cũng sẽ bị hiểu lầm. Một số người coi quyền bính của Giáo Hội chỉ là một phương tiện để duy trì giáo thuyết và trật tự. Số khác lại coi quyền bính như một áp đặt bất công ý muốn của các lãnh đạo lên các thành viên của mình. Họ chỉ ra những lạm dụng quyền bính của Giáo Hội - một số lạm dụng có thật, một số bị gán ghép, tưởng tượng và phóng đại ra - và kêu gọi Giáo Hội phải có một đường lối lãnh đạo cho phép một quyền hành rộng rãi hơn trong mọi lãnh vực của đời sống Giáo Hội. Cả hai quan điểm đều thiếu sót và sai lầm khi coi quyền bính Giáo Hội như không thích hợp và đặt thành vấn đề mọi quyền bính hiện hữu trong Giáo Hội theo cung cách đối xử của họ đối với quyền bính thế tục.

 

Ngược lại, chúng ta xác tín rằng có quyền bính ở trong Giáo Hội và nó phải được thực thi. “Quyền bính xuất phát từ quyền điều khiển Giáo Hội được Chúa Kitô ủy thác cho các Tông đồ và những người kế vị[391] Mục đích quyền bính Giáo Hội được mạc khải và tuôn đổ xuống trên Giáo Hội từ nơi Thập giá là để thiết lập vương quốc tình thương cứu độ. Tình thương cứu độ không che đậy tội lỗi, nhưng phơi bày tội lỗi như nó hủy diệt phẩm giá con người và tình thương, hầu chữa trị nó. Tình thương cứu độ đó dùng sức mạnh của Chúa để chiến thắng tội lỗi. Quyền bính được trao ban cho Giáo Hội là để rao giảng, thanh tẩy, tha tội và qui tụ những ai được tái sinh bởi nước và Thánh Thần quanh bàn tiệc Hy Tế của Chúa.[392]

 

Chúng ta trăn trở làm cho Giáo Hội được lớn lên, mạnh mẽ và hiệp nhất hơn với Đức Giáo Hoàng trong nhiệm thể Chúa Kitô. Và ngày nay, quyền bính và sự hiệp nhất của Giáo Hội Địa phương được diễn tả qua nhiều vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là Giám Mục Bản Quyền: Ngài không chỉ là đầu, mà là con tim của giáo phận, tất cả đều qui về Giám Mục và tất cả quyền bính đều phát ra từ Giám Mục, đến đỗi “linh mục không thể làm gì mà không có Giám Mục”“Giám mục không làm gì ngoài Ý Thiên Chúa.”[393] Tất cả mọi luật lệ và áp dụng của quyền bính Giáo Hội phải được nhìn trong ánh sáng của mục đích ấy, mà chúng ta chỉ có thể hiểu được ở dưới chân thập giá.

 

Thập giá quan trọng biết bao cho chúng ta là những người thực thi quyền bính. Không bao giờ chúng ta được rời khỏi thập giá, nếu muốn hiểu và thực hiện tốt quyền bính. Mỗi quyết định của chúng ta phải được thực hiện với Chúa Giêsu chịu đóng đinh ở trước mắt. Thập giá của Ngài phải được nổi bật lên trong tất cả những gì chúng ta làm. Thập giá phải là thước đo mức độ tận hiến của chúng ta và cách chúng ta đối xử với người khác. Thập giá phải là dấu hiệu tình yêu đối với Chúa mà chúng ta biểu lộ qua lòng nhiệt thành, sẵn sàng cho đi tất cả những gì chúng ta có và những gì chúng ta là, trong khi giáo huấn, thánh hóa và dẫn dắt giáo dân.

E.2. Trong viễn ảnh đức Vâng Lời Đích Thực

“Khi còn sống kiếp phàm nhân, Chúa Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người”[394]

 

Trong ba lời khuyên Phúc Âm, Vâng Lời là nền tảng và khó nhất, vì nó chạm tới tự do, bản ngã và ý riêng của con người. Nhờ vâng lời triệt để trong mọi sự có liên quan, nguời sống đời độc thân thánh hiến mới có thể giữ được hữu hiệu đức khó nghèo và khiết tịnh. Ngày thụ phong linh mục, chúng ta qùy trước mặt Giám Mục Bản Quyền, đặt tay chúng ta trong tay Ngài. Nhân danh Giáo Hội, Ngài hỏi chúng ta: “Con có hứa kính trọng và vâng phục Cha và những người kế vị cha không?” và chúng ta trả lời: “Thưa con hứa.” Đừng quên thời khắc ân sủng ấy. Đó là một sự cam kết với Chúa và với Giáo Hội, cho một tương lai vô định (có thể được sai tới nơi mình không muốn, ở với người mình không ưa, làm việc mình không thích). Đó là tiếng “Xin Vâng” của chúng ta trong mọi sự mà Chúa và Giáo Hội đòi hỏi. Chúng ta cam kết vâng lời Giám Mục Bản Quyền và những người kế vị Ngài, mà chẳng biết cái gì các ngài sẽ yêu cầu chúng ta. Như Mẹ Maria, lòng vâng phục của chúng ta được xây dựng trên đức tin và chấp nhận Lời Chúa trong cuộc sống. Nó cũng được xây dựng trong sự tin tưởng, phó thác vào ơn nâng đỡ của Chúa, tín nhiệm vào Giáo Hội, vì Giáo Hội đã nhận lãnh sứ vụ và quyền bính từ Chúa Kitô.

 

Trong cuộc sống trải dài, có khi chúng ta kinh ngạc, có khi hân hoan, có khi lo buồn về những gì mà Giáo Hội đòi hỏi chúng ta. Khi gặp thử thách lớn lao, khi phải đối mặt với những vấn đề và thách đố mà chúng ta chẳng bao giờ nghĩ đến, lắm lúc chúng ta tự hỏi: “Có phải Chúa đòi hỏi, và trao cho chúng ta những gánh quá nặng như vậy bắt phải vác không?” Sự vâng phục đòi hỏi chúng ta cái gì nhiều hơn là xác định chúng ta sẽ ở đâu và khi nào sẽ thi hành sứ vụ. Chúng ta không tự quyết định lấy sứ vụ của mình, song chúng ta sẽ được sai đi. Trong sự vâng lời, không thể tránh khỏi thập giá: Chết cho chính mình khó khăn dường nào!, vì không phải chỉ trong chốc lát, song trong từng phút giây của cuộc sống mỗi ngày. Có thể đó là một cuộc tử đạo liên lỉ mà Vaticanô II đã nói trong Hiến chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen Gentium rằng “cuộc bách hại không bao giờ thiếu vắng trong Giáo Hội”[395]: “Một lúc đổ cả máu đào, hay từng giọt một đàng nào công hơn?”

 

Chúng ta cần tiếp tục đào sâu và làm mới lại cái nhìn về bản chất của sự vâng lời mà Chúa và Giáo Hội đòi hỏi. Chính Giáo Hội cũng sống trong sự vâng lời Chúa Kitô, Đầu của Thân Thể, như Công đồng Vaticanô II dạy.[396] Và trong sự vâng lời, chúng ta tham dự đầy đủ vào công việc cứu thế đã được mạc khải và kiện toàn trong Chúa Kitô. Chúng ta có nhiệm vụ kéo dài sứ mệnh của Chúa Kitô, trong đức tin vâng phục, và sự quen thuộc sâu xa với đường lối của Chúa. Để kiện toàn sứ mệnh, chúng ta được mời gọi dõi bước theo cùng một con đường Chúa Kitô đã đi qua. Con đường đó dẫn đến thập giá, không thể tránh được. Dù vậy, chúng ta phải gắn bó với Giáo Hội trong tình thảo hiếu và vâng lời. Vâng lời đòi hỏi can đảm tuân giữ kỷ luật Giáo Hội, và thích ứng với những yêu sách đặc biệt của từng hoàn cảnh cụ thể.

 

Chính vì thế mà ĐTC Biển Đức XVI nhắc nhở: “Linh Mục cần phải đâm rễ sâu trong tình bạn sinh động với Chúa Kitô, không phải chỉ với trí thông minh mà cả với sự tự do và ý chí nữa, và có một ý thức rõ ràng về căn tính đã nhận lãnh trong Lễ Truyền Chức, một sự sẵn sàng vô điều kiện trong việc dẫn dắt đoàn chiên được trao phó, ở nơi Chúa muốn chứ không phải trong mức độ xem ra thích hợp hay dễ dàng nhất đối với mình. Điều này trước hết đòi phải sẵn sàng liên tục để chính Chúa Kitô hướng dẫn cuộc sống mình. Thật vậy, không ai có khả năng chăn dắt đoàn chiên của Chúa, nếu không sống sâu thẳm và đích thực sự vâng lời Chúa Kitô và Giáo Hội. Sự ngoan ngoãn của Dân Chúa đối với linh mục tùy thuộc sự ngoan ngoãn của linh mục đối với Chúa Kitô. Vì thế ở nền tảng của thừa tác muc vụ luôn luôn có sự gặp gỡ cá nhân và liên lỉ với Chúa, hiểu biết Chúa sâu đậm và nên một với ý muốn của Chúa Kitô.”[397]

Chúng ta cảm kích nhìn thấy nhiều linh mục vui lòng đảm nhận những trạch cử và nhiệm vụ khó khăn, không phải do họ chọn chúng, nhưng đơn giản do Giáo Hội đòi hỏi họ làm như vậy. Chúng ta nghĩ đến những linh mục sẵn sàng rời bỏ những nhiệm sở rất thoải mái và tiện nghi, để bắt đầu làm việc trong những giáo xứ nghèo nàn. Chúng ta nghĩ đến những linh mục sẽ đảm trách những phận vụ bạc bẻo trong Giáo phận, không phải hy vọng một phần thưởng nào đó, nhưng đơn giản chỉ vì đó là công việc của Chúa và của Giáo Hội. Chúng ta nghĩ đến những linh mục sẵn lòng nói lên sự thật Phúc Âm cho những kẻ mình phục vụ, mà không để mình bị tê liệt vì sợ làm như vậy người ta sẽ không ưa mình.

 

Nhưng sự vâng lời mà Giáo Hội đòi hỏi chúng ta đi xa hơn và tóm tắt lại trong câu sentire cum Ecclesia, tức là cùng cảm thông với Giáo Hội. Cảm thông với Giáo Hội đi xa hơn việc chấp nhận cách máy móc các công thức đức tin hay các khoản Giáo luật. Cảm thông với Giáo Hội là có mối thiện cảm sâu xa và trung thành với giáo huấn, phượng tự và sứ vụ của Giáo Hội. Truyền thống và quan niệm hiện hành của Giáo Hội phải được thấm sâu vào cuộc sống chúng ta, như chúng ta tuyên bố trong khi tuyên xưng đức tin trước ngày lãnh chức linh mục. Vâng lời như thế loại bỏ đầu óc vụ hình thức vô bổ, nhưng dẫn đến một sự sống được lớn lên trong sự hiệp nhất với Chúa Kitô, đến đỗi thánh Phaolô nói: “Không còn phải là tôi sống nữa, nhưng Chúa Kitô sống trong tôi[398] Vâng lời đòi hỏi sự sẵn lòng để ra một bên mọi sự, vì tình yêu Chúa Kitô và Giáo Hội. Vâng lời không phải là nhu nhược và nhát gan đến phát sợ mà phải từ bỏ ý nghĩ và các lý do tốt nhất của mình. Đúng vậy, Đấng Bản Quyền luôn đáng được nghe ý kiến tốt nhất và những thỉnh nguyện đã được suy nghĩ chín chắn của chúng ta. Ngài có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận chúng. Nhưng chúng ta an tâm biết rằng Ngài có một ơn phân định đặc biệt của Chúa Thánh Thần, ơn đoàn sủng mà chúng ta không có. Chúng ta được mời gọi tận tâm vâng lời, nói lên sự thật như chúng ta nhận thấy, và luôn sẵn sàng vâng lời, dù có trái ý chúng ta. Đó là thực sự cảm thông với Giáo Hội. 

 

Với Vaticanô II, không còn “vâng lời tối mặt”; nhưng “vâng lời đối thoại” hay “vâng lời trưởng thành”, nghĩa là chúng ta được trình bày với Đấng Bản Quyền hết sự thật những gì chúng ta nhận thấy và suy nghĩ, với đầy đủ lý do và ước nguyện, có khi trái ý Ngài, nhưng lời nói cuối cùng thuộc về Ngài, và chúng ta phải vâng lời quyết định cuối cùng đó với tinh thần siêu nhiên và đức tin. Là người của Chúa và của Giáo Hội, chúng ta tránh những hình thức liên minh gây áp lực hay chống đối Đấng Bản Quyền, hoặc khi không được như ý thì thụ động tiêu cực và xa lánh (“kính nhi viễn chi”). Chúng ta biết rằng Ngài có quyền quyết định trái với ý của tất cả chúng ta, nhưng chính Ngài chịu trách nhiệm trả lời với Chúa. Đó là thực sự cảm thông với Giáo Hội. Điều đáng e ngại là có thể một số Vị “quá sính quyền bính” không dễ dàng lắng nghe và cho bề dưới cơ hội đối thoại hay giải thích! Nhưng đi cho tới cùng, vâng lời đòi hỏi mọi sự nơi chúng ta: trí khôn, con tim, ý muốn, đời sống: nhượng bộ mọi sự cho Chúa, coi vâng lời như diễn tả trọn vẹn sự lệ thuộc vào Chúa và Giáo Hội.

 

Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể bị ảnh hưởng bởi các yếu tố văn hóa và tâm thức do các cơ cấu xã hội, chính trị và tôn giáo. Chẳng hạn, vì bị ảnh hưởng của Khổng giáo, của chế độ phong kiến và thực dân, của các cơ cấu phẩm trật và gia trưởng, chúng ta lắm khi phải đương đầu với những thách đố và chiến đấu trăn trở về tự do và phục tùng với bộ ba “quyền phục, lý phục và tâm phục hay tâm bất phục.” Và trong những trạng huống bức xúc có thể “tức nước vỡ bờ” vì “vâng mà không phục” đó, chúng ta được khuyên “đào sâu lòng sông và khơi dòng cho nước chảy”. Công việc đi sâu vào lòng người và mở ra lối thoát này rất cần sự giúp đỡ của một người đồng hành thiêng liêng có kinh nghiệm sống tu đức, từng trải trường đời và thấm nhuần tinh thần đức tin và Giáo Hội.

 

Nhưng với đức tin mạnh mẽ và đâm rễ sâu trên nền tảng Thánh Kinh vững chắc, đặt trọng tâm vào Chúa Giêsu, vào Phúc Âm, vào Giáo Hội và các linh hồn, cầu nguyện và biện phân dưới sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần, chúng ta sẽ vâng lời cách sẵn lòng và siêu nhiên các vị lãnh đạo và cơ cấu Giáo Hội, không phải như những con người và cơ cấu nhân loại, nhưng là Ý Chúa ở trong và qua những con người và cơ cấu này. Nếu sự vâng lời được trọn vẹn thì các việc khác cũng sẽ được kiện toàn. Chúng luôn luôn tỉ lệ thuận với nhau.

 

Lạy Chúa, con xin dâng tư tưởng của con cho Chúa, để chúng luôn hướng về Chúa; để lời nói của con có Chúa làm đề tài; để việc làm của con phản ánh tình yêu của con cho Chúa; để đau khổ của con được chịu đựng cho vinh danh Chúa hơn. Con muốn làm những gì Chúa xin con, cách nào và bao lâu Chúa muốn ở con. Xin Chúa soi sáng trí khôn con, đốt nóng ý chí con, thanh tẩy trái tim con và thánh hóa linh hồn con.

 

Lạy Chúa, xin hãy nhận lấy tất cả tự do của con, ký ức của con, trí hiểu của con, trọn vẹn ý muốn của con, tất cả những gì con có và sở hữu. Chúa đã cho con mọi sự và mọi sự là của Chúa, xin hãy sử dụng như ý Chúa muốn. Xin ban cho con tình yêu và ân sủng của Chúa, và như thế đã đủ cho con. Lạy Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, xin hãy đến trợ giúp con, và cầu nguyện xin Chúa Thánh Thần tiếp tục cho đến hoàn thành những gì Chúa đã khởi sự với con và cho con. Amen. 

______

chú thích

[387] Mt 21,23.

[388] Lc 23,35.37.

[389] Xin xem các trang mạng Témoignage Chrétien, Radio Vatican, http://www.sueddeutsche.de/.

, Eucharistie sacrement de la miséricorde - (E.S.M.), eucharistiemisericor.free.fr, kath.net.

[390] http://www.la-croix.com/Religion/Urbi-Orbi/Monde/Les-eveques-autrichiens-repondent-aux-pretres-auteurs-de-l-appel-a-la-desobeissance-_NP_-2011-11-15-736098

http://www.la-croix.com/Religion/Urbi-Orbi/Monde/Les-eveques-autrichiens-consultent-le-Vatican-apres-le-mouvement-de-contestation-des-pretres-_NP_-2012-01-27-762726.

[391] Daniélou, Why the Church? Chicago, Franciscan Herald, 1974.

[392] x. Mc 16,15-16.

[393] x. Thư thánh Inhaxiô Antiôkia gửi thánh Polycap, Bài đọc 2 Kinh Sách thứ sáu XVII TN.

[394] Dt 5, 7-9.

[395] Lumen Gentium số 42.

[396] x. LG 7; Eph 5,23-24.

[397] Cuộc tiếp kiến chung ngày 26.5.2010 tại quảng trường thánh Phêrô.

[398] Gal 2,20.

VỀ MỤC LỤC
NHÌN DA CHẨN ĐOÁN BỆNH

Trong tình trạng lành mạnh bình thường, da mịn màng, mềm mại không tỳ vết, không lộ diện lỗ chân lông, không khô mà cũng không nhờn mỡ. Da hồng hào biểu lộ sự lưu thông thoải mái của những mạch máu nhỏ li ti nằm ở phía dưới.

Trong cơ thể, da là bộ phận nặng nhất và trải rộng nhất. Nhiệm vụ của da cũng khá quan trọng, bao gồm:

- điều hòa nhiệt dộ cơ thể;

- bảo vệ cơ thể với sự xâm nhập của vi khuẩn cũng như chất có hại;

- thu nhận các cảm giác nóng lạnh, đau cũng như xúc giác và sức ép.

Do đó, mỗi khi các bộ phận khác trong cơ thể bị rối loạn, bệnh tật thì một số dấu hiệu báo động cũng xuất hiện trên da. Nhờ đó chỉ với quan sát làn da là bác sĩ cũng tạm thời chẩn đoán được một số bệnh nội khoa.

 

1- Da đau nhoi nhói kèm theo ban đỏ ở một bên mặt hoặc thân mình.

Đây là dấu hiệu của bệnh Zona thần kinh Shingles mà người mình thường gọi là bệnh “giời leo” do loại virus của bệnh Thủy đậu mà ta mắc phải trước đây.

Virus nằm tiềm ẩn ở rể dây thần kinh cảm giác quanh cột sống chờ khi nào cơ thể suy yếu vì stress, nhiễm trùng, tuổi già là tái xuất giang hồ, gây ra bệnh shingles với các mụn đầy mủ, rất đau trên da kéo dài có khi cả năm..

Trong trường hợp này, cần đi bác sĩ ngay để điều trị tới nơi tới chốn.

Người trên 60 tuổi cũng nên hỏi bác sĩ về việc chích ngừa shingles.

 

2- Những vết mầu nâu ở mặt trước cẳng chân

Đó là dấu hiệu ngoài da của người mắc bệnh tiều đường, trong đó các vi huyết quản nơi chân dễ bị tổn thưong do va chạm nhẹ, máu thoát ra ngoài, tạo thành các vết bầm mầu nâu gổ ghề như có vẩy.

Ngoài ra, bệnh tiểu đường cũng gây tổn thương cho các dây thần kinh ngoại vi ở bàn chân. Bệnh nhân mất các cảm giác đau, nóng, lạnh cho nên bị thương bị phỏng mà không biết, ngón chân bị nhiễm trùng loét lở, đôi khi bị hủy hoại teo chết (hoại thư), phải cắt bỏ.

 

3- Ung thư

Ung thư nội tạng có thể có các dấu hiệu trên da như vết đậm nhiều chất mầu, vàng da và mắt, nổi ban đỏ trên da, một vùng da rất ngứa mọc lông…Các dấu hiệu này có thể xuất hiện trước, đồng thời hơặc sau khi đã tìm ra bệnh ung thư. Ở người mà ung thư đã thuyên giảm, các thay đổi trên da báo hiệu sự tái phát của bệnh.

 

4- Vàng da lòng tay bàn chân

Đây là dấu hiệu của tiêu thụ quá nhiều cà rốt, khoai lang ngọt hoặc dấu hiệu của bệnh nhược tuyến giáp vì quá nhiều chất beta-caroten trong máu.

Trong bệnh nhược tuyến giáp, tuyến không chuyển hóa được beta-caroten và chất này tích tụ trên da. Người bệnh thấy mệt mỏi, bải hoải, da khô lạnh và cần được điều trị.

Da vàng vì ăn nhiều cà rốt sẽ hết khi ngưng tiêu thụ rau củ này.

 

5- Vàng da toàn thân và mắt là dấu hiệu của suy gan kinh niên.

6- Mảng vàng nhạt chung quanh mi mắt, gần mũi ở trẻ em và thiếu niên thường thường báo hiệu cho biết là lượng cholesterol trong máu lên cao.

7- Da toàn thân đậm mầu

Trong bệnh suy nang thượng thận Addison, người bệnh có nước da sậm mầu nhất là ở các vùng phơi ra ánh sáng, nhưng cũng có ở lòng bàn tay, bàn chân, núm vú, nách, vùng cơ quan sinh dục. Bệnh do nang thượng thận tiết ra rất ít kích thích tố steroids nhưng có thể điều trị bằng cách bổ sung kích thích tố thiếu.

 

8-Các chấm mầu đỏ tía trên da

Trong bệnh ban xuất huyết purpura, trên da của bệnh nhân có những vết ban mới đầu đỏ rồi chuyển sang đỏ tía trước khi mờ đi hoặc thành nâu nhạt. Đó là do các mạch máu dưới da bị suy yếu, dễ bị tổn thương, máu chảy ra ngoài và tạo ra các ban da như vậy.

Các vùng da hay bị đổi mầu là cánh tay, cẳng chân, mu bàn tay.

Bệnh thừong thấy ở người tuổi cao, ngoài 65, da mỏng với thời gian dễ bị ánh nắng mặt trời gây tổn thưong. Dùng các loại thuốc như aspirin, thuốc loãng máu, vitamin E, rượu, steroid, Gingo Biloba cũng làm bệnh trầm trọng hơn.

Với các dấu hiệu này, cần đi bác sĩ để khám chẩn bệnh rồi điều trị.

 

9- Ra nắng, quay về nhà thấy nổi ban đỏ cùng mình

Đây là trường hợp xảy ra cho một số người, mỗi khi đi ra ngoài nắng về thì thấy trên da nổi lên những nốt tròn đỏ kích thước thay đổi từ các chấm nhỏ tới từng vùng lớn rộng tới vài phân. Ban đỏ rất ngứa và thường thấy ở vùng phơi nắng như cánh tay, cổ đôi khi ở mặt, kéo dài cả mấy giờ. Đó là hiện tượng nhạy cảm với tia nắng ở một số người đang dùng một số thuốc như thuốc lợi tiểu thiazide chữa cao huyết áp; thuốc chống dị ứng, thuốc kháng sinh tetracycline, chống trầm cảm, thuốc trị trứng cá tetrinoin…Hóa chất trong các dược phẩm này tạo ra các thay đổi trong cơ thể khiến cho con người trở nên nhạy cảm với tia nắng.

Nên nói với bác sĩ coi lại các dược phẩm đang dùng và đổi thuốc, nếu có thể được.

 

10- Da mặt nhợt nhạt, móng tay xanh

Nhiều người, đặc biệt là quý vị cao niên thường có lớp da mặt và da lòng bàn tay bì bì nhợt nhạt và lớp mô bào dưới móng tay nhờ nhờ xanh. Họ ở trong tình trạng thiếu máu thường là do thiếu khoáng chất sắt hoặc xuất huyết bao tử. Môi miệng, nớu răng cũng mất mầu hồng thường lệ. Ngoài ra họ cũng bị mau mệt, nhức đầu, chóng mặt, hụt hơi thở.

Nên hỏi ý kiến nhà dinh dưỡng để bổ sung chất sắt cũng như gặp bác sĩ để tìm ra nguyên nhân gây ra các dấu hiệu trên da này rồi điều trị.

 

11- Bắp chuối nổi gân xanh loằng ngoằng

Đó là những mạch máu ở bắp chuối đã mất tính đàn hồi, giãn mở rộng ra và chứa đầy máu gọi là bệnh căng giãn tĩnh mạch varicose veins.

Bệnh thường thấy ở nữ nhiều hơn nam, cao tuổi nhiều hơn thanh niên. Phụ nữ có thai, người mập phì, người phải lảm làm công việt cần đứng lâu thường hay bị bệnh này.

Tĩnh mạch dẫn máu từ dứoi chân về tim. Sức căng của bắp thịt ép vào mạch máu, sức đàn hồi của tĩnh mạch cùng những chiếc van một chiều trong tĩnh mạch giúp máu lưu thông ngược lên trên. Nếu vì lý do gì mà các thành phần hỗ trợ này suy yếu, máu tụ lại trong tĩnh mạch, giãn căng ra. Thế là ta bị varicose veins. Đi lại sẽ khó khăn và đau.

Cần đi bác sĩ để điều trị kẻo biến chứng như máu cục, tắc nghẽn lưu thông máu chi dưới có thể xẩy ra.

Trong khi chờ đơi, ra tiệm thuốc tây mua đôi vớ đàn hồi, ép tĩnh mạch để tránh ngưng tụ máu ở bắp chuối; tránh nâng nhấc vật nặng, tránh đứng lâu…

 

12- Da bị tróc

Từng mảng biểu bì bị tróc khỏi da thường xảy ra trong bệnh suy chức năng tuyến cận giáp (hypoparathyroidism), bệnh nấm biểu bì (ringworm), bệnh vẩy nến (psoriasis).

 

13- Bàn chân bàn tay lạnh giá

Nhiều người than phiền sao bàn tay bàn chân giá lạnh, mất cảm giác, da đổi mầu khi thời tiết lạnh hoặc khi tâm thần căng thẳng, thì được bác sĩ giải thích rằng, đây có thể là hiện tượng Raynaud, xẩy ra khi máu lưu thông tới các nơi này giảm vì mạch máu co lại hoặc bị tắc nghẽn.

Bệnh thường thấy nhiều hơn ở phụ nữ và người trung niên tuổi từ 15-30 sống nơi thời tiết lạnh. Da đang mầu hồng đột nhiên chuyển sang trắng bệch rồi xanh cộng thêm cảm giác tê tê kéo dài cả nửa giờ. Hiện tượng giá lạnh này cũng xẩy ra ở mũi, môi, tai, núm vú. Nguyên nhân chưa biết rõ, có thể là do lupus ban đỏ, vữa xơ động mạch, thấp khớp, xơ cứng bì (scleroderma).

Cần đi bác sĩ chuyên môn để được điều trị.

Giảm thiểu rủi ro khiến bệnh xảy ra như đừng hút thuốc lá, giảm cà phê, bớt căng thẳng tinh thần, năng vận động cơ thể, không đi chân dất, tránh thương tích cho bàn tay bàn chân; không mang tất quá chật, tạm thời tháo nhẫn. Khi lên cơn, đặt bàn tay vào nách, xả nước ấm lên bàn chân bàn tay, massage thoa bóp cho máu lưu thông.

Trên đây là mới kể sơ qua mấy biểu hiện trên da của một số bệnh nội tạng. Cho nên, nếu chỉ dành dăm mười phút quan sát da là ta đã tìm ra một vài dấu hiệu bất thường. Nhưng xin chớ tìm cách bôi che tẩy sóa nơi mỹ viện mà nên cho bác sĩ của mình hay.

Vì bất thường có thể báo động một bệnh nào đó trong cơ thể.

Bác sĩ Nguyễn Ý Đức

www.bsnguyenyduc.com  

VỀ MỤC LỤC
Bệnh cá nhân chủ nghĩa

 

(Ghi lại bài nói chuyện của Đức Tổng Giám mục Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận với giới trẻ Việt Nam tại Strasbourg, Pháp, chiều ngày 12.9.1998)

 

Giới thiệu

Muốn thành công trước hết phải chữa trị tận gốc mười (10) chứng bịnh làm băng hoại xã hội ngày nay.

Cuộc sống cộng đồng và Giáo hội, không những ở Việt Nam mà ngay cả ở hải ngoại, hiện đang có những bất ổn. Không hoặc chưa phát huy được nét tích cực của mình. Do đâu ?

Có rất nhiều căn nguyên. Những căn nguyên này là những chứng bịnh vừa nguy hiểm vừa truyền nhiễm đang hoành hành trong xã hội, và có cơ nguy làm cho cuộc sống xã hội băng rã. Tôi qui chúng lại thành mười bệnh lớn: Thập đại bịnh.

4. Bệnh cá nhân chủ nghĩa

Các nhà phân tích cho hay người Âu châu bị bệnh này nặng hơn. Nhưng mình cũng không kém. Thời đại này đâu đâu cũng nghe người ta hô hào đoàn kết (Solidarité). Mà xem ra càng hô hào đoàn kết chừng nào, thì bệnh cá nhân lại nặng chừng nấy !

Biểu hiện của bệnh này: Mình là nhất, là trung tâm của vũ trụ. Mình chiếm độc quyền, ngay cả độc quyền thờ Chúa, độc quyền yêu Nước. Không muốn ai chia sẻ với mình, vì sợ người ta hơn. Người ta  không tiếp tay với mình thì trách. Nhưng khi tiếp tay thì lại chỉ muốn họ đứng sau lưng mình mà thôi.

Cá nhân chủ nghĩa phát sinh từ lòng ích kỷ. Kính Chúa, yêu người thực chất là vì mình, vì lợi cho mình chứ chẳng phải vì Chúa vì người gì cả.

Người ta kể chuyện vui: Một số Hồng y và Giám mục ngồi ăn cơm chung với Đức Thánh Cha. Có mấy vị hỏi ngài: Thưa ĐTC, nghe nói có bí mật Fatima, ĐTC có thể nói cho chúng con nghe được không. ĐTC bảo: Bí mật mà, nói sao được.  Nghe thế các ngài càng tha thiết: ĐTC đừng sợ, chúng con cam đoan sẽ dấu rất kỹ, không hở miệng. Sau năm lần bảy lượt nghe năn nỉ, ĐTC mỉm cười trả lời: Đức Mẹ Fatima bảo rằng đóng cửa Đức Mẹ Lộ-Đức lại !

Câu chuyện khôi hài này muốn nói lên cái cá nhân chủ nghĩa của con người ngày nay. Đức Mẹ Fatima sợ Đức Mẹ Lộ Đức nổi tiếng hơn và do đó khách hành hương đến viếng đông hơn nên đề nghị dẹp Lộ-Đức.

Chẳng đâu xa xôi. Quanh ta cũng không thiếu thí dụ. Hai nhà thờ cạnh nhau, chuông bên này kêu thì bên kia phải làm sao để kêu hơn. Câu chuyện nầy có thật. Một giáo xứ xin Đức cha cho một quả chuông. Về đánh lên thì bà con giáo xứ bên cạnh sốt ruột khó chịu, liền cùng nhau kéo xin phép đổi một quả chuông lớn hơn. Khệ nệ mang về, đánh lên thì ai nấy thất vọng. Tưởng chuông lớn hơn thì tiếng phải hay hơn. Ai dè âm thanh của chuông thường đã được định chuẩn sẵn; theo nốt nhạc, cái chuông mới trùng một nốt nhạc với chuông cũ!

Trong Giáo hội có một điểm quan trọng, đó là tính đa diện (Pluralité). Giáo hội không đòi hỏi phải đồng bộ, nhưng trân trọng nét cá biệt của mỗi giáo hội địa phương. Khác nhau hầu bổ túc cho nhau, chứ không phải để rồi tôi đi đường tôi anh đi đường anh.

HY. Phanxico Xaviê Nguyễn Văn Thuận

(còn tiếp nhiều kỳ)

VỀ MỤC LỤC

- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin gởi về địa chỉ

giaosivietnam@gmail.com

- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:

Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục vụ của Giáo sĩ;  Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh vực; Mỗi  Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)

- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại

www.conggiaovietnam.net

Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị

Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác nhau.

TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

Lm. Luca Phạm Quốc Sử  USA

 

 

Duoc chon giua loai nguoi va cho loai nguoi; GIAO SI: Xuat phat tu giao dan, hien dien vi giao dan va cay dua vao giao dan, de cung lam VINH DANH THIEN CHUA

*************