Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

 

 

 

ĐỰƠC CHỌN GIỮA LOÀI NGƯỜI
VÀ CHO LOÀI NGƯỜI  (x. Dt, 5.1)

 

GIÁO SĨ:

Xuất phát từ giáo dân, hiện diện vì giáo dân và cậy dựa vào giáo dân

 

ĐỂ CÙNG LÀM VINH DANH THIÊN CHÚA

 

www.conggiaovietnam.net                          giaosivietnam@gmail.com

Đặc San Điện Tử    Giáo Sĩ Việt Nam    Số 185, Chúa Nhật 01.12.2012


MỤC LỤC 

TÔNG THƯ – TỰ SẮC Porta Fidei   
WHD

SỐNG TÂM TÌNH CỦA MÙA VỌNG
Lm. Giuse Nguyễn Thành Long

SỐNG PHẨM VỊ LÀM NGƯỜI
HY. Gioan B. Phạm Minh Mẫn

Đức Ki-tô Phục Sinh chú giải Kinh Thánh cách sống động 
Chuyển ngữ: Thérèse Trần Thiết + Fr. Marie Bảo Tịnh O.Cist
NGỒI CẠNH NHAU…
Lm. Vĩnh Sang, DCCT

ÔNG VUA KHÔNG BIẾT CÚI ĐẦU
Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD

ÁO KHIÊM TỐN
Br. Huynhquảng
NĂM ĐỨC TIN : THẾ NÀO LÀ NGƯỜI THỰC SỰ CÓ ĐỨC TIN ?
Lm. Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
Ngư phủ khôn ngoan   
Lm. Minh Anh chuyển ngữ
LINH MỤC GIÁO PHẬN TÁI ĐỊNH HƯỚNG ĐỜI SỐNG VÀ SỨ VỤ CỦA MÌNH
Lm. Micae-Phaolo Trần Minh Huy, pss
GIẬN DỮ
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức
THẬP ĐẠI BỊNH (tiếp theo)
HY.Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận 

Tông thư – Tự sắc Porta Fidei    (tiếp theo)         WHD 

6. Cuộc canh tân Giáo hội cũng còn được thực hiện qua chứng từ cuộc sống của các tín hữu: quả vậy, bằng chính sự hiện diện của mình trong thế giới, các tín hữu được mời gọi làm ngời lên Lời Chân lý Chúa Giêsu để lại cho chúng ta. Chính Công đồng, trong Hiến chế tín lý Lumen Gentium, đã khẳng định: “Trong khi Chúa Kitô, ‘thánh thiện, vô tội, không tì vết’ (Dt 7, 26) không hề biết đến tội lỗi (x. 2 Cr 5, 21), chỉ đến mà chuộc tội cho dân (Dt 2, 17), thì Giáo hội, mang trong lòng mình những kẻ tội lỗi, vì thế, Giáo hội là thánh thiện đồng thời cũng được kêu gọi thanh luyện chính mình, không ngừng phải nỗ lực thống hối và canh tân. Giáo hội “tiến bước trong cuộc lữ hành qua những cuộc bách hại của trần thế và những an ủi của Thiên Chúa”, loan báo cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa cho đến khi Chúa đến (x. 1 Cr 11,26). Quyền năng của Chúa Phục sinh giúp cho Giáo hội thắng vượt –với lòng nhẫn nại và yêu thương–những buồn sầu và khó khăn xảy đến cho Giáo hội từ bên ngoài và cả từ bên trong, và trung thành bày tỏ mầu nhiệm của Chúa giữa lòng thế giới, mầu nhiệm ấy dù còn bị bóng tối che khuất nhưng cuối cùng sẽ đến ngày hiển lộ trong ánh quang rạng ngời” [11]’.

Trong viễn cảnh này, Năm Đức Tin là lời mời gọi hãy hoán cải một cách đích thực và được đổi mới, trở về với Chúa là Đấng duy nhất cứu độ thế giới.Trong mầu nhiệm cái chết và phục sinh của Người, Thiên Chúa đã mặc khải trọn vẹn Tình yêu cứu độ và kêu gọi con người hoán cải cuộc sống nhờ được tha thứ tội lỗi (x. Cv 5, 31). Đối với Thánh Phaolô Tông đồ, Tình yêu ấy dẫn con người đến cuộc sống mới: “Qua phép Rửa, chúng ta đã được mai táng với Người trong sự chết, để như Chúa Kitô sống lại từ cõi chết nhờ vinh quang của Chúa Cha, chúng ta cũng sẽ được sống trong sự sống mới” (Rm 6, 4). Nhờ đức Tin, sự sống mới này làm khuôn mẫu cho toàn thể cuộc sống con người theo sự mới mẻ tuyệt đối của sự sống lại. Tùy theo mức độ sẵn sàng vâng theo ý Chúa, mọi tư tưởng và tình cảm, tâm trí và hành vi của con người dần dần được thanh luyện và biến đổi, trong một cuộc hành trình chẳng bao giờ được hoàn tất ở đời này. Đức Tin “hành động qua đức ái” (Gl 5, 6) trở thành một chuẩn mực mới giúp thông hiểu và hành động, làm thay đổi toàn thể cuộc sống con người (x. Rm 12, 2; Cl 3, 9-10; Ep 4, 20-29; 2 Cr 5, 17).

7. “Tình yêu Chúa Kitô thúc bách chúng ta” (2 Cr 5, 14): chính tình yêu Chúa Kitô đổ đầy tâm hồn chúng ta và thúc đẩy chúng ta loan báo Tin Mừng. Ngày nay cũng như xưa kia, Chúa sai chúng ta ra đi trên khắp nẻo đường thế giới để công bố Tin Mừng của Người cho mọi dân tộc trên trái đất (x. Mt 28, 19). Chúa Giêsu Kitô dùng tình yêu thu hút con người thuộc mọi thế hệ đến với Người: trong mọi thời đại, Người gọi Giáo hội đến và trao nhiệm vụ loan báo Tin Mừng, với một mệnh lệnh luôn luôn mới mẻ. Vì thế, ngày nay Giáo hội phải dấn thân một cách thuyết phục hơn nữa qua công cuộc Tân Phúc âm hóa, để tái khám phá niềm vui đức Tin và tìm lại niềm hăng say thông truyền đức Tin.Việc dấn thân truyền giáo của các tín hữu, vốn không bao giờ được thiếu, sẽ nhận được sức mạnh và tinh thần hăng hái qua việc hằng ngày nhận ra tình yêu của Thiên Chúa. Thực vậy, đức Tin sẽ tăng trưởng khi biết sống đức Tin với cảm nghiệm về tình yêu đã nhận lãnh, và biết thông truyền đức Tin với cảm nghiệm về ân sủng và niềm vui. Đức Tin làm cho chúng ta trở nên phong phú, bởi đức Tin giúp tâm hồn mở rộng trong hy vọng và đem lại một chứng từ giàu sức sống: đức Tin mở cánh cửa tâm trí của tất cả những ai lắng nghe và đón nhận Lời Chúa mời gọi hãy gắn bó với Lời Chúa để trở thành môn đệ của Người. Thánh Augustinô cho biết, các tín hữu “nhờ tin tưởng mà được củng cố” [12].Thánh Giám mục thành Hippo đã có lý khi nói như vậy.Như chúng ta biết, cuộc đời của thánh nhân là một cuộc tìm kiếm không ngừng vẻ đẹp của đức Tin cho đến khi tâm hồn ngài tìm được sự an nghỉ trong Thiên Chúa [13].Trong nhiều tác phẩm của mình, thánh nhân đã giải thích tầm quan trọng của việc tin và chân lý đức Tin.Những tác phẩm ấy đến nay vẫn còn là một di sản phong phú vô song, giúp biết bao người tìm kiếm Thiên Chúa gặp được con đường đúng đắn để đến được “cánh cửa đức Tin”.

Vì vậy, sở dĩ đức Tin được tăng trưởng và vững mạnh là nhờ biết tin tưởng; để đời mình được vững chắc, không có cách nào khác hơn là không ngừng buông mình vào vòng tay của một tình yêu dường như lớn lao thêm mãi, bởi tình yêu ấy phát xuất từ Thiên Chúa.

8. Nhân dịp vui mừng này, tôi muốn mời gọi anh em Giám mục trên toàn thế giới hãy hiệp nhất với Người Kế Vị Thánh Phêrô, trong thời điểm ân phúc thiêng liêng Chúa dành cho chúng ta, để nhớ lại hồng ân đức Tin quý giá. Chúng ta mong được cử hànhNăm Đức Tin này một cách xứng đáng và sinh ơn ích. Cần tăng cường suy tư về đức Tin để giúp tất cả những ai tin vào Chúa Kitô được ý thức hơn và củng cố lòng gắn bó với Tin Mừng, nhất là vào lúc nhân loại đang sống giữa những đổi thay sâu sắc như hiện nay. Chúng ta sẽ có cơ hội tuyên xưng đức Tin nơi Chúa Phục Sinh trong các nhà thờ chính tòa và các nhà thờ trên khắp thế giới; trong các gia đình, để mỗi người cảm thấy sự đòi hỏi cấp thiết phải hiểu biết hơn nữa về đức Tin và truyền lại đức Tin ấy cho các thế hệ mai sau. Các cộng đoàn dòng tu cũng như các giáo xứ, và toàn thể những tổ chức trong Giáo hội, dù lâu đời hay mới lập, hãy tìm ra cách thức công bố Kinh Tin Kính trong Năm Đức Tin này.

9. Chúng ta mong ước Năm Đức Tin sẽ khơi dậy nơi mỗi tín hữu khát vọng tuyên xưng đức Tin trong sự toàn vẹn và với một niềm xác tín được đổi mới, trong niềm tín thác và hy vọng. Năm này sẽ là một cơ hội thuận lợi để tăng cường việc cử hành đức Tin trong phụng vụ, nhất là trong phép Thánh Thể, vốn là “chóp đỉnh mà hoạt động của Giáo hội hướng tới, đồng thời là nguồn mạch tuôn trào sức mạnh của Giáo hội” [14]. Đồng thời, chúng ta ước mong việc làm chứng bằng đời sống của các tín hữu sẽ tăng tiến trong sự khả tín. Tái khám phá nội dung đức Tin được tuyên xưng, được cử hành, được thể hiện qua đời sống và cầu nguyện [15], và suy tư về chính việc làm của lòng tin, đó là nhiệm vụ mỗi tín hữu phải thực hiện, nhất là trong Năm Đức Tinnày.

Không phải là không có lý do mà trong những thế kỷ đầu tiên, các Kitô hữu phải học thuộc lòng kinh Tin kính. Các tín hữu dùng kinh này cầu nguyện hằng ngày, để không quên lời cam kết khi chịu phép Rửa tội. Với những lời mang ý nghĩa súc tích, thánh Augustinô nhắc nhở điều đó trong Bài giảng vềredditio symboli, trao Tín biểu(Kinh Tin kính): “Tín biểu về mầu nhiệm thánh (Kinh Tin kính) mà tất cả anh chị em cùng nhau lãnh nhận và từng người trong anh chị em hôm nay đọc lên, là những lời diễn tả đức Tin của Mẹ Giáo hội, được xây dựng vững chắc trên nền tảng vững bền là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta... Anh chị em đã lãnh nhận và tuyên đọc Tín biểu này, vậy, phải lưu giữ Tín biểu nơi lòng trí anh chị em, phải lặp lại Tín biểu khi lên giường ngủ, phải suy ngẫm Tín biểu khi ra nơi công cộng, không được quên Tín biểu khi ăn uống, ngay cả khi thân xác đã ngủ yên, thì trái tim vẫn tỉnh thức với Tín biểu này” [16].

10. Đến đây, tôi muốn phác một lộ trình giúp hiểu sâu thêm những nội dung đức Tin, không những vậy mà với những nội dung đó, còn là việc làm, qua đó, chúng ta quyết định hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa với tất cả tự do. Thực vậy, có sự thống nhất sâu xa giữa hành vi thể hiện đức Tin và những nội dung chúng ta tán đồng. Thánh Phaolô Tông đồ giúp đi vào bên trong thực tại này khi ngài viết: “Có tin thật trong lòng, mới được nên công chính; có xưng ra ngoài miệng, mới được ơn cứu độ” (Rm 10,10). Con tim mách bảo chúng ta rằng chúng ta có được đức Tin vì trước hết đó là quà tặng của Thiên Chúa, và ân sủng Chúa tác động và biến đổi tận nơi sâu thẳm trong con người.

Câu chuyện bà Lidia là một dẫn chứng đầy sức thuyết phục về vấn đề này. Thánh Luca thuật lại, khi Thánh Phaolô đến thành Philipphê, ngày thứ Bảy ngài đi rao giảng Tin Mừng cho vài phụ nữ; trong số họ có bà Lidia và “Chúa mở lòng cho bà để bà chú ý những lời Phaolô nói” (Cv 16, 14). Một diễn đạt mang ý nghĩa quan trọng. Thánh Luca dạy, việc hiểu biết những nội dung để tin thì không đủ, nếu cõi lòng, cung thánh đích thực của con người, không được ơn Chúa mở cho, nhờ đó mới có được đôi mắt để nhìn sâu xa và hiểu ra điều được loan báo chính là Lời Chúa.

Tiếp đến, việc tuyên xưng ngoài miệng cho thấy đức Tin gồm cả việc làm chứng và dấn thân công khai. Người Kitô hữu không bao giờ được nghĩ rằng tin là chuyện riêng tư. Tin, là quyết định ở lại với Chúa để sống với Người. Một khi “ở lại với Chúa”, ta sẽ hiểu được tại sao ta tin. Chính vì đức Tin là một hành vi tự do, nên cũng đòi phải có trách nhiệm xã hội về những điều đã tin. Giáo hội, trong ngày lễ Hiện xuống, rõ ràng đã cho thấy chiều kích công khai ấy của việc tin tưởng và loan báo không chút sợ hãi về niềm tin của mình cho mọi người. Chính ơn Chúa Thánh Thần giúp chúng ta đảm đương sứ mạng, thêm sức để chúng ta làm chứng một cách trung thực và can đảm.

Tự bản thân việc tuyên xưng đức Tin là một hành vi cá nhân, đồng thời cũng mang tính cộng đoàn. Thực vậy, chính Giáo hội là chủ thể đầu tiên của đức Tin. Trong đức Tin của cộng đoàn Kitô hữu, mỗi người lãnh nhận bí tích Rửa tội, là dấu chỉ có hiệu lực về sự gia nhập đoàn dân tín hữu để được ơn cứu độ. Như Sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo minh chứng: Nói “Tôi tin” là nói lên đức Tin của Giáo hội được cá nhân mỗi tín hữu tuyên xưng, cụ thể là khi chịu phép Rửa tội. Còn nói “Chúng tôi tin” là nói lên đức Tin của Giáo hội được các Giám mục tuyên xưng khi nghị hội Công đồng, hoặc khái quát hơn, được cộng đoàn tín hữu cử hành phụng vụ tuyên xưng. Tuyên xưng “Tôi tin” cũng chính là Giáo hội, Mẹ của chúng ta, đáp lại Thiên Chúa bằng đức Tin của mình và dạy chúng ta nói lên “Tôi tin” và “Chúng tôi tin” [17].

Chúng ta đã rõ, để chính bản thân chấp nhận đức Tin, nghĩa là hoàn toàn đồng tâm nhất trí với tất cả những gì Giáo hội đề nghị chúng ta tin, cần phải hiểu rõ những nội dung đức Tin. Sự hiểu biết về đức Tin dẫn vào toàn bộ mầu nhiệm cứu độ được Thiên Chúa mặc khải. Vì vậy việc chấp nhận đức Tin có nghĩa là, khi đã tin, chúng ta hoàn toàn tự do chấp nhận trọn vẹn mầu nhiệm đức Tin, bởi chính Chúa là Đấng bảo đảm cho mọi điều chúng ta tin. Người đã mặc khải chính mình và cho phép chúng ta được nhận biết mầu nhiệm tình yêu của Người [18].

Mặt khác, chúng ta không thể quên, trong bối cảnh văn hóa của chúng ta, có nhiều người, tuy không nhìn nhận mình có ơn đức Tin, nhưng vẫn chân thành tìm kiếm ý nghĩa tối hậu và sự thật cuối cùng về hiện hữu của mình và về thế giới. Việc tìm kiếm này thực là một “tiền đề” của đức Tin, vì nó thúc đẩy con người bước vào cuộc hành trình dẫn đến mầu nhiệm Thiên Chúa. Quả thật, bản thân lý trí con người vốn đòi hỏi về “điều có giá trị vững bền và trường cửu” [19]. Đòi hỏi này là một lời mời gọi mãi mãi, được ghi khắc không thể xóa nhòa trong tâm hồn con người, để bắt đầu một cuộc hành trình tìm gặp Đấng mà chúng ta sẽ không tìm kiếm nếu Người đã không đến gặp chúng ta [20]. Chính đức Tin mời chúng ta đến gặp Người và mở cho chúng ta bước vào cuộc gặp gỡ ấy một cách trọn vẹn. 

 
VỀ MỤC LỤC
SỐNG TÂM TÌNH CỦA MÙA VỌNG

Chúa nhật I Mùa Vọng C

Giáo Hội bắt đầu Năm Phụng Vụ mới bằng Mùa Vọng. Mà Mùa Vọng thường rơi vào Mùa Đông. Vì thế có người thắc mắc là tại sao mở đầu cho một năm dân sự là Mùa Xuân, nhưng mở đầu cho một năm Phụng Vụ lại vào Mùa Đông? Tại sao lại không khởi đầu năm Phụng Vụ vào chính ngày Lễ Giáng Sinh như khởi đầu cho một cuộc đời là ngày người ấy cất tiếng khóc chào đời? Người Kitô hữu vẫn được dạy rằng Đức Kitô sinh vào ngày 25/12 và trước đó Giáo Hội dành bốn tuần cho Mùa Vọng, hàm ý “mùa trông đợi Chúa đến” từ ngàn xưa. Mấu chốt vấn đề chính ở điểm này. Như vậy, ý nghĩa vô cùng khi khởi đầu cho một năm Phụng vụ là Mùa Vọng.

Trong cuộc sống có nhiều thứ mùa vọng: có mùa vọng ngắn, có mùa vọng dài. Đối với một người mẹ thì mùa vọng là thời gian 9 tháng 10 ngày chờ đợi người con mở mắt chào đời. Đối với các sinh viên, mùa vọng là khoảng thời gian bốn năm hay 5 năm ngồi ở ghế giảng đường đợi chờ ngày tốt nghiệp ra trường. Đối với người Do thái, mùa vọng là cả một hành trình dài trong lịch sử Cứu độ, hành trình của hơn một ngàn năm chờ đợi Đấng Cứu Thế. Đối với người Kitô hữu, Mùa Vọng là khoảng thời gian bốn tuần lễ trước Giáng Sinh. Đây là thời gian trong năm Phụng Vụ mà Giáo Hội dành để con cái mình chuẩn bị tâm hồn mừng Con Thiên Chúa làm người. Xa hơn nữa, mùa vọng đối với đời người Kitô hữu còn là thời gian sống trên trần gian này. Nói cách khác, khi sống tâm tình Mùa Vọng của năm Phụng Vụ, người Kitô hữu được mời gọi sống tâm tình mùa vọng của cuộc đời, một mùa vọng kéo dài, mùa trông chờ Chúa đến trong vinh quang.

Tuy nhiên, điều mà người Kitô hữu chúng ta đang mong chờ, không phải là một biến cố, một món quà, một cuộc vui, hay là một ngày lễ nghỉ, mà trên hết là mong chờ một con người. Con người đó chính là Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Tinh nhân loại. Nói khác đi, mùa Vọng là một mùa không phải chỉ để chuẩn bị cho biến cố Noel tưng bừng, nhưng là thời gian trông chờ và chuẩn bị đón mừng Ngôi Hai Thiên Chúa Làm Người và đón chờ Đức Giêsu Kitô là Hoàng Tử Vinh Quang sẽ đến trong ngày cánh chung, tức là ngày tận thế. Vậy phải chuẩn bị thế nào cho xứng đáng?

 

- Trước hết, hãy chuẩn bị bằng việc sửa soạn bên trong tâm hồn.

“Hãy tự hỏi Giáng sinh có ý nghĩa gì đối với cá nhân và gia đình mỗi chúng ta? Trang trí nhà cửa, bắt điện, treo đèn, hội tiệc … là cần thiết và phù hợp với mùa lễ hội, nhưng không thể thay thế được cho ý nghĩa thực sự mà đức tin đã dạy chúng ta về việc Con Thiên Chúa giáng trần để cứu chuộc sinh linh. Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria tại Bêlem. Chúng ta không thể bắt chước người đời nay chỉ trân quí Ông Già Noel. Chúng ta cũng không thể bị dẫn dụ bởi những kỹ thuật quảng cáo tinh xảo để bán sản phẩm của các công ty thưong mại trong mùa nầy. Chúng ta cũng không thể bắt chước thói tục đời nay chỉ chúc mừng nhau trên môi miệng câu “chúc mừng ngày lễ” bởi vì ngày sinh nhật của Chúa không phải là ngày lễ thường mà ngày lễ rất trọng, ngày lễ mà mọi người Kitô hữu được kêu mời nghỉ trọn ngày để tôn vinh Thiên Chúa, ngày làm chúng ta được trở nên thánh thiện (a Holy Day), để chúng ta có thể chúc nhau câu “Mừng Sinh Nhật Chúa” (Merry Christmas). Nếu không có việc Chúa Giáng Sinh làm sao có ngày lễ holidays để mà “happy holidays” ? Do đó, khi gửi thiệp tặng quà cho nhau, chúng ta hãy nhớ đến tặng ân từ Thiên Đàng mà Chúa Cha đã tặng ban cho nhân loại là Con Một Ngài là Chúa Giêsu Cứu Thế, và hãy tặng nhau một tấm lòng chân thật, biết ơn người khác” (Phó tế Phêrô Đặng Phi Hùng, “Trông đợi”).

 

- Sau nữa, hãy chuẩn bị bằng việc sống thái độ tỉnh thức.

Điệp khúc “Hãy tỉnh thức” vẫn vang lên nhiều lần trong suốt Mùa Vọng. Tỉnh thức nghĩa là không mải mê, xao lãng với bổn phận, với nghĩa vụ làm người và làm Kitô hữu. Tỉnh thức là không ngủ say, ngủ vùi trong những đam mê và trong những thực tại trần thế mà quên đi những gì sẽ xẩy đến bất ngờ cho con người. Tỉnh thức là thanh luyện tâm hồn mình khỏi mọi thói hư tật xấu, là tẩy trừ tâm hồn khỏi lòng tham sân si và mọi thứ dính bén trần tục, là nỗ lực thu nhỏ cái tôi của mình để cho Chúa được lớn lên, như tâm tình của Gioan.

Khi tỉnh thức, có người nhâm nhi cà phê, có người uống rượu... cho giờ mau qua, có người đánh bài để giết thời gian, có người hát hò, có người xem truyền hình, xem phim, lại có người nói chuyện tán dóc cho hết giờ. Bởỉ đó, nhiều lần ta nghe nói: người này chết (Chúa đến) khi họ đang ngủ, người kia chết (Chúa đến) khi họ đang làm việc; có người chết (Chúa đến) khi họ đang ăn uống, có người chết (Chúa đến) khi họ tỏ ra anh hùng trên xa lộ, hay đang chơi bời, v.v...

Thời ông Noe, dân chúng mải mê ăn chơi thoải mái, trong khi gia đình ông Noe lại tất bật với việc đóng tầu. Dân chúng đi qua đó, thấy đó, nhưng họ lại chẳng lưu tâm gì với những điều Kinh Thánh đã loan báo. Có lẽ ông Noe cũng đã thông tin cho nhiều người chung quanh, khi họ hỏi ông đóng tầu làm gì, nhưng họ đâu có tin ông, vì họ đang mê mải ăn chơi, hưởng thụ. Chính thái độ thiếu tỉnh thức ấy đã khiến cho họ chết vùi, chết thảm trong trận đại hồng thủy thời bấy giờ.

Tỉnh thức là biết nỗ lực xây dựng một thế giới hiệp nhất, yêu thương, công bình và bác ái. Chờ đợi trong tỉnh thức yêu thương, thì việc chờ Chúa đến sẽ không còn là sự bất ngờ đáng lo, đáng sợ nữa, nhưng lại là sự bất ngờ của niềm vui và hạnh phúc. Vì thế, Mùa Vọng là mùa của đợi chờ: đợi chờ chính Con Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô, đợi chờ trong hy vọng, đợi chờ trong tin yêu. Chờ đợi như thế, chính là tỉnh thức, là sẵn sàng, là mở đường về Nước Trời. Amen.

Lm. Giuse Nguyễn Thành Long

VỀ MỤC LỤC

SỐNG PHẨM VỊ LÀM NGƯỜI

Kg linh mục, tu sĩ, giáo dân trong gia đình giáo phận

Anh chị em thân mến,

1. Tháng 12 là thời gian chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh, mừng biến cố Con Thiên Chúa giáng thế làm người trong thiên hạ. Một biến cố trọng đại trong lịch sử thế giới loài người. Trọng đại, không chỉ vì lễ Giáng Sinh trở thành lễ hội trong xã hội, thành cơ hội cho mọi người, mọi gia đình sum vầy, chúc mừng và tặng quà cho nhau. Song trọng đại nhất là vì Con Thiên Chúa làm người mời gọi con người đảm nhận sứ mạng làm người con Thiên Chúa và làm anh em với nhau trong trời đất, đồng thời tạo điều kiện cho con người được tự do sống phẩm vị làm người trong thiên hạ. Đức Giêsu Kitô mời gọi và tạo điều kiện như thế là nhằm đáp lại khát vọng của lòng người mong muốn được thoát ra khỏi bóng tối sự dữ, và được sống dồi dào trong ánh sáng chân lý, yêu thương và bình an.

 

2. Lịch sử loài người xác minh rằng những gì con người tự nghĩ ra, phát minh, sáng chế, làm ra, có góp phần cho sự tiến bộ của nhân loại, nhưng đồng thời luôn để lại những vấn đề nghiêm trọng cho đời sống con người, để lại những bất ổn và xáo trộn cho gia đình, những tiêu cực và bất công, những chia rẽ, chống đối và loại trừ nhau trong xã hội. Nguyên nhân sâu xa làm cho đời sống con người bị che phủ bởi bóng tối của văn hóa sự chết, có thể :

 

- do lòng trí và tầm nhìn con người bị hạn chế.

- do tình trạng sa mạc hóa tinh thần làm cho đời sống con người thiếu vắng ánh sáng chân lý, thiếu lửa tình yêu vị tha, thiếu ý thức tôn trọng sự sống cùng phẩm giá con người.

- do lối sống của nhiều người lệ thuộc vào lòng tham sân si cố hữu cùng bản năng tự vệ bẩm sinh mang tính khép kín và đối kháng chống lại những gì ngược lại lòng ham muốn của họ.

 

3. Chính vì thế mà trong Năm Đức Tin, Đức Giáo Hoàng Bênêđitô XVI kêu gọi mọi người hãy trở về với Đức Giêsu Kitô là nguồn ánh sáng chân lý, là cội nguồn sự sống và niềm tin. Trở về với quyết tâm đáp lại lời mời gọi của Ngài, bước đi trong đường lối của Ngài, đưa Lời Ngài là Lời ban nguồn nước hằng sống, Lời ban ánh sáng chân lý và tình yêu, đưa vào trong suy nghĩ và hành động thường ngày để Phúc Âm hóa canh tân đổi mới đời sống.

 

- Trước hết, Phúc Âm hóa có nghĩa là ý thức sống luật Chúa truyền: thay vì chống đối và loại trừ nhau, hãy yêu thương và tôn trọng nhau, quảng đại bao dung, đồng cảm và tương thân tương trợ, mở đường cho nhau sống theo Lời Chúa dạy, theo gương Chúa đã sống.

 

- Sống theo Lời Chúa dạy hãy cởi bỏ con người cũ và mặc lấy con người mới theo hình mẫu Con Người Mới chính là Ngài. Con người cũ là con người sống lệ thuộc lòng ham muốn mang tính khép kín và đối kháng. Con người mới là con người sống theo lòng nhân, lòng đạo, lòng tin nơi Chúa Giêsu Kitô, sống theo ánh sáng chân lý và tình yêu của Chúa, trong suy nghĩ và hành động thường ngày của mình.

 

- Sống theo gương Chúa đã sống. Công trình cứu độ của Chúa Giêsu là phục hồi phẩm giá con người, mở đường cho con người được tự do sống phẩm vị làm người. Hãy ý thức sống theo gương Chúa, đặc biệt trong gặp gỡ và đối xử với những con người bị xã hội kết án, loại trừ. Hãy học cách Ngài đối xử với ông Gia kêu là người bị xã hội kết án làm giàu cách bất công bóc lột kẻ khác. Cách Ngài đối xử với người phụ nữ làng Xamari bị dân làng khai trừ vì sống với nhiều người đàn ông không phải là chồng mình. Cách Ngài đối xử với người phụ nữ bị mang đi xử tử vị tội ngoại tình. Cách Ngài đối xử với những môn đệ phản thầy, chối thầy, bỏ cuộc... Tất cả những cách đối xử đó vừa tạo điều kiện cho con người được sống, sống trong sự tôn trọng phẩm vị làm người, vừa mở đường cho chúng ta vượt qua những vấn đề trong xã hội, để loan báo Tin Mừng Sự Sống và Tình Thương, cùng góp phần xây đắp nền văn hóa sự sống và văn minh tình thương cho xã hội và thế giới hôm nay.

 

4. Lịch sử cũng xác minh loài người trong thế giới xưa nay cũng có cung nhiều loại nước khác nhau, nước ít nhiều trong lành, nước ô nhiễm và độc hại. Chỉ có Chúa Giêsu cùng Lời của Ngài cung cho con người nguồn nước chắc chắn là trong lành, đáp lại những khát vọng, những nhu cầu sâu xa của lòng người. Công cuộc Phúc Âm hóa và canh tân đổi mới đời sống, tạo cho chúng ta khả năng phân định và chọn nguồn nước thật sự trong lành, khả năng trở nên giếng nước đầu làng, trở nên người đã đón nhận nguồn nước trong lành, và trở về chia sẻ những cảm nghiệm của lòng mình cùng loan báo Tin Mừng Sự Sống cho dân làng.

 

5. Trong Mùa Giáng Sinh cũng như trong Năm Đức Tin, tôi cầu mong cho mọi người, mọi gia đình, mọi cộng đoàn, trở nên giếng chứa nước trong lành, đồng thời trở nên sứ giả loan báo Tin Mừng Sự Sống và Tình Thương của Chúa Giêsu Kitô, thông truyền cho nhau Lời hằng sống ban ánh sáng chân lý và tình yêu cho bà con láng giềng, cho đồng bào và đồng loại của mình. Nguồn nước đó, Lời ban sức sống mới đó, sẽ tạo khả năng cho mọi người chủ gia đình, mọi người đứng đầu các tổ chức đạo đời, xã hội, kinh tế, chính trị, mọi người tham gia việc quản lý đất nước và thế giới hôm nay, chu toàn bổn phận tu thân và giáo dục, tề gia và trị quốc, phát triển xã hội và kinh tế, vừa thuận ý trời (thiên thời), vừa hợp với truyền thống văn hóa và giáo huấn của đạo làm người (địa lợi), vừa hòa với lòng nhân, lòng đạo của con người (nhân hòa). Cầu mong nhờ sự đổi mới đời sống con người, lời chúc Một Mùa Giáng Sinh an bình cùng Một Năm Mới an khang thịnh vượng, trở thành hiện thực trong mỗi gia đình cùng xã hội và thế giới hôm nay.

 

HY. Gioan B. Phạm Minh Mẫn

VỀ MỤC LỤC
Đức Ki-tô Phục Sinh chú giải Kinh Thánh cách sống động  Chuyển ngữ: Thérèse Trần Thiết + Fr. Marie Bảo Tịnh O.Cist

Lời Mời gọi của HĐGMVN:

Giáo Hội tại Việt Nam phải “phát động chương trình mỗi gia đình một cuốn Kinh Thánh được đặt nơi xứng hợp, cổ võ đọc và cầu nguyện với Lời Chúa”, khuyến khích học thuộc lòng những đoạn Kinh Thánh cốt yếu. Mọi thành phần Dân Chúa, giáo dân, chủng sinh, tu sĩ và các mục tử, cần tập thói quen đọc và suy niệm Lời Chúa hằng ngày, đặc biệt theo phương thức Lectio divina. (Thư Chung của HĐGMVN, ngày 1.5.2011, số 11)

Xin giới thiệu cho nhiều người thân tham gia Gia Đình Lectio Divina Lecdiv@gmail.comđể có thể hiệp thông với nhau trong đời sống cầu nguyện và cùng giúp nhau thực hành "điều cần thiết nhất trong mọi điều cần thiết".Đan viện Xitô Thánh Mẫu Tâm Mỹ Ca, Nha Trang, sẽ cầu nguyện lâu dài cho tất cả những ai trung thành thực hành và cố võ việc thực hành Lectio divina.

Mọi thắc mắc về Lectio divina, xin gởi email cho cha Bảo Tịnh, O.Cist fr.baotinh@yahoo.fr

*****

Tác Phẩm: MỘT VỊ THIÊN CHÚA NGỎ LỜI!

Thiên Chúa tỏ mình cho con người thế nào?

Chuyển ngữ:

Thérèse Trần Thiết

Fr. Marie Bảo Tịnh O.Cist

Nguyên tác:

Michel HUBAUT

UN DIEU QUI PARLE!

Comment Dieu se révèle-t-il à l’homme?

 

Chương 8 -

ĐC GIÊ-SU, NHÀ CHÚ GII KINH THÁNH

 

Các môn đ làng Em-mau (Lc 24, 13-35) - (tiep theo)

 
Đức Ki-tô Phục Sinh chú giải Kinh Thánh cách sống động

 Câu 27 - “Rồi bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh”.

Thầy Giê-su bắt đầu công việc giải thích Kinh Thánh. Lu-ca không xác định những câu trích dẫn nào. Lời giải thích của Thầy bao hàm trọn vẹn Kinh Thánh: “tất cả các ngôn sứ”“tất cả Kinh Thánh”. Thầy trách các môn đệ là những người “chậm tin” vào tất cả những gì các ngôn sứ đã tiên báo. Toàn bộ Kinh Thánh đều liên quan đến Thầy, “nói về Thầy”; các Sách Thánh là một sự chuẩn bị lâu dài có tính cách mô phạm cho ngày nhập thể và nhập thế của Thầy. Giê-su quả là một nhà chú giải sống động, là Chìa Khóa cho việc giải thích trọn bộ Kinh Thánh. Cuộc sống, và nhất là sự Sống Lại, Vượt Qua của Thầy mang lại ý nghĩa cho tất cả lịch sử các Sách Thánh về ơn cứu độ, và cũng là sự thành toàn của chương trình cứu độ.

Cũng như trong mỗi thánh lễ, bài Tin Mừng soi sáng ý nghĩa cho các đoạn Sách Thánh khác. Qua lời chú giải, Thầy Giê-su đã không trực tiếp tỏ mình cho các môn đệ. Công việc làm thức tỉnh Lời như thế vẫn chưa đủ, nhưng mới chỉ là bước chuẩn bị cho sự biểu hiện tiếp theo.

Câu 28-29 - “Khi gần tới làng họ muốn đến, Ðức Giê-su làm như còn phải đi xa hơn nữa. Họ nài ép Người rằng: "Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn". Bấy giờ Người vào ở lại với họ”.

Chiều đến, Thầy “làm ra vẻ” phải đi xa hơn, đó là một cách khích động sự tự do và tính hiếu kỳ của các môn đệ. Thầy không áp đặt, mà để người ta tự động mời mình. Quả thế, hai môn đệ đã vội vã mời Thầy cùng dừng chân với họ, có thể ngay trong nhà của họ, chứ không phải trong quán trọ như Truyền Thống vẫn ám chỉ. Các môn đệ thích được tiếp tục trò chuyện trao đổi với người “bạn đồng hành” đã cho họ những giây phút an bình thoải mái. Đoạn văn nhấn mạnh cụm từ “ở lại với” hay “ở với”. Trong Tin Mừng của ông, Lu-ca luôn dành một chỗ đặc biệt cho sự “đón-tiếp” hay “không-tiếp-đón” Thầy Giê-su; chính vì tính hiếu khách, sự đón tiếp là câu trả lời tích cực đầu tiên của con người trước lời mời gọi của Thiên Chúa đến mở cửa đức tin cho ta[1]. 

 

Dấu chỉ của việc bẻ bánh

Câu 30 - “Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ”.

Chủ đề “bữa ăn” trong Tin Mừng thánh Lu-ca cũng có tầm quan trọng như chủ đề “đường đi”. Thầy Giê-su thích ngồi chung bàn với các môn đệ, với bạn hữu, và ngay cả với những người tội lỗi. Vì bữa ăn tượng trưng cho sự tham dự vào Vương Triều của Thiên Chúa, vào ơn cứu độ mà Thầy cống hiến cho mọi người muốn đón nhận. Tất cả những cử chỉ của Thầy Giê-su thực hiện ở đây, ta đều thấy trong một số đoạn Tin Mừng khác, đặc biệt khi Thầy hoá bánh ra nhiều, cũng được xảy ra khi trời đã xế chiều (Lc 9, 14-16)bữa Tiệc Thánh (Lc 22, 14-19), chúng ta cũng gặp các động từ: cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và ban cho…

Người ta thường tự hỏi bữa ăn ở làng Em-mau có phải là một bữa tiệc tạ ơn (eucharistie) hay không? Ngay cả khi Thầy không tái diễn bữa Tiệc Ly với các môn đệ tại Em-mau, thì ít ra Thầy đã có những cử chỉ quen thuộc như vẫn thường làm mỗi khi đồng bàn, ăn chung với các môn đệ… Nhưng khi lại gặp những phong cách trịnh trọng diễn ra ở đây, ta không thể nghi ngờ rằng kỷ niệm về Bữa Tiệc Ly kia lại không hiện diện trong tâm trí Lu-ca, và nó cũng là ý tưởng chính yếu để chú giải đoạn Tin Mừng này của tác giả.

Ta còn phải phân biệt những gì Cơ-lê-ô-pát và bạn ông đã cảm nghiệm được, với những gì thánh Lu-ca muốn cho độc giả của ông nhận ra. Đối với Lu-ca, thật rõ ràng là Thầy Giê-su tỏ mình qua cử chỉ “bẻ bánh”, tại bàn tiệc tạ ơn của các cộng đoàn ki-tô hữu, mà Em-mau là điểm tụ họp cho bữa tiệc Tạ Ơn đầu tiên của Hội Thánh.

Lu-ca đã dàn dựng lại bữa ăn trong một quang cảnh của buổi tụ họp các tín hữu, ông cũng phân biệt hai phần phụng vụ rõ ràng: phụng vụ Lời Chúa (giải thích Kinh Thánh), và phụng vụ Bánh. Bàn tiệc Tạ Ơn bảo đảm với các môn đệ, vừa được giáo huấn bởi Sách Thánh, cùng một cuộc gặp gỡ cá nhân thân tình như bàn ăn ở Em-mau. Thầy Giê-su vừa đồng hoá với Bánh và với Lời. Thầy là ơn ban của Thiên Chúa cho con người, dưới hai dạng Lời Sự Sống và Bánh Sự Sống bất khả phân ly.

Câu 31 - “Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, Người lại biến mất không còn thấy đâu nữa (nguyên nhân: vì Người đã trở nên vô hình đối với họ).

Sau khi được nghe những lời giải thích Sách Thánh trên đường đi và việc “bẻ bánh”, con mắt của các môn đệ mới được “mở ra”. Đây cũng là cách muốn nói rằng đức tin chính là khả năng “nhìn thấy” sự hiện diện mới mẻ của Đức Ki-tô Giê-su phục sinh, là một ơn ban của Thiên Chúa, là công trình của Thần Khí Chúa, Đấng mở mắt tâm hồn, mở sự hiểu biết tâm linh ra cho con người chúng ta. Đây cũng là lần đầu tiên, trong Tin Mừng của Lu-ca, Thầy Giê-su được công nhận là đã phục sinh, Đức Ki-tô Phục Sinh: “họ đã nhận ra Thầy”. Chúng ta đang ở đỉnh điểm của bài trình thuật, và cũng là đích điểm của toàn thể Tin Mừng Lu-ca. Sự kiện được mở mắt ra nhìn nhận ra tượng trưng cho đức tin.

Hai môn đệ làng Em-mau đã trở thành những kẻ tin vào Đức Giê-su chịu đóng đinh và phục sinh. Chính vì thế mà thánh Lu-ca viết thêm: “Và Thầy đã thành vô hình đối với họ”, có nghĩa là “không có hình dáng bề ngoài”, một từ rất hiếm thấy, và chỉ dùng ở đây trong Tân Ước. Thầy Giê-su đã biến đi trước con mắt thịt của họ. Hay đúng hơn: kể từ nay, đức tin sẽ thay thế cho sự nhìn thấy. Và, chỉ có đức tin mới có thể tuyên xưng sự hiện diện thánh thiêng của Đức Ki-tô Giê-su Phục Sinh ở giữa thế giới loài người chúng ta. Thầy không còn ở bên cạnh các môn đệ, nhưng vẫn hiện diện cách thân tình, nơi thâm sâu nhất của họ.

Trong trình thuật của Lu-ca, ta nhận thấy đồng thời xuất hiện hai sự kiện nhận biết, và Thầy trở thành vô hình. Ngay khi sự hiện diện thánh thiêng của Thầy được nhìn nhận bởi con mắt đức tin, một đức tin được thức tỉnh bởi Lời và những dấu chỉ của Bánh được bẻ ra để chia sẻ, thì sự hiện diện thể lý của Thầy có thể biến đi. Khi sự hiện diện mới mẻ của Thầy được nhận biết, tất nhiên sự hiện diện thể lý của Thầy không còn cần thiết nữa, trái lại, nó còn có thể gây trở ngại cho sự gặp gỡ căn tính đích thực của Thầy. Kể từ nay, ta chỉ có thể tiếp cận với con người của Thầy Giê-su Ki-tô    nếu ta biết từ khước việc nhìn thấy, đụng chạm, và nhốt kín Thầy trong những giới hạn gò bó của con người trần thế nơi chúng ta.

Nếu các môn đệ đã không thể nhận ra Thầy Giê-su phục sinh, không phải chỉ vì Thầy đã thay đổi hình dạng, nhưng chính vì các ông đã không có khả năng nhận biết Đấng đã phục sinh, đã vượt qua ngay chính trong Đấng đã Chịu Đóng Đinh ngày Thứ Sáu Tuần Thánh vừa qua. Điều khó khăn là ở nơi các môn đệ. Dọc con đường vượt qua về Em-mau, không phải đã có gì thay đổi nơi Thầy Giê-su, mà là chính con mắt tâm hồn của hai môn đệ đã được mở ra nhờ ánh sáng Kinh Thánh. Đức Tin là một hoán cải của con mắt tâm linh.

Tại sao sự hiểu biết của tâm trí về biến cố vượt qua đã không xảy ra sớm hơn nơi các môn đệ, ngay khi được Thầy giải thích ý nghĩa Sách Thánh? Lu-ca muốn chứng tỏ rằng niềm tin phục sinh phải có từng giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất là đọc Kinh Thánh cách mới mẻ hơn, tuy thực sự cần thiết, nhưng vẫn chưa đủ. Giai đoạn thứ hai là đón tiếp, đón tiếp Thầy Giê-su cũng rất cần, nhưng cũng vẫn chưa đủ. Còn cần phải có dấu chỉ của việc “bẻ bánh”. Cả ba giai đoạn này hợp lại mới đem ý nghĩa cho niềm tin.

Câu 32 - Họ mới bảo nhau: "Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?”.

Hai môn đệ lại tiếp tục trao đổi, đàm đạo với nhau, nhưng bây giờ không phải quanh sự chán nản thất vọng của họ nữa, mà về sự biến đổi tâm linh mà họ vừa trải nghiệm. Họ được biến đổi từ “vẻ u buồn” đến “con tim cháy bỏng”. Các môn đệ làng Em-mau đã có thể minh định vị trí cuộc khổ hình Thập Giá của Thầy Giê-su Ki-tô, trong kế hoạch huyền nhiệm của tình yêu Thiên Chúa cho nhân loại[2].


[1]   2. Đấng Phục Sinh nói trong sách Khải Huyền: “Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta”.

[2]   3. “Lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?” Thầy Giê-su đã nói về mình là “Người đã đến ném lửa” (Lc 12, 49) Lời Người, lửa của sự Người hiện diện và của tình yêu của Người.

VỀ MỤC LỤC
NGỒI CẠNH NHAU…

Sứ điệp Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới lần thứ 13 ( Vatican 30.10.2012 ) đã nói đến bờ giếng Sicar trong câu chuyện người phụ nữ Samaria ( Ga 4, 5 – 42 ): “Giáo Hội cũng cảm thấy phải ngồi cạnh những người nam nữ thời nay, để làm cho Chúa hiện diện trong cuộc sống của họ” ( bản dịch của Lm. G. Trần Đức Anh, OP ).

 

Nội dung Sứ điệp là “Tái truyền giảng Tin Mừng để thông truyền Đức Tin”. Nỗi trăn trở, lo âu và bận tâm của Hội Thánh Chúa Kitô. Làm sao để “ngồi cạnh những người nam nữ thời nay” ?

 

Không có hàng rào…

Chắc chắn chung quanh giếng không có hàng rào, không có những cánh cổng to lớn khóa chặt, “mở cửa theo giờ quy định”, không có cả những ông gác Nhà Thờ khó tính luôn cảnh giác mọi người.

 

Chắc chúng ta không thể tiếp tục làm những hàng rào thật kín bao quanh Nhà Thờ, không thể tách biệt bên trong và bên ngoài Nhà Thờ một cách cứng ngắc như vậy, cũng như chúng ta không thể phân biệt rạch ròi việc cử hành và sống Đức Tin, cử hành là sống, sống là cử hành, không có chuyện người tín hữu sống hai thế giới, không có chuyện chia cắt lương giáo trong một cộng đồng.

 

Kinh Tin Kính trong Thánh Lễ có câu: “Vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta”, khi viết câu này, Giáo Hội Việt Nam ý thức lúc tuyên xưng Đức Tin, người Kitô hữu đang đứng cạnh người anh em chưa có niềm tin, lời tuyên xưng cũng là lời chia sẻ, vì chúng ta đứng cạnh nhau, nếu không thì đã là “vì loài người chúng tôi…”

 

Ước mong hàng rào quanh Nhà Thờ ( nếu có ) sẽ thật thoáng, sẽ thật thân thiện với mọi người. Không thể mãi khóa cửa mà chỉ “mở theo giờ quy định”. Con người không khát theo giờ chúng ta quy định, con người cần được gặp Chúa bất cứ lúc nào, đến với Chúa dễ dàng vì Chúa đâu có xa lánh con người. Ước mong Nhà Thờ luôn mở cửa để mọi người có thể đến bất cứ lúc nào hầu tìm thỏa mãn cơn đói khát ân sủng.

 

Nhà Thờ không rào cản, không tự khóa mình, thì “người của Nhà Thờ” không lẽ lại đi dựng hàng rào quanh mình, tự khóa lòng mình ? Ước mong người đau khổ, người đói khát ân sủng luôn tìm được sự đón tiếp thân thiện từ những “người của Nhà Thờ”. Làm sao để mọi người, nhất là người nghèo dám tìm đến khi cần, không khép nép sợ hãi, không rón rén như kẻ thấp hèn tìm đến cửa quan, không hãi hùng như khi nhận được “giấy mời” lên Công An làm việc.

 

Hãy tái tạo một không gian thân thiện trong lòng Nhà Thờ, trong sân vườn Nhà Thờ, một không gian đầy bóng cây xanh, gần gũi thiên nhiên, thoáng mát, bình dị và ấm cúng. Cũng vậy nhân loại cũng đang cần một thái độ thân thiện từ những “người của Nhà Thờ”, thân thiện từ tâm hồn, ngôn ngữ, gương mặt, trang phục, nhà cửa và các phương tiện sử dụng.

 

Ngồi cạnh…

 

Cái giếng vẫn lặng lẽ âm thầm ngồi cạnh những tâm hồn tan nát, vẫn kiên nhẫn lắng nghe những vòng vo rắc rối cuộc đời. Tòa Giải Tội là nơi ít ra là ngày nay ở Việt Nam còn rất nhiều người mong tìm đến, hãy luôn mở rộng cánh cửa này để Chúa thi thố tình thương của ngài cho nhân loại, đừng để hối nhân ngại ngùng khi lòng dạ đã ăn năn, đừng để hối nhân vuột mất cơ hội trở về cùng Chúa.

 

Chúng ta ngồi cạnh để người anh em của chúng ta được gặp Chúa, “Giáo Hội cũng cảm thấy phải ngồi cạnh những người nam nữ thời nay, để làm cho Chúa hiện diện trong cuộc sống của họ”. Điều quan trọng là để làm cho Chúa hiện diện trong cuộc sống của họ. Bờ giếng lặng lẽ câm nín, chỉ để Chúa cất tiếng ngỏ lời. Hình như chúng ta dành phần nói quá nhiều ( cứ quan sát những lễ nghi hàng ngày, kinh sách đọc rân ran, giảng dạy hướng dẫn liên tục… ) và quên mất cần phải để Chúa nói.

 

Chờ…

 

Chúa ngồi chờ bên bờ giếng tự bao giờ, Ngài lên tiếng trước, Ngài ngỏ lời xin. Học cách hành xử của Chúa, ước mong chúng ta biết đợi chờ, kiên nhẫn đợi chờ, không chán nản, không cáu giận. Với người xa cách Nhà Thờ, lòng họ mang đầy mặc cảm, ước mong chúng ta lên tiếng trước, bắt liên lạc trước và rất khiêm tốn chúng ta xin họ trước. Ân sủng họ phải xin, Bí Tích họ phải xin, nhưng lạ lùng Chúa Giêsu lên tiếng xin họ trước, chúng ta không còn con đường nào khác ngoài con đường Chúa Giêsu đã đi. Chúng ta cần phải ngỏ lời trước, xin họ trở về như Thánh Phaolô: “Tôi nài xin anh em” ( 2 Cr 5, 20 ).

 

Sứ Điệp Hội Thánh đã gởi đi, mỗi người chúng ta đáp ứng thế nào với Sứ Điệp ?

Lm. VĨNH SANG, DCCT,

cuối tháng 11 năm 2012 (Ephata 537)

VỀ MỤC LỤC
ÔNG VUA KHÔNG BIẾT CÚI ĐẦU
 

Lễ Chúa Giêsu Kitô Vua vũ trụ

(Daniel 7: 13-14; Revelation 1: 5-8; John 18: 33b-37)

Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD

 

 

 

Phiên tòa chất vấn Chúa Giêsu

 

33Ông Pilate trở vào dinh, cho gọi Đức Giêsu và hỏi Người: “Ông có phải là Vua dân Do Thái không?”34Đức Giêsu đáp: “Ngài tự ý nói điều đó hay ai khác đã nói với Ngài về tôi?” 35Ông Pilate trả lời: “Tôi không phải là người Do Thái sao? Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. Ông đã làm gì? 36Đức Giêsu trả lời: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian thì thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị bắt nộp cho người Do Thái. Nhưng đúng vậy, nước tôi không thuộc nơi này.” 37Ông Pilate lại hỏi: “Vậy ông là vua sao?” Đức Giêsu trả lời: “Chính Ngài nói tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đến thế gian vì điều này, đến để làm chứng cho Sự Thật. Ai đứng về phía Sự Thật thì nghe tiếng tôi.” (Ga 18: 33-37)

 

**************

 

Hôm nay Chúa Nhật lễ trọng, mừng Chúa Giêsu Kitô là Vua vũ trụ, kết thúc năm phụng vụ. Tin Mừng thánh Gioan có miêu tả quang cảnh phiên tòa xử Chúa Giêsu (Ga 18:33-37). Pilate hỏi Chúa “Ông có phải là vua Do Thái không?” và câu trả lời của Chúa Giêsu: “Tôi là vua, nhưng nước tôi không ở thế gian này” đã như mũi giao nhọn đâm trúng tim, gây nhức nhối cả quan tòa lẫn các thượng tế và đám dân Do Thái đang tố cáo Chúa. Ở đây, chúng ta thấy một tương phản rất rõ ràng giữa hai loại quyền lực. Quyền lực trần thế và quyền lực trên trời. Đâu là thực đâu là giả?

 

QUANG CẢNH PHIÊN TÒA XỬ CHÚA GIÊSU

Đem nộp Chúa Giêsu cho quân La Mã để chắc chắn Ngài sẽ bị đóng đanh, chính quyền Do Thái đã hoàn thành nhiệm vụ để lời tiên tri được ứng nghiệm rằng Ngài sẽ bị kéo lên cao (Ga 3:14; 12:32-33). Thánh Gioan đã tả lại cuộc đối đáp giữa Chúa giêsu và Pilate, quan tổng trấn kiêm quan tòa. Pilate hỏi Chúa Giêsu: “Ông có phải là vua dân Do Thái không?”(c.33). Bị cáo Giêsu nắm lấy câu hỏi đó và hỏi ngược lại ông tòa. “Tự ngài hỏi câu đó hay có ai khác đã nói với ngài về tôi? (c.34). Cả câu hỏi lẫn câu trả lời đều trở thành những lời khiêu khích đối với vị quan tòa La Mã.

Vẻ hống hách của Pilate cũng chẳng uy hiếp được chúa Giêsu. Chúa đã có sẵn

câu trả lời: “Nước tôi không thuộc về thế gian này” (c 36). Ngay lập tức chúa Giêsu nêu lý do: ‘Nước tôi không có cảnh cưỡng chế và áp đặt.’ Đồng thời Chúa Giêsu lặp lại quan điểm của chúa: “Nước tôi không thuộc về thế gian này.”

Pilate rất tinh khôn, ông không muốn nhận câu trả lời của chúa Giêsu từ chối mình là vua trần thế, ông liền kết luận theo kiểu loại suy:”Vây ông là vua à?” (C.37). Chúa Giêsu chấp nhận lời tuyên cáo đó không mảy may ngập ngừng: “Ngài nói tôi là vua….Tôi đến thế gian này vì điều đó.”

Để làm gì? Để khai mở và kiến tạo một thế giới hòa bình huynh đệ, thế giới của công lý và nhân quyền, thế giới yêu Chúa và thương người, mọi người yêu thương nhau như anh em một nhà. Đó chính là vương quốc đã đi vào lịch sử loài người, soi sáng nó và dẫn đưa nó vượt thoát khỏi chính nó để trở thành một vương quốc đời đời vô tận. Như khi chúng ta đọc Kinh Lạy Cha: ‘Lạy cha chúng con ở trên trời…Xin cho nước Cha trị đến… .’

Đọc đoạn Tin Mừng Chúa Giêsu đối đáp trước tòa, chúng ta thấy quan tòa Pilate tỏ ra rất bối rối khi phải đối diện với một bị cáo tự xưng mình là ‘Sự Thật’. Xin hỏi trong mỗi người chúng ta có cái gì giống như ông tòa Pilate không? Cái gì đã ngăn cản chúng ta, làm cho chúng ta mất tự do, thiếu tự nhiên? Cái gì làm cho chúng ta sợ hãi? Danh hiệu của chúng ta là gì? Y phục nào chúng ta mặc, mặt nạ gì chúng ta đeo nơi công cộng mà chúng ta không cảm thấy xấu hổ, sợ bị tổn thương? Chúng ta lấy tư cách gì mà làm lơ bạn bè, tài cán gì để trà đạp người khác hầu nâng mình lên, giữ thể diện cho mình hoặc tiếp tục nắm giữ địa vị, việc làm tốt, lương cao? Có bao giờ vì thể diện hão mà ta muối mặt lấy những ý kiến hay tư tưởng đẹp của người làm của mình để tạo tư cách và uy danh cho mình không?

 

VƯƠNG QUỐC CỦA CHÚA GIÊSU

Tin Mừng thánh Gioan chú trọng vào vương quyền của chúa Kito. Cốt lõi sứ điệp của chúa Giêsu là vương quốc Thiên Chúa, và Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô chính là Thiên Chúa của vương quốc, Người có Lời và liên quan đến lịch sử nhân loại, trong đó có hình ảnh của vương quốc, tức nước trời. Trong vương quốc của chúa Giêsu, không có khoảng cách giữa thế quyền và giáo quyền, nhưng có khác biệt giữa thống trị và phục vụ.

Vương quốc của Chúa Giêsu không phải là loại vương quốc mà quan tổng trấn Pilate nghĩ tới, muốn hoặc không muốn tham dự. Vương quốc của quan Pilate là vương quốc La Mã, kiểu chuyên chế, đặc quyền đặc lợi, thống trị và xâm lăng.Vương quốc của Chúa Giêsu, trái lại, được xây dựng trên tình yêu, công lý và hòa bình.

Chúa Giêsu đã tuyên bố vương quốc của Thiên Chúa là vương quốc thánh thiêng và ân sủng, công lý, tình thương và hòa bình. Mục đích sau cùng của Thiên Chúa nơi vương quốc này đã được thực hiện ngay từ khởi đầu. Đó là giải phóng và cứu chuộc, mục đích tối hậu của Chúa Giêsu. Chúa đã nói vương quốc này là một thực tế tương lai, nhưng lại đang hiện diện một cách nhiệm màu nơi Ngài, trong hành động và Lời của Ngài cũng như trong thân phận làm người của Ngài.

Nếu vương quyền của Chúa Giêsu được mừng long trọng, được tung hô trong ngày Lễ Kito Vua hôm nay có làm bực mình, ngứa mắt một số người, thì đó phải chăng vì những ông vua, những nhà lãnh đạo trần thế vẫn chưa giác ngộ đủ? Vương quyền của Chúa Giêsu khác hẳn vương quyền của họ. Vương quyền và phương cách lãnh đạo của Con Một Thiên Chúa không chấp nhận thứ bậc, đặc quyền đặc lợi và bất cứ một toan tính âm mưu nào để làm chủ thế giới, làm thầy thiên hạ. Chúa không có tham vọng, không ham danh hám lợi và ham mê quyền lực. Chính Người, một quân vương vô tội đã không kết án, xử tội bất cứ ai, nhưng Ngài lại tự hiến thân mình chịu chết cho muôn dân. Chính trị của Ngài đã làm đảo lộn mọi ý niệm về vương quyền trên trái đất. Vương quyền của Ngài là vương quyền phục vụ, ngay cả hy sinh mạng sống mình cho tha nhân.

Theo Tin Mừng thánh Gioan, Chúa Giêsu đã chịu chết vì là Vua. Ngày Chúa bị đóng đanh treo trên thập giá chính là ngày lễ nhậm chức lên ngôi hoàng đế của Ngài, một biểu lộ tối hậu về phục vụ của vương quyền của Ngài. Nhờ Chúa Kito, cuộc đăng quang đau khổ đã hủy giệt được sự chết, mang lại sự sống vĩnh cửu. Rất ít ai có được cái phong cách hoàng đế như Chúa Giêsu, mà lại tỏ ra mình chẳng có quyền hạn gì trước mặt những kẻ đầy quyền uy. Trái lại, nhiều người trong chúng ta, bề ngoài thì làm vẻ chống đối, cưỡng lại quyền lực, nhưng bên trong vẫn dùng áp lực và mọi thủ thuật rất tinh vi để hợp tác. Chúa Giêsu không bao giờ dùng mánh khóe lươn lẹo, không dùng bạo lực chống lại bạo lực.

 

HAI VƯƠNG MIỆN

Nếu ai có dịp đi thăm đất thánh Jerusalem, sẽ thấy Tu viện Ecce Homo/Này là Người, một trung tâm của các nữ tu Sion nằm trên đường Thương Khó / Via Dolorosa trong cổ thành Jerusalem. Toàn thể tu viện được xây trên một khu đất mà người ta tin rằng hồi xưa là tòa án của tổng trấn Pontius Pilate.

Miền đất thánh ở Jerusalem, nơi kỷ niệm những biến cố xoay quanh cuộc sống, cuộc khổ nạn và cái chết của chúa Giêsu, hàng năm đều có hai cuộc lễ lớn để nhắc lại những vui buồn trong cuộc đời của Chúa Giêsu. Ngày lễ quan thầy của Tu Viện Ecce Homo là ngày lễ Chúa Kitô là Vua, biểu lộ niềm vui, kết thúc năm phụng vụ và biểu lộ nỗi buồn chúa Giêsu chịu đội mạo gai vào ngày thứ sáu đầu tiên Mùa Chay. Hai ngày lễ, hai vương miện, hai hình ảnh, một ý nghĩa về chúa Giêsu là Thiên Chúa, được đưa ra trước cộng đồng Kito hữu để chúng ta cùng nhau suy niệm và noi gương bắt chước.

Lễ Chúa Kito Vua cho chúng ta hình ảnh chúa Kito mang triều thiên, thoạt tiên là triều thiên mạo gai, rồi triều thiên chiến thắng, vương miện vinh quang không bao giờ tàn. Vào ngày chúng ta chịu phép Thánh Tẩy, khi dầu thánh được xức trên trán chúng ta là lúc chúng ta đội triều thiên, dấu hiệu của vương quyền làm cho chúng ta trở thành một Kito khác, một Kitô được xức dầu. Chúng ta đã có sức mạnh để Sống thật tin tưởng và Yêu thật mãnh liệt như chính chúa Giêsu đã sống và đã yêu. Triều thiên vinh quang –là của chính chúa Kitô- đã được hứa ban cho mỗi người chúng ta. Vậy thì triều thiên nào nằm ở trung tâm Đức Tin và Tuyên Hứa của chúng ta?

 

AI ĐÂY, NẾU KHÔNG PHẢI LÀ ĐẤNG CỨU THẾ ĐÃ BỊ KẾT ÁN?

Chúa Giêsu đã trả lời quan tổng trấn La Mã một cách quả quyết ‘Ta là Vua’, nhưng không phải là vua thế gian (Ga 18:36). Ngài đến không phải để chiếm đất dành dân, nhưng để giải phóng muôn dân khỏi nô lệ tội lỗi và hòa giải họ với Thiên Chúa. Ngài nói: “Vì lẽ đó mà tôi sinh ra và đến thế gian này, để chứng minh cho Sự Thật. Ai thuộc về Sự Thật thì nghe lời tôi” (Ga 18:37).

Sự Thật là gì mà chúa phải đến thế gian này để làm chứng? Toàn thể cuộc sống của Chúa đã chứng tỏ Thiên Chúa là Tình Yêu: Vậy thì đây là Sự Thật đã được Chúa làm chứng một cách trọn vẹn bằng hy sinh mạng sống mình trên núi Calvary. Chúa Giêsu đã thiết lập vương quốc của Thiên Chúa một lần cho tất cả qua thập tự giá. Con đường đi tới đích đó thì dài, không có đường tắt nào hết. Mọi người đều hoàn toàn tự do để chấp nhận Sự Thật của Tình Yêu Thiên Chúa.

Thiên Chúa là Tình Yêu và là Sự Thật. Không có Tình Yêu nào, không có Sự Thật nào là áp đặt cả. Nó nhẹ nhàng đến gõ cửa tâm hồn chúng ta, chờ đợi chúng ta mở cửa lòng đón chào nó. Tuy nhiên đa phần chúng ta sợ hãi không muốn tiếp đón những người khách đó vào nhà chúng ta, vào cuộc sống chúng ta và vương quốc trần thế này, bởi vì có nhiều mâu thuẫn trầm trọng liên quan đến những tặng vật đó. Nhiều người ra mặt chống lại Sự Thật bằng quyền lực, có người lại dùng áp lực và thủ thuật dưới những hình thức rất tinh vi khéo léo để tạo nguy hiểm cho Sự Thật.

Khi chúng ta chiêm ngưỡng hình ảnh Chúa bị đóng đanh, chúng ta cũng hiểu được chút nào đó là tại sao Chúa vẫn giữ danh hiệu Vua ngay cả cho đến thời nay. Chúa đã không cúi đầu. Chúa là Sự Thật đầu thai, không bao giờ áp đặt bất cứ ai. Ngài đến, Ngài gõ cửa, Ngài đứng, Ngài chờ,…Ngài không dùng bạo lực đáp trả bạo lực.

 

LỜI KẾT

Chúng tôi mượn lời Chân phước Giáo hoàng Gioan Phaolo II để làm lời kết cho bài viết.

Khi kết thúc đàng Thánh Giá tại Coliseum ở Rome vào đêm thứ Sáu năm Thánh 2000, Chân phước Giáo hoàng Gioan Phaolo II đã nói như sau:

*Ai đây, nếu không phải là đấng Cứu Thế, có thể thấu hiểu một cách trọn vẹn nỗi đau đớn của những kẻ bị kết án một cách bất công?

*Ai đây, nếu không phải là một ông Vua bị khinh miệt và làm nhục, lại có thể đạt được kỳ vọng của biết bao nhiêu người cả nam lẫn nữ hiện đang sống cuộc sống vô vọng và vô nhân phẩm?

*Ai đây, nếu không phải là con Thiên Chúa, có thể biết đến những nỗi sầu buồn và cô đơn của biết bao nhiêu người mà cuộc sống của họ bị chà đạp, dày xéo, tan nát không tương lai?

Chúa Giêsu đã mang những vết thương của Người về thiên đàng, ở đó đã dành sẵn một nơi cho những vết thương đau của chúng ta, bởi vì vua của chúng ta đã mang những vết thương của Người về trời trong vinh quang.

Đức Vua của chúng ta bị đóng đanh và đưa lên cao giữa muôn dân, hai tay giang ra như chào đón, đầy vẻ yêu thương nhân hậu. Chớ gì chúng ta có đủ can đảm để cầu xin Ngài nhớ đến chúng ta trên vương quốc của Ngài, ban ân sủng cho chúng ta để chúng ta noi gương Ngài khi còn ở trần thế này, ban ơn khôn ngoan để chúng ta biết đón chào Chúa khi Chúa đến gõ cửa tâm hồn chúng ta.

Chúa Giêsu Kitô là Vua chúng ta và Vua nhân loại. Vua của Tình Yêu, Công Lý và Hòa Bình. Ngài đã cứu chúng ta khỏi vũng lầy tội lỗi.

 

Fleming Island, Florida

Nov. 24, 2012

NTC

 

VỀ MỤC LỤC
ÁO KHIÊM TỐN

Trong một vương quốc rộng lớn giàu sang nọ, trong khi nhà vua và mọi người điều hạnh phúc và vui tươi, riêng chàng hoàng từ luôn tỏ ra âu sầu, buồn chán; dường như chàng thiếu một điều gì đó mà không diễn tả thành lời được.

Lo lắng trước tình trạng của hoàng tử, nhà vua hỏi ý kiến các đại thần và lương y nhằm tìm cách giúp hoàng tử. Ban đầu người ta tưởng rằng do thất tình mà hoàng tử gặp chứng ưu phiền, nhưng sau một thời gian tìm hiểu, nhà vua được một đại thần cho biết là nếu nhà vua tìm được ai có chiếc áo khiêm tốn và cho hoàng tử mang chiếc áo ấy, hoàng tử sẽ bình phục và hạnh phúc.

Ngay sau đó, nhà vua yêu cầu quân lính tìm xem ai đang mang áo khiêm tốn để xin cho hoàng tử. Sau một thời gian, người ta nghe danh một tu sĩ được cho là thánh thiện và khiêm tốn. Giả dạng một thương gia giàu có, nhà vua gặp vị tu sĩ để xin áo khiêm tốn. Nhà thương gia mở lời, “Thưa ngài, nghe danh thánh thiện và sự khiêm tốn của ngài đã lâu, hôm nay tôi hân hạnh được diện kiến ngài. Tôi nghe người ta đồn rằng, ngài được một vị thần nào đó đã cho ngài chiếc áo tu sĩ; có phải nhờ chiếc áo này mà ngài nên thánh thiện và khiêm tốn phải không?” Vị tu sĩ tỏ vẻ khó chịu đáp ngay, “Có ai cho tôi cái áo này đâu, chiếc áo tu sĩ này là thành quả của bao năm tu luyện và học tập.” Người thương gia tiếp, “Xin ngài cho tôi chiếc áo của ngài đang mang được không? Tôi muốn con tôi được thánh thiện và khiêm tốn như ngài.” Vị tu sĩ nhìn người thương gia liền đáp, “Không được, tôi nhờ chiếc áo này mà danh tiếng của tôi vang xa, nay cho ông thì còn ai biết đến tôi nữa.” Nghe xong, người thương gia từ giả buồn rầu vì biết rằng ông chưa thực sự tìm được người có chiếc áo khiêm tốn.

Một thời gian sau, nhà vua được giới thiệu cho biết là có một vị quan rất có tài năng trong việc cai trị dân làng. Nghe như thế, nhà vua nghĩ rằng ông quan này là người đức độ và đang sở hữu chiếc áo khiêm tốn. Tìm đến ông quan dưới dạng người thương gia, nhà vua cho biết là đã nghe danh của vị quan về tài năng và đức độ, “Tôi nghe nói, sở dĩ quan trở nên đức độ và tài năng là nhờ trời cho quan có chiếc áo thần mà mỗi lúc mang nó vào thì người dân luôn phục tùng quan có phải không? ” “Đúng vậy,” quan trả lời và tiếp, “Với chiếc áo này, khi mọi người thấy tôi đi qua đều quì rạp xuống và không một ai dám nhìn thẳng tôi; vì lẽ đó, việc ai trị của tôi rất dễ dàng và thuận lợi.” Với kinh nghiệm làm vua đã lâu, nhà vua hiểu ngay rằng, chỉ vì sợ hãi mà người dân vâng lệnh vị quan chứ không phải tài đức của ông mà làm cho người dân vâng phục.

Trên đường trở về hoàng cung với một thân xác mệt lã, đói khát, và một trái tim buồn lo vì chưa chưa tìm được chiếc áo khiêm tốn cho con mình, nhà vua thấy một người nông dân với nét mặt bình an tự tại vác cuốc đi ngang trước mặt. Nhà vua tự giới thiệu, “Tôi là người bị lạc đường, tôi không có thức ăn, tôi không có chỗ nghĩ, tôi không có áo quần để thay; ông có thể giúp tôi được không?” Chưa kịp dứt lời, người nông dân mau mắn mời người qua đường về căn chòi của mình. Đến nhà, người nông giới thiệu cho vợ con về người khách quí gặp trên đường. Sau đó ông dọn phòng cho vị khách, đưa áo quần cho vị khách thay. Tiếp theo ông mau mắn giúp vợ con ông chuẫn bị cho bữa ăn tối. Sự nhiệt tình vui tươi của người nông dân làm cho nhà vua suy nghĩ. Sau khi tắm rửa, nhìn chiếc áo rách mà người nông dân đưa cho mình, nhà vua lưỡng lự là mình có nên mang nó vào hay không. Sau một hồi, ông cũng đánh liều mang chiếc áo rách vào. Lạ thay, sau khi mang chiếc áo rách vào, ông như muốn chạy xuống bếp để làm việc với gia đình người nông dân; ông cảm thấy thích thú khi rửa chén, lau bàn, dọn dẹp vệ sinh. Ông không còn nghĩ mình là khách và là vua nữa, nhưng là một nông dân với chiếc áo rách. Ông xin ở lại với gia đình người nông dân thêm ít ngày nữa để đi cuốc đất, trồng khoai và trò chuyện với họ. Ông chẳng hề nghĩ đến vương niệm, ngai báu, nhưng luôn thưởng hưởng được sự an bình, vui tươi. Sau vài ngày sống với người nông dân và mang chiếc áo rách của người nông dân, nhà vua nhận ra rằng, đây chính là chiếc áo khiêm tốn sẽ giúp con mình lành bệnh.

Ngày chia tay với người nông dân, nhà vua lấy một thỏi vàng trao cho người nông dân và xin được đổi chiếc áo rách nông dân. Ông nhận ra rằng, không có chiếc áo nào làm cho người ta trở nên khiêm tốn, thánh thiện, và quyền uy nếu chính mình không mang sự thấp hèn, rách nát của đồng loại vào con người mình. Chính khi thực sự chia sẻ tất cả sự thấp hèn ấy, ông thấu chạm được nỗi khổ của con người, vì lẽ đó ông cũng chạm được sự thánh thiện, khiêm tốn, và quyền uy – không phải để thống trị, mà là để yêu và cảm thông chia sẻ.

Ông trở về với chiếc áo rách trên tay; ông mặc chiếc áo ấy cho hoàng tử và gởi hoàng tử sống với người nông dân một vài năm. Quả thật, hoàng tử đã trở nên một con người như vua cha mong muốn.

* * *

Thưa bạn, mục Sống Sao Cho Đẹp mời bạn cùng mang chiếc áo rách khiêm tốn của người nông dân trong từng ngày sống của mình. Nếu chiếc áo tôi đang mang cũng rách, thì chắc một điều tôi không dám chê chiếc áo rách mà bạn tôi đang mang đâu!

Br. Huynhquảng

VỀ MỤC LỤC
NĂM ĐỨC TIN : THẾ NÀO LÀ NGƯỜI THỰC SỰ CÓ ĐỨC TIN ?

Năm Đức tin đã được mở ra trong Giáo Hội từ ngày 11 tháng 10 năm 2012 cho đến ngày 24 tháng 11 năm 2013.Mục đích là để mọi người trong Giáo Hội nhìn lại đời sống đức tin của mình để trước hết cảm tạ Thiên Chúa đã ban quà tăng đức tin vô giá cho chúng ta và từ đó thêm quyết tâm sống đức tin cách cụ thể và có chiều sâu hơn nữa để thích nghi với những thách đố của thời đại tục hóa, trống vắng mọi niềm tin này, và cũng để phúc âm hóa người khác, tức là mời gọi thêm nhiều người nữa nhận biết và tin yêu Chúa Kitô, Đấng Cứu Chuộc nhân loại.

Đó là tất cả ý nghĩa và mục đích của công cuộc “Tân phúc âm hóa để loan truyền đức tin Kitô-Giáo=New Evangelization for the transmission of Christian faith) mà Giáo Hội thi hành trong Năm Đức Tin này

Thực vậy, chúng ta đang sống trong hoàn cảnh tục hóa của thời đại tôn thờ vật chất ( Materialism) chuộng khoái lạc ( hedonism) vô thần ( atheism) và phi luân vô đạo ( amoralism).

Do đó, hơn bao giờ hết, là người tin có Thiên Chúa là Đấng tạo dựng con người và muôn vật hữu hình và vô hình, tin Chúa Kitô là Đấng cứu chuộc nhân loại, tin Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống và là Thần Chân Lý, hiệp nhất cùng một bản thể với Chúa Cha, và Chúa Con trong Mầu Nhiệm Ba Ngôi một Thiên Chúa duy nhất. Tin Mẹ Maria là Mẹ thật của Chúa Kitô và cũng là Mẹ Thiên Chúa ( Theotokos) trọn đời đồng trinh và được về trời cả hồn xác. Tin Hội Thánh Công Giáo là Thân Thể mầu nhiệm của Chúa Kitô trong sứ mệnh bảo vệ kho tàng đức tin và rao giảng Tin Mừng Cứu Độ của Chúa Kitô cho đến ngày mãn thời gian và tin xác loài người ngày sau sẽ sống lại.

Đó là nội dung căn bản của Đức Tin Công Giáo mà chúng ta hãnh diện tuyên xưng, sau khi được lãnh nhận qua Phép Rửa để trở thành tạo vật mới và được phép gọi Chúa là Cha. ( Abba).

Như thế “đức tin là bảo đảm cho ta những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy. Nhờ đức tin ấy, các tiền nhân đã được Thiên Chúa chứng giám.” ( Dt 11 : 1-2)

Trước hết, Đức tin là điều kiện tiên quyết cho ta được cứu độ nhờ công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô, Đấng đã đến trần gian làm Con Người để “ phục vụ và hiếm nạng sống mình làm giá chuộc cho muôn người.” ( Mt 20; 28).

Do đó, phải có đức tin để tin Chúa Kitô là Đấng Cứu Chuộc để nhờ Người mà ta được cứu rỗi nếu ta thực sự cộng tác với ơn cứu rỗi đó bằng quyết tâm sống theo đường lối của Chúa trong suốt cuộc đời trên trần thế này.

 

Nhưng phải sống đức tin cách nào cho xứng đáng là người thực sự có đức tin ?

Có đức tin là điều tối cần thiết nhưng quan trọng hơn là phải sống đức tin ấy bằng hành động cụ thể từ trong tâm hồn ra đến mọi hành động bên ngoài giữa bao người không có đức tin để minh chứng mình khác với họ ở điểm then chốt là có động lực nội tâm hướng dẫn mọi mọi tư tưởng, tình cảm và hành động của mình về Thiên Chúa là đich điểm của mọi sự thiện hảo , sự lành và trong sạch giữa thế gian ô uế vì tội lỗi, vì gian ác và đầy bất công, vô nhân đạo. Động lực đó là niềm tin có Chúa là Đấng trọn tốt trọn lành, uy quyền vô song, rất công bình và giầu tình thương.

Như vậy, người có đức tin phải sống đức tin ấy sao cho phản ảnh trung thực những đặc tính của Đấng mình tin yêu tôn thờ để nhờ sống niềm tin như vậy, ta sẽ giới thiệu Chúa cho người khác chưa biết Chúa để họ được thấy Chúa hiện diện trong ta và đem lòng tin yêu Người như Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ xưa:

Chính anh em là ánh sáng cho trần gian….Cũng vậy , ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt người thiên hạ, để họ thấy những việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em Đấng ngự trên trời.” ( Mt 5: 14-16)

Nói rõ hơn, trong khi những người không có niềm tin Chúa, nên làm những việc sai trái như thề gian, nói dối, bất công bóc lột người khác, trộm cắp, nhất là giết người, gian dâm, cờ bạc, thay vợ đổi chồng, tiếp tay với kẻ cầm quyền vô đạo để đàn áp, triệt hạ những ai chống đối đòi quyền sống và công bình xã hội.. thì người có đức tin phải nêu cao những giá trị của niềm tin là ngay thẳng, lương thiện, công bình, bác ái, yêu thương, tha thứ và trong sạch để nên nhân chứng đích thực cho Chúa trước mặt những người không có niềm tin và đang làm những sự xấu, sự dữ nói trên, để mong thức tỉnh họ từ bỏ con đường dẫn đến hư mất đời đời.

Như thế, sống đức tin cách hoàn hảo và cụ thể không những góp phần phúc âm hóa người khác mà còn nói lên chính mình là người thực sự tin có Thiên Chúa là Cha toàn năng, Đấng tạo dựng muôn loài, mọi vật và đặc biệt tạo dựng con người “ giống hình ảnh Thiên Chúa” ( St 1 : 27) Đấng “ muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý.” ( 1 Tm 2 : 4), vì “Thiên Chúa là tình yêu..” ( 2 Ga 4: 8).

Nói khác đị, đức tin phải được chứng minh bằng hành động cụ thể để cho thấy sự trung thực giữa lý thuyết và thực hành, giữa lời nói suông là có đức tin khác biệt với hành động được đức tin thúc đẩy , soi dẫn và qui chiếu về Thiên Chúa là nguồn mạch chân lý, và thiện hảo như Thánh Gia-cô-bê Tông Đồ đã dạy như sau:

Hỡi người đầu óc rỗng tuếch : bạn có muốn biết rằng đức tin không có hành động là vô dụng không ? ông Ap-bra-ham tổ phụ chúng ta đã chẳng được nên công chính nhờ hành động , khi ông hiến dâng con mình là I-Xa-ac trên bàn thờ đó sao? Bạn thấy đó, đức tin hợp tác với hành động của ông, và nhờ hành động mà đức tin nên hoàn hảo.” ( Gc 2 : 20-22)

Nghĩa là, vì có đức tin mạnh mẽ và lòng mến Chúa thâm sâu, nên ông Abraham đã dám hy sinh con một của ông là Issac theo lời đòi hỏi của Thiên Chúa nhằm thử thách đức tin và lòng mến của ông. Nếu Chúa không sai Sứ thần đỡ lấy tay ông đang cầm dao vung lên, thì chắc chắn con ông đã bị giết. Thiên Chúa đã can thiệp để cứu mạng sống của Issac, vì đã nhìn thấy rõ đức tin phi thường của ông Apbraham, nên Chúa đã phán bảo ông như sau qua Sứ thần của Người:

“ Sứ Thần của ĐỨC CHÚA từ trời gọi ông Abraham một lần nữa và nói:” Đây là sấm ngôn của Đức Chúa, Ta lấy danh Ta mà thề : bởi vì ngươi đã làm điều đó, đã không tiếc con của ngươi, con một của ngươi, nên Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi, sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông, nên nhiều như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển…chỉnh bởi ngươi đã vâng lời Ta.” ( St 22: 15- 18)

Sự kiện trên cho thấy là ông Abraham đã thể hiện cách cụ thể lòng tin yêu Thiên Chúa qua việc ông dám hy sinh con một của mình để tế lễ Chúa như Người đã truyền cho ông. Hành động cụ thể của ông đã đủ minh chứng đức tin mạnh mẽ và hoàn hảo của ông khiến ông trở nên người cha của những ai tin và yêu mến Thiên Chúa cách cụ thể và đầy thuyết phục như Thánh Gia-cô-bê nói trên đây.

Cũng phải kể thêm gương đức tin sáng chói nữa là của các Thánh Tử Đạo- đặc biệt là các anh hùng Tử Đạo Viêt-Nam, cha ông chúng ta đã can đảm và anh dũng chịu mọi cực hình để tuyên xưng niềm tin sắt son của mình trước bạo quyền bách hại.Chính nhờ máu các ngài đổ ra mà hạt giống đức tin đã nẩy sinh ra nhiều tin hữu cho Giáo Hội Việt-Nam.

Ngay nay, chúng ta không có cơ hội đổ máu mình ra để tuyên xưng đức tin như các anh hùng Tử Đạo xưa kia.Nhưng chúng ta vẫn có nhiều cơ hội khác để minh chứng đức tin của mình trước bao người không có đức tin và đang làm những sự dữ như giết người, giết thai nhi, bóp nghẹt lương tâm để lường gạt người khác, hoặc làm những việc có chủ đích mời gọi người khác phạm tội như mở sòng bạc , nhà mãi dâm, buôn bán ma túy, hoặc phụ nữ cho kỹ nghệ dâm ô dưới chiêu bài “hôn nhân nước ngoài” khiến biết bao phụ nữ, vì nghèo đói, phải cam chịu đem bán mình làm thú vui cho kẻ vô luân vô đạo ở trong và ngoài nước.

Trước thực trạng ghê tởm này, người tín hữn Chúa Kitô- đều được mong đợi sống niềm tin của mình cách cụ thể là không những phải xa tránh những lối sống vô luân vô đạo nói trên mà còn phải can đảm lên án những tụt hậu thê thảm về luân lý, đạo dức của xã hội mình đang sống, theo gương Chúa Kitô, Người đã lên án tội lỗi của thế hệ đương thời như sau :

“ Thế hệ gian ác và ngoại tình này đòi dấu lạ.Nhưng chúng sẽ không được dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Giôna..” ( Mt 16: 4)

Dấu lạ ông Giôna là dấu dân thành Ni-ni-vê, nghe lời cảnh cáo của ngôn sứ Giôna để ăn chay, xám hối, xin Chúa tha thứ không đánh phạt và Chúa đã nhậm lời xin tha không trừng phạt họ như Người đã ngăm đe. ( Gn 3: 1-10)

Như vậy , gương đức tin của ông Abraham và của các Thánh Tử Đạo phải là những khuôn vàng thước ngọc cho chúng ta ngày nay noi theo để minh chứng cụ thể trước thế gian chúng ta thật sự tin yêu Chúa, Đấng chúng ta không được xem thấy, nhưng vững lòng tin có Người là Cha toàn năng. Người yêu thương mọi con cái loài người đến mức đã hy sinh chính Con Một của mình là Chúa Kitô, Đấng cũng vui lòng hiến mạng sống mình cho chúng ta được tha thứ tội lỗi và có hy vọng được cứu độ để sống hạnh phúc muôn đời với Chúa tình thương trên Nước trời mai sau.

Phải nói là có hy vọng thôi chứ không phải là bảo đảm chắc chắn ngay từ bây giờ vì tất cả còn tùy thuộc một phần nơi thiện chí của mỗi người chúng ta trong cuộc sống đức tin trên trần thế này.

Thức vậy, chúng ta phải sống đức tin có Chúa ở mọi chiều kích như đức tin đòi hỏi. Đó là -trước hết- phải thực tâm yêu mến Chúa trên hết mọi sự,và cương quyết từ bỏ ma quỷ là kẻ gây ra mọi tội lỗi để mong đẩy xa con người ra khỏi tình thương của Chúa. Đó là hành động cụ thể để chứng minh hùng hồn đức tin hoàn hảo vì “ đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết.” như Thánh Gia-cô-bê Tông Đổ đã dạy.(cf. Gc 2: 17)

Kinh nghiệm phổ biến trong cuộc sống ở khắp mọi nơi cũng cho ta thấy là người nào chỉ nói , nói nhiều , nói hay, mà không thực hành điều mình nói thì chắc chắn sẽ không thuyết phục được ai tin những gì mình nói. Thí dụ hô hào, kêu gọi người khác làm việc bác ái, giúp đỡ thiết thực cho người đang nghèo đói, nhưng bản thân mình lại không hề bỏ ra một đồng nào để giúp các nạn nhân trong khi mình có dư khả năng làm việc đó , thí làm sao lời hêu gọi của mình được ai hưởng ứng nữa ?

Lại nữa, khuyên người khác sống hòa thuận vợ chồng mà mình lại ly dị vợ hay chồng để lấy người khác trẻ, đẹp hơn thì lời khuyên của mình còn thuyết phục được ai nữa ?

Cũng vậy, mang danh người tín hữu Chúa Kitô mà tham gia vào những việc làm ăn bất lương, bất công, bóc lột người khác, dửng dưng trước sự khò nghèo của người khác, có dư thì giờ đi hu hí, nhẩy nhót mất nết, vui chơi thâu đêm suốt sáng, nhưng lại không có giờ đi dự lễ ngày Chúa Nhật cách trọn vẹn, cũng như không hề cầu nguyện và năng xưng tội , rước Mình Thánh Chúa, thì đức tin kia còn sống hay đã chết ?

Lại nữa, miệng nói tôi tin Chúa Kitô, mà chân lại bước vào những con đường dẫn đến các sòng bạc lớn nhỏ, đến những nơi mua bán dâm ô, hoặc những nơi giải tri tội lỗi để thỏa mãn thú vui xác thịt, và nhất là thú ấu-dâm ( child prostitution) rất khốn nạn thì mang danh Công giáo và tuyên xưng đức tin ngoài môi miệng có ích lợi gì cho ai ?

Khi lời nói không đi đôi với việc làm thì sẽ trở thành người đạo đức giả, giống bọn biệt phái và luật sĩ mà Chúa Giêsu đã nặng lời chỉ trích xưa kia.

Những ai sống kiểu này cần nghe lại lời Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ xưa như sau:

“ Không phải bất cứ ai thưa với Thầy, Lậy Chúa, Lậy Chúa là được vào Nước Trời cả đâu, Nhưng chỉ ai ai thi hành ý muốn của Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.” ( Mt 7: 21)

Thi hành ý muốn của Cha trên Trời có nghĩa là phải sống đức tin thực sự từ trong tâm hồn ra đến hành động bên ngoài sao cho phản ảnh trung thực những giá trị của Tin Mừng Cứu Độ mà Chúa Kitô đã rao giảng và không hổ thẹn phải xưng danh Chúa và sống những đòi hỏi của Phúc Âm sự sống trước mặt người đời, trước mặt những kẻ đang sống theo “văn hóa của sự chết” để làm những điều gian ác vô luân vô đạo ở khắp nơi.

Người tín hữu nào không có can đảm sống đức tin như vậy thì hãy nghe lời Chúa cảnh giác sau đây :

“ giữa thế hệ ngoại tình và tội lỗi này, ai hổ thẹn vì Ta và những lời Ta dạy.

thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn vì kẻ ấy, khi Người ngự đến cùng với các thánh

Thiên thần, trong vinh quang của Cha Người. “ ( Mc 8: 38).

Tóm lại, Năm Đức Tin mời gọi mọi tín hữu không những dâng lời cảm tạ Chúa về quà tặng đức tin quý giá đã nhận được , mà cần thiết phải nhìn lại cách sống đức tin của mình trong bao năm qua, để từ đó – với ơn Chúa Thánh Linh soi sáng - biết chuyển hướng đời sống đức tin của mình cho thêm cụ thể và sống động để sống xứng đáng là nhân chứng cho Chúa Kitô trước mặt người khác trong hoàn tục hóa, phản Kitô-giáo của thế giới ngày nay.

Lm. Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

VỀ MỤC LỤC
Ngư phủ khôn ngoan   

   Chuyển ngữ: Lm. Minh Anh

 

Nguyên tác: Taking Flight - Bay Lên Đi

Tác giả: Anthony de Mello, S.J.

Chuyển ngữ: Lm. Minh Anh (Gp. Huế)

Chỉ dẫn:

Tốt nhất, các câu chuyện sẽ được đọc theo thứ tự như đã sắp xếp. Mỗi lần đọc không quá một hoặc hai mẩu chuyện nếu bạn ước ao có được một cái gì đó hơn là chỉ giải trí.

Lưu ý:

Các chuyện kể trong tập sách này đến từ nhiều đất nước, nhiều nền văn hoá và tôn giáo khác nhau; chúng thuộc về những di sản thiêng liêng, những câu chuyện hài hước được ưa chuộng của dòng đời nhân loại.

Những gì tác giả làm là xâu kết chúng lại với nhau theo một ý hướng đặc thù. Công việc của tác giả là công việc của người thợ dệt và thợ nhuộm, tác giả chẳng có công trạng gì về những tấm vải và những sợi chỉ.

LTS.Chỉ dẫn và lưu ý trên đây là của tác giả. Tuy nhiên, vì Đặc San GSVN chỉ phát hành 2 tuần một lần nên mỗi số báo BBT xin giới thiệu trung bình từ 5 đến 7 mẫu chuyện. Bạn đọc có thể lưu lại để nghiền ngẫm suy tư.

Chủ đề : TÔN GIÁO (tiếp theo)

 

91. Ngư phủ khôn ngoan

Đêm nọ, một ngư phủ lẻn vào vùng đất của một phú hào và thả lưới trong một hồ đầy cá. Ông chủ nghe biết và cho người đứng gác.

Khi ngư phủ thấy đám đông cầm đuốc tìm kiếm khắp nơi, ông nhanh chóng bôi tro lên người và núp dưới lùm cây theo phong tục của những người thánh thiện ở Ấn Độ.

Ông chủ và những người lính canh không thể tìm ra người thả lưới trộm, dù họ tìm thật lâu. Tất cả những gì họ tìm thấy là một người thánh thiện, phủ đầy tro, ngồi dưới cây, chìm đắm trong suy niệm.

Ngày hôm sau, bàn dân thiên hạ đồn rằng một nhà khôn ngoan vĩ đại đã rủ lòng thương đến cư ngụ trên lãnh địa của phú hào. Người ta, tay đầy hoa trái, thậm chí cả tiền, tụ tập để tỏ lòng tôn kính ông ta vì họ tin rằng những món quà, khi được dâng cho một người thánh thiện sẽ mang lại phúc lành của Thiên Chúa cho người dâng.

Ngư-phủ-hóa-bậc-khôn-ngoan ngạc nhiên trước món hời. “Kiếm sống dựa vào niềm tin của những người này thì dễ dàng hơn bởi lao công của đôi tay”, ông tự nhủ. Vì thế ông tiếp tục chiêm niệm và không bao giờ trở lại công việc.

 

ڰ

 

92. Vua và linh mục

Một ông vua mơ thấy một vị vua ở thiên đàng và một linh mục ở hỏa ngục. Ông phân vân làm sao điều đó có thể xảy ra rồi ông nghe một giọng nói: “Vua ở thiên đàng vì ông tôn trọng các linh mục. Các linh mục ở hỏa ngục vì họ thoả hiệp với các vua”.

ڰ

93. Muốn trở thành gái điếm

Một nữ tu hỏi bọn trẻ trong lớp muốn làm gì khi lớn lên, thằng nhóc Tommy trả lời, mình muốn trở thành một phi công; Elsie muốn làm bác sĩ; Bobby, trước niềm vui khôn tả của nữ tu, muốn trở thành một linh mục. Rồi Mary, đứng dậy... và công bố mình muốn trở thành một gái điếm.

“Nói lại xem nào, Mary?”.

“Khi lớn lên”, Mary nói với vẻ của một ai đó biết chính xác điều mình muốn, “con sẽ trở thành một gái điếm”.

Nữ tu sửng sờ trước những lời đó. Ngay lập tức Mary bị tách ra khỏi bọn trẻ và được dẫn tới linh mục quản xứ.

Người ta trình bày cho cha những dữ kiện đại cương nhưng ngài muốn kiểm tra chúng với tội phạm: “Mary, con nói cho cha biết điều gì xảy ra theo lời của con”.

“Ồ”, Mary nói, hơi rụt rè trước sự việc quan trọng, “Soeur hỏi con muốn làm gì khi lớn lên và con nói con muốn trở thành một gái điếm”.

“Con nói là gái điếm à?” Cha hỏi, kiểm tra lần hai.

“Dạ”.

“Trời ơi! Nhẹ cả người! Tất cả chúng ta cứ nghĩ con nói, mình sẽ trở thành một tín hữu Tin Lành!”.

ڰ

 

94. Thằng con trai

Giáo sĩ Abraham đã sống một cuộc sống gương mẫu, khi giờ của ông đến, ông đã rời thế gian trước sự chúc lành của cộng đoàn, những người đã đến vốn xem ông như một vị thánh và là nguyên nhân của mọi phúc lành họ nhận được từ Thiên Chúa.

Mặt khác, các thiên thần cũng tiến đến chào đón, ca tụng tán dương ông. Suốt buổi lễ, Giáo sĩ Abraham có vẻ trầm tư nhưng khá bồn chồn. Ông chống má đỡ cằm và từ chối được ủi an. Cuối cùng ông được dẫn tới trước ngai Thẩm Phán nơi ông cảm thấy mình được bao bọc bởi Đấng Nhân Từ vô biên và nghe một giọng nói vô cùng trìu mến vọng về phía ông, “Hỡi con trai ta, điều gì làm con lo lắng?”. 

“Lạy Đấng Rất Thánh”, ông thưa, “Con không xứng đáng lãnh nhận mọi danh dự được ban cho con ở đây. Dù con được xem là gương mẫu cho mọi người, nhưng chắc có vấn đề gì đó trong đời con, vì đứa con duy nhất của con, bất chấp gương lành và giáo huấn của con, vẫn từ bỏ đức tin của chúng ta và trở thành một Kitô hữu”.

“Đừng để điều đó làm con phiền hà, hỡi con. Cha biết rõ điều con cảm nhận, vì Cha có một thằng con làm điều tương tự!”.

ڰ

 

95. Hoà bình sẽ đến

Ở Belfast, Ireland, một linh mục Công giáo, một mục sư Tin Lành, một giáo sĩ Do Thái tham gia một cuộc thảo luận thần học sôi nổi. Đột nhiên một thiên thần hiện ra giữa họ và bảo, “Thiên Chúa gửi đến quý vị phúc lành của Người. Hãy ước ao hoà bình và ước mơ đó sẽ được Đấng Toàn Năng thực hiện”.

 

Mục sư nói, “Hãy để mọi người Công giáo biến khỏi vùng đất đáng yêu của chúng ta. Rồi hoà bình sẽ ngự trị”.

Linh mục thưa, “Đừng để một tên Thệ phản nào sót lại trên mảnh đất Ái Nhĩ Lan thánh thiêng của chúng ta. Điều đó sẽ mang hòa bình đến vùng đất này”.

“Còn ông thì sao, thưa Giáo sĩ?”, Thiên thần hỏi. “Bản thân ông không có ước muốn nào sao?”.

“Không”, giáo sĩ đáp, “Tôi chỉ cần nghe ước muốn của hai vị này và cảm thấy rất hài lòng rồi”.

Thằng nhóc, “Bạn có phải linh mục không?”.

Bé gái, “Không. Chúng tôi thuộc về một điều ghê tởm khác”.


VỀ MỤC LỤC
LINH MỤC GIÁO PHẬN TÁI ĐỊNH HƯỚNG ĐỜI SỐNG VÀ SỨ VỤ CỦA MÌNH

Lm. Micae-Phaolo Trần Minh Huy, pss.

 

BẢN THẢO

ỨNG SINH LINH MỤC HỌC & SỐNG LINH ĐẠO LINH MỤC GIÁO PHẬN

GIÁO TRÌNH TU ĐỨC LỚP THẦN II & III

ĐẠI CHỦNG VIỆN THÁNH GIUSE HÀ NỘI

2011-2012

CHƯƠNG HAI

ỨNG SINH LINH MỤC GIÁO PHẬN

HỌC VƯỢT LÊN KHỦNG HOẢNG VÀ TÁI ĐỊNH HƯỚNG ĐỜI SỐNG VÀ SỨ VỤ ƠN GỌI LINH MỤC (tiep theo)

D. LINH MỤC GIÁO PHẬN TÁI ĐỊNH HƯỚNG ĐỜI SỐNG VÀ SỨ VỤ CỦA MÌNH

 

  “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện. Bởi thế, một khi đã cởi bỏ sự gian dối, mỗi người trong anh em hãy nói sự thật với người thân cận, vì chúng ta là phần thân thể của nhau. Anh em đừng bao giờ thốt ra những lời độc địa, nhưng nếu cần, hãy nói những lời tốt đẹp, để xây dựng và làm ích cho người nghe. Anh em chớ làm phiền lòng Thánh Thần của Thiên Chúa, vì chính Người là dấu ấn ghi trên anh em, để chờ ngày cứu chuộc. Đừng bao giờ chua cay gắt gỏng, nóng nảy giận hờn, hay la lối thoá mạ, và hãy loại trừ mọi hành vi gian ác. Trái lại, phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Chúa Kitô”[375] 

D.1 Định hướng tổng quát

Khủng hoảng không nhất thiết là một dấu hiệu tiêu cực, nhưng đúng hơn, nó phải được coi là một thách đố để tái định hướng đời sống và sứ vụ linh mục. Nó mời gọi một đời sống thiêng liêng cá nhân sâu xa hơn, can đảm đối mặt và chấp nhận các thực tại của bản thân, dù có khi đau đớn và xấu hổ (như bị sa vào bẫy mỹ nhân kế chẳng hạn). Cần phải làm mới lại các liên hệ lành mạnh để được nâng đỡ và cảm thông hơn. 

 

Chúng ta phải có cái nhìn hy vọng vượt sang ở bên kia những cơn khủng hoảng, nghĩa là ở tình trạng sẽ được biến đổi sau khi tái định hướng được đời sống và sứ vụ ơn gọi dựa vào Chúa Kitô là trung tâm. Thánh Phaolô diễn tả điều đó như sau: “gieo xuống thì hư nát, mà chỗi dậy thì bất diệt; gieo xuống thì hèn hạ, mà chỗi dậy thì vinh quang; gieo xuống thì yếu đuối, mà chỗi dậy thì mạnh mẽ, gieo xuống là thân thể có sinh khí, mà chỗi dậy là thân thể có thần khí. Như có lời đã chép: con người đầu tiên là Ađam được dựng nên thành một sinh vật, còn Ađam cuối cùng là thần khí ban sự sống. Loài xuất hiện trước không phải là loài có thần khí, nhưng là loài có sinh khí; loài có thần khí chỉ xuất hiện sau đó. Người thứ nhất bởi đất mà ra thì thuộc về đất; còn người thứ hai thì từ trời mà đến. Những kẻ thuộc về đất thì giống như kẻ bởi đất mà ra; còn những kẻ thuộc về trời thì giống như Đấng từ trời mà đến. Vì thế, cũng như chúng ta đã mang hình ảnh người bởi đất mà ra, thì chúng ta cũng sẽ được mang hình ảnh Đấng từ trời mà đến.”[376]

 

Một trong những yếu tố rất quan trọng trong việc tái định hướng đời sống và sứ vụ là Bí tích Hòa giải. Bí tích Hòa giải không chỉ là một quà tặng của linh mục cho giáo dân, nhưng cũng là một khí cụ quan trọng cho sự thánh hoá và tăng trưởng của chính linh mục, đặc biệt nếu việc xưng tội không chỉ được coi là một nghi thức, mà đúng hơn là một cơ hội không chỉ để xưng tội, mà còn để trao đổi với một cha giải tội và linh hướng có kinh nghiệm, nhờ đó mà đạt được sự chữa lành và vui sống. Việc linh hướng đều đặn là một bảo đảm khác cho sự tăng trưởng và phát triển đời sống thiêng liêng trưởng thành của linh mục.

 

Để vượt lên khủng hoảng, chúng ta cần tạo lập nột lối sống và làm việc cộng đồng, với sự ràng buộc của tình bạn đích thực, cũng như những thời gian giải trí, hồi tâm và thinh lặng giúp không chỉ chế ngự khủng hoảng mà còn biến nó thành một cơ hội để đẩy xa hơn sự tăng trưởng và tiến bộ trong sự trưởng thành cá nhân, cũng như bác ái mục tử sống động. 

 

Tuy khủng hoảng rất lắm khi là một dấu hiệu tăng trưởng, nhưng cũng tỏ lộ một số vấn đề và yếu đuối nào đó đang được mở ra dưới dáng vẻ tiêu cực bất lợi. Trong các tình huống như thế, hãy xử sự như trường hợp hỏa hoạn: hãy bình tĩnh và hành động cách có trách nhiệm… Một tình huống như thế cần trước hết việc cầu nguyện, sự thinh lặng và suy nghĩ để trở nên ý thức rõ ràng hơn về các vấn đề thực sự là vấn đề.

 

Chúng ta cũng phải nhìn nhận rằng các khủng hoảng cũng là một dữ kiện sinh tồn. Có khủng hoảng tất nhiên đòi hỏi phải có những tiêu chuẩn giải quyết: chúng ta phải mở ra với thế giới đang đổi thay, nhưng phải tránh cơn cám dỗ khuôn đúc theo thế giới này, đồng thời phải chuyển tải cái nhân Phúc Âm đến cho một thế giới đang thực sự cần nó, để biến đổi thế giới. Cái nhân Phúc Âm này không phải là một giáo thuyết mà là một con người: Đức Giêsu Kitô. Để được vậy, chúng ta cần thời gian và một nơi chốn (ít là nội tâm) có thể ở một mình, suy tư và cầu nguyện. Các cuộc tĩnh tâm và hồi tâm là các cơ hội đó. Thời gian khủng hoảng mời gọi chúng ta xem xét các cội rễ căn nguyên và các tình huống của các việc chúng ta đã trải nghiệm hầu được ý thức hơn về các hậu quả của chúng. Nên nhớ rằng mỗi vị thánh đều có một quá khứ và mỗi tội nhân đều có một tương lai. Phải tin tưởng vào sự biến đổi tốt đẹp trong tương lai, nhờ ơn Chúa, với cố gắng bản thân và sự giúp đỡ của kẻ khác.[377] 

 

Việc tái định hướng được khởi đầu bằng cách trực tiếp đối diện và chấp nhận chính thực tại của chúng ta, đồng thời nhẫn nại hướng mình vào trong ý muốn của Chúa: Hỏi Chúa và lắng nghe Chúa nói. Một tiến trình như thế thường không hoàn toàn được thực hiện một mình. Bên cạnh Chúa Cứu Thế mà chúng ta gặp gỡ trong cầu nguyện, chúng ta cần một ai đó để nói với, một ai đó hành động như một khuếch âm cho các kinh nghiệm và thấu hiểu của chúng ta, một ai đó có khả năng cho chúng ta những định hướng mới phát ra từ sự biện phân trong thinh lặng và nguyện cầu của chúng ta và nâng đỡ chúng ta. Một vị đồng hành thiêng liêng là một quà tặng tốt nhất mà chúng ta có thể có được. Nhưng một vị hướng dẫn thiêng liêng không chỉ đồng hành với chúng ta trong cơn khủng hoảng và ở một tình huống riêng lẻ. Nên có sự đồng hành với nhau trong suốt một thời gian dài, cùng bước đi và cùng lớn lên trong một mối quan tâm chung là trở nên gần gũi hơn với Chúa Kitô và với con người thật của chúng ta. 

 

Bí tích Hòa Giải là một bước cụ thể tiến vào một cuộc sống mới sâu sắc hơn và vững chắc hơn nhờ cơn khủng hoảng - hy vọng thế -  Nếu vị hướng dẫn thiêng liêng là một linh mục, thì Bí tích được trao ban trong tất cả tiến trình biện phân và tái định hướng. Thường chỉ xưng tội thôi không đủ, nhưng chúng ta cũng cần được trao đổi giải quyết và như thế thấy được các gốc rễ sâu xa hơn và các viễn ảnh tương lai.[378]  Quả thế, bí tích Hòa giải là yếu tố căn bản trong việc tái định hướng đời sống và thừa tác vụ linh mục, nhất là nhờ cuộc đối thoại trong đó việc xưng tội cùng lúc trở thành một cơ hội để tiến bộ thiêng liêng. Lối xưng tội chia sẻ và đối thoại như thế cũng mang lại một sự cởi mở lớn hơn trên chiều kích nhân bản.

 

Mới đây, ĐTC Biển Đức XVI nhấn mạnh tới sự cần thiết phải mở ra một cuộc “đối thoại cứu độ” cho những ai tìm kiếm ơn tha thứ. Nhắc tới cha sở thánh họ Ars, Gioan Maria Vianey, người đã thực thi sứ vụ hòa giải một cách anh hùng và hiệu quả phong phú, Ngài nói rằng các linh mục có thể học “không chỉ một niềm tín thác vô tận nơi bí tích sám hối, mà còn một phương pháp đối thoại cứu độ phải được thực hiện trong khi ngồi tòa.”[379] Chính vị linh mục cũng được khích lệ rất nhiều trong một kinh nghiệm như thế, nhờ đó ngài có thêm hiểu biết, kinh nghiệm và khả năng để giúp đỡ người khác trong cùng một đường lối hoặc tương tự. Bí tích hòa giải là một trong những quà tặng đặc biệt của linh mục cho kẻ khác trong thừa tác vụ bí tích của ngài, nhưng đồng thời nó cũng là khí cụ cho linh mục tăng trưởng trong đời sống thiêng liêng và bác ái mục tử. 

 

Tay Tạo Hóa đặt bầu lửa đỏ

Giữa thinh không soi tỏ gian trần.

Con người hối hận thở than,

Dám đâu tiếp tục những lầm lỗi xưa.

Vừa lạc nẻo lại vừa mù quáng,

Chẳng biết đường biết hướng về đâu,

Chúa ơi, chính lộ dẫn vào

Kẻo con sa xuống vực sâu có ngày!

Cho con được tràn đầy thanh thản,

Đổi mới con xán lạn chói lòa,

Chẳng có chi xảo trá điêu ngoa,

Sạch từ vạn ý sạch ra muôn lời.

 

Ngày sáu khắc êm trôi lặng lẽ,

Chúa ngăn ngừa chẳng để phút giây

Tay chân miệng lưỡi hình hài

Buông theo tội lỗi mà đầy bợn nhơ.

Chúa theo dõi đường tơ kẽ tóc

Nhìn xem ta: thấu suốt ngọn nguồn

Công to việc nhỏ ngàn muôn

Từ binh minh tới hoàng hôn rõ ràng.

Dâng Thánh Phụ cao sang thiên quốc

Và kính dâng Con Một Chúa Cha

Hợp cùng Thiên Chúa Ngôi Ba

Lời kinh chúc tụng tiếng ca ngợi mừng.[380]

D. 2. Giá trị của việc xưng tội cá nhân

 

Để là một thừa tác viên tốt và hữu hiệu của Bí tích Hòa giải, linh mục cần khơi nguồn từ nguồn ân sủng và thánh thiện hiện diện trong Bí tích này. Căn cứ vào kinh nghiệm bản thân, linh mục có thể quyết chắc rằng càng năng tiếp cận với tư thái tốt và chu đáo lãnh nhận bí tích sám hối, càng chu toàn tốt hơn thừa tác vụ giải tội của mình và chắc chắn rằng các hối nhân hưởng được lợi ích từ bí tích này. Trái lại, nếu linh mục không là một hối nhân tốt, thừa tác vụ giải tội sẽ mất đi nhiều tính hữu hiệu của nó, (vì linh mục phải là người trước tiên phải trở lại với Chúa và với chính mình). Đó là luận lý toàn diện của bí tích cao cả này. Nó mời gọi tất cả chúng ta, là linh mục của Chúa Kitô, phải luôn làm mới lại chú tâm của chúng ta vào việc xưng tội cá nhân của mình[381]

 

 Cuộc đối thoại giữa hối nhân và cha giải tội làm cho việc cử hành bí tích đáp ứng sít sao hơn với tình huống cụ thể của hối nhân, với các lý do khác nhau sau đây của hối nhân:

·        Nhu cầu hòa giải cá nhân và tái nhập vào tình bằng hữu với Chúa nhờ nhận lại được những ơn đã mất do tội;

·        Nhu cầu tìm kiếm sự tiến bộ thiêng liêng;

·        Đôi khi cần một sự biện phân thích đáng hơn về ơn gọi;

·        Trong nhiều trường hợp, không những cần mà còn khao khát thoát khỏi tình trạng hờ hững thiêng liêng và khủng hoảng đời tu.

·        Nhờ những đặc tính cá nhân đó, hình thức cử hành này liên kết với việc linh hướng.[382] Trong cuộc đối thoại này phải tránh đề cập trực tiếp đến đệ tam nhân. Phải rất cẩn thận và tế nhị trong các câu hỏi để làm sáng tỏ hầu có biện pháp và lời khuyên thích ứng, giúp hối nhân thay đổi nên tốt.

·        Tương quan linh hướng là một tương quan khép kín tay ba (Chúa Thánh Thần, người thụ hướng và vị linh hướng). Điều mà vị linh hướng khám phá về người thụ hướng thuộc về toà trong sẽ không được tiết lộ ra ở toà ngoài. Dữ kiện này có cùng một qui chế như ấn toà giải tội. Điều này không chỉ để bảo vệ người thụ hướng, mà còn cống hiến cho họ sự tín nhiệm và tin tưởng rằng điều gì họ đã bộc lộ ở tòa trong vẫn được giữ bí mật.

 

ĐHY Hummes, Tổng trưởng Bộ Giáo sĩ viết: “Cũng thật buồn là có một số linh mục đôi khi đã bị dính líu vào những vấn đề nghiêm trọng và những hoàn cảnh phạm tội. Cần phải tiếp tục điều tra những vấn đề này, xét xử họ và phạt họ như cần phải.”[383] Vậy chúng ta sử dụng các phương thế tự nhiên và siêu nhiên như thế nào để đứng vững trong các mối quan hệ khác giới, kể cả với các nữ tu?[384] Chúng ta cần lưu ý đặc biệt tránh khỏi ba trường hợp tội với vạ tiền kết dành riêng cho Tòa Thánh: Lỗi ấn tòa giải tội, khuyến dâm trong tòa và giải tội cho đồng phạm; và xét xem có thể vận dụng khỏan GL.1048 và 220 hầu giúp đỡ hối nhân cách nào không.[385]

 

Trong thư đề ngày 18/4/2009, ĐHY Hummes cho biết ĐTC đã phê chuẩn luật chưa được quy định trong Bộ Giáo Luật hiện hành cho phép các Giám mục xử lý những trường hợp đoạn tuyệt với Giáo hội của các linh mục, như là rời bỏ thừa tác vụ của mình bởi chủ ý riêng và yêu cầu Giám mục miễn trừ tình trạng giáo sĩ, hay rời khởi chức vụ mà không hề thông báo cho Giám mục bản quyền biết rồi sau đó kết hôn trong đám cưới dân sự, có con và không còn hứng thú nào để giải quyết tình trạng giáo sĩ của mình. Vì lợi ích của Giáo hội và lợi ích của đương sự, năng quyền miễn trừ tình trạng giáo sĩ đòi hỏi phải được thực hiện như một nghĩa cử bác ái, đặc biệt hơn khi đương sự có con, vì con cái của đương sự có quyền được có một người cha độc lập khỏi Giáo hội. Nhưng các Giám mục không có năng quyền này một cách tự động, mỗi trường hợp phải được xem xét cẩn thận và nghiêm túc rồi mới có thể đưa ra phán quyết. Trong một số trường hợp, Tòa Thánh phải can thiệp để điều chỉnh nhân cách của các vị để khắc phục những vụ bê bối do các vị gây ra, tái thiết lập sự công bằng và giúp đỡ đương sự sám hối tội lỗi.[386]

 

_____

chú thích

 

[375] Eph 4,22-32.

[376] 1 Cr 15, 42-49.

[377] 1 Cr 6,11: Trước kia, có vài người trong anh em đã là như thế. Nhưng anh em đã được tẩy rửa, được thánh hoá, được nên công chính nhờ danh Chúa Giê-su Ki-tô và nhờ Thần Khí của Thiên Chúa chúng ta!

[378] Xin xem lại phần “Linh mục giáo phận sống Bí tích Hoà giải.”

[379] Vatican City, Mar 11, 2010 / 11:32 am (CNA/EWTN News).

[380] Thánh Thi Kinh Sáng thứ Năm tuần III Thường Niên.

[381] Gioan Phaolô II trong Bí tích Hòa Giải và Sám Hối số 31.

[382] Ibid, số 32.

[383] Như vụ TGM Paulin Pomodimo Giáo Phận Bangui bên Trung Phi phải từ chức.

[384] ĐTC Biển Đức hứa sẽ ra một Chỉ Nam cho các cha giải tội và linh hướng.

[385] Cũng cần lưu ý đến việc không được xưng tội và giải tội qua điện thoại đã nói trên kia.

[386] CNA ngày 5/6/2009.

 

VỀ MỤC LỤC
GIẬN DỮ

 Trong một dịp hàn huyên, Mục sư Phan Thanh Bình bên San Diego có chia xẻ như sau về sự Giận Dữ.

“Giận dữ là bản tính tự nhiên của con người. Giận là một trong những thất tình: Mừng, giận, buồn, sợ, yêu, ghét, muốn

Giận thì buồn phiền, hờn dỗi cho những người yếu thế. Giận thì quát tháo, chửi rủa, đập phá, đánh nhau đôi khi giết nhau cho những người ở thế mạnh.

Người xưa đã chia giận làm hai loại: Giận huyết khí và giận nghĩa lý. “Huyết khí chi nộ bất năng hữu. Nghĩa lý chi nộ, bất năng vô”. Cái giận nóng tính không nên có. Cái giận nghĩa lý, chẳng nên không.

Người huyết khí chi nộ” hầu hết là người yếu về trí xét đoán: giận đã, xét sau; yếu về tinh thần, không kiềm chế nổi sự giận dữ nơi mình; yếu về lòng thương sót, thông cảm.

Người biết giận “nghĩa lý chi nộ” là người rất mạnh. Mạnh về trí xét đoán, mạnh về tinh thần dù thể xác có yếu và đầy lòng thương xót.

Với tinh thần “cầu an” chúng ta thường bò “ Nghĩa lý chi nộ”. Nhưng chúng ta thường tỏ ra “anh hùng” với “huyết khí chi nộ”.

Người xưa đã phân định: “Người không biết giận là người dại, người không muốn giận là người khôn”. Người kiềm chế được cơn giận phải là người giàu nghị lực.

Kinh Thánh dạy: “Người nào cũng phải mau nghe, chậm nói, chậm giận” (Gia-cơ 1:19).

Biết bao lần chúng ta hối tiếc đã để cơn giận bùng lên chỉ vì nghe chưa thấu, xét chưa tường, mà đã hàm hồ phán đoán.

Nếu phải nổi giận vì cái “nghĩa lý chi nộ”, cũng phải cẩn thận : “Ví bằng anh em đương cơn giận thì chớ phạm tội, chớ giận cho tới khi mặt trời lặn, và đừng tạo cơ hội cho ma quỷ” (Ê-phê-sô 4:26-27).

Ôn lại quá khứ, bởi giận mà chúng ta làm cho “cái sảy nảy cái ung”, “giận chuột ném vỡ bình quý, “giận con rận, đốt cái áo”. Tất cả đều là giận dại. Là không còn sáng suốt hiểu biết chân lý để nói.

Giận lên là nổi cơn điên

Người khôn hóa dại, người hiền hóa ngu”

Cảm ơn Mục sư Phan Thanh Bình, người đã viết tới 99 cuốn sách về Chúa Jêsus, Kinh Thánh, Chứng đạo, Gia đình…

Thưa Mục sư,

Nhà Phật cũng dạy: “Ôm lấy sự giận dữ chẳng khác chi nắm cục than hồng định liệng vào người khác, nhưng trước khi ném thì tay đã phỏng cháy”.

Hoặc theo lời khuyên của Thomas Jefferson: “Khi giận hãy đếm tới 10 trước khi nói. Nếu giận tràn hông thì đếm tới 100”.

Mới đếm tới bảy tám mươi đã ngủ khì thì còn giận gì nữa.

Sao mà khéo khuyên!!! Nhẹ nhàng nhưng công hiệu.

 

Bác sĩ Nguyễn Ý Đức.

VỀ MỤC LỤC
 Thập đại bịnh.  (tiếp theo)

 

(Ghi lại bài nói chuyện của Đức Tổng Giám mục Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận với giới trẻ Việt Nam tại Strasbourg, Pháp, chiều ngày 12.9.1998)

 

Giới thiệu

Muốn thành công trước hết phải chữa trị tận gốc mười (10) chứng bịnh làm băng hoại xã hội ngày nay.

Cuộc sống cộng đồng và Giáo hội, không những ở Việt Nam mà ngay cả ở hải ngoại, hiện đang có những bất ổn. Không hoặc chưa phát huy được nét tích cực của mình. Do đâu ?

Có rất nhiều căn nguyên. Những căn nguyên này là những chứng bịnh vừa nguy hiểm vừa truyền nhiễm đang hoành hành trong xã hội, và có cơ nguy làm cho cuộc sống xã hội băng rã. Tôi qui chúng lại thành mười bệnh lớn: Thập đại bịnh.

3. Bệnh phô trương chiến thắng

Làm gì cũng chỉ nhắm chuyện phô trương là chính. Bệnh này tiếng pháp gọi là triomphalisme; người Mỹ cũng có từ ngữ show up.

Thỉnh thoảng đây đó đọc trên những bản tin sinh hoạt cộng đoàn thật nức lòng: Đại lễ tổ chức vô cùng thành công, cuộc rước kéo dài cả nửa cây số, nhiều chục cha đồng tế, bữa tiệc kết thúc thật linh đình, bà con vô cùng hoan hỉ, chưa có bao giờ và có ai tổ chức được lớn như thế ... Nhưng hết tiệc ra về rồi là hết. Đại lễ hôm qua hôm nay thành quá khứ xa lơ. Cảm xúc hôm qua hôm nay gọi mãi chẳng thấy về ! Hãy cai chứng bệnh phô trương, vì cái chiều sâu thực sự ít ai quan tâm. Ta bảo sáng danh Chúa, nhưng xét cho kỹ Chúa mấy phần trăm, ta mấy phần trăm?

Có những điều không cần phải phô trương. Nhưng nó sẽ từ từ thấm vào lòng người, người ta sẽ hiểu. Người ta hiểu, nhưng đồng thời người ta cũng có tự ái. Càng huyênh hoang, càng làm cho người ta ghét. Mà thành công đâu phải do mình tài giỏi gì. Nhưng mọi chuyện là nhờ ơn Chúa. Như vậy mình càng không có lý do gì để phô trương. Lúc đang huyênh hoang thì chính là lúc nguy hiểm nhất, tai hại nhất, vì đó là lúc mình mất cảnh giác. Khi nào thấy sau một cuộc lễ, có nhiều người ăn năn trở lại, Cộng đoàn hiêp nhất hơn, sốt sắng hơn, đó là dấu thành công thực sự.

 

Hồng Y PX. Nguyễn Văn Thuận

Còn tiếp nhiều kỳ

VỀ MỤC LỤC

- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin gởi về địa chỉ

giaosivietnam@gmail.com

- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:

Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục vụ của Giáo sĩ;  Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh vực; Mỗi  Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)

- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại

www.conggiaovietnam.net

Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị

Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác nhau.

TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

Lm. Luca Phạm Quốc Sử  USA

 

 

Duoc chon giua loai nguoi va cho loai nguoi; GIAO SI: Xuat phat tu giao dan, hien dien vi giao dan va cay dua vao giao dan, de cung lam VINH DANH THIEN CHUA

*************