Tông thư – Tự sắc Porta Fidei (tiếp
theo) WHD |
6.
Cuộc canh tân Giáo hội cũng còn được thực hiện qua chứng từ cuộc
sống của các tín hữu: quả vậy, bằng chính sự hiện diện của mình
trong thế giới, các tín hữu được mời gọi làm ngời lên Lời Chân
lý Chúa Giêsu để lại cho chúng ta. Chính Công đồng, trong Hiến
chế tín lý Lumen Gentium, đã khẳng định: “Trong khi Chúa
Kitô, ‘thánh thiện, vô tội, không tì vết’ (Dt 7, 26) không hề
biết đến tội lỗi (x. 2 Cr 5, 21), chỉ đến mà chuộc tội cho dân
(Dt 2, 17), thì Giáo hội, mang trong lòng mình những kẻ tội lỗi,
vì thế, Giáo hội là thánh thiện đồng thời cũng được kêu gọi
thanh luyện chính mình, không ngừng phải nỗ lực thống hối và
canh tân. Giáo hội “tiến bước trong cuộc lữ hành qua những cuộc
bách hại của trần thế và những an ủi của Thiên Chúa”, loan báo
cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa cho đến khi Chúa đến (x. 1 Cr
11,26). Quyền năng của Chúa Phục sinh giúp cho Giáo hội thắng
vượt –với lòng nhẫn nại và yêu thương–những buồn sầu và khó khăn
xảy đến cho Giáo hội từ bên ngoài và cả từ bên trong, và trung
thành bày tỏ mầu nhiệm của Chúa giữa lòng thế giới, mầu nhiệm ấy
dù còn bị bóng tối che khuất nhưng cuối cùng sẽ đến ngày hiển lộ
trong ánh quang rạng ngời” [11]’.
Trong viễn cảnh này, Năm Đức Tin là lời mời gọi hãy hoán
cải một cách đích thực và được đổi mới, trở về với Chúa là Đấng
duy nhất cứu độ thế giới.Trong
mầu nhiệm cái chết và phục sinh của Người,
Thiên Chúa đã mặc khải trọn vẹn Tình yêu cứu độ và kêu gọi con
người hoán cải cuộc sống nhờ được tha thứ tội lỗi (x. Cv 5, 31).
Đối với Thánh Phaolô Tông đồ, Tình yêu ấy dẫn con người đến cuộc
sống mới: “Qua phép Rửa, chúng ta đã được mai táng với Người
trong sự chết, để như Chúa Kitô sống lại từ cõi chết nhờ vinh
quang của Chúa Cha, chúng ta cũng sẽ được sống trong sự sống
mới” (Rm 6, 4). Nhờ đức Tin, sự sống mới này làm khuôn mẫu cho
toàn thể cuộc sống con người theo sự mới mẻ tuyệt đối của sự
sống lại. Tùy theo mức độ sẵn sàng vâng theo ý Chúa, mọi tư
tưởng và tình cảm, tâm trí và hành vi của con người dần dần được
thanh luyện và biến đổi, trong một cuộc hành trình chẳng bao giờ
được hoàn tất ở đời này. Đức Tin “hành động qua đức ái” (Gl 5,
6) trở thành một chuẩn mực mới giúp thông hiểu và hành động, làm
thay đổi toàn thể cuộc sống con người (x. Rm 12, 2; Cl 3, 9-10;
Ep 4, 20-29; 2 Cr 5, 17).
7.
“Tình yêu Chúa Kitô thúc bách chúng ta” (2 Cr 5, 14): chính tình
yêu Chúa Kitô đổ đầy tâm hồn chúng ta và thúc đẩy chúng ta loan
báo Tin Mừng. Ngày nay cũng như xưa kia, Chúa sai chúng ta ra đi
trên khắp nẻo đường thế giới để công bố Tin Mừng của Người cho
mọi dân tộc trên trái đất (x. Mt 28, 19). Chúa Giêsu Kitô dùng
tình yêu thu hút con người thuộc mọi thế hệ đến với Người: trong
mọi thời đại, Người gọi Giáo hội đến và trao nhiệm vụ loan báo
Tin Mừng, với một mệnh lệnh luôn luôn mới mẻ. Vì thế, ngày nay
Giáo hội phải dấn thân một cách thuyết phục hơn nữa qua công
cuộc Tân Phúc âm hóa, để tái khám phá niềm vui đức Tin và tìm
lại niềm hăng say thông truyền đức Tin.Việc dấn thân truyền giáo
của các tín hữu, vốn không bao giờ được thiếu, sẽ nhận được sức
mạnh và tinh thần hăng hái qua việc hằng ngày nhận ra tình yêu
của Thiên Chúa. Thực vậy, đức Tin sẽ tăng trưởng khi biết sống
đức Tin với cảm nghiệm về tình yêu đã nhận lãnh, và biết thông
truyền đức Tin với cảm nghiệm về ân sủng và niềm vui. Đức Tin
làm cho chúng ta trở nên phong phú, bởi đức Tin giúp tâm hồn mở
rộng trong hy vọng và đem lại một chứng từ giàu sức sống: đức
Tin mở cánh cửa tâm trí của tất cả những ai lắng nghe và đón
nhận Lời Chúa mời gọi hãy gắn bó với Lời Chúa để trở thành môn
đệ của Người. Thánh Augustinô cho biết, các tín hữu “nhờ tin
tưởng mà được củng cố” [12].Thánh Giám mục thành Hippo đã có lý
khi nói như vậy.Như chúng ta biết, cuộc đời của thánh nhân là
một cuộc tìm kiếm không ngừng vẻ đẹp của đức Tin cho đến khi tâm
hồn ngài tìm được sự an nghỉ trong Thiên Chúa [13].Trong nhiều
tác phẩm của mình, thánh nhân đã giải thích tầm quan trọng của
việc tin và chân lý đức Tin.Những tác phẩm ấy đến nay vẫn còn là
một di sản phong phú vô song, giúp biết bao người tìm kiếm Thiên
Chúa gặp được con đường đúng đắn để đến được “cánh cửa đức Tin”.
Vì vậy, sở dĩ đức Tin được tăng trưởng và vững mạnh là nhờ biết
tin tưởng; để đời mình được vững chắc, không có cách nào khác
hơn là không ngừng buông mình vào vòng tay của một tình yêu
dường như lớn lao thêm mãi, bởi tình yêu ấy phát xuất từ Thiên
Chúa.
8.
Nhân dịp vui mừng này, tôi muốn mời gọi anh em Giám mục trên
toàn thế giới hãy hiệp nhất với Người Kế Vị Thánh Phêrô, trong
thời điểm ân phúc thiêng liêng Chúa dành cho chúng ta, để nhớ
lại hồng ân đức Tin quý giá. Chúng ta mong được cử hànhNăm
Đức Tin này một cách xứng đáng và sinh ơn ích. Cần tăng
cường suy tư về đức Tin để giúp tất cả những ai tin vào Chúa
Kitô được ý thức hơn và củng cố lòng gắn bó với Tin Mừng, nhất
là vào lúc nhân loại đang sống giữa những đổi thay sâu sắc như
hiện nay. Chúng ta sẽ có cơ hội tuyên xưng đức Tin nơi Chúa Phục
Sinh trong các nhà thờ chính tòa và các nhà thờ trên khắp thế
giới; trong các gia đình, để mỗi người cảm thấy sự đòi hỏi cấp
thiết phải hiểu biết hơn nữa về đức Tin và truyền lại đức Tin ấy
cho các thế hệ mai sau. Các cộng đoàn dòng tu cũng như các giáo
xứ, và toàn thể những tổ chức trong Giáo hội, dù lâu đời hay mới
lập, hãy tìm ra cách thức công bố Kinh Tin Kính trong Năm Đức
Tin này.
9.
Chúng ta mong ước Năm Đức Tin sẽ khơi dậy nơi mỗi tín hữu
khát vọng tuyên xưng đức Tin trong sự toàn vẹn và với một
niềm xác tín được đổi mới, trong niềm tín thác và hy vọng. Năm
này sẽ là một cơ hội thuận lợi để tăng cường việc cử hành
đức Tin trong phụng vụ, nhất là trong phép Thánh Thể, vốn là
“chóp đỉnh mà hoạt động của Giáo hội hướng tới, đồng thời là
nguồn mạch tuôn trào sức mạnh của Giáo hội” [14]. Đồng thời,
chúng ta ước mong việc làm chứng bằng đời sống của các
tín hữu sẽ tăng tiến trong sự khả tín. Tái khám phá nội dung đức
Tin được tuyên xưng, được cử hành, được thể hiện qua đời sống và
cầu nguyện [15], và suy tư về chính việc làm của lòng tin, đó là
nhiệm vụ mỗi tín hữu phải thực hiện, nhất là trong Năm Đức
Tinnày.
Không phải là không có lý do mà trong những thế kỷ đầu tiên, các
Kitô hữu phải học thuộc lòng kinh Tin kính. Các tín hữu dùng
kinh này cầu nguyện hằng ngày, để không quên lời cam kết khi
chịu phép Rửa tội. Với những lời mang ý nghĩa súc tích, thánh
Augustinô nhắc nhở điều đó trong Bài giảng vềredditio
symboli, trao Tín biểu(Kinh Tin kính): “Tín biểu về mầu
nhiệm thánh (Kinh Tin kính) mà tất cả anh chị em cùng nhau lãnh
nhận và từng người trong anh chị em hôm nay đọc lên, là những
lời diễn tả đức Tin của Mẹ Giáo hội, được xây dựng vững chắc
trên nền tảng vững bền là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta... Anh
chị em đã lãnh nhận và tuyên đọc Tín biểu này, vậy, phải lưu giữ
Tín biểu nơi lòng trí anh chị em, phải lặp lại Tín biểu khi lên
giường ngủ, phải suy ngẫm Tín biểu khi ra nơi công cộng, không
được quên Tín biểu khi ăn uống, ngay cả khi thân xác đã ngủ yên,
thì trái tim vẫn tỉnh thức với Tín biểu này” [16].
10.
Đến đây, tôi muốn phác một lộ trình giúp hiểu sâu thêm những nội
dung đức Tin, không những vậy mà với những nội dung đó, còn là
việc làm, qua đó, chúng ta quyết định hoàn toàn phó thác cho
Thiên Chúa với tất cả tự do. Thực vậy, có sự thống nhất sâu xa
giữa hành vi thể hiện đức Tin và những nội dung chúng ta tán
đồng. Thánh Phaolô Tông đồ giúp đi vào bên trong thực tại này
khi ngài viết: “Có tin thật trong lòng, mới được nên công chính;
có xưng ra ngoài miệng, mới được ơn cứu độ” (Rm 10,10). Con tim
mách bảo chúng ta rằng chúng ta có được đức Tin vì trước hết đó
là quà tặng của Thiên Chúa, và ân sủng Chúa tác động và biến đổi
tận nơi sâu thẳm trong con người.
Câu chuyện bà Lidia là một dẫn chứng đầy sức thuyết phục về vấn
đề này. Thánh Luca thuật lại, khi Thánh Phaolô đến thành
Philipphê, ngày thứ Bảy ngài đi rao giảng Tin Mừng cho vài phụ
nữ; trong số họ có bà Lidia và “Chúa mở lòng cho bà để bà chú ý
những lời Phaolô nói” (Cv 16, 14). Một diễn đạt mang ý nghĩa
quan trọng. Thánh Luca dạy, việc hiểu biết những nội dung để tin
thì không đủ, nếu cõi lòng, cung thánh đích thực của con người,
không được ơn Chúa mở cho, nhờ đó mới có được đôi mắt để nhìn
sâu xa và hiểu ra điều được loan báo chính là Lời Chúa.
Tiếp đến, việc tuyên xưng ngoài miệng cho thấy đức Tin gồm cả
việc làm chứng và dấn thân công khai. Người Kitô hữu không bao
giờ được nghĩ rằng tin là chuyện riêng tư. Tin, là quyết định ở
lại với Chúa để sống với Người. Một khi “ở lại với Chúa”, ta sẽ
hiểu được tại sao ta tin. Chính vì đức Tin là một hành vi tự do,
nên cũng đòi phải có trách nhiệm xã hội về những điều đã tin.
Giáo hội, trong ngày lễ Hiện xuống, rõ ràng đã cho thấy chiều
kích công khai ấy của việc tin tưởng và loan báo không chút sợ
hãi về niềm tin của mình cho mọi người. Chính ơn Chúa Thánh Thần
giúp chúng ta đảm đương sứ mạng, thêm sức để chúng ta làm chứng
một cách trung thực và can đảm.
Tự bản thân việc tuyên xưng đức Tin là một hành vi cá nhân, đồng
thời cũng mang tính cộng đoàn. Thực vậy, chính Giáo hội là chủ
thể đầu tiên của đức Tin. Trong đức Tin của cộng đoàn Kitô hữu,
mỗi người lãnh nhận bí tích Rửa tội, là dấu chỉ có hiệu lực về
sự gia nhập đoàn dân tín hữu để được ơn cứu độ. Như Sách Giáo
lý Hội Thánh Công giáo minh chứng: Nói “Tôi tin” là nói lên
đức Tin của Giáo hội được cá nhân mỗi tín hữu tuyên xưng, cụ thể
là khi chịu phép Rửa tội. Còn nói “Chúng tôi tin” là nói lên đức
Tin của Giáo hội được các Giám mục tuyên xưng khi nghị hội Công
đồng, hoặc khái quát hơn, được cộng đoàn tín hữu cử hành phụng
vụ tuyên xưng. Tuyên xưng “Tôi tin” cũng chính là Giáo hội, Mẹ
của chúng ta, đáp lại Thiên Chúa bằng đức Tin của mình và dạy
chúng ta nói lên “Tôi tin” và “Chúng tôi tin” [17].
Chúng ta đã rõ, để chính bản thân chấp nhận đức Tin,
nghĩa là hoàn toàn đồng tâm nhất trí với tất cả những gì Giáo
hội đề nghị chúng ta tin, cần phải hiểu rõ những nội dung đức
Tin. Sự hiểu biết về đức Tin dẫn vào toàn bộ mầu nhiệm cứu độ
được Thiên Chúa mặc khải. Vì vậy việc chấp nhận đức Tin có nghĩa
là, khi đã tin, chúng ta hoàn toàn tự do chấp nhận trọn vẹn mầu
nhiệm đức Tin, bởi chính Chúa là Đấng bảo đảm cho mọi điều chúng
ta tin. Người đã mặc khải chính mình và cho phép chúng ta được
nhận biết mầu nhiệm tình yêu của Người [18].
Mặt khác, chúng ta không thể quên, trong bối cảnh văn hóa của
chúng ta, có nhiều người, tuy không nhìn nhận mình có ơn đức
Tin, nhưng vẫn chân thành tìm kiếm ý nghĩa tối hậu và sự thật
cuối cùng về hiện hữu của mình và về thế giới. Việc tìm kiếm này
thực là một “tiền đề” của đức Tin, vì nó thúc đẩy con người bước
vào cuộc hành trình dẫn đến mầu nhiệm Thiên Chúa. Quả thật, bản
thân lý trí con người vốn đòi hỏi về “điều có giá trị vững bền
và trường cửu” [19]. Đòi hỏi này là một lời mời gọi mãi mãi,
được ghi khắc không thể xóa nhòa trong tâm hồn con người,
để bắt đầu một cuộc hành trình
tìm gặp Đấng mà chúng ta sẽ không tìm kiếm nếu Người đã không
đến gặp chúng ta [20]. Chính đức Tin mời chúng ta đến gặp Người
và mở cho chúng ta bước vào cuộc gặp gỡ ấy một cách trọn vẹn.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
SỐNG TÂM TÌNH CỦA MÙA VỌNG
|
Chúa nhật I Mùa Vọng C
Giáo Hội bắt đầu Năm Phụng Vụ mới bằng Mùa Vọng.
Mà Mùa Vọng thường rơi vào Mùa Đông. Vì thế có người thắc mắc là
tại sao mở đầu cho một năm dân sự là Mùa Xuân, nhưng mở đầu cho
một năm Phụng Vụ lại vào Mùa Đông? Tại sao lại không khởi đầu
năm Phụng Vụ vào chính ngày Lễ Giáng Sinh như khởi đầu cho một
cuộc đời là ngày người ấy cất tiếng khóc chào đời? Người Kitô
hữu vẫn được dạy rằng Đức Kitô sinh vào ngày 25/12 và trước đó
Giáo Hội dành bốn tuần cho Mùa Vọng, hàm ý “mùa trông đợi Chúa
đến” từ ngàn xưa. Mấu chốt vấn đề chính ở điểm này. Như vậy, ý
nghĩa vô cùng khi khởi đầu cho một năm Phụng vụ là Mùa Vọng.
Trong cuộc sống có nhiều thứ mùa vọng: có mùa
vọng ngắn, có mùa vọng dài. Đối với một người mẹ thì mùa vọng là
thời gian 9 tháng 10 ngày chờ đợi người con mở mắt chào đời. Đối
với các sinh viên, mùa vọng là khoảng thời gian bốn năm hay 5
năm ngồi ở ghế giảng đường đợi chờ ngày tốt nghiệp ra trường.
Đối với người Do thái, mùa vọng là cả một hành trình dài trong
lịch sử Cứu độ, hành trình của hơn một ngàn năm chờ đợi Đấng Cứu
Thế. Đối với người Kitô hữu, Mùa Vọng là khoảng thời gian bốn
tuần lễ trước Giáng Sinh. Đây là thời gian trong năm Phụng Vụ mà
Giáo Hội dành để con cái mình chuẩn bị tâm hồn mừng Con Thiên
Chúa làm người. Xa hơn nữa, mùa vọng đối với đời người Kitô hữu
còn là thời gian sống trên trần gian này. Nói cách khác, khi
sống tâm tình Mùa Vọng của năm Phụng Vụ, người Kitô hữu được mời
gọi sống tâm tình mùa vọng của cuộc đời, một mùa vọng kéo dài,
mùa trông chờ Chúa đến trong vinh quang.
Tuy nhiên, điều mà người Kitô hữu chúng ta đang
mong chờ, không phải là một biến cố, một món quà, một cuộc vui,
hay là một ngày lễ nghỉ, mà trên hết là mong chờ một con người.
Con người đó chính là Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Tinh nhân loại.
Nói khác đi, mùa Vọng là một mùa không phải chỉ để chuẩn bị cho
biến cố Noel tưng bừng, nhưng là thời gian trông chờ và chuẩn bị
đón mừng Ngôi Hai Thiên Chúa Làm Người và đón chờ Đức Giêsu Kitô
là Hoàng Tử Vinh Quang sẽ đến trong ngày cánh chung, tức là ngày
tận thế. Vậy phải chuẩn bị thế nào cho xứng đáng?
- Trước hết, hãy chuẩn bị bằng việc sửa soạn bên
trong tâm hồn.
“Hãy tự hỏi Giáng sinh có ý nghĩa gì đối với cá
nhân và gia đình mỗi chúng ta? Trang trí nhà cửa, bắt điện, treo
đèn, hội tiệc … là cần thiết và phù hợp với mùa lễ hội, nhưng
không thể thay thế được cho ý nghĩa thực sự mà đức tin đã dạy
chúng ta về việc Con Thiên Chúa giáng trần để cứu chuộc sinh
linh. Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria
tại Bêlem. Chúng ta không thể bắt chước người đời nay chỉ trân
quí Ông Già Noel. Chúng ta cũng không thể bị dẫn dụ bởi những kỹ
thuật quảng cáo tinh xảo để bán sản phẩm của các công ty thưong
mại trong mùa nầy. Chúng ta cũng không thể bắt chước thói tục
đời nay chỉ chúc mừng nhau trên môi miệng câu “chúc mừng ngày
lễ” bởi vì ngày sinh nhật của Chúa không phải là ngày lễ thường
mà ngày lễ rất trọng, ngày lễ mà mọi người Kitô hữu được kêu mời
nghỉ trọn ngày để tôn vinh Thiên Chúa, ngày làm chúng ta được
trở nên thánh thiện (a Holy Day), để chúng ta có thể chúc nhau
câu “Mừng Sinh Nhật Chúa” (Merry Christmas). Nếu không có việc
Chúa Giáng Sinh làm sao có ngày lễ holidays để mà “happy
holidays” ? Do đó, khi gửi thiệp tặng quà cho nhau, chúng ta hãy
nhớ đến tặng ân từ Thiên Đàng mà Chúa Cha đã tặng ban cho nhân
loại là Con Một Ngài là Chúa Giêsu Cứu Thế, và hãy tặng nhau một
tấm lòng chân thật, biết ơn người khác”
(Phó tế Phêrô Đặng Phi Hùng,
“Trông đợi”).
-
Sau nữa, hãy chuẩn bị bằng việc sống thái độ tỉnh
thức.
Điệp khúc “Hãy tỉnh thức” vẫn vang lên nhiều lần
trong suốt Mùa Vọng. Tỉnh thức nghĩa là không mải mê, xao lãng
với bổn phận, với nghĩa vụ làm người và làm Kitô hữu. Tỉnh thức
là không ngủ say, ngủ vùi trong những đam mê và trong những thực
tại trần thế mà quên đi những gì sẽ xẩy đến bất ngờ cho con
người. Tỉnh thức là thanh luyện tâm hồn mình khỏi mọi thói hư
tật xấu, là tẩy trừ tâm hồn khỏi lòng tham sân si và mọi thứ
dính bén trần tục, là nỗ lực thu nhỏ cái tôi của mình để cho
Chúa được lớn lên, như tâm tình của Gioan.
Khi tỉnh thức, có người nhâm nhi cà phê, có người
uống rượu... cho giờ mau qua, có người đánh bài để giết thời
gian, có người hát hò, có người xem truyền hình, xem phim, lại
có người nói chuyện tán dóc cho hết giờ. Bởỉ đó, nhiều lần ta
nghe nói: người này chết (Chúa đến) khi họ đang ngủ, người kia
chết (Chúa đến) khi họ đang làm việc; có người chết (Chúa đến)
khi họ đang ăn uống, có người chết (Chúa đến) khi họ tỏ ra anh
hùng trên xa lộ, hay đang chơi bời, v.v...
Thời ông Noe, dân chúng mải mê ăn chơi thoải mái,
trong khi gia đình ông Noe lại tất bật với việc đóng tầu. Dân
chúng đi qua đó, thấy đó, nhưng họ lại chẳng lưu tâm gì với
những điều Kinh Thánh đã loan báo. Có lẽ ông Noe cũng đã thông
tin cho nhiều người chung quanh, khi họ hỏi ông đóng tầu làm gì,
nhưng họ đâu có tin ông, vì họ đang mê mải ăn chơi, hưởng thụ.
Chính thái độ thiếu tỉnh thức ấy đã khiến cho họ chết vùi, chết
thảm trong trận đại hồng thủy thời bấy giờ.
Tỉnh thức là biết nỗ lực xây dựng một thế giới
hiệp nhất, yêu thương, công bình và bác ái. Chờ đợi trong tỉnh
thức yêu thương, thì việc chờ Chúa đến sẽ không còn là sự bất
ngờ đáng lo, đáng sợ nữa, nhưng lại là sự bất ngờ của niềm vui
và hạnh phúc. Vì thế, Mùa Vọng là mùa của đợi chờ: đợi chờ chính
Con Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô, đợi chờ trong hy vọng, đợi chờ
trong tin yêu. Chờ đợi như thế, chính là tỉnh thức, là sẵn sàng,
là mở đường về Nước Trời. Amen.
Lm. Giuse Nguyễn Thành Long
|
VỀ MỤC LỤC |
|
SỐNG PHẨM VỊ LÀM
NGƯỜI |
Kg linh mục, tu sĩ, giáo dân trong gia đình giáo phận
Anh chị em thân mến,
1. Tháng 12 là thời gian chuẩn bị mừng lễ Giáng
Sinh, mừng biến cố Con Thiên Chúa giáng thế làm người trong
thiên hạ. Một biến cố trọng đại trong lịch sử thế giới loài
người. Trọng đại, không chỉ vì lễ Giáng Sinh trở thành lễ hội
trong xã hội, thành cơ hội cho mọi người, mọi gia đình sum vầy,
chúc mừng và tặng quà cho nhau. Song trọng đại nhất là vì Con
Thiên Chúa làm người mời gọi con người đảm nhận sứ mạng làm
người con Thiên Chúa và làm anh em với nhau trong trời đất, đồng
thời tạo điều kiện cho con người được tự do sống phẩm vị làm
người trong thiên hạ. Đức Giêsu Kitô mời gọi và tạo điều kiện
như thế là nhằm đáp lại khát vọng của lòng người mong muốn được
thoát ra khỏi bóng tối sự dữ, và được sống dồi dào trong ánh
sáng chân lý, yêu thương và bình an.
2. Lịch sử loài người xác minh rằng những gì con
người tự nghĩ ra, phát minh, sáng chế, làm ra, có góp phần cho
sự tiến bộ của nhân loại, nhưng đồng thời luôn để lại những vấn
đề nghiêm trọng cho đời sống con người, để lại những bất ổn và
xáo trộn cho gia đình, những tiêu cực và bất công, những chia
rẽ, chống đối và loại trừ nhau trong xã hội. Nguyên nhân sâu xa
làm cho đời sống con người bị che phủ bởi bóng tối của văn hóa
sự chết, có thể :
- do lòng trí và tầm nhìn con người bị hạn chế.
- do tình trạng sa mạc hóa tinh thần làm cho đời
sống con người thiếu vắng ánh sáng chân lý, thiếu lửa tình yêu
vị tha, thiếu ý thức tôn trọng sự sống cùng phẩm giá con người.
- do lối sống của nhiều người lệ thuộc vào lòng
tham sân si cố hữu cùng bản năng tự vệ bẩm sinh mang tính khép
kín và đối kháng chống lại những gì ngược lại lòng ham muốn của
họ.
3. Chính vì thế mà trong Năm Đức Tin, Đức Giáo
Hoàng Bênêđitô XVI kêu gọi mọi người hãy trở về với Đức Giêsu
Kitô là nguồn ánh sáng chân lý, là cội nguồn sự sống và niềm
tin. Trở về với quyết tâm đáp lại lời mời gọi của Ngài, bước đi
trong đường lối của Ngài, đưa Lời Ngài là Lời ban nguồn nước
hằng sống, Lời ban ánh sáng chân lý và tình yêu, đưa vào trong
suy nghĩ và hành động thường ngày để Phúc Âm hóa canh tân đổi
mới đời sống.
- Trước hết, Phúc Âm hóa có nghĩa là ý thức
sống luật Chúa truyền: thay vì chống đối và loại trừ nhau,
hãy yêu thương và tôn trọng nhau, quảng đại bao dung, đồng cảm
và tương thân tương trợ, mở đường cho nhau sống theo Lời Chúa
dạy, theo gương Chúa đã sống.
- Sống theo Lời Chúa dạy hãy cởi bỏ con
người cũ và mặc lấy con người mới theo hình mẫu Con Người Mới
chính là Ngài. Con người cũ là con người sống lệ thuộc lòng ham
muốn mang tính khép kín và đối kháng. Con người mới là con người
sống theo lòng nhân, lòng đạo, lòng tin nơi Chúa Giêsu Kitô,
sống theo ánh sáng chân lý và tình yêu của Chúa, trong suy nghĩ
và hành động thường ngày của mình.
- Sống theo gương Chúa đã sống. Công trình
cứu độ của Chúa Giêsu là phục hồi phẩm giá con người, mở đường
cho con người được tự do sống phẩm vị làm người. Hãy ý thức sống
theo gương Chúa, đặc biệt trong gặp gỡ và đối xử với những con
người bị xã hội kết án, loại trừ. Hãy học cách Ngài đối xử với
ông Gia kêu là người bị xã hội kết án làm giàu cách bất công bóc
lột kẻ khác. Cách Ngài đối xử với người phụ nữ làng Xamari bị
dân làng khai trừ vì sống với nhiều người đàn ông không phải là
chồng mình. Cách Ngài đối xử với người phụ nữ bị mang đi xử tử
vị tội ngoại tình. Cách Ngài đối xử với những môn đệ phản thầy,
chối thầy, bỏ cuộc... Tất cả những cách đối xử đó vừa tạo điều
kiện cho con người được sống, sống trong sự tôn trọng phẩm vị
làm người, vừa mở đường cho chúng ta vượt qua những vấn đề trong
xã hội, để loan báo Tin Mừng Sự Sống và Tình Thương, cùng góp
phần xây đắp nền văn hóa sự sống và văn minh tình thương cho xã
hội và thế giới hôm nay.
4. Lịch sử cũng xác minh loài người trong thế
giới xưa nay cũng có cung nhiều loại nước khác nhau, nước ít
nhiều trong lành, nước ô nhiễm và độc hại. Chỉ có Chúa Giêsu
cùng Lời của Ngài cung cho con người nguồn nước chắc chắn là
trong lành, đáp lại những khát vọng, những nhu cầu sâu xa của
lòng người. Công cuộc Phúc Âm hóa và canh tân đổi mới đời sống,
tạo cho chúng ta khả năng phân định và chọn nguồn nước thật sự
trong lành, khả năng trở nên giếng nước đầu làng, trở nên người
đã đón nhận nguồn nước trong lành, và trở về chia sẻ những cảm
nghiệm của lòng mình cùng loan báo Tin Mừng Sự Sống cho dân
làng.
5. Trong Mùa Giáng Sinh cũng như trong Năm Đức
Tin, tôi cầu mong cho mọi người, mọi gia đình, mọi cộng đoàn,
trở nên giếng chứa nước trong lành, đồng thời trở nên sứ giả
loan báo Tin Mừng Sự Sống và Tình Thương của Chúa Giêsu Kitô,
thông truyền cho nhau Lời hằng sống ban ánh sáng chân lý và tình
yêu cho bà con láng giềng, cho đồng bào và đồng loại của mình.
Nguồn nước đó, Lời ban sức sống mới đó, sẽ tạo khả năng cho mọi
người chủ gia đình, mọi người đứng đầu các tổ chức đạo đời, xã
hội, kinh tế, chính trị, mọi người tham gia việc quản lý đất
nước và thế giới hôm nay, chu toàn bổn phận tu thân và giáo dục,
tề gia và trị quốc, phát triển xã hội và kinh tế, vừa thuận ý
trời (thiên thời), vừa hợp với truyền thống văn hóa và
giáo huấn của đạo làm người (địa lợi), vừa hòa với lòng
nhân, lòng đạo của con người (nhân hòa). Cầu mong nhờ sự
đổi mới đời sống con người, lời chúc Một Mùa Giáng Sinh an bình
cùng Một Năm Mới an khang thịnh vượng, trở thành hiện thực trong
mỗi gia đình cùng xã hội và thế giới hôm nay.
HY. Gioan B. Phạm Minh Mẫn
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Đức Ki-tô Phục Sinh chú giải Kinh Thánh
cách sống động Chuyển ngữ: Thérèse Trần Thiết + Fr.
Marie Bảo Tịnh O.Cist |
Lời Mời gọi của HĐGMVN:
Giáo Hội tại Việt Nam phải “phát động chương
trình mỗi gia đình một cuốn Kinh Thánh được đặt nơi xứng hợp, cổ
võ đọc và cầu nguyện với Lời Chúa”, khuyến khích học thuộc lòng
những đoạn Kinh Thánh cốt yếu. Mọi thành phần Dân Chúa, giáo
dân, chủng sinh, tu sĩ và các mục tử, cần tập thói quen đọc và
suy niệm Lời Chúa hằng ngày, đặc biệt theo phương thức
Lectio divina. (Thư Chung của HĐGMVN, ngày
1.5.2011, số 11)
Xin giới thiệu cho nhiều người thân tham gia Gia Đình
Lectio Divina
Lecdiv@gmail.comđể
có thể hiệp thông với nhau trong đời sống cầu nguyện và cùng
giúp nhau thực hành "điều cần thiết nhất trong mọi điều cần
thiết".Đan
viện Xitô Thánh Mẫu Tâm Mỹ Ca, Nha Trang, sẽ cầu nguyện lâu dài
cho tất cả những ai trung thành thực hành và cố võ việc thực
hành Lectio divina.
Mọi thắc mắc về Lectio divina, xin gởi email cho cha Bảo
Tịnh, O.Cist
fr.baotinh@yahoo.fr
*****
Tác Phẩm: MỘT VỊ THIÊN CHÚA NGỎ LỜI!
Thiên Chúa tỏ mình cho con người thế nào?
Chuyển ngữ:
Thérèse Trần Thiết
Fr. Marie Bảo Tịnh O.Cist
Nguyên tác:
Michel HUBAUT
UN DIEU QUI PARLE!
Comment Dieu se révèle-t-il à l’homme?
Chương 8 -
ĐỨC
GIÊ-SU, NHÀ CHÚ GIẢI
KINH THÁNH
Các môn đệ
làng Em-mau (Lc 24, 13-35) - (tiep theo)
Đức Ki-tô Phục Sinh chú
giải Kinh Thánh cách sống động
Câu 27 - “Rồi bắt đầu từ ông
Mô-sê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những
gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh”.
Thầy Giê-su bắt đầu công việc giải
thích Kinh Thánh. Lu-ca không xác định những câu trích dẫn nào.
Lời giải thích của Thầy bao hàm trọn vẹn Kinh Thánh: “tất cả
các ngôn sứ” và “tất cả Kinh Thánh”. Thầy trách các
môn đệ là những người “chậm tin” vào tất cả những gì các ngôn sứ
đã tiên báo. Toàn bộ Kinh Thánh đều liên quan đến Thầy, “nói về
Thầy”; các Sách Thánh là một sự chuẩn bị lâu dài có tính cách mô
phạm cho ngày nhập thể và nhập thế của Thầy. Giê-su quả là một
nhà chú giải sống động, là Chìa Khóa cho việc giải thích trọn bộ
Kinh Thánh. Cuộc sống, và nhất là sự Sống Lại, Vượt Qua của Thầy
mang lại ý nghĩa cho tất cả lịch sử các Sách Thánh về ơn cứu độ,
và cũng là sự thành toàn của chương trình cứu độ.
Cũng như trong mỗi thánh lễ, bài Tin
Mừng soi sáng ý nghĩa cho các đoạn Sách Thánh khác. Qua lời chú
giải, Thầy Giê-su đã không trực tiếp tỏ mình cho các môn đệ.
Công việc làm thức tỉnh Lời như thế vẫn chưa đủ, nhưng mới chỉ
là bước chuẩn bị cho sự biểu hiện tiếp theo.
Câu 28-29 - “Khi gần tới làng họ
muốn đến, Ðức Giê-su làm như còn phải đi xa hơn nữa. Họ nài ép
Người rằng: "Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều,
và ngày sắp tàn". Bấy giờ Người vào ở lại với họ”.
Chiều đến, Thầy “làm ra vẻ” phải đi
xa hơn, đó là một cách khích động sự tự do và tính hiếu kỳ của
các môn đệ. Thầy không áp đặt, mà để người ta tự động mời mình.
Quả thế, hai môn đệ đã vội vã mời Thầy cùng dừng chân với họ, có
thể ngay trong nhà của họ, chứ không phải trong quán trọ như
Truyền Thống vẫn ám chỉ. Các môn đệ thích được tiếp tục trò
chuyện trao đổi với người “bạn đồng hành” đã cho họ những giây
phút an bình thoải mái. Đoạn văn nhấn mạnh cụm từ “ở lại với”
hay “ở với”. Trong Tin Mừng của ông, Lu-ca luôn dành một
chỗ đặc biệt cho sự “đón-tiếp” hay “không-tiếp-đón” Thầy Giê-su;
chính vì tính hiếu khách, sự đón tiếp là câu trả lời tích cực
đầu tiên của con người trước lời mời gọi của Thiên Chúa đến mở
cửa đức tin cho ta.
Dấu chỉ của việc bẻ bánh
Câu 30 - “Khi đồng bàn với họ,
Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ”.
Chủ đề “bữa ăn” trong Tin Mừng
thánh Lu-ca cũng có tầm quan trọng như chủ đề “đường đi”. Thầy
Giê-su thích ngồi chung bàn với các môn đệ, với bạn hữu, và ngay
cả với những người tội lỗi. Vì bữa ăn tượng trưng cho sự tham dự
vào Vương Triều của Thiên Chúa, vào ơn cứu độ mà Thầy cống hiến
cho mọi người muốn đón nhận. Tất cả những cử chỉ của Thầy Giê-su
thực hiện ở đây, ta đều thấy trong một số đoạn Tin Mừng khác,
đặc biệt khi Thầy hoá bánh ra nhiều, cũng được xảy ra khi
trời đã xế chiều
(Lc 9, 14-16)
và bữa Tiệc Thánh
(Lc 22, 14-19),
chúng ta cũng gặp các động từ: cầm lấy
bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và ban cho…
Người ta thường tự hỏi bữa ăn ở làng
Em-mau có phải là một bữa tiệc tạ ơn (eucharistie) hay không?
Ngay cả khi Thầy không tái diễn bữa Tiệc Ly với các môn đệ tại
Em-mau, thì ít ra Thầy đã có những cử chỉ quen thuộc như vẫn
thường làm mỗi khi đồng bàn, ăn chung với các môn đệ… Nhưng khi
lại gặp những phong cách trịnh trọng diễn ra ở đây, ta không thể
nghi ngờ rằng kỷ niệm về Bữa Tiệc Ly kia lại không hiện diện
trong tâm trí Lu-ca, và nó cũng là ý tưởng chính yếu để chú giải
đoạn Tin Mừng này của tác giả.
Ta còn phải phân biệt những gì
Cơ-lê-ô-pát và bạn ông đã cảm nghiệm được, với những gì thánh
Lu-ca muốn cho độc giả của ông nhận ra. Đối với Lu-ca, thật rõ
ràng là Thầy Giê-su tỏ mình qua cử chỉ “bẻ bánh”, tại bàn tiệc
tạ ơn của các cộng đoàn ki-tô hữu, mà Em-mau là điểm tụ họp cho
bữa tiệc Tạ Ơn đầu tiên của Hội Thánh.
Lu-ca đã dàn dựng lại bữa ăn trong
một quang cảnh của buổi tụ họp các tín hữu, ông cũng phân biệt
hai phần phụng vụ rõ ràng: phụng vụ Lời Chúa (giải thích Kinh
Thánh), và phụng vụ Bánh. Bàn tiệc Tạ Ơn bảo đảm với các môn đệ,
vừa được giáo huấn bởi Sách Thánh, cùng một cuộc gặp gỡ cá nhân
thân tình như bàn ăn ở Em-mau. Thầy Giê-su vừa đồng hoá với Bánh
và với Lời. Thầy là ơn ban của Thiên Chúa cho con người, dưới
hai dạng Lời Sự Sống và Bánh Sự Sống bất khả phân ly.
Câu 31 - “Mắt họ liền mở ra
và họ nhận ra Người, Người lại biến mất không còn thấy đâu nữa”
(nguyên nhân: vì Người đã trở nên vô hình đối với họ).
Sau khi được nghe những lời giải
thích Sách Thánh trên đường đi và việc “bẻ bánh”, con mắt của
các môn đệ mới được “mở ra”. Đây cũng là cách muốn nói rằng đức
tin chính là khả năng “nhìn thấy” sự hiện diện mới mẻ của Đức
Ki-tô Giê-su phục sinh, là một ơn ban của Thiên Chúa, là công
trình của Thần Khí Chúa, Đấng mở mắt tâm hồn, mở sự hiểu biết
tâm linh ra cho con người chúng ta. Đây cũng là lần đầu tiên,
trong Tin Mừng của Lu-ca, Thầy Giê-su được công nhận là đã phục
sinh, Đức Ki-tô Phục Sinh: “họ đã nhận ra Thầy”. Chúng ta
đang ở đỉnh điểm của bài trình thuật, và cũng là đích điểm của
toàn thể Tin Mừng Lu-ca. Sự kiện được mở mắt ra và
nhìn nhận ra tượng trưng cho đức tin.
Hai môn đệ làng Em-mau đã trở thành
những kẻ tin vào Đức Giê-su chịu đóng đinh và phục sinh. Chính
vì thế mà thánh Lu-ca viết thêm: “Và Thầy đã thành vô hình đối
với họ”, có nghĩa là “không có hình dáng bề ngoài”, một từ rất
hiếm thấy, và chỉ dùng ở đây trong Tân Ước. Thầy Giê-su đã biến
đi trước con mắt thịt của họ. Hay đúng hơn: kể từ nay, đức tin
sẽ thay thế cho sự nhìn thấy. Và, chỉ có đức tin mới có thể
tuyên xưng sự hiện diện thánh thiêng của Đức Ki-tô Giê-su Phục
Sinh ở giữa thế giới loài người chúng ta. Thầy không còn ở bên
cạnh các môn đệ, nhưng vẫn hiện diện cách thân tình, nơi thâm
sâu nhất của họ.
Trong trình thuật của Lu-ca, ta nhận
thấy đồng thời xuất hiện hai sự kiện nhận biết, và
Thầy trở thành vô hình. Ngay khi sự hiện diện thánh thiêng
của Thầy được nhìn nhận bởi con mắt đức tin, một đức tin được
thức tỉnh bởi Lời và những dấu chỉ của Bánh được bẻ ra để chia
sẻ, thì sự hiện diện thể lý của Thầy có thể biến đi. Khi sự hiện
diện mới mẻ của Thầy được nhận biết, tất nhiên sự hiện diện thể
lý của Thầy không còn cần thiết nữa, trái lại, nó còn có thể gây
trở ngại cho sự gặp gỡ căn tính đích thực của Thầy. Kể từ nay,
ta chỉ có thể tiếp cận với con người của Thầy Giê-su Ki-tô
nếu ta biết từ khước việc nhìn thấy, đụng chạm, và nhốt kín Thầy
trong những giới hạn gò bó của con người trần thế nơi chúng ta.
Nếu các môn đệ đã không thể nhận ra
Thầy Giê-su phục sinh, không phải chỉ vì Thầy đã thay đổi hình
dạng, nhưng chính vì các ông đã không có khả năng nhận
biết Đấng đã phục sinh, đã vượt qua ngay chính trong Đấng đã
Chịu Đóng Đinh ngày Thứ Sáu Tuần Thánh vừa qua. Điều khó khăn là
ở nơi các môn đệ. Dọc con đường vượt qua về Em-mau, không phải
đã có gì thay đổi nơi Thầy Giê-su, mà là chính con mắt tâm hồn
của hai môn đệ đã được mở ra nhờ ánh sáng Kinh Thánh. Đức Tin là
một hoán cải của con mắt tâm linh.
Tại sao sự hiểu biết của tâm trí về
biến cố vượt qua đã không xảy ra sớm hơn nơi các môn đệ, ngay
khi được Thầy giải thích ý nghĩa Sách Thánh? Lu-ca muốn chứng tỏ
rằng niềm tin phục sinh phải có từng giai đoạn. Giai đoạn thứ
nhất là đọc Kinh Thánh cách mới mẻ hơn, tuy thực sự cần thiết,
nhưng vẫn chưa đủ. Giai đoạn thứ hai là đón tiếp, đón tiếp Thầy
Giê-su cũng rất cần, nhưng cũng vẫn chưa đủ. Còn cần phải có dấu
chỉ của việc “bẻ bánh”. Cả ba giai đoạn này hợp lại mới đem ý
nghĩa cho niềm tin.
Câu 32 - Họ mới bảo nhau: "Dọc
đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng
ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?”.
Hai môn đệ lại tiếp tục trao đổi,
đàm đạo với nhau, nhưng bây giờ không phải quanh sự chán nản
thất vọng của họ nữa, mà về sự biến đổi tâm linh mà họ vừa trải
nghiệm. Họ được biến đổi từ “vẻ u buồn” đến “con tim cháy bỏng”.
Các môn đệ làng Em-mau đã có thể minh định vị trí cuộc khổ hình
Thập Giá của Thầy Giê-su Ki-tô, trong kế hoạch huyền nhiệm của
tình yêu Thiên Chúa cho nhân loại.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
NGỒI CẠNH NHAU…
|
Sứ điệp Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới lần thứ
13 ( Vatican 30.10.2012 ) đã nói đến bờ giếng Sicar trong câu
chuyện người phụ nữ Samaria ( Ga 4, 5 – 42 ):
“Giáo Hội cũng cảm thấy phải ngồi
cạnh những người nam nữ thời nay, để làm cho Chúa hiện diện
trong cuộc sống của họ” ( bản dịch của Lm. G.
Trần Đức Anh, OP ).
Nội dung Sứ điệp là
“Tái truyền giảng Tin Mừng để thông
truyền Đức Tin”.
Nỗi trăn trở, lo âu và bận tâm của Hội Thánh Chúa Kitô. Làm sao
để “ngồi cạnh những người nam
nữ thời nay” ?
Không có hàng rào…
Chắc chắn chung quanh giếng không có hàng rào,
không có những cánh cổng to lớn khóa chặt, “mở cửa theo giờ quy
định”, không có cả những ông gác Nhà Thờ khó tính luôn cảnh giác
mọi người.
Chắc chúng ta không thể tiếp tục làm những hàng
rào thật kín bao quanh Nhà Thờ, không thể tách biệt bên trong và
bên ngoài Nhà Thờ một cách cứng ngắc như vậy, cũng như chúng ta
không thể phân biệt rạch ròi việc cử hành và sống Đức Tin, cử
hành là sống, sống là cử hành, không có chuyện người tín hữu
sống hai thế giới, không có chuyện chia cắt lương giáo trong một
cộng đồng.
Kinh Tin Kính trong Thánh Lễ có câu:
“Vì loài người chúng ta và để cứu độ
chúng ta”, khi
viết câu này, Giáo Hội Việt Nam ý thức lúc tuyên xưng Đức Tin,
người Kitô hữu đang đứng cạnh người anh em chưa có niềm tin, lời
tuyên xưng cũng là lời chia sẻ, vì chúng ta đứng cạnh nhau, nếu
không thì đã là “vì loài người chúng tôi…”
Ước mong hàng rào quanh Nhà Thờ ( nếu có ) sẽ
thật thoáng, sẽ thật thân thiện với mọi người. Không thể mãi
khóa cửa mà chỉ “mở theo giờ quy định”. Con người không khát
theo giờ chúng ta quy định, con người cần được gặp Chúa bất cứ
lúc nào, đến với Chúa dễ dàng vì Chúa đâu có xa lánh con người.
Ước mong Nhà Thờ luôn mở cửa để mọi người có thể đến bất cứ lúc
nào hầu tìm thỏa mãn cơn đói khát ân sủng.
Nhà Thờ không rào cản, không tự khóa mình, thì
“người của Nhà Thờ” không lẽ lại đi dựng hàng rào quanh mình, tự
khóa lòng mình ? Ước mong người đau khổ, người đói khát ân sủng
luôn tìm được sự đón tiếp thân thiện từ những “người của Nhà
Thờ”. Làm sao để mọi người, nhất là người nghèo dám tìm đến khi
cần, không khép nép sợ hãi, không rón rén như kẻ thấp hèn tìm
đến cửa quan, không hãi hùng như khi nhận được “giấy mời” lên
Công An làm việc.
Hãy tái tạo một không gian thân thiện trong lòng
Nhà Thờ, trong sân vườn Nhà Thờ, một không gian đầy bóng cây
xanh, gần gũi thiên nhiên, thoáng mát, bình dị và ấm cúng. Cũng
vậy nhân loại cũng đang cần một thái độ thân thiện từ những
“người của Nhà Thờ”, thân thiện từ tâm hồn, ngôn ngữ, gương mặt,
trang phục, nhà cửa và các phương tiện sử dụng.
Ngồi cạnh…
Cái giếng vẫn lặng lẽ âm thầm ngồi cạnh những tâm
hồn tan nát, vẫn kiên nhẫn lắng nghe những vòng vo rắc rối cuộc
đời. Tòa Giải Tội là nơi ít ra là ngày nay ở Việt Nam còn rất
nhiều người mong tìm đến, hãy luôn mở rộng cánh cửa này để Chúa
thi thố tình thương của ngài cho nhân loại, đừng để hối nhân
ngại ngùng khi lòng dạ đã ăn năn, đừng để hối nhân vuột mất cơ
hội trở về cùng Chúa.
Chúng ta ngồi cạnh để người anh em của chúng ta
được gặp Chúa, “Giáo Hội cũng
cảm thấy phải ngồi cạnh những người nam nữ thời nay, để làm cho
Chúa hiện diện trong cuộc sống của họ”.
Điều quan trọng là để làm cho Chúa hiện diện trong cuộc sống của
họ. Bờ giếng lặng lẽ câm nín, chỉ để Chúa cất tiếng ngỏ lời.
Hình như chúng ta dành phần nói quá nhiều ( cứ quan sát những lễ
nghi hàng ngày, kinh sách đọc rân ran, giảng dạy hướng dẫn liên
tục… ) và quên mất cần phải để Chúa nói.
Chờ…
Chúa ngồi chờ bên bờ giếng tự bao giờ, Ngài lên
tiếng trước, Ngài ngỏ lời xin. Học cách hành xử của Chúa, ước
mong chúng ta biết đợi chờ, kiên nhẫn đợi chờ, không chán nản,
không cáu giận. Với người xa cách Nhà Thờ, lòng họ mang đầy mặc
cảm, ước mong chúng ta lên tiếng trước, bắt liên lạc trước và
rất khiêm tốn chúng ta xin họ trước. Ân sủng họ phải xin, Bí
Tích họ phải xin, nhưng lạ lùng Chúa Giêsu lên tiếng xin họ
trước, chúng ta không còn con đường nào khác ngoài con đường
Chúa Giêsu đã đi. Chúng ta cần phải ngỏ lời trước, xin họ trở về
như Thánh Phaolô: “Tôi nài xin
anh em” ( 2 Cr 5, 20 ).
Sứ Điệp Hội Thánh đã gởi đi, mỗi người chúng ta
đáp ứng thế nào với Sứ Điệp ?
Lm. VĨNH SANG, DCCT,
cuối tháng 11 năm 2012 (Ephata 537) |
VỀ MỤC LỤC |
|
ÔNG VUA KHÔNG BIẾT
CÚI ĐẦU |
Lễ
Chúa Giêsu Kitô Vua vũ trụ
(Daniel 7: 13-14; Revelation 1:
5-8; John 18: 33b-37)
Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD
Phiên tòa chất vấn Chúa Giêsu
33Ông Pilate trở vào dinh, cho gọi
Đức Giêsu và hỏi Người: “Ông có phải là Vua dân Do Thái không?”34Đức
Giêsu đáp: “Ngài tự ý nói điều đó hay ai
khác đã nói với Ngài về tôi?” 35Ông
Pilate trả lời: “Tôi không phải là người Do Thái sao? Chính dân
của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. Ông đã làm gì?
36Đức Giêsu trả lời: “Nước
tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian
thì thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị bắt nộp cho
người Do Thái. Nhưng đúng vậy, nước tôi không thuộc nơi này.”
37Ông Pilate lại hỏi: “Vậy ông là vua sao?”
Đức Giêsu trả lời: “Chính Ngài nói tôi là
vua. Tôi đã sinh ra và đến thế gian vì điều này, đến để làm
chứng cho Sự Thật. Ai đứng về phía Sự Thật thì nghe tiếng tôi.”
(Ga 18: 33-37)
**************
Hôm nay Chúa Nhật
lễ trọng, mừng Chúa Giêsu Kitô là Vua vũ trụ, kết thúc năm phụng
vụ. Tin Mừng thánh Gioan có miêu tả quang cảnh phiên tòa xử Chúa
Giêsu (Ga 18:33-37). Pilate hỏi Chúa “Ông có phải là vua Do
Thái không?” và câu trả lời của Chúa Giêsu: “Tôi là
vua, nhưng nước tôi không ở thế gian này” đã như mũi giao
nhọn đâm trúng tim, gây nhức nhối cả quan tòa lẫn các thượng tế
và đám dân Do Thái đang tố cáo Chúa. Ở đây, chúng ta thấy một
tương phản rất rõ ràng giữa hai loại quyền lực. Quyền lực trần
thế và quyền lực trên trời. Đâu là thực đâu là giả?
QUANG CẢNH PHIÊN TÒA XỬ CHÚA GIÊSU
Đem nộp Chúa
Giêsu cho quân La Mã để chắc chắn Ngài sẽ bị đóng đanh, chính
quyền Do Thái đã hoàn thành nhiệm vụ để lời tiên tri được ứng
nghiệm rằng Ngài sẽ bị kéo lên cao (Ga 3:14; 12:32-33). Thánh
Gioan đã tả lại cuộc đối đáp giữa Chúa giêsu và Pilate, quan
tổng trấn kiêm quan tòa. Pilate hỏi Chúa Giêsu: “Ông có phải
là vua dân Do Thái không?”(c.33). Bị cáo Giêsu nắm lấy câu
hỏi đó và hỏi ngược lại ông tòa. “Tự ngài hỏi câu đó hay có
ai khác đã nói với ngài về tôi? (c.34). Cả câu hỏi
lẫn câu trả lời đều trở thành những lời khiêu khích đối với vị
quan tòa La Mã.
Vẻ hống hách của Pilate cũng chẳng uy hiếp được
chúa Giêsu. Chúa đã có sẵn
câu trả lời: “Nước
tôi không thuộc về thế gian này” (c 36). Ngay lập tức chúa
Giêsu nêu lý do: ‘Nước tôi không có cảnh cưỡng chế và áp đặt.’
Đồng thời Chúa Giêsu lặp lại quan điểm của chúa: “Nước tôi
không thuộc về thế gian này.”
Pilate rất tinh
khôn, ông không muốn nhận câu trả lời của chúa Giêsu từ chối
mình là vua trần thế, ông liền kết luận theo kiểu loại suy:”Vây
ông là vua à?” (C.37). Chúa Giêsu chấp nhận lời tuyên cáo đó
không mảy may ngập ngừng: “Ngài nói tôi là vua….Tôi đến thế
gian này vì điều đó.”
Để làm gì? Để
khai mở và kiến tạo một thế giới hòa bình huynh đệ, thế giới của
công lý và nhân quyền, thế giới yêu Chúa và thương người, mọi
người yêu thương nhau như anh em một nhà. Đó chính là vương quốc
đã đi vào lịch sử loài người, soi sáng nó và dẫn đưa nó vượt
thoát khỏi chính nó để trở thành một vương quốc đời đời vô tận.
Như khi chúng ta đọc Kinh Lạy Cha: ‘Lạy cha chúng con ở trên
trời…Xin cho nước Cha trị đến… .’
Đọc đoạn Tin Mừng
Chúa Giêsu đối đáp trước tòa, chúng ta thấy quan tòa Pilate tỏ
ra rất bối rối khi phải đối diện với một bị cáo tự xưng mình là
‘Sự Thật’. Xin hỏi trong mỗi người chúng ta có cái gì
giống như ông tòa Pilate không? Cái gì đã ngăn cản chúng ta, làm
cho chúng ta mất tự do, thiếu tự nhiên? Cái gì làm cho chúng ta
sợ hãi? Danh hiệu của chúng ta là gì? Y phục nào chúng ta mặc,
mặt nạ gì chúng ta đeo nơi công cộng mà chúng ta không cảm thấy
xấu hổ, sợ bị tổn thương? Chúng ta lấy tư cách gì mà làm lơ bạn
bè, tài cán gì để trà đạp người khác hầu nâng mình lên, giữ thể
diện cho mình hoặc tiếp tục nắm giữ địa vị, việc làm tốt, lương
cao? Có bao giờ vì thể diện hão mà ta muối mặt lấy những ý kiến
hay tư tưởng đẹp của người làm của mình để tạo tư cách và uy
danh cho mình không?
VƯƠNG QUỐC CỦA CHÚA GIÊSU
Tin Mừng thánh
Gioan chú trọng vào vương quyền của chúa Kito. Cốt lõi sứ điệp
của chúa Giêsu là vương quốc Thiên Chúa, và Thiên Chúa của Đức
Giêsu Kitô chính là Thiên Chúa của vương quốc, Người có Lời và
liên quan đến lịch sử nhân loại, trong đó có hình ảnh của vương
quốc, tức nước trời. Trong vương quốc của chúa Giêsu, không có
khoảng cách giữa thế quyền và giáo quyền, nhưng có khác biệt
giữa thống trị và phục vụ.
Vương quốc của
Chúa Giêsu không phải là loại vương quốc mà quan tổng trấn
Pilate nghĩ tới, muốn hoặc không muốn tham dự. Vương quốc của
quan Pilate là vương quốc La Mã, kiểu chuyên chế,
đặc quyền đặc lợi, thống trị và
xâm lăng.Vương quốc của Chúa Giêsu, trái lại, được xây dựng trên
tình yêu, công lý và hòa bình.
Chúa Giêsu đã
tuyên bố vương quốc của Thiên Chúa là vương quốc thánh thiêng và
ân sủng, công lý, tình thương và hòa bình. Mục đích sau cùng của
Thiên Chúa nơi vương quốc này đã được thực hiện ngay từ khởi
đầu. Đó là giải phóng và cứu chuộc, mục đích tối hậu của Chúa
Giêsu. Chúa đã nói vương quốc này là một thực tế tương lai,
nhưng lại đang hiện diện một cách nhiệm màu nơi Ngài, trong hành
động và Lời của Ngài cũng như trong thân phận làm người của
Ngài.
Nếu vương quyền
của Chúa Giêsu được mừng long trọng, được tung hô trong ngày Lễ
Kito Vua hôm nay có làm bực mình, ngứa mắt một số người, thì đó
phải chăng vì những ông vua, những nhà lãnh đạo trần thế vẫn
chưa giác ngộ đủ? Vương quyền của Chúa Giêsu khác hẳn vương
quyền của họ. Vương quyền và phương cách lãnh đạo của Con Một
Thiên Chúa không chấp nhận thứ bậc, đặc quyền đặc lợi và bất cứ
một toan tính âm mưu nào để làm chủ thế giới, làm thầy thiên hạ.
Chúa không có tham vọng, không ham danh hám lợi và ham mê quyền
lực. Chính Người, một quân vương vô tội đã không kết án, xử tội
bất cứ ai, nhưng Ngài lại tự hiến thân mình chịu chết cho muôn
dân. Chính trị của Ngài đã làm đảo lộn mọi ý niệm về vương quyền
trên trái đất. Vương quyền của Ngài là vương quyền phục vụ, ngay
cả hy sinh mạng sống mình cho tha nhân.
Theo Tin Mừng
thánh Gioan, Chúa Giêsu đã chịu chết vì là Vua. Ngày Chúa bị
đóng đanh treo trên thập giá chính là ngày lễ nhậm chức lên ngôi
hoàng đế của Ngài, một biểu lộ tối hậu về phục vụ của vương
quyền của Ngài. Nhờ Chúa Kito, cuộc đăng quang đau khổ đã hủy
giệt được sự chết, mang lại sự sống vĩnh cửu. Rất ít ai có được
cái phong cách hoàng đế như Chúa Giêsu, mà lại tỏ ra mình chẳng
có quyền hạn gì trước mặt những kẻ đầy quyền uy. Trái lại, nhiều
người trong chúng ta, bề ngoài thì làm vẻ chống đối, cưỡng lại
quyền lực, nhưng bên trong vẫn dùng áp lực và mọi thủ thuật rất
tinh vi để hợp tác. Chúa Giêsu không bao giờ dùng mánh khóe lươn
lẹo, không dùng bạo lực chống lại bạo lực.
HAI VƯƠNG MIỆN
Nếu ai có dịp đi
thăm đất thánh Jerusalem, sẽ thấy Tu viện Ecce Homo/Này là
Người, một trung tâm của các nữ tu Sion nằm trên đường Thương
Khó / Via Dolorosa trong cổ thành Jerusalem. Toàn thể tu viện
được xây trên một khu đất mà người ta tin rằng hồi xưa là tòa án
của tổng trấn Pontius Pilate.
Miền đất thánh ở
Jerusalem, nơi kỷ niệm những biến cố xoay quanh cuộc sống, cuộc
khổ nạn và cái chết của chúa Giêsu, hàng năm đều có hai cuộc lễ
lớn để nhắc lại những vui buồn trong cuộc đời của Chúa Giêsu.
Ngày lễ quan thầy của Tu Viện Ecce Homo là ngày lễ Chúa Kitô là
Vua, biểu lộ niềm vui, kết thúc năm phụng vụ và biểu lộ nỗi buồn
chúa Giêsu chịu đội mạo gai vào ngày thứ sáu đầu tiên Mùa Chay.
Hai ngày lễ, hai vương miện, hai hình ảnh, một ý nghĩa về chúa
Giêsu là Thiên Chúa, được đưa ra trước cộng đồng Kito hữu để
chúng ta cùng nhau suy niệm và noi gương bắt chước.
Lễ Chúa Kito Vua
cho chúng ta hình ảnh chúa Kito mang triều thiên, thoạt tiên là
triều thiên mạo gai, rồi triều thiên chiến thắng, vương miện
vinh quang không bao giờ tàn. Vào ngày chúng ta chịu phép Thánh
Tẩy, khi dầu thánh được xức trên trán chúng ta là lúc chúng ta
đội triều thiên, dấu hiệu của vương quyền làm cho chúng ta trở
thành một Kito khác, một Kitô được xức dầu. Chúng ta đã có sức
mạnh để Sống thật tin tưởng và Yêu thật mãnh liệt như chính chúa
Giêsu đã sống và đã yêu. Triều thiên vinh quang –là của chính
chúa Kitô- đã được hứa ban cho mỗi người chúng ta. Vậy thì triều
thiên nào nằm ở trung tâm Đức Tin và Tuyên Hứa của chúng ta?
AI ĐÂY, NẾU KHÔNG PHẢI LÀ ĐẤNG CỨU THẾ ĐÃ BỊ KẾT
ÁN?
Chúa Giêsu đã trả
lời quan tổng trấn La Mã một cách quả quyết ‘Ta là Vua’,
nhưng không phải là vua thế gian (Ga 18:36). Ngài đến
không phải để chiếm đất dành dân, nhưng để giải phóng muôn dân
khỏi nô lệ tội lỗi và hòa giải họ với Thiên Chúa. Ngài nói: “Vì
lẽ đó mà tôi sinh ra và đến thế gian này, để chứng minh cho Sự
Thật. Ai thuộc về Sự Thật thì nghe lời tôi” (Ga 18:37).
Sự Thật là
gì mà chúa phải đến thế gian này để làm chứng? Toàn thể cuộc
sống của Chúa đã chứng tỏ Thiên Chúa là Tình Yêu: Vậy thì đây là
Sự Thật đã được Chúa làm chứng một cách trọn vẹn bằng hy sinh
mạng sống mình trên núi Calvary. Chúa Giêsu đã thiết lập vương
quốc của Thiên Chúa một lần cho tất cả qua thập tự giá. Con
đường đi tới đích đó thì dài, không có đường tắt nào hết. Mọi
người đều hoàn toàn tự do để chấp nhận Sự Thật của Tình Yêu
Thiên Chúa.
Thiên Chúa là
Tình Yêu và là Sự Thật. Không có Tình Yêu nào, không có Sự Thật
nào là áp đặt cả. Nó nhẹ nhàng đến gõ cửa tâm hồn chúng ta, chờ
đợi chúng ta mở cửa lòng đón chào nó. Tuy nhiên đa phần chúng ta
sợ hãi không muốn tiếp đón những người khách đó vào nhà chúng
ta, vào cuộc sống chúng ta và vương quốc trần thế này, bởi vì có
nhiều mâu thuẫn trầm trọng liên quan đến những tặng vật đó.
Nhiều người ra mặt chống lại Sự Thật bằng quyền lực, có người
lại dùng áp lực và thủ thuật dưới những hình thức rất tinh vi
khéo léo để tạo nguy hiểm cho Sự Thật.
Khi chúng ta
chiêm ngưỡng hình ảnh Chúa bị đóng đanh, chúng ta cũng hiểu được
chút nào đó là tại sao Chúa vẫn giữ danh hiệu Vua ngay cả cho
đến thời nay. Chúa đã không cúi đầu. Chúa là Sự Thật đầu thai,
không bao giờ áp đặt bất cứ ai. Ngài đến, Ngài gõ cửa, Ngài
đứng, Ngài chờ,…Ngài không dùng bạo lực đáp trả bạo lực.
LỜI KẾT
Chúng tôi mượn
lời Chân phước Giáo hoàng Gioan Phaolo II để làm lời kết cho bài
viết.
Khi kết thúc đàng
Thánh Giá tại Coliseum ở Rome vào đêm thứ Sáu năm Thánh 2000,
Chân phước Giáo hoàng Gioan Phaolo II đã nói như sau:
*Ai đây, nếu
không phải là đấng Cứu Thế, có thể thấu hiểu một cách trọn vẹn
nỗi đau đớn của những kẻ bị kết án một cách bất công?
*Ai đây, nếu
không phải là một ông Vua bị khinh miệt và làm nhục, lại có thể
đạt được kỳ vọng của biết bao nhiêu người cả nam lẫn nữ hiện
đang sống cuộc sống vô vọng và vô nhân phẩm?
*Ai đây, nếu
không phải là con Thiên Chúa, có thể biết đến những nỗi sầu buồn
và cô đơn của biết bao nhiêu người mà cuộc sống của họ bị chà
đạp, dày xéo, tan nát không tương lai?
Chúa Giêsu đã
mang những vết thương của Người về thiên đàng, ở đó đã dành sẵn
một nơi cho những vết thương đau của chúng ta, bởi vì vua của
chúng ta đã mang những vết thương của Người về trời trong vinh
quang.
Đức Vua của chúng
ta bị đóng đanh và đưa lên cao giữa muôn dân, hai tay giang ra
như chào đón, đầy vẻ yêu thương nhân hậu. Chớ gì chúng ta có đủ
can đảm để cầu xin Ngài nhớ đến chúng ta trên vương quốc của
Ngài, ban ân sủng cho chúng ta để chúng ta noi gương Ngài khi
còn ở trần thế này, ban ơn khôn ngoan để chúng ta biết đón chào
Chúa khi Chúa đến gõ cửa tâm hồn chúng ta.
Chúa Giêsu Kitô
là Vua chúng ta và Vua nhân loại. Vua của Tình Yêu, Công Lý và
Hòa Bình. Ngài đã cứu chúng ta khỏi vũng lầy tội lỗi.
Fleming Island,
Florida
Nov. 24, 2012
NTC
|
VỀ MỤC LỤC |
|
ÁO KHIÊM TỐN
|
Trong một vương quốc
rộng lớn giàu sang nọ, trong khi nhà vua và mọi người điều hạnh
phúc và vui tươi, riêng chàng hoàng từ luôn tỏ ra âu sầu, buồn
chán; dường như chàng thiếu một điều gì đó mà không diễn tả
thành lời được.
Lo lắng trước tình
trạng của hoàng tử, nhà vua hỏi ý kiến các đại thần và lương y
nhằm tìm cách giúp hoàng tử. Ban đầu người ta tưởng rằng do thất
tình mà hoàng tử gặp chứng ưu phiền, nhưng sau một thời gian tìm
hiểu, nhà vua được một đại thần cho biết là nếu nhà vua tìm được
ai có chiếc áo khiêm tốn và cho hoàng tử mang chiếc áo ấy, hoàng
tử sẽ bình phục và hạnh phúc.
Ngay sau đó, nhà vua
yêu cầu quân lính tìm xem ai đang mang áo khiêm tốn để xin cho
hoàng tử. Sau một thời gian, người ta nghe danh một tu sĩ được
cho là thánh thiện và khiêm tốn. Giả dạng một thương gia giàu
có, nhà vua gặp vị tu sĩ để xin áo khiêm tốn. Nhà thương gia mở
lời, “Thưa ngài, nghe danh thánh thiện và sự khiêm tốn của ngài
đã lâu, hôm nay tôi hân hạnh được diện kiến ngài. Tôi nghe người
ta đồn rằng, ngài được một vị thần nào đó đã cho ngài chiếc áo
tu sĩ; có phải nhờ chiếc áo này mà ngài nên thánh thiện và khiêm
tốn phải không?” Vị tu sĩ tỏ vẻ khó chịu đáp ngay, “Có ai cho
tôi cái áo này đâu, chiếc áo tu sĩ này là thành quả của bao năm
tu luyện và học tập.” Người thương gia tiếp, “Xin ngài cho tôi
chiếc áo của ngài đang mang được không? Tôi muốn con tôi được
thánh thiện và khiêm tốn như ngài.” Vị tu sĩ nhìn người thương
gia liền đáp, “Không được, tôi nhờ chiếc áo này mà danh tiếng
của tôi vang xa, nay cho ông thì còn ai biết đến tôi nữa.” Nghe
xong, người thương gia từ giả buồn rầu vì biết rằng ông chưa
thực sự tìm được người có chiếc áo khiêm tốn.
Một thời gian sau,
nhà vua được giới thiệu cho biết là có một vị quan rất có tài
năng trong việc cai trị dân làng. Nghe như thế, nhà vua nghĩ
rằng ông quan này là người đức độ và đang sở hữu chiếc áo khiêm
tốn. Tìm đến ông quan dưới dạng người thương gia, nhà vua cho
biết là đã nghe danh của vị quan về tài năng và đức độ, “Tôi
nghe nói, sở dĩ quan trở nên đức độ và tài năng là nhờ trời cho
quan có chiếc áo thần mà mỗi lúc mang nó vào thì người dân luôn
phục tùng quan có phải không? ” “Đúng vậy,” quan trả lời và
tiếp, “Với chiếc áo này, khi mọi người thấy tôi đi qua đều quì
rạp xuống và không một ai dám nhìn thẳng tôi; vì lẽ đó, việc ai
trị của tôi rất dễ dàng và thuận lợi.” Với kinh nghiệm làm vua
đã lâu, nhà vua hiểu ngay rằng, chỉ vì sợ hãi mà người dân vâng
lệnh vị quan chứ không phải tài đức của ông mà làm cho người dân
vâng phục.
Trên đường trở về
hoàng cung với một thân xác mệt lã, đói khát, và một trái tim
buồn lo vì chưa chưa tìm được chiếc áo khiêm tốn cho con mình,
nhà vua thấy một người nông dân với nét mặt bình an tự tại vác
cuốc đi ngang trước mặt. Nhà vua tự giới thiệu, “Tôi là người bị
lạc đường, tôi không có thức ăn, tôi không có chỗ nghĩ, tôi
không có áo quần để thay; ông có thể giúp tôi được không?” Chưa
kịp dứt lời, người nông dân mau mắn mời người qua đường về căn
chòi của mình. Đến nhà, người nông giới thiệu cho vợ con về
người khách quí gặp trên đường. Sau đó ông dọn phòng cho vị
khách, đưa áo quần cho vị khách thay. Tiếp theo ông mau mắn giúp
vợ con ông chuẫn bị cho bữa ăn tối. Sự nhiệt tình vui tươi của
người nông dân làm cho nhà vua suy nghĩ. Sau khi tắm rửa, nhìn
chiếc áo rách mà người nông dân đưa cho mình, nhà vua lưỡng lự
là mình có nên mang nó vào hay không. Sau một hồi, ông cũng đánh
liều mang chiếc áo rách vào. Lạ thay, sau khi mang chiếc áo rách
vào, ông như muốn chạy xuống bếp để làm việc với gia đình người
nông dân; ông cảm thấy thích thú khi rửa chén, lau bàn, dọn dẹp
vệ sinh. Ông không còn nghĩ mình là khách và là vua nữa, nhưng
là một nông dân với chiếc áo rách. Ông xin ở lại với gia đình
người nông dân thêm ít ngày nữa để đi cuốc đất, trồng khoai và
trò chuyện với họ. Ông chẳng hề nghĩ đến vương niệm, ngai báu,
nhưng luôn thưởng hưởng được sự an bình, vui tươi. Sau vài ngày
sống với người nông dân và mang chiếc áo rách của người nông
dân, nhà vua nhận ra rằng, đây chính là chiếc áo khiêm tốn sẽ
giúp con mình lành bệnh.
Ngày chia tay với
người nông dân, nhà vua lấy một thỏi vàng trao cho người nông
dân và xin được đổi chiếc áo rách nông dân. Ông nhận ra rằng,
không có chiếc áo nào làm cho người ta trở nên khiêm tốn, thánh
thiện, và quyền uy nếu chính mình không mang sự thấp hèn, rách
nát của đồng loại vào con người mình. Chính khi thực sự chia sẻ
tất cả sự thấp hèn ấy, ông thấu chạm được nỗi khổ của con người,
vì lẽ đó ông cũng chạm được sự thánh thiện, khiêm tốn, và quyền
uy – không phải để thống trị, mà là để yêu và cảm thông chia sẻ.
Ông trở về với chiếc
áo rách trên tay; ông mặc chiếc áo ấy cho hoàng tử và gởi hoàng
tử sống với người nông dân một vài năm. Quả thật, hoàng tử đã
trở nên một con người như vua cha mong muốn.
* * *
Thưa bạn, mục
Sống Sao Cho Đẹp mời bạn cùng mang chiếc áo rách khiêm tốn
của người nông dân trong từng ngày sống của mình. Nếu chiếc áo
tôi đang mang cũng rách, thì chắc một điều tôi không dám chê
chiếc áo rách mà bạn tôi đang mang đâu!
Br. Huynhquảng
|
VỀ MỤC LỤC |
|
NĂM ĐỨC TIN
: THẾ NÀO LÀ NGƯỜI THỰC SỰ CÓ ĐỨC TIN ?
|
Năm Đức tin đã được mở ra trong Giáo Hội từ ngày
11 tháng 10 năm 2012 cho đến ngày 24 tháng 11 năm 2013.Mục đích
là để mọi người trong Giáo Hội nhìn lại đời sống đức tin của
mình để trước hết cảm tạ Thiên Chúa đã ban quà tăng đức tin vô
giá cho chúng ta và từ đó thêm quyết tâm sống đức tin cách cụ
thể và có chiều sâu hơn nữa để thích nghi với những thách đố của
thời đại tục hóa, trống vắng mọi niềm tin này, và cũng để phúc
âm hóa người khác, tức là mời gọi thêm nhiều người nữa nhận biết
và tin yêu Chúa Kitô, Đấng Cứu Chuộc nhân loại.
Đó là tất cả ý nghĩa và mục đích của công cuộc “Tân
phúc âm hóa để loan truyền đức tin Kitô-Giáo=New
Evangelization for the transmission of Christian faith) mà Giáo
Hội thi hành trong Năm Đức Tin này
Thực vậy, chúng ta đang sống trong hoàn cảnh tục
hóa của thời đại tôn thờ vật chất ( Materialism) chuộng khoái
lạc ( hedonism) vô thần ( atheism) và phi luân vô đạo (
amoralism).
Do đó, hơn bao giờ hết, là người tin có Thiên
Chúa là Đấng tạo dựng con người và muôn vật hữu hình và vô hình,
tin Chúa Kitô là Đấng cứu chuộc nhân loại, tin Chúa Thánh Thần
là Đấng ban sự sống và là Thần Chân Lý, hiệp nhất cùng một bản
thể với Chúa Cha, và Chúa Con trong Mầu Nhiệm Ba Ngôi một Thiên
Chúa duy nhất. Tin Mẹ Maria là Mẹ thật của Chúa Kitô và cũng là
Mẹ Thiên Chúa ( Theotokos) trọn đời đồng trinh và được về trời
cả hồn xác. Tin Hội Thánh Công Giáo là Thân Thể mầu nhiệm của
Chúa Kitô trong sứ mệnh bảo vệ kho tàng đức tin và rao giảng Tin
Mừng Cứu Độ của Chúa Kitô cho đến ngày mãn thời gian và tin xác
loài người ngày sau sẽ sống lại.
Đó là nội dung căn bản của Đức Tin Công Giáo mà
chúng ta hãnh diện tuyên xưng, sau khi được lãnh nhận qua Phép
Rửa để trở thành tạo vật mới và được phép gọi Chúa là Cha. (
Abba).
Như thế “đức
tin là bảo đảm cho ta những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho
những điều ta không thấy. Nhờ đức tin ấy, các tiền nhân đã được
Thiên Chúa chứng giám.” ( Dt 11 : 1-2)
Trước hết, Đức tin là điều kiện tiên quyết cho ta
được cứu độ nhờ công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô, Đấng đã đến
trần gian làm Con Người để
“ phục vụ và
hiếm nạng sống mình làm giá chuộc cho muôn người.” ( Mt 20; 28).
Do đó, phải có đức tin để tin Chúa Kitô là Đấng
Cứu Chuộc để nhờ Người mà ta được cứu rỗi nếu ta thực sự cộng
tác với ơn cứu rỗi đó bằng quyết tâm sống theo đường lối của
Chúa trong suốt cuộc đời trên trần thế này.
Nhưng
phải sống đức tin cách nào cho xứng đáng là người
thực sự có đức tin
?
Có đức tin là điều tối cần thiết nhưng quan trọng
hơn là phải sống đức tin ấy bằng hành động cụ thể từ trong tâm
hồn ra đến mọi hành động bên ngoài giữa bao người không có đức
tin để minh chứng mình khác với họ ở điểm then chốt là có động
lực nội tâm hướng dẫn mọi mọi tư tưởng, tình cảm và hành động
của mình về Thiên Chúa là đich điểm của mọi sự thiện hảo , sự
lành và trong sạch giữa thế gian ô uế vì tội lỗi, vì gian ác và
đầy bất công, vô nhân đạo. Động lực đó là niềm tin có Chúa là
Đấng trọn tốt trọn lành, uy quyền vô song, rất công bình và giầu
tình thương.
Như vậy, người có đức tin phải sống đức tin ấy
sao cho phản ảnh trung thực những đặc tính của Đấng mình tin yêu
tôn thờ để nhờ sống niềm tin như vậy, ta sẽ giới thiệu Chúa cho
người khác chưa biết Chúa để họ được thấy Chúa hiện diện trong
ta và đem lòng tin yêu Người như Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ
xưa:
“ Chính anh
em là ánh sáng cho trần gian….Cũng vậy , ánh sáng của anh em
phải chiếu giãi trước mặt người thiên hạ, để họ thấy những việc
tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em Đấng ngự trên
trời.” ( Mt 5: 14-16)
Nói rõ hơn, trong khi những người không có niềm
tin Chúa, nên làm những việc sai trái như thề gian, nói dối, bất
công bóc lột người khác, trộm cắp, nhất là giết người, gian dâm,
cờ bạc, thay vợ đổi chồng, tiếp tay với kẻ cầm quyền vô đạo để
đàn áp, triệt hạ những ai chống đối đòi quyền sống và công bình
xã hội.. thì người có đức tin phải nêu cao những giá trị của
niềm tin là ngay thẳng, lương thiện, công bình, bác ái, yêu
thương, tha thứ và trong sạch để nên nhân chứng đích thực cho
Chúa trước mặt những người không có niềm tin và đang làm những
sự xấu, sự dữ nói trên, để mong thức tỉnh họ từ bỏ con đường dẫn
đến hư mất đời đời.
Như thế, sống đức tin cách hoàn hảo và cụ thể
không những góp phần phúc âm hóa người khác mà còn nói lên chính
mình là người thực sự tin có Thiên Chúa là Cha toàn năng, Đấng
tạo dựng muôn loài, mọi vật và đặc biệt tạo dựng con người “
giống hình ảnh Thiên Chúa”
( St 1 : 27) Đấng “ muốn
cho mọi người được cứu độ và
nhận biết chân lý.”
( 1 Tm 2 : 4), vì “Thiên
Chúa là tình yêu..” ( 2 Ga 4: 8).
Nói khác đị, đức tin phải được chứng minh bằng
hành động cụ thể để cho thấy sự trung thực giữa lý thuyết và
thực hành, giữa lời nói suông là có đức tin khác biệt với hành
động được đức tin thúc đẩy , soi dẫn và qui chiếu về Thiên Chúa
là nguồn mạch chân lý, và thiện hảo như Thánh Gia-cô-bê Tông Đồ
đã dạy như sau:
“ Hỡi
người đầu óc rỗng tuếch : bạn có muốn biết rằng đức tin không có
hành động là vô dụng không ? ông Ap-bra-ham tổ phụ chúng ta đã
chẳng được nên công chính nhờ hành động , khi ông hiến dâng con
mình là I-Xa-ac trên bàn thờ đó sao? Bạn thấy đó, đức tin hợp
tác với hành động của ông, và nhờ hành động mà đức tin nên hoàn
hảo.” ( Gc 2 : 20-22)
Nghĩa là, vì có đức tin mạnh mẽ và lòng mến Chúa
thâm sâu, nên ông Abraham đã dám hy sinh con một của ông là
Issac theo lời đòi hỏi của Thiên Chúa nhằm thử thách đức tin và
lòng mến của ông. Nếu Chúa không sai Sứ thần đỡ lấy tay ông đang
cầm dao vung lên, thì chắc chắn con ông đã bị giết. Thiên Chúa
đã can thiệp để cứu mạng sống của Issac, vì đã nhìn thấy rõ đức
tin phi thường của ông Apbraham, nên Chúa đã phán bảo ông như
sau qua Sứ thần của Người:
“ Sứ Thần của ĐỨC CHÚA từ trời gọi ông Abraham
một lần nữa và nói:” Đây là sấm ngôn của Đức Chúa,
Ta lấy danh Ta mà thề : bởi vì ngươi đã làm điều
đó, đã không tiếc con của ngươi, con một của ngươi, nên Ta sẽ
thi ân giáng phúc cho ngươi, sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông,
nên nhiều như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển…chỉnh
bởi
vì
ngươi đã vâng lời Ta.”
( St 22: 15- 18)
Sự kiện trên cho thấy là ông Abraham đã thể hiện
cách cụ thể lòng tin yêu Thiên Chúa qua việc ông dám hy sinh con
một của mình để tế lễ Chúa như Người đã truyền cho ông. Hành
động cụ thể của ông đã đủ minh chứng đức tin mạnh mẽ và hoàn hảo
của ông khiến ông trở nên người cha của những ai tin và yêu mến
Thiên Chúa cách cụ thể và đầy thuyết phục như Thánh Gia-cô-bê
nói trên đây.
Cũng phải kể thêm gương đức tin sáng chói nữa là
của các Thánh Tử Đạo- đặc biệt là các anh hùng Tử Đạo Viêt-Nam,
cha ông chúng ta đã can đảm và anh dũng chịu mọi cực hình để
tuyên xưng niềm tin sắt son của mình trước bạo quyền bách
hại.Chính nhờ máu các ngài đổ ra mà hạt giống đức tin đã nẩy
sinh ra nhiều tin hữu cho Giáo Hội Việt-Nam.
Ngay nay, chúng ta không có cơ hội đổ máu mình ra
để tuyên xưng đức tin như các anh hùng Tử Đạo xưa kia.Nhưng
chúng ta vẫn có nhiều cơ hội khác để minh chứng đức tin của mình
trước bao người không có đức tin và đang làm những sự dữ như
giết người, giết thai nhi, bóp nghẹt lương tâm để lường gạt
người khác, hoặc làm những việc có chủ đích mời gọi người khác
phạm tội như mở sòng bạc , nhà mãi dâm, buôn bán ma túy, hoặc
phụ nữ cho kỹ nghệ dâm ô dưới chiêu bài “hôn nhân nước ngoài”
khiến biết bao phụ nữ, vì nghèo đói, phải cam chịu đem bán mình
làm thú vui cho kẻ vô luân vô đạo ở trong và ngoài nước.
Trước thực trạng ghê tởm này, người tín hữn Chúa
Kitô- đều được mong đợi sống niềm tin của mình cách cụ thể là
không những phải xa tránh những lối sống vô luân vô đạo nói trên
mà còn phải can đảm lên án những tụt hậu thê thảm về luân lý,
đạo dức của xã hội mình đang sống, theo gương Chúa Kitô, Người
đã lên án tội lỗi của thế hệ đương thời như sau :
“ Thế hệ gian
ác và ngoại tình này đòi dấu lạ.Nhưng chúng sẽ không được dấu lạ
nào, ngoài dấu lạ ông Giôna..”
( Mt 16: 4)
Dấu lạ ông Giôna là dấu dân thành Ni-ni-vê, nghe
lời cảnh cáo của ngôn sứ Giôna để ăn chay, xám hối, xin Chúa tha
thứ không đánh phạt và Chúa đã nhậm lời xin tha không trừng phạt
họ như Người đã ngăm đe. ( Gn 3: 1-10)
Như vậy , gương đức tin của ông Abraham và của
các Thánh Tử Đạo phải là những khuôn vàng thước ngọc cho chúng
ta ngày nay noi theo để minh chứng cụ thể trước thế gian chúng
ta thật sự tin yêu Chúa, Đấng chúng ta không được xem thấy,
nhưng vững lòng tin có Người là Cha toàn năng. Người yêu thương
mọi con cái loài người đến mức đã hy sinh chính Con Một của mình
là Chúa Kitô, Đấng cũng vui lòng hiến mạng sống mình cho chúng
ta được tha thứ tội lỗi và có hy vọng được cứu độ để sống hạnh
phúc muôn đời với Chúa tình thương trên Nước trời mai sau.
Phải nói là có hy vọng thôi chứ không phải là bảo
đảm chắc chắn ngay từ bây giờ vì tất cả còn tùy thuộc một phần
nơi thiện chí của mỗi người chúng ta trong cuộc sống đức tin
trên trần thế này.
Thức vậy, chúng ta phải sống đức tin có Chúa ở
mọi chiều kích như đức tin đòi hỏi. Đó là -trước hết- phải thực
tâm yêu mến Chúa trên hết mọi sự,và cương quyết từ bỏ ma quỷ là
kẻ gây ra mọi tội lỗi để mong đẩy xa con người ra khỏi tình
thương của Chúa. Đó là hành động cụ thể để chứng minh hùng hồn
đức tin hoàn hảo vì “ đức
tin không có hành động thì quả là đức tin chết.” như
Thánh Gia-cô-bê Tông Đổ đã dạy.(cf. Gc 2: 17)
Kinh nghiệm phổ biến trong cuộc sống ở khắp mọi
nơi cũng cho ta thấy là người nào chỉ nói , nói nhiều , nói hay,
mà không thực hành điều mình nói thì chắc chắn sẽ không thuyết
phục được ai tin những gì mình nói. Thí dụ hô hào, kêu gọi người
khác làm việc bác ái, giúp đỡ thiết thực cho người đang nghèo
đói, nhưng bản thân mình lại không hề bỏ ra một đồng nào để giúp
các nạn nhân trong khi mình có dư khả năng làm việc đó , thí làm
sao lời hêu gọi của mình được ai hưởng ứng nữa ?
Lại nữa, khuyên người khác sống hòa thuận vợ
chồng mà mình lại ly dị vợ hay chồng để lấy người khác trẻ, đẹp
hơn thì lời khuyên của mình còn thuyết phục được ai nữa ?
Cũng vậy, mang danh người tín hữu Chúa Kitô mà
tham gia vào những việc làm ăn bất lương, bất công, bóc lột
người khác, dửng dưng trước sự khò nghèo của người khác, có dư
thì giờ đi hu hí, nhẩy nhót mất nết, vui chơi thâu đêm suốt
sáng, nhưng lại không có giờ đi dự lễ ngày Chúa Nhật cách trọn
vẹn, cũng như không hề cầu nguyện và năng xưng tội , rước Mình
Thánh Chúa, thì đức tin kia còn sống hay đã chết ?
Lại nữa, miệng nói tôi tin Chúa Kitô, mà chân lại
bước vào những con đường dẫn đến các sòng bạc lớn nhỏ, đến những
nơi mua bán dâm ô, hoặc những nơi giải tri tội lỗi để thỏa mãn
thú vui xác thịt, và nhất là thú ấu-dâm ( child prostitution)
rất khốn nạn thì mang danh Công giáo và tuyên xưng đức tin ngoài
môi miệng có ích lợi gì cho ai ?
Khi lời nói không đi đôi với việc làm thì sẽ trở
thành người đạo đức giả, giống bọn biệt phái và luật sĩ mà Chúa
Giêsu đã nặng lời chỉ trích xưa kia.
Những ai sống kiểu này cần nghe lại lời Chúa
Giêsu đã nói với các môn đệ xưa như sau:
“ Không phải
bất cứ ai thưa với Thầy, Lậy Chúa, Lậy Chúa là được vào Nước
Trời cả đâu,
Nhưng chỉ ai ai thi hành ý
muốn của Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.”
( Mt 7: 21)
Thi hành ý muốn của Cha trên Trời có nghĩa là
phải sống đức tin thực sự từ trong tâm hồn ra đến hành động bên
ngoài sao cho phản ảnh trung thực những giá trị của Tin Mừng Cứu
Độ mà Chúa Kitô đã rao giảng và không hổ thẹn phải xưng danh
Chúa và sống những đòi hỏi của Phúc Âm sự sống
trước mặt người đời, trước mặt những kẻ đang sống theo “văn
hóa của sự chết” để làm những điều gian ác vô luân vô đạo ở
khắp nơi.
Người tín hữu nào không có can đảm sống đức tin
như vậy thì hãy nghe lời Chúa cảnh giác sau đây :
“ giữa thế hệ
ngoại tình và tội lỗi này, ai hổ thẹn vì Ta và những lời Ta dạy.
thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn vì kẻ ấy, khi Người
ngự đến cùng với các thánh
Thiên thần, trong vinh quang của Cha Người.
“ ( Mc 8: 38).
Tóm lại, Năm Đức Tin mời gọi mọi tín hữu không
những dâng lời cảm tạ Chúa về quà tặng đức tin quý giá đã nhận
được , mà cần thiết phải nhìn lại cách sống đức tin của mình
trong bao năm qua, để từ đó – với ơn Chúa Thánh Linh soi sáng -
biết chuyển hướng đời sống đức tin của mình cho thêm cụ thể và
sống động để sống xứng đáng là nhân chứng cho Chúa Kitô trước
mặt người khác trong hoàn tục hóa, phản Kitô-giáo của thế giới
ngày nay.
Lm. Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn |
VỀ MỤC LỤC |
|
Ngư phủ khôn
ngoan |
Chuyển
ngữ: Lm. Minh Anh
Nguyên tác: Taking Flight - Bay Lên Đi
Tác giả:
Anthony de Mello, S.J.
Chuyển ngữ: Lm. Minh Anh (Gp. Huế)
Chỉ dẫn:
Tốt nhất,
các câu chuyện sẽ được đọc theo thứ tự như đã sắp xếp. Mỗi
lần đọc không quá một hoặc hai mẩu chuyện nếu bạn ước ao có
được một cái gì đó hơn là chỉ giải trí.
Lưu ý:
Các chuyện
kể trong tập sách này đến từ nhiều đất nước, nhiều nền văn
hoá và tôn giáo khác nhau; chúng thuộc về những di sản
thiêng liêng, những câu chuyện hài hước được ưa chuộng của
dòng đời nhân loại.
Những gì tác
giả làm là xâu kết chúng lại với nhau theo một ý hướng đặc
thù. Công việc của tác giả là công việc của người thợ dệt và
thợ nhuộm, tác giả chẳng có công trạng gì về những tấm vải
và những sợi chỉ.
LTS.Chỉ
dẫn và lưu ý trên đây là của tác giả. Tuy nhiên, vì Đặc San
GSVN chỉ phát hành 2 tuần một lần nên mỗi số báo BBT xin
giới thiệu trung bình từ 5 đến 7 mẫu chuyện. Bạn đọc có thể
lưu lại để nghiền ngẫm suy tư.
Chủ đề : TÔN GIÁO
(tiếp theo)
91. Ngư phủ
khôn ngoan
Đêm nọ, một ngư
phủ lẻn vào vùng đất của một phú hào và thả lưới trong một
hồ đầy cá. Ông chủ nghe biết và cho người đứng gác.
Khi ngư phủ thấy
đám đông cầm đuốc tìm kiếm khắp nơi, ông nhanh chóng bôi tro
lên người và núp dưới lùm cây theo phong tục của những người
thánh thiện ở Ấn Độ.
Ông chủ và những
người lính canh không thể tìm ra người thả lưới trộm, dù họ
tìm thật lâu. Tất cả những gì họ tìm thấy là một người thánh
thiện, phủ đầy tro, ngồi dưới cây, chìm đắm trong suy niệm.
Ngày hôm sau,
bàn dân thiên hạ đồn rằng một nhà khôn ngoan vĩ đại đã rủ
lòng thương đến cư ngụ trên lãnh địa của phú hào. Người ta,
tay đầy hoa trái, thậm chí cả tiền, tụ tập để tỏ lòng tôn
kính ông ta vì họ tin rằng những món quà, khi được dâng cho
một người thánh thiện sẽ mang lại phúc lành của Thiên Chúa
cho người dâng.
Ngư-phủ-hóa-bậc-khôn-ngoan ngạc nhiên trước món hời. “Kiếm
sống dựa vào niềm tin của những người này thì dễ dàng hơn
bởi lao công của đôi tay”, ông tự nhủ. Vì thế ông tiếp tục
chiêm niệm và không bao giờ trở lại công việc.
ڰ
92. Vua và
linh mục
Một ông vua mơ
thấy một vị vua ở thiên đàng và một linh mục ở hỏa ngục. Ông
phân vân làm sao điều đó có thể xảy ra rồi ông nghe một
giọng nói: “Vua ở thiên đàng vì ông tôn trọng các linh mục.
Các linh mục ở hỏa ngục vì họ thoả hiệp với các vua”.
ڰ
93. Muốn trở
thành gái điếm
Một nữ tu hỏi
bọn trẻ trong lớp muốn làm gì khi lớn lên, thằng nhóc Tommy
trả lời, mình muốn trở thành một phi công; Elsie muốn làm
bác sĩ; Bobby, trước niềm vui khôn tả của nữ tu, muốn trở
thành một linh mục. Rồi Mary, đứng dậy... và công bố mình
muốn trở thành một gái điếm.
“Nói lại xem
nào, Mary?”.
“Khi lớn lên”,
Mary nói với vẻ của một ai đó biết chính xác điều mình muốn,
“con sẽ trở thành một gái điếm”.
Nữ tu sửng sờ trước những lời
đó. Ngay lập tức Mary bị tách ra khỏi bọn trẻ và được dẫn
tới linh mục quản xứ.
Người ta trình bày cho cha những
dữ kiện đại cương nhưng ngài muốn kiểm tra chúng với tội
phạm: “Mary, con nói cho cha biết điều gì xảy ra theo lời
của con”.
“Ồ”, Mary nói, hơi rụt rè trước
sự việc quan trọng, “Soeur hỏi con muốn làm gì khi lớn lên
và con nói con muốn trở thành một gái điếm”.
“Con nói là gái
điếm à?” Cha hỏi, kiểm tra lần hai.
“Dạ”.
“Trời ơi! Nhẹ cả
người! Tất cả chúng ta cứ nghĩ con nói, mình sẽ trở thành
một tín hữu Tin Lành!”.
ڰ
94. Thằng con
trai
Giáo sĩ Abraham
đã sống một cuộc sống gương mẫu, khi giờ của ông đến, ông đã
rời thế gian trước sự chúc lành của cộng đoàn, những người
đã đến vốn xem ông như một vị thánh và là nguyên nhân của
mọi phúc lành họ nhận được từ Thiên Chúa.
Mặt khác, các
thiên thần cũng tiến đến chào đón, ca tụng tán dương ông.
Suốt buổi lễ, Giáo sĩ Abraham có vẻ trầm tư nhưng khá bồn
chồn. Ông chống má đỡ cằm và từ chối được ủi an. Cuối cùng
ông được dẫn tới trước ngai Thẩm Phán nơi ông cảm thấy mình
được bao bọc bởi Đấng Nhân Từ vô biên và nghe một giọng nói
vô cùng trìu mến vọng về phía ông, “Hỡi con trai ta, điều gì
làm con lo lắng?”.
“Lạy Đấng Rất
Thánh”, ông thưa, “Con không xứng đáng lãnh nhận mọi danh dự
được ban cho con ở đây. Dù con được xem là gương mẫu cho mọi
người, nhưng chắc có vấn đề gì đó trong đời con, vì đứa con
duy nhất của con, bất chấp gương lành và giáo huấn của con,
vẫn từ bỏ đức tin của chúng ta và trở thành một Kitô hữu”.
“Đừng để điều đó
làm con phiền hà, hỡi con. Cha biết rõ điều con cảm nhận, vì
Cha có một thằng con làm điều tương tự!”.
ڰ
95. Hoà bình
sẽ đến
Ở Belfast,
Ireland, một linh mục Công giáo, một mục sư Tin Lành, một
giáo sĩ Do Thái tham gia một cuộc thảo luận thần học sôi
nổi. Đột nhiên một thiên thần hiện ra giữa họ và bảo, “Thiên
Chúa gửi đến quý vị phúc lành của Người. Hãy ước ao hoà bình
và ước mơ đó sẽ được Đấng Toàn Năng thực hiện”.
Mục sư nói, “Hãy
để mọi người Công giáo biến khỏi vùng đất đáng yêu của chúng
ta. Rồi hoà bình sẽ ngự trị”.
Linh mục thưa,
“Đừng để một tên Thệ phản nào sót lại trên mảnh đất Ái Nhĩ
Lan thánh thiêng của chúng ta. Điều đó sẽ mang hòa bình đến
vùng đất này”.
“Còn ông thì
sao, thưa Giáo sĩ?”, Thiên thần hỏi. “Bản thân ông không có
ước muốn nào sao?”.
“Không”, giáo sĩ
đáp, “Tôi chỉ cần nghe ước muốn của hai vị này và cảm thấy
rất hài lòng rồi”.
Thằng nhóc,
“Bạn có phải linh mục không?”.
Bé gái,
“Không. Chúng tôi thuộc về một điều ghê tởm khác”.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
LINH MỤC GIÁO PHẬN TÁI ĐỊNH HƯỚNG ĐỜI SỐNG VÀ SỨ VỤ CỦA MÌNH |
Lm. Micae-Phaolo Trần Minh Huy, pss.
BẢN THẢO
ỨNG SINH LINH MỤC HỌC & SỐNG LINH ĐẠO LINH MỤC GIÁO
PHẬN
GIÁO TRÌNH TU ĐỨC LỚP THẦN II & III
ĐẠI CHỦNG VIỆN THÁNH GIUSE HÀ NỘI
2011-2012
CHƯƠNG HAI
ỨNG SINH LINH MỤC GIÁO PHẬN
HỌC VƯỢT LÊN KHỦNG HOẢNG VÀ TÁI ĐỊNH HƯỚNG ĐỜI
SỐNG VÀ SỨ VỤ ƠN GỌI LINH MỤC (tiep theo)
D. LINH MỤC GIÁO PHẬN TÁI ĐỊNH HƯỚNG ĐỜI SỐNG VÀ
SỨ VỤ CỦA MÌNH
“Anh
em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải
hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi
mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người
đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công
chính và thánh thiện. Bởi thế, một khi đã cởi bỏ sự gian dối,
mỗi người trong anh em hãy nói sự thật với người thân cận, vì
chúng ta là phần thân thể của nhau. Anh em đừng bao giờ thốt ra
những lời độc địa, nhưng nếu cần, hãy nói những lời tốt đẹp, để
xây dựng và làm ích cho người nghe. Anh em chớ làm phiền lòng
Thánh Thần của Thiên Chúa, vì chính Người là dấu ấn ghi trên anh
em, để chờ ngày cứu chuộc. Đừng bao giờ chua cay gắt gỏng, nóng
nảy giận hờn, hay la lối thoá mạ, và hãy loại trừ mọi hành vi
gian ác. Trái lại, phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương
xót và biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh
em trong Chúa Kitô”
D.1
Định hướng tổng quát
Khủng
hoảng không nhất thiết là một dấu hiệu tiêu cực, nhưng đúng hơn,
nó phải được coi là một thách đố để tái định hướng đời sống và
sứ vụ linh mục. Nó mời gọi một đời sống thiêng liêng cá nhân sâu
xa hơn, can đảm đối mặt và chấp nhận các thực tại của bản thân,
dù có khi đau đớn và xấu hổ (như bị sa vào bẫy mỹ nhân kế chẳng
hạn). Cần phải làm mới lại các liên hệ lành mạnh để được nâng đỡ
và cảm thông hơn.
Chúng
ta phải có cái nhìn hy vọng vượt sang ở bên kia những cơn khủng
hoảng, nghĩa là ở tình trạng sẽ được biến đổi sau khi tái định
hướng được đời sống và sứ vụ ơn gọi dựa vào Chúa Kitô là trung
tâm. Thánh Phaolô diễn tả điều đó như sau: “gieo xuống thì hư
nát, mà chỗi dậy thì bất diệt; gieo xuống thì hèn hạ, mà chỗi
dậy thì vinh quang; gieo xuống thì yếu đuối, mà chỗi dậy thì
mạnh mẽ, gieo xuống là thân thể có sinh khí, mà chỗi dậy là thân
thể có thần khí. Như có lời đã chép: con người đầu tiên là Ađam
được dựng nên thành một sinh vật, còn Ađam cuối cùng là thần khí
ban sự sống. Loài xuất hiện trước không phải là loài có thần
khí, nhưng là loài có sinh khí; loài có thần khí chỉ xuất hiện
sau đó. Người thứ nhất bởi đất mà ra thì thuộc về đất; còn người
thứ hai thì từ trời mà đến. Những kẻ thuộc về đất thì giống như
kẻ bởi đất mà ra; còn những kẻ thuộc về trời thì giống như Đấng
từ trời mà đến. Vì thế, cũng như chúng ta đã mang hình ảnh người
bởi đất mà ra, thì chúng ta cũng sẽ được mang hình ảnh Đấng từ
trời mà đến.”
Một
trong những yếu tố rất quan trọng trong việc tái định hướng đời
sống và sứ vụ là Bí tích Hòa giải. Bí tích Hòa giải không chỉ là
một quà tặng của linh mục cho giáo dân, nhưng cũng là một khí cụ
quan trọng cho sự thánh hoá và tăng trưởng của chính linh mục,
đặc biệt nếu việc xưng tội không chỉ được coi là một nghi thức,
mà đúng hơn là một cơ hội không chỉ để xưng tội, mà còn để trao
đổi với một cha giải tội và linh hướng có kinh nghiệm, nhờ đó mà
đạt được sự chữa lành và vui sống. Việc linh hướng đều đặn là
một bảo đảm khác cho sự tăng trưởng và phát triển đời sống
thiêng liêng trưởng thành của linh mục.
Để
vượt lên khủng hoảng, chúng ta cần tạo lập nột lối sống và làm
việc cộng đồng, với sự ràng buộc của tình bạn đích thực, cũng
như những thời gian giải trí, hồi tâm và thinh lặng giúp không
chỉ chế ngự khủng hoảng mà còn biến nó thành một cơ hội để đẩy
xa hơn sự tăng trưởng và tiến bộ trong sự trưởng thành cá nhân,
cũng như bác ái mục tử sống động.
Tuy
khủng hoảng rất lắm khi là một dấu hiệu tăng trưởng, nhưng cũng
tỏ lộ một số vấn đề và yếu đuối nào đó đang được mở ra dưới dáng
vẻ tiêu cực bất lợi. Trong các tình huống như thế, hãy xử sự như
trường hợp hỏa hoạn: hãy bình tĩnh và hành động cách có trách
nhiệm… Một tình huống như thế cần trước hết việc cầu nguyện, sự
thinh lặng và suy nghĩ để trở nên ý thức rõ ràng hơn về các vấn
đề thực sự là vấn đề.
Chúng
ta cũng phải nhìn nhận rằng các khủng hoảng cũng là một dữ kiện
sinh tồn. Có khủng hoảng tất nhiên đòi hỏi phải có những tiêu
chuẩn giải quyết: chúng ta phải mở ra với thế giới đang đổi
thay, nhưng phải tránh cơn cám dỗ khuôn đúc theo thế giới này,
đồng thời phải chuyển tải cái nhân Phúc Âm đến cho một thế giới
đang thực sự cần nó, để biến đổi thế giới. Cái nhân Phúc Âm này
không phải là một giáo thuyết mà là một con người: Đức Giêsu
Kitô. Để được vậy, chúng ta cần thời gian và một nơi chốn (ít là
nội tâm) có thể ở một mình, suy tư và cầu nguyện. Các cuộc tĩnh
tâm và hồi tâm là các cơ hội đó. Thời gian khủng hoảng mời gọi
chúng ta xem xét các cội rễ căn nguyên và các tình huống của các
việc chúng ta đã trải nghiệm hầu được ý thức hơn về các hậu quả
của chúng. Nên nhớ rằng mỗi vị thánh đều có một quá khứ và
mỗi tội nhân đều có một tương lai. Phải tin tưởng vào sự
biến đổi tốt đẹp trong tương lai, nhờ ơn Chúa, với cố gắng bản
thân và sự giúp đỡ của kẻ khác.
Việc tái định hướng được khởi đầu bằng cách trực
tiếp đối diện và chấp nhận chính thực tại của chúng ta, đồng
thời nhẫn nại hướng mình vào trong ý muốn của Chúa: Hỏi Chúa và
lắng nghe Chúa nói. Một tiến trình như thế thường không hoàn
toàn được thực hiện một mình. Bên cạnh Chúa Cứu Thế mà chúng ta
gặp gỡ trong cầu nguyện, chúng ta cần một ai đó để nói với, một
ai đó hành động như một khuếch âm cho các kinh nghiệm và thấu
hiểu của chúng ta, một ai đó có khả năng cho chúng ta những định
hướng mới phát ra từ sự biện phân trong thinh lặng và nguyện cầu
của chúng ta và nâng đỡ chúng ta. Một vị đồng hành thiêng liêng
là một quà tặng tốt nhất mà chúng ta có thể có được. Nhưng một
vị hướng dẫn thiêng liêng không chỉ đồng hành với chúng ta trong
cơn khủng hoảng và ở một tình huống riêng lẻ. Nên có sự đồng
hành với nhau trong suốt một thời gian dài, cùng bước đi và cùng
lớn lên trong một mối quan tâm chung là trở nên gần gũi hơn với
Chúa Kitô và với con người thật của chúng ta.
Bí
tích Hòa Giải là một bước cụ thể tiến vào một cuộc sống mới sâu
sắc hơn và vững chắc hơn nhờ cơn khủng hoảng - hy vọng thế -
Nếu vị hướng dẫn thiêng liêng là một linh mục, thì Bí tích được
trao ban trong tất cả tiến trình biện phân và tái định hướng.
Thường chỉ xưng tội thôi không đủ, nhưng chúng ta cũng cần được
trao đổi giải quyết và như thế thấy được các gốc rễ sâu xa hơn
và các viễn ảnh tương lai.
Quả thế, bí tích Hòa giải là yếu tố căn bản trong việc tái định
hướng đời sống và thừa tác vụ linh mục, nhất là nhờ cuộc đối
thoại trong đó việc xưng tội cùng lúc trở thành một cơ hội để
tiến bộ thiêng liêng. Lối xưng tội chia sẻ và đối thoại như thế
cũng mang lại một sự cởi mở lớn hơn trên chiều kích nhân bản.
Mới
đây, ĐTC Biển Đức XVI nhấn mạnh tới sự cần thiết phải mở ra một
cuộc “đối thoại cứu độ” cho những ai tìm kiếm ơn tha thứ.
Nhắc tới cha sở thánh họ Ars, Gioan Maria Vianey, người đã thực
thi sứ vụ hòa giải một cách anh hùng và hiệu quả phong phú, Ngài
nói rằng các linh mục có thể học “không chỉ một niềm tín thác
vô tận nơi bí tích sám hối, mà còn một phương pháp đối thoại cứu
độ phải được thực hiện trong khi ngồi tòa.”
Chính vị linh mục cũng được khích lệ rất nhiều
trong một kinh nghiệm như thế, nhờ đó ngài có thêm hiểu biết,
kinh nghiệm và khả năng để giúp đỡ người khác trong cùng một
đường lối hoặc tương tự. Bí tích hòa giải là một trong những quà
tặng đặc biệt của linh mục cho kẻ khác trong thừa tác vụ bí tích
của ngài, nhưng đồng thời nó cũng là khí cụ cho linh mục tăng
trưởng trong đời sống thiêng liêng và bác ái mục tử.
Tay
Tạo Hóa đặt bầu lửa đỏ
Giữa thinh không
soi tỏ gian trần.
Con người hối
hận thở than,
Dám đâu tiếp tục
những lầm lỗi xưa.
Vừa lạc nẻo lại
vừa mù quáng,
Chẳng biết đường
biết hướng về đâu,
Chúa ơi, chính
lộ dẫn vào
Kẻo con sa xuống
vực sâu có ngày!
Cho con được
tràn đầy thanh thản,
Đổi mới con xán
lạn chói lòa,
Chẳng có chi xảo
trá điêu ngoa,
Sạch từ vạn ý
sạch ra muôn lời.
Ngày sáu khắc êm
trôi lặng lẽ,
Chúa ngăn ngừa
chẳng để phút giây
Tay chân miệng
lưỡi hình hài
Buông theo tội
lỗi mà đầy bợn nhơ.
Chúa theo dõi
đường tơ kẽ tóc
Nhìn xem ta:
thấu suốt ngọn nguồn
Công to việc nhỏ
ngàn muôn
Từ binh minh tới
hoàng hôn rõ ràng.
Dâng Thánh Phụ
cao sang thiên quốc
Và kính dâng Con
Một Chúa Cha
Hợp cùng Thiên
Chúa Ngôi Ba
Lời kinh chúc
tụng tiếng ca ngợi mừng.
D. 2. Giá trị
của việc xưng tội cá nhân
“Để là một
thừa tác viên tốt và hữu hiệu của Bí tích Hòa giải, linh mục cần
khơi nguồn từ nguồn ân sủng và thánh thiện hiện diện trong Bí
tích này. Căn cứ vào kinh nghiệm bản thân, linh mục có thể quyết
chắc rằng càng năng tiếp cận với tư thái tốt và chu đáo lãnh
nhận bí tích sám hối, càng chu toàn tốt hơn thừa tác vụ giải tội
của mình và chắc chắn rằng các hối nhân hưởng được lợi ích từ bí
tích này. Trái lại, nếu linh mục không là một hối nhân tốt, thừa
tác vụ giải tội sẽ mất đi nhiều tính hữu hiệu của nó, (vì linh
mục phải là người trước tiên phải trở lại với Chúa và với chính
mình). Đó là luận lý toàn diện của bí tích cao cả này. Nó mời
gọi tất cả chúng ta, là linh mục của Chúa Kitô, phải luôn làm
mới lại chú tâm của chúng ta vào việc xưng tội cá nhân của mình”
Cuộc đối thoại
giữa hối nhân và cha giải tội làm cho việc cử hành bí tích đáp
ứng sít sao hơn với tình huống cụ thể của hối nhân, với các lý
do khác nhau sau đây của hối nhân:
· Nhu cầu
hòa giải cá nhân và tái nhập vào tình bằng hữu với Chúa nhờ nhận
lại được những ơn đã mất do tội;
· Nhu cầu
tìm kiếm sự tiến bộ thiêng liêng;
· Đôi khi
cần một sự biện phân thích đáng hơn về ơn gọi;
· Trong nhiều trường hợp, không những cần
mà còn khao khát thoát khỏi tình trạng hờ hững thiêng liêng và
khủng hoảng đời tu.
· Nhờ
những đặc tính cá nhân đó, hình thức cử hành này liên kết với
việc linh hướng.
Trong cuộc đối thoại này phải tránh đề cập trực tiếp đến đệ tam
nhân. Phải rất cẩn thận và tế nhị trong các câu hỏi để làm sáng
tỏ hầu có biện pháp và lời khuyên thích ứng, giúp hối nhân thay
đổi nên tốt.
· Tương
quan linh hướng là một tương quan khép kín tay ba (Chúa Thánh
Thần, người thụ hướng và vị linh hướng). Điều mà vị linh hướng
khám phá về người thụ hướng thuộc về toà trong sẽ không được
tiết lộ ra ở toà ngoài. Dữ kiện này có cùng một qui chế như ấn
toà giải tội. Điều này không chỉ để bảo vệ người thụ hướng, mà
còn cống hiến cho họ sự tín nhiệm và tin tưởng rằng điều gì họ
đã bộc lộ ở tòa trong vẫn được giữ bí mật.
ĐHY Hummes, Tổng trưởng Bộ Giáo sĩ viết: “Cũng
thật buồn là có một số linh mục đôi khi đã bị dính líu vào những
vấn đề nghiêm trọng và những hoàn cảnh phạm tội. Cần phải tiếp
tục điều tra những vấn đề này, xét xử họ và phạt họ như cần phải.”
Vậy chúng ta sử dụng các phương thế tự nhiên và siêu nhiên như
thế nào để đứng vững trong các mối quan hệ khác giới, kể cả với
các nữ tu?
Chúng ta cần lưu ý đặc biệt tránh khỏi ba trường hợp tội với vạ
tiền kết dành riêng cho Tòa Thánh: Lỗi ấn tòa giải tội, khuyến
dâm trong tòa và giải tội cho đồng phạm; và xét xem có thể vận
dụng khỏan GL.1048 và 220 hầu giúp đỡ hối nhân cách nào không.
Trong thư đề
ngày 18/4/2009, ĐHY Hummes cho biết ĐTC đã phê chuẩn luật chưa
được quy định trong Bộ Giáo Luật hiện hành cho phép các Giám mục
xử lý những trường hợp đoạn tuyệt với Giáo hội của các linh mục,
như là rời bỏ thừa tác vụ của mình bởi chủ ý riêng và yêu cầu
Giám mục miễn trừ tình trạng giáo sĩ, hay rời khởi chức vụ mà
không hề thông báo cho Giám mục bản quyền biết rồi sau đó kết
hôn trong đám cưới dân sự, có con và không còn hứng thú nào để
giải quyết tình trạng giáo sĩ của mình. Vì lợi ích của Giáo hội
và lợi ích của đương sự, năng quyền miễn trừ tình trạng giáo sĩ
đòi hỏi phải được thực hiện như một nghĩa cử bác ái, đặc biệt
hơn khi đương sự có con, vì con cái của đương sự có quyền được
có một người cha độc lập khỏi Giáo hội. Nhưng các Giám mục không
có năng quyền này một cách tự động, mỗi trường hợp phải được xem
xét cẩn thận và nghiêm túc rồi mới có thể đưa ra phán quyết.
Trong một số trường hợp, Tòa Thánh phải can thiệp để điều chỉnh
nhân cách của các vị để khắc phục những vụ bê bối do các vị gây
ra, tái thiết lập sự công bằng và giúp đỡ đương sự sám hối tội
lỗi.
_____
chú thích
|
VỀ MỤC LỤC |
|
GIẬN DỮ
|
Trong
một dịp hàn huyên, Mục sư Phan Thanh Bình bên San Diego có chia
xẻ như sau về sự Giận Dữ.
“Giận dữ là bản
tính tự nhiên của con người. Giận là một trong những thất tình:
Mừng, giận, buồn, sợ, yêu, ghét, muốn
Giận thì buồn
phiền, hờn dỗi cho những người yếu thế. Giận thì quát tháo, chửi
rủa, đập phá, đánh nhau đôi khi giết nhau cho những người ở thế
mạnh.
Người xưa đã
chia giận làm hai loại: Giận huyết khí và giận nghĩa lý.
“Huyết khí chi nộ bất năng hữu. Nghĩa lý chi nộ, bất năng vô”.
Cái giận nóng tính không nên có. Cái giận nghĩa lý, chẳng nên
không.
Người huyết khí
chi nộ” hầu hết là người yếu về trí xét đoán: giận đã, xét sau;
yếu về tinh thần, không kiềm chế nổi sự giận dữ nơi mình; yếu về
lòng thương sót, thông cảm.
Người biết giận
“nghĩa lý chi nộ” là người rất mạnh. Mạnh về trí xét đoán, mạnh
về tinh thần dù thể xác có yếu và đầy lòng thương xót.
Với tinh thần
“cầu an” chúng ta thường bò “ Nghĩa lý chi nộ”. Nhưng chúng ta
thường tỏ ra “anh hùng” với “huyết khí chi nộ”.
Người xưa đã
phân định: “Người không biết giận là người dại, người không muốn
giận là người khôn”. Người kiềm chế được cơn giận phải là người
giàu nghị lực.
Kinh Thánh dạy:
“Người nào cũng phải mau nghe, chậm nói, chậm giận” (Gia-cơ
1:19).
Biết bao lần
chúng ta hối tiếc đã để cơn giận bùng lên chỉ vì nghe chưa thấu,
xét chưa tường, mà đã hàm hồ phán đoán.
Nếu phải nổi
giận vì cái “nghĩa lý chi nộ”, cũng phải cẩn thận : “Ví bằng anh
em đương cơn giận thì chớ phạm tội, chớ giận cho tới khi mặt
trời lặn, và đừng tạo cơ hội cho ma quỷ” (Ê-phê-sô 4:26-27).
Ôn lại quá khứ,
bởi giận mà chúng ta làm cho “cái sảy nảy cái ung”, “giận
chuột ném vỡ bình quý, “giận con rận, đốt cái áo”. Tất cả
đều là giận dại. Là không còn sáng suốt hiểu biết chân lý để
nói.
“Giận
lên là nổi cơn điên
Người khôn
hóa dại, người hiền hóa ngu”
Cảm ơn Mục sư
Phan Thanh Bình, người đã viết tới 99 cuốn sách về Chúa Jêsus,
Kinh Thánh, Chứng đạo, Gia đình…
Thưa Mục sư,
Nhà Phật cũng
dạy: “Ôm lấy sự giận dữ chẳng khác chi nắm cục than hồng định
liệng vào người khác, nhưng trước khi ném thì tay đã phỏng
cháy”.
Hoặc theo lời
khuyên của Thomas Jefferson: “Khi giận hãy đếm tới 10 trước khi
nói. Nếu giận tràn hông thì đếm tới 100”.
Mới đếm tới bảy
tám mươi đã ngủ khì thì còn giận gì nữa.
Sao mà khéo
khuyên!!! Nhẹ nhàng nhưng công hiệu.
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức. |
VỀ MỤC LỤC |
Thập
đại bịnh.
(tiếp theo) |
(Ghi lại bài nói chuyện của Đức Tổng Giám mục Phanxicô
Xaviê Nguyễn Văn Thuận với giới trẻ Việt Nam
tại Strasbourg, Pháp, chiều ngày 12.9.1998)
Giới thiệu
Muốn thành công trước hết phải chữa trị tận gốc mười (10)
chứng bịnh làm băng hoại xã hội ngày nay.
Cuộc sống cộng đồng và Giáo hội, không những ở Việt Nam mà ngay
cả ở hải ngoại, hiện đang có những bất ổn. Không hoặc chưa phát
huy được nét tích cực của mình. Do đâu ?
Có rất nhiều căn nguyên. Những căn nguyên này là những chứng
bịnh vừa nguy hiểm vừa truyền nhiễm đang hoành hành trong xã
hội, và có cơ nguy làm cho cuộc sống xã hội băng rã. Tôi qui
chúng lại thành mười bệnh lớn: Thập đại bịnh.
3. Bệnh phô trương chiến thắng
Làm gì cũng chỉ nhắm chuyện phô trương là chính. Bệnh này tiếng
pháp gọi là triomphalisme; người Mỹ cũng có từ ngữ show up.
Thỉnh thoảng đây đó đọc trên những bản tin sinh hoạt cộng đoàn
thật nức lòng: Đại lễ tổ chức vô cùng thành công, cuộc rước kéo
dài cả nửa cây số, nhiều chục cha đồng tế, bữa tiệc kết thúc
thật linh đình, bà con vô cùng hoan hỉ, chưa có bao giờ và có ai
tổ chức được lớn như thế ... Nhưng hết tiệc ra về rồi là hết.
Đại lễ hôm qua hôm nay thành quá khứ xa lơ. Cảm xúc hôm qua hôm
nay gọi mãi chẳng thấy về ! Hãy cai chứng bệnh phô trương, vì
cái chiều sâu thực sự ít ai quan tâm. Ta bảo sáng danh Chúa,
nhưng xét cho kỹ Chúa mấy phần trăm, ta mấy phần trăm?
Có những điều không cần phải phô trương. Nhưng nó sẽ từ từ thấm
vào lòng người, người ta sẽ hiểu. Người ta hiểu, nhưng đồng thời
người ta cũng có tự ái. Càng huyênh hoang, càng làm cho người ta
ghét. Mà thành công đâu phải do mình tài giỏi gì. Nhưng mọi
chuyện là nhờ ơn Chúa. Như vậy mình càng không có lý do gì để
phô trương. Lúc đang huyênh hoang thì chính là lúc nguy hiểm
nhất, tai hại nhất, vì đó là lúc mình mất cảnh giác. Khi nào
thấy sau một cuộc lễ, có nhiều người ăn năn trở lại, Cộng đoàn
hiêp nhất hơn, sốt sắng hơn, đó là dấu thành công thực sự.
Hồng Y PX.
Nguyễn Văn Thuận
Còn tiếp nhiều
kỳ
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|