Việt Nam Văn Hiến
Năm
Thứ
4888
www.vietnamvanhien.net
Thành Công Thế Kỷ 21
Thành
Công Thế Kỷ 21
Mục lục:
I.
Nhiệm
vụ
lịch
sử
II.
Bối
cảnh
quốc
tế
và
Việt Nam
III.
Đồng
thuận
nền
tảng
cho
một cố gắng quốc gia mới
IV.
Những
định
hướng
lớn
V.
Chế
độ
chính
trị
cho
một nước Việt Nam dân chủ đa
nguyên
VI.
Chấm
dứt
độc
tài
và
thiết lập dân chủ đa
nguyên
VII.
Chuyển
tiếp
thành
công
về
dân chủ
VIII.
Vì
đất
nước
hôm
nay
và ngày mai: chung một
giấc mơ Việt Nam
Tóm
lược
Thành
Công
Thế
Kỷ
21
I.
Nhiệm vụ lịch sử
Với một dân số đông
đảo, những con người cần mẫn và một địa lý thuận lợi,
Việt Nam có tiềm năng của một nước lớn và giàu
mạnh, giữ một địa vị quan trọng trên thế giới, vẻ vang cho
dân tộc và có ích cho loài người.
Mặc dầu vậy hiện nay chúng ta chỉ là một trong những nước
nghèo và lạc hậu nhất thế giới. Mâu thuẫn đau
lòng đó chất vấn mọi người Việt Nam trước ngưỡng cửa một
thế kỷ và một thiên niên kỷ mới.
Bẩm sinh mọi con người, dù thuộc chủng tộc nào, đều
có những khả năng như nhau. Nh¨ững chênh lệch về
trình độ phát triển và mức sống của các
dân tộc là hậu quả của điều kiện địa lý, tài
nguyên thiên nhiên và cách tổ chức
xã hội. Trong những yếu tố đó tổ chức xã hội
có tầm quan trọng vượt hẳn. Tổ chức xã hội tốt hay xấu,
khéo hay vụng có thể thay đổi hẳn số phận của một
dân tộc. Thế giới đã thấy nhiều quốc gia mặc dầu đất đai
chật hẹp, tài nguyên ít ỏi mà vươn lên
mạnh mẽ trong khi nhiều quốc gia khác tuy rất được thiên
nhiên ưu đãi mà vẫn quằn quại trong cảnh
nghèo đói. Chúng ta càng ý thức được
tầm quan trọng đặc biệt của tổ chức xã hội khi nhìn
vào sự cách biệt hiện nay : bảy quốc gia phát
triển nhất tuy dân số chỉ xấp xỉ 12% số người trên
trái đất nhưng lại tập trung quá 2/3 tổng sản lượng của
thế giới ; lợi tức của một người Nhật lớn gấp một trăm lần lợi tức của
một người Việt Nam. Sự thua kém hổ nhục này một mặt bắt
buộc chúng ta suy nghĩ về mình để tìm một lối đi
cho mình, một mặt cho phép chúng ta tin tưởng rằng
nếu tổ chức lại đất nước một cách hợp lý chúng ta
chắc chắn sẽ thoát khỏi cảnh nghèo đói và
sẽ vươn lên mạnh mẽ.
Chúng ta đã bỏ lỡ nhiều cơ hội lịch sử.
Vào buổi rạng đông của thời đại mới, chúng ta, cũng
như hầu hết các nước phương Đông, đã không
ý thức được rằng đã đến lúc phải xét lại
toàn bộ các giá trị và tập quán,
phải đổi mới hoàn toàn cách suy nghĩ và tổ
chức. Trong nhiều thế kỷ chúng ta đã hài
lòng với khuôn mẫu xơ cứng Khổng Mạnh, bỏ mất óc
sáng tạo và dẫm chân tại chỗ ; trong khi người
Phương Tây, nhờ óc khách quan và phương
pháp, nhờ biết xét lại và đổi mới không
ngừng đã tiến lên mạnh mẽ, đã hơn hẳn phần
còn lại của thế giới.
Vì không biết thích nghi kịp thời như một số quốc
gia may mắn khác, chúng ta đã thất bại trước người
Phương Tây, đã mất chủ quyền, đã phải chịu
cái nhục bị đô hộ. Mất chủ quyền, chúng ta
đã mất luôn khả năng hội ý với nhau để cùng
nhau tìm một lối thoát cho đất nước, rồi từ đó dần
dần mất luôn tinh thần đối thoại để dàn xếp những bất đồng.
Bước vào thế kỷ thứ hai mươi, chúng ta phải giải quyết
cùng một lúc hai vấn đề vô cùng khó
khăn : giành chủ quyền dân tộc và thích nghi
với một nền văn minh mới. Vì không đồng ý được với
nhau trên một dự án quốc gia mới nên chúng ta
đã xung đột với nhau ngay cả trên mục tiêu mà
mọi người Việt Nam đều ao ước là lấy lại quyền tự chủ.
Chúng ta đã bỏ lỡ cơ hội để giành lại độc lập
và vươn lên khi chế độ thực dân sụp đổ sau Thế Chiến
II. Chúng ta đã chia rẽ, lên án nhau, mạt
sát nhau và tiêu diệt nhau, với kết quả sau
cùng là phùải chuốc lấy một trong những chế độ độc
tài tồi tệ nhất ; trong khi các dân tộc khác
dù không tốn hay chỉ tốn rất ít xương máu
cũng đã được độc lập, và trong nhiều trường hợp
còn xây dựng được cả dân chủ. Sự thiển cận cũng
đã khiến chúng ta lỡ mất một cơ hội lớn khi hòa
bình được tái lập năm 1975.
Ngày hôm nay nhân dân ta cơ cực và
chán nản, đất nước ta kiệt quệ, tụt hậu và bế tắc.
Các vấn đề kinh tế, xã hội, môi sinh, đạo đức,
giáo dục, nhân mãn, v.v. chồng chất không
được giải quyết càng ngày càng trở nên gay
gắt hơn và chẳng bao lâu nữa có thể sẽ không
còn giải đáp nếu đà băng hoại này cứ tiếp
tục. Nước Việt Nam lúc đó có thể bị xóa
tên khỏi danh sách các dân tộc có
quyền nói tới hạnh phúc. Nhiệm vụ lịch sử của thời đại
chúng ta là giải thoát dân tộc khỏi cảnh lầm
than hiện nay và cứu đất nước khỏi nguy cơ bị thua kém
vĩnh viễn.
Nguy cơ thua kém vĩnh viễn cũng là nguy cơ mất nước bởi
vì trong thời đại này, khi ý niệm quốc gia
dân tộc đang bị công phá từ mọi phía
và đang bị xét lại, những quốc gia không đem lại
được hạnh phúc, niềm tự hào và hy vọng vươn
lên không sớm thì muộn cũng sẽ bị giải thể.
Con đường ra khỏi bế tắc và vươn lên của chúng ta
là dân chủ đa nguyên và nhân quyền.
Dân chủ để đặt những vấn đề một cách đúng đắn
và chọn một cách đúng đắn những giải pháp
và những người trách nhiệm. Đa nguyên để tôn
trọng mọi khác biệt, và để thực hiện hòa
giùải dân tộc sau những xung đột đẫm máu.
Nhân quyền để phát huy sinh lực và sáng kiến
của mọi người.
Lịch sử của mọi dân tộc đều chứng tỏ nhân quyền chưa bao
giờ ngăn cản ai xây dựng đời mình và dân chủ
chưa bao giờ cấm đoán một dân tộc nào tiến
lên. Dân chủ đi trước và mở đường cho phát
triển, phát triển củng cố và phát huy dân
chủ. Đó phải là niềm tin căn bản của mọi người dân
chủ Việt Nam.
Nhìn lại đoạn đường đã đi qua ta phải nhìn nhận
rằng nguyên nhân của mọi đổ vỡ mà nước ta đã
phải chịu đựng là chúng ta đã không đầu tư
đủ suy nghĩ để nhận diện những vấn đề trọng đại đặt ra cho mình
và để tìm ra hướng giải quyết. Ở mỗi thời điểm,
chúng ta luôn luôn thiếu một dự án
chính trị thích hợp với thời đại mới và
hoàn cảnh đất nước. Cuối cùng chúng ta đã
tàn sát nhau vì những ý hệ vay mượn
mà chúng ta bảo vệ một cách đam mê hơn cả
những dân tộc đã khởi xướng ra chúng.
Đầu tư suy nghĩ vào một dự án chính trị như vậy
là điều mà chúng ta phải làm trước hết.
Tổ chức xã hội rõ ràng là chìa
khóa của tiến bộ, là yếu tố quyết định chỗ đứng và
sự vinh nhục của các dân tộc. Nhưng tổ chức xã hội
không thể có bằng sự áp đặt máy móc
một khuôn mẫu mà phải được hình thành sau
một quá trình trao đổi, do sự gặp gỡ giữa trí tuệ
và những thực tại lịch sử, địa lý, văn hóa, đạo
đức của mỗi dân tộc. Muốn thay đổi tổ chức xã hội, trước
hết phải thay đổi những giá trị nền tảng của xã hội.
Máu và nước mắt của nhân dân, những đổ vỡ của
đất nước, sự tủi nhục vì thua kém buộc chúng ta
rút ra một bài học dứt khoát là phải từ bỏ
tâm lý nóng vội, từ bỏ óc độc quyền lẽ phải,
chế ngự lòng đam mê để đối thoại và thỏa hiệp với
nhau trong tinh thần tương kính. Thái độ lương thiện
và xây dựng này xuất phát từ nhận thức rằng
mọi người Việt Nam đều ràng buộc với nhau trong một thân
phận chung : nếu đất nước chúng ta giàu mạnh cuộc sống
của chúng ta sẽ khá hơn và tất cả chúng ta
đều được kính trọng ; ngược lại nếu đất nước chúng ta
nghèo khổ và lạc hậu, tất cả chúng ta đều bị coi
thường, bất luận chúng ta thuộc thành phần nào,
đảng phái nào, hay theo chủ nghĩa nào. Trong
hoàn cảnh bi đát hiện nay, điều tốt nhất cho mỗi người
cũng là điều tốt nhất cho mọi người.
Dự án chính trị này có tham vọng
đóng góp vào một ý thức chính trị
mới Việt Nam. Nó muốn được những người dân chủ Việt Nam
đón nhận như một tài liệu để thảo luận. Thảo luận để đi
đến kết hợp giữa những người cùng theo đuổi một lý tưởng
chung là xây dựng một đất nước Việt Nam mà những
con người hôm nay có thể chấp nhận và các
thế hệ mai sau có thể tự hào.
II.
Bối cảnh quốc tế và Việt Nam
Chúng ta đang đứng trước
một thế giới đầy hy vọng và thử thách. Các chế độ
độc tài đang theo nhau sụp đổ. Làn sóng dân
chủ đang trỗi dậy mạnh mẽ trên khắp thế giới. Số lượng các
nước dân chủ tiếp tục gia tăng nhanh chóng. Các
dân tộc vừa được giải tỏa khỏi ám ảnh thế chiến vừa được
một cơ hội vô cùng thuận lợi để loại bỏ những tập
đoàn chuyên chính và tổ chức lại xã
hội của mình một cách hợp lý hơn. Nhưng mặt
khác họ cũng bị đặt trước một thế giới tranh đua gay gắt hơn,
với các thông số đã đổi mới.
1. Những nét đậm của thế giới hôm nay
1.1. Sự ra đời của một kỷ nguyên mới
Thế giới đang trải qua một cuộc chuyển hóa trọng đại.
Các tiến bộ khoa học kỹ thuật dồn dập tới hằng ngày
làm thay đổi hẳn bản chất của hoạt động kinh tế và những
trao đổi giữa các quốc gia, đẩy các quốc gia vào
một cuộc cạnh tranh dữ dội. Vận tốc thay đổi quá mau trong khi
chưa ai biết chắc kết quả sẽ như thế nào. Một trật tự mới chưa
hình thành trong khi nhiều dấu hiệu đáng ngại
đã xuất hiện. Sự tranh đua tìm kiếm hiệu năng tối đa,
phẩm chất cao nhất và giá thành thấp nhất
không những buộc mọi xí nghiệp xét lại phương thức
sản xuất và quản trị mà còn buộc nhiều quốc gia
xét lại mô hình xã hội của mình.
Mô thức Tây êu từ trước tới nay vẫn được coi,
và xứng đáng được coi, là lý tưởng nhất
vì dung hòa được một mức độ phát triển cao với một
liên đới xã hội lớn đang gặp khó khăn trước sự cạnh
tranh của những nền kinh tế duy hiệu năng và thuần túy
thị trường. Đối với các nước chưa phát triển và
cần được trợ giúp, các định chế tài chánh
quốc tế không ngừng khuyến cáo và áp đặt
những biện pháp ổn định tiền tệ mà hậu quả rõ
nét nhất là chiết giảm những chi phí xã hội
cần thiết để duy trì liên đới quốc gia.
Tuy vậy xu hướng căn bản toàn cầu vẫn là sự ra đời của
một kỷ nguyên mới. Đó là kỷ nguyên đặt nền
tảng trên những giá trị đã tạo ra sức mạnh của
các nước tiên tiến : hòa bình, tự do,
dân chủ, nhân quyền, bình đẳng, nhà nước
pháp trị, đối thoại, hợp tác, lợi nhuận, môi trường
và liên đới. Những thành tựu khoa học, kỹ thuật
và kinh tế quyết định chỗ đứng của các dân tộc.
Trong nhất thời, vai trò lãnh đạo thế giới thuộc về Hoa
Kỳ và Tây êu. Trong vài thập niên nữa,
một phần quan trọng của vai trò lãnh đạo sẽ chuyển sang
khu vực Thái Bình Dương. Sau đó Trung Quốc
và Nga, một khi đã chuyển hóa thành
công về dân chủ, cũng sẽ vươn lên giành một
vai trò quan trọng hơn. Ngôi vị có thể thay đổi,
các liên minh cũng sẽ thay đổi, nhưng luật chơi sẽ
không thay đổi vì các giá trị nền tảng sẽ
không thay đổi. Các quốc gia không hiểu luật chơi
này, hoặc còn do dự không chịu mau chóng
thích nghi với các giá trị mới phải chờ đón
một tương lai rất đen tối.
1.2. Hoa Kỳ và Trung Quốc
Nét đậm nổi bật hiện nay là vai trò áp đảo
của Hoa Kỳ.
Hoa Kỳ vừa là cường quốc vượt trội về mọi mặt, vừa là
cường quốc có nhiều tiềm năng tiến lên nhất, do đó
thế thượng phong của Hoa Kỳ sẽ còn kéo dài trong
thế kỷ tới. Trong vài thập niên nữa sẽ khó
có vấn đề quốc tế quan trọng nào có thể giải quyết
được nếu không có sự thỏa thuận của Hoa Kỳ. Hoa Kỳ
vì vậy trở thành một vấn đề thế giới, và quốc gia
nào dù muốn hay không cũng có vấn đề Hoa Kỳ
của mình. Điều đáng mừng là cùng với sức
mạnh vô địch đó Hoa Kỳ đồng thời cũng tỏ ra là
cường quốc tích cực đem các vấn đề dân chủ
và nhân quyền vào chính sách đối
ngoại.
Nhưng nếu cả thế giới có vấn đề Hoa Kỳ thì các
nước Đông Nam Á lại có thêm vấn đề Trung
Quốc. Trung Quốc đang phát triển về mặt kinh tế và đang
gia tăng sức mạnh quân sự. Điều đáng lo ngại là
Trung Quốc cho tới nay một mặt phủ nhận trắng trợn các
giá trị dân chủ và nhân quyền, mặt
khác tỏ ra muốn sử dụng sức mạnh quân sự của mình
cho một chính sách bá quyền khu vực. Châu
Á cũng là khu vực có nhiều hiểm họa chiến tranh
nhất trên thế giới hiện nay. Sự kiện Trung Quốc vừa gia tăng sức
mạnh quân sự vừa để lộ một số tham vọng bá quyền đã
làm mọi nước trong vùng lo ngại. Mối quan tâm đối
với Trung Quốc đã là nguyên nhân cho một cuộc
chạy đua võ trang nguy hiểm trong vùng, làm cho
tình hình căng thẳng thêm. Trong tình huống
đó, Việt Nam là nước có nhiều tranh tụng nhất với
Trung Quốc lại cũng là nước không có khả năng
tài chánh để tân trang vũ khí và tăng
cường quân lực. Sức mạnh quân sự của nước ta sút
kém một cách báo động trong khi áp lực gia
tăng.
1.3. Một sự thật đã rõ ràng :
các chế độ cộng sản cáo chung trong hòa
bình
Một yếu tố đầy ý nghĩa là sự thích nghi với
dân chủ của các đảng phái kết hợp những người cộng
sản cũ tại Đông êu và Liên Xô cũ. Tại
các nước này, các đảng cộng sản đã từ bỏ
độc quyền chính trị và chấp nhận luật chơi dân chủ.
Trong nhiều trường hợp họ đã mất chính quyền nhưng nhờ
biết thích nghi với tình hình mới họ đã trở
thành những chính đảng có trọng lượng trong sinh
hoạt_ chính trị và đã giành lại được
chính quyền một cách hợp pháp tại nhiều nước. Nhờ
tinh thần hòa giải dân tộc, các quốc gia này
đã chuyển hóa thành công về dân chủ
trong hòa bình.
Các nước cộng sản cũ tại Đông êu và
Liên Xô đã gặp rất nhiều khó khăn và
xáo trộn về mặt kinh tế và xã hội trong giai đoạn
chuyển tiếp, do di sản cực kỳ bi đát của các chế độ cộng
sản để lại, nhưng đã vượt qua được hay sắp vượt qua được. Tại
các nước này, xã hội dân sự đã
thành hình và bắt đầu phát triển ; sinh
hoạt kinh tế xã hội đã bắt đầu ổn vững. Nhiều nước
đã phát triển mạnh, nhiều nước đang bắt đầu phát
triển, các quốc gia còn lại đang trên đường ra khỏi
giai đoạn khó khăn. Quan trọng hơn cả là xã hội,
dù còn nhiều mặt yếu kém, nói chung
đã được đặt trên một nền tảng lành mạnh. Các
nước cộng sản đã chấp nhận dân chủ hóa giờ
đây có thể hướng về tương lai với niềm tin và hy
vọng. Trái lại, bốn chế độ cộng sản ngoan cố - Việt Nam, Trung
Quốc, Bắc Triều Tiên, Cuba - vẫn còn là những bệnh
nhân chưa được giải phẫu với một ngày mai đầy bất trắc.
Điều cần được đặc biệt nhấn mạnh là tất cả các nước từ bỏ
chủ nghĩa cộng sản và dân chủ hóa một cách
rất nhanh chóng đều đã không bị rơi vào hỗn
loạn.
1.4. Dân chủ giành được thắng lợi tại
châu Á
Một số quốc gia trong khu vực Đông Nam Á - Thái
Bình Dương, nhờ chấp nhận sớm kinh tế thị trường và nới
rộng một số quyền tự do căn bản đã đạt được những thành
quả ngoạn mục.
Sự thành công ngoài mức độ chờ đợi trong một giai
đoạn đã cho họ ảo tưởng rằng có thể phát triển
kinh tế mà không cần dân chủ hóa theo
cùng một nhịp độ. Cuộc khủng hoảng tài chính
mùa hè 1997 đã gọi họ về với sự thực là
dân chủ phải đi trước và mở đường cho phát triển.
Họ đã phải trả giá rất đắt, thành quả của nhiều
năm cố gắng đã tiêu tan, kéo theo vô số thảm
kịch xã hội. Nhưng họ đã hiểu và đã trở
thành những nước dân chủ. Họ đã tìm lại được
đà phát triển và lần này họ sẽ phát
triển một cách lành mạnh và bền vững. Sự chuyển
hóa thẳng thắn của các nước Đông Á về
dân chủ đã là biến cố quan trọng nhất trong ba năm
cuối cùng của thế kỷ 20 và sẽ làm thay đổi hẳn bối
cảnh chính trị trong vùng Đông Nam châu
Á. Chế độ độc tài cộng sản Việt Nam sẽ hoàn
toàn bị cô lập và sự thua kém của Việt Nam
so với các nước lân cận sẽ ngày một bi đát
hơn nếu đất nước không kịp thời thay đổi định hướng.
Điều cũng cần được nhấn mạnh tại đây là tất cả các
nước châu Á đã trở thành ổn định hơn sau khi
dân chủ hóa một cách nhanh chóng,
trái hẳn với lập luận của các tập đoàn cầm quyền
trước đây cho rằng dân chủ có thể đưa đến hỗn loạn.
1.5. Phong trào toàn cầu hóa đe
dọa mọi quốc gia
Hiện tượng rất mới và cần được ý thức đúng mức
là sự xuống cấp toàn cầu của ý niệm quốc gia.
Nhiều quốc gia tan vỡ mà không hề bị ngoại xâm, tan
vỡ trong hỗn loạn, như tại nhiều nước châu Phi, hay tan vỡ
thành những quốc gia nhỏ, như Tiệp Khắc, Nam Tư và
Ethiopia. Sự toàn vẹn của nước Canada, dân chủ và
phồn vinh, đã chỉ được duy trì sau một cuộc trưng cầu
dân ý rất khít khao, nhưng nguy cơ ly khai vẫn
còn nguyên vẹn.
Ý niệm quốc gia dân tộc đang bị công phá từ
mọi phía. Từ bên ngoài do những kết hợp khu vực hứa
hẹn một không gian hoạt động lớn hơn không gian quốc gia,
từ bên trong do các cộng đồng sắc tộc đòi tự trị,
và từ cả trong lẫn ngoài do những công ty đa quốc
gia và những trao đổi dồn dập và ngày càng
gia tăng vận tốc. Các phương tiện giao thông và
truyền thông hiện đại cũng đã làm cho trái
đất nhỏ lại và đem con người tới gần nhau.
Khuynh hướng áp đảo hiện nay là khuynh hướng toàn
cầu hóa. Tư bản không còn tổ quốc. Các
công ty lớn tìm cơ hội đầu tư trên khắp thế giới
và lập các kế hoạch sản xuất, tiếp thị, phân phối
trên qui mô toàn cầu. Trong cố gắng tìm trọng
lượng và địa bàn hoạt động lớn hơn, các công
ty ngày càng sát nhập với nhau tạo ra những tổ hợp
với tầm vóc vĩ đại. Nhiều tổ hợp có tích sản lớn
hơn tổng sản lượng của nhiều quốc gia cộng lại ; đã có
một số công ty có trị giá tích sản lớn hơn
hay tương đương với tổng sản lượng của cả khối ASEAN với trên 500
triệu người. Trong một thế giới hòa bình, quyền lực kinh
tế tự nó đã là quyền lực quan trọng nhất, nhưng
nó cũng có thể xâm lấn quyền lực chính trị.
Sự xuất hiện của những công ty đa quốc gia khổng lồ là một
thách đố ngày càng lớn cho các quốc gia
và cho chính ý niệm quốc gia. Các qui luật
thương mại đang nhanh chóng được hình thành
và áp dụng cho cả thế giới. Các quyền con người
ngày càng được nhìn nhận là phổ cập, được
coi như bước đầu của luật pháp quốc tế và được đặt
lên trên luật pháp của các quốc gia.
Các mạng lưới truyền thông, đặc biệt là mạng lưới
Internet cho phép những con người ở rất xa nhau trao đổi
và làm việc trực tiếp với nhau. Một người có thể
làm việc cho một cơ quan cách nửa vòng trái
đất nơi mình cư trú. Khoảng cách đang biến mất. Sự
hiện diện ảo đang trở thành thực và có tác
dụng không kém sự hiện diện thân xác. Một
công dân có thể thường trú ở nước
ngoài mà vẫn phục vụ được đất nước mình một
cách thường trực và đều đặn như một người trong nước. Cả
một "thế giới ảo" đang hình thành với tầm quan trọng gia
tăng nhanh chóng. Ngay lùúc này những trao
đổi văn hóa, khoa học, kỹ thuật tài chính
và thương mại trong thế giới ảo này, qua mạng lưới
Internet, đã rất quan trọng. Trong một tương lai không xa
thế giới ảo này sẽ lấn át thế giới thực, biến thế giới
thực thành một trong những biểu hiện của nó.
Cuộc chuyển hóa vĩ đại chỉ mới bắt đầu này ngày
càng biến mỗi người thành một con người của thế giới
trước khi là công dân của một nước. Ý niệm
quốc gia dân tộc bị tương đối hóa. Quốc gia không
còn là một cứu cánh thiêng liêng
mà phải là một phương tiện để xây dựng hạnh
phúc cho dân tộc. Trong bối cảnh thế giới hiện nay
và sắp tới, một quốc gia không được quan niệm như một
tình cảm, một đồng thuận, một dự án tương lai và
một không gian liên đới sẽ không thể tồn tại
lâu dài. Một quốc gia không đảm bảo an ninh
và nhân phẩm, không đem lại phúc lợi thực
tiễn và niềm tự hào cho người dân - hơn nữa nếu
biên giới quốc gia được coi như tường thành ngăn cản
các giá trị tiến bộ và qui định một vùng
lộng hành an toàn của các tập đoàn bạo
ngược - lại càng tan vỡ nhanh hơn và bi đát hơn.
Trong thời đại mới này, chúng ta cần ý thức rằng
các tập đoàn cầm quyền thiếu văn hóa và
thiếu tầm nhìn là những tai họa cho sự tồn vong của
các quốc gia. Các chế độ độc tài bạo ngược giết
chết các quốc gia, càng tồi dở và độc ác
bao nhiêu chúng càng giết chết nhanh chóng
các quốc gia bấy nhiêu.
1.6. Những liên minh ý thức hệ nhường
chỗ cho những hợp tác phát triển
Sự sụp đổ của khối cộng sản đã chấm dứt tranh chấp tư bản - cộng
sản và làm mất vai trò của các liên
minh ý thức hệ. Thay vào đó đã xuất hiện
những liên minh có mục đích kinh tế, nổi bật nhất
là các kết hợp khu vực. Thế giới đang dần dần được
phân chia thành một số tập hợp địa lý lớn trong
đó các quốc gia vừa cạnh tranh với nhau vừa nương tựa lẫn
nhau trong cuộc thi đua với phần còn lại của thế giới. Trong
lòng các tập hợp này các biên giới
quốc gia, các hàng rào quan thuế càng
ngày càng mờ nhạt đi, sự di chuyển của người, hàng
hóa và tư tưởng càng ngày càng dễ
dàng. Biên giới giữa ngoại giao và ngoại thương
càng ngày càng khó xác định.
Các quốc gia tìm mọi cơ hội, dựa vào mọi lý
do - tôn giáo, ngôn ngữ, đồng dạng về sản xuất, v.v.
- để thắt những mối bang giao, tạo những liên hệ hợp tác,
thành lập các liên minh. Trong thế giới ngày
nay cô lập là chết. Các quốc gia không muốn
hay không có phương tiện để tham gia và vận dụng
những liên hệ hợp tác này kể như tuyệt vọng,
vì bị gạt ra ngoài lề sinh hoạt của một thế giới
liên lập.
2. Các nước chưa phát triển và bối
cảnh thế giới mới
2.1. Hai bất lợi lớn
Bối cảnh thế giới hiện nay chứa đựng hai bất lợi lớn cho các
nước chưa phát triển như Việt Nam.
Một là, sự giải thể của phong trào cộng sản thế giới tuy
là điều rất đáng mừng, nhưng cũng đặt ra những vấn đề
nghiêm trọng cho các nước chậm chân lỡ bước. Phong
trào cộng sản thế giới đã là thảm kịch cho nhiều
dân tộc nhưng cũng đã có tác dụng răn đe
các cường quốc tư bản trong cách đối xử với các
nước chậm tiến. Với sự biến mất của khối cộng sản, thế giới ngày
nay gần giống như một quốc gia không có đối lập.
Các nước kém mở mang sẽ gặp nhiều khó khăn mới.
Chúng ta sẽ không còn phải lo ngại tệ chiếm
đóng, thống trị và vơ vét tài nguyên
của những thế kỷ trước nữa, nhưng cảnh lớn nuốt bé, mạnh hiếp
yếu là điều chắc chắn vẫn có và còn
có cơ nguy gia tăng. Những dân tộc phân hóa,
chia rẽ, thiếu sáng kiến, chậm thích nghi sẽ là
nạn nhân của trận đấu mới. Lần này sự chèn
ép sẽ không trắng trợn và dã man mà
diễn ra theo những qui luật hợp pháp.
Hai là, những tiến bộ dồn dập và trọng đại trong
ngành vi điện tử và ngành tin học đang đưa tới một
trào lưu tự động hóa càng ngày càng
cao khiến cho nhân công rẻ không còn là
một yếu tố tự nó đủ sức thuyết phục để lôi kéo đầu
tư nữa, các nước kém mở mang đang mất dần đi một vũ
khí chiến lược. Chính trị ổn vững, trật tự bảo đảm, luật
pháp giản dị, thuế khóa nhẹ nhàng, điều kiện địa
lý thuận lợi, thị trường tiêu thụ lớn, nguồn nhân
lực có kỹ năng và hiệu năng là những vũ khí
chiến lược phải có để tranh thủ đầu tư quốc tế. Đó lại
thường là những yếu tố mà các nước kém mở
mang khó hội đủ.
2.2. Bốn thuận lợi
Ngược lại, bối cảnh thế giới mới cũng có những lợi điểm
mà các nước kém mở mang có thể vận dụng.
Một là, các chế độ độc tài sẽ không
còn được dung dưỡng vì những liên minh ý
thức hệ nữa và dần dần bị đào thải. Các dân
tộc sẽ được cởi trói, nhiều sinh lực sẽ được giải tỏa,
các quốc gia sẽ được quản trị một cách hợp lý hơn,
dù là sau một thời gian dọ dẫm. Sự đào thải của
các chế độ độc tài là may mắn rất lớn cho
các nước chậm tiến. Kinh nghiệm đã cho thấy mọi chế độ
độc tài đều độc hại. Dưới chiêu bài duy trì
kỷ luật và trật tự, các chế độ độc tài chỉ
là những sào huyệt tham nhũng và lạm quyền, cho
phép những tập đoàn lưu manh, thoái hóa kềm
kẹp nhân dân và ngăn cản mọi tiến bộ.
Hai là, kinh tế trở thành mối ưu tư hàng đầu của
mọi quốc gia. Sự cạnh tranh gay gắt giữa các nước giàu
mạnh với nhau trong một thế giới mà ngôi vị thay đổi
không ngừng cũng khiến các công ty lớn và
các nước đã mở mang luôn luôn phải tìm
những thị trường mới, những vận hội đầu tư mới. Các nước
kém mở mang nếu biết tạo một bối cảnh xã hội ổn vững,
những điều kiện kinh tế thuận lợi, nếu không bị lên
án và cô lập sẽ có khả năng tìm được
những nguồn hợp tác rất có lợi.
Ba là, do những tiến bộ về truyền thông và giao
thông vận tải, cũng như do dân số trên trái
đất càng ngày càng đông, thế giới đã
nhỏ lại và các quốc gia đều trở thành liên
thuộc với nhau và lệ thuộc lẫn nhau. Một ý thức mới
đã ra đời theo đó trái đất là quê
hương chung của cả nhân loại. Mọi quốc gia đều cảm thấy nhu cầu
được sống trong một thế giới không bị đe dọa. Càng
giàu có và phát triển các dân
tộc càng thấy cần phải đảm bảo những thành tựu của
mình bằng cách đóng góp cho một thế giới an
bình và ổn vững. Do đó dù muốn dù
không, các nước giàu mạnh cũng không thể để
mặc các quốc gia khác sống trong sự bần cùng.
Đây không phải là một bắt buộc do lòng
nhân đạo, mà do thế liên thuộc mật thiết. Một
thí dụ cụ thể là vấn đề môi sinh. Chernobyl
không phải đã chỉ là một tai họa của riêng
Ukraine. Các ống thoát khói tại ‰ên Độ
không phải chỉ ô nhiễm không gian của ‰ên Độ,
do đó không phải chỉ là vấn đề của ‰ên Độ
mà là vấn đề của cả thế giới. Sự phá hủy rừng
Amazon không phải là vấn đề riêng của nước Brazil.
Những ô nhiễm của vùng biển Việt Nam là vấn đề của
cả Đông Nam Á. Một thí dụ khác là
phong trào di dân từ các nước nghèo sang
các nước giàu, đặt cho các nước giàu mạnh
hàng loạt những vấn đề nan giải. Thế liên thuộc bắt buộc
các nước mở mang tạo điều kiện giúp các nước chậm
tiến có cơ hội để phát triển. Sự tương trợ này,
dù chỉ xuất phát từ nguyện vọng của các nước
phát triển là khỏi phải sống trong một thế giới
quá nhiều hiểm họa, cũng là cơ may mà các
nước thua kém có thể lợi dụng để vươn lên.
Bốn là, những đòi hỏi về hạnh phúc và tiện
nghi của các dân tộc đã mở mang tăng lên mau
chóng, có phần nhanh hơn cả đà phát triển
kinh tế của họ. Số giờ làm việc ngày càng giảm đi,
lương bổng ngày càng tăng thêm, các chi
tiêu công cộng về xã hội, văn hóa, nghệ
thuật, tiện nghi sẽ tăng cao kéo theo sự gia tăng về thuế
khóa. Dĩ nhiên những phát minh mới sẽ không
ngừng xuất hiện để hạ giá thành xuống và
nâng phẩm chất lên, nhưng trong thế giới truyền thông
hiện nay các phát minh này nếu xuất hiện ở
các nước đã phát triển cũng sẽ mau chóng
được phổ biến sang các nước khác. Cuối cùng khuynh
hướng chung tại các nước có mức sống cao vẫn là
giá thành, tỷ lệ lợi nhuận và phần tái đầu
tư của tổng sản lượng quốc gia chênh lệch một cách bất lợi
so với các nước đang phát triển. Trong tình trạng
này, nhân dân các nước kém mở mang,
vì ít đòi hỏi về tiện nghi và tiêu
thụ hơn, sẽ có khả năng chấp nhận những hy sinh và cố
gắng hơn hẳn, do đó có triển vọng cạnh tranh hữu hiệu với
các nước mở mang. Chúng ta có thể tiên liệu
rằng, trước khi đi tới cạnh tranh về mọi mặt, thế giới sẽ trải qua một
giai đoạn chuyển tiếp khá dài trong đó, nói
chung, các nước vừa mới mở mang sẽ sản xuất phần lớn hàng
hóa và vật dụng trong khi các nước đã đạt
tới mức phát triển cao cung cấp phần lớn tư bản, dịch vụ,
hàng hóa phẩm chất cao và thiết bị sản xuất. Cho
nên đối với những quốc gia kém mở mang, từ nay cho tới một
vài thập niên nữa, sự cạnh tranh gay go nhất sẽ là
sự tranh đua giữa chính họ với nhau. Sự tranh đua này sẽ
rất khó khăn đối với các nước hoặc kém mở mang
nhất, hoặc không thích nghi thật nhanh với tình
thế.
3. Việt Nam trong bối cảnh thế giới mới
3.1. Nguy cơ
Trong một bối cảnh quốc tế như vậy, tương lai của Việt Nam rất bấp
bênh.
Mặc dầu trên nguyên tắc nước ta đã có quan hệ
bình thường với mọi quốc gia và đã là
thành viên của ASEAN, nhưng sự theo đuổi một cách
ngoan cố chủ nghĩa Mác-Lênin, những vi phạm trắng trợn về
nhân quyền và dân quyền, tệ quan liêu
và tham nhũng, sự do dự trước những cải tổ cần thiết và
cách cư xử thô vụng trong những giao thiệp quốc tế
đã khiến Việt Nam lâm vào một thế cô lập lớn
trên thực tế. Việt Nam vắng mặt trong hầu hết mọi chương
trình hợp tác và cũng vắng mặt trên mọi thị
trường quốc tế quan trọng.
Chính sách mở cửa về kinh tế thị trường được thực hiện từ
1987 đã cải thiện một cách đáng kể mức sống của
nhân dân nhưng đã mau chóng đạt tới giới hạn
của nó. Từ 1996 trở đi đà tăng trưởng đã khựng lại
sau quyết định xiết lại của đại hội 8 của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Dưới
áp lực của những khó khăn ngày càng gia
tăng, đảng cộng sản gần đây đã phải chấp nhận một số biện
pháp cải tổ kinh tế, nhưng sự ngoan cố từ chối cải tổ
chính trị vẫn không cho phép Việt Nam ra khỏi
trì trệ.
Ngoại thương của Việt Nam, dù đã phần nào gia
tăng, vẫn không đáng kể, đầu tư đã thấp lại
sút giảm trong những năm gần đây trong khi các quốc
gia khác không ngừng vận dụng mọi sáng kiến để thu
hút tư bản quốc tế dựa trên ưu thế sẵn có. Lợi tức
quốc gia quá thấp đã khiến chính quyền bỏ rơi
giáo dục, cơ sở hạ tầng, thiết bị sản xuất và ngay cả
những ưu tư tối thiểu về lương thực và sức khỏe cho dân
chúng.
Chất liệu nhân xã của chúng ta đã bị
rách nát do những cuộc tương tàn kéo
dài và thảm khốc, do tinh thần bất dung và
thù hận mà những cuộc chiến này đẻ ra, do
chính sách phân biệt đối xử mà đảng cộng sản
thi hành trong suốt thời gian qua, do chênh lệch
giàu nghèo quá lộ liễu và do sự nghi hoặc
toàn diện của dân chúng đối với các
giá trị cơ bản của mọi xã hội.
Công nghiệp đã bị quản lý một cách thô
vụng lại còn phải chịu sự cạnh tranh bất chính của
hàng nhập cảng lậu thuế. Nhiều thiết bị sản xuất đã cũ
và lỗi thời nhưng vẫn chưa thay thế được. Nhiều cơ sở hạ tầng hư
hao mà không được tu bổ.
Trong những năm gần đây, chúng ta chứng kiến một thảm kịch
mới : đó là sự hao mòn ngay ở nền tảng của đất
nước. Cây rừng bị chặt phá để xuất khẩu tống tháo
lấy ngoại tệ, bờ biển bị ô nhi%ễm, đất nước trở thành cằn
cỗi, lụt lội và hạn hán kế tiếp nhau hàng năm. Đất
nước không những chỉ bị hủy hoại mà còn bị đem
bán, rất nhiều vùng đất có giá trị kinh tế
chiến lược đã bị người ngoại quốc mua mất.
Đồng thời tài nguyên quí nhất của quốc gia
là con người cũng bị xuống cấp một cách thê thảm.
Sức khỏe của nhân dân suy nhược vì thiếu dinh dưỡng,
thuốc men và chăm sóc. Các chứng bệnh truyền nhiễm
nguy hiểm lan tràn một cách báo động mà
không có biện pháp ngăn chặn. Thanh thiếu
niên bỏ học hàng loạt. Trí tuệ dân tộc suy
giảm nặng với sự xuống cấp bi đát của hệ thống giáo dục.
Tệ nghiện ma túy ngày càng gia tăng. Cuộc sống
khó khăn làm con người càng ngày
càng rời xa các giá trị căn bản của mọi xã
hội : đạo đức, lương thiện, thật thà, cần cù, kỷ luật,
v.v.
Giềng mối của xã hội cũng bị tan rã : bất công lộ
liễu và thách đố, trộm cướp hoành hành
công khai, buôn lậu trở thành một phong trào
quốc gia, tham nhũng trở thành một thông lệ, sự dối
trá, giật giọc trở thành một nếp sống.
Trước thực trạng nguy ngập đó, nhà cầm quyền thay
vì dồn mọi cố gắng để cứu nước lại áp đặt làm mục
tiêu hàng đầu việc xây dựng chủ nghĩa xã hội,
một chủ nghĩa đã bị cả thế giới, kể cả các nước đã
khai sinh ra nó, từ bỏ và đã bị nhân
dân Việt Nam coi là nguyên nhân của
tình trạng bi đát hiện nay. Nhà nước cộng sản
đã thất bại trên mọi phương diện và trong tất cả
mọi địa hạt, nhưng vẫn tiếp tục cầm quyền như một thách đố với
nhân dân và không những thế, còn khẳng
định quyết tâm giữ độc quyền chính trị vô hạn định.
Nhà nước cộng sản vì vậy là một khiêu
khích hàng ngày đối với nhân dân
và một tai họa. Tai họa đó kéo dài
quá lâu đã khiến người dân, bất lực và
chán chường, không những chỉ ghét chính
quyền mà còn dần dần mất cả lòng tin vào
đất nước. Mỗi người tự luồn lách để tìm những giải
đáp cá nhân cho những vấn đề cá nhân.
Mộng ước của rất nhiều người Việt Nam ngày hôm nay
là được rời khỏi Việt Nam và làm công
dân của một nước khác. Nhà nước mất dần độc quyền
bạo lực về tay các băng đảng trộm cướp và xã hội
đen, và ngày càng mất quyền thu thuế do
tình trạng buôn lậu và tham nhũng. Chúng ta
đang tiến dần tới sự giải thể quốc gia. Chúng ta phải
thét lên tiếng thét báo động. Nếu đà
này tiếp tục, ý niệm quốc gia có lúc sẽ mất
hết nội dung, các ý đồ ly khai, tự trị sẽ xuất hiện
và tăng trưởng, các thế lực ngoại bang sẽ ngày
càng có điều kiện khuynh loát chúng ta,
trong một thế giới mà ý niệm quốc gia dân tộc đang
bị chất vấn. Sự tồn vong của chính đất nước ngày
càng không chắc chắn.
3.2. Triển vọng
Ngược lại, chúng ta cũng có những căn bản tốt có
thể và cần được sử dụng triệt để cho cố gắng phục hưng.
Chúng ta có một ngôn ngữ đồng nhất trong cả nước,
một ngôn ngữ dễ học và khá đầy đủ để chuyên
chở mọi kiến thức văn hóa, khoa học, kỹ thuật.
Chúng ta có một dân số khá đông đảo,
gần 80 triệu dân, đứng hàng thứ 13 trên thế giới.
Dân số đông đảo này tuy là một trở ngại lớn
cho cố gắng nâng cao mức sống nhưng cũng là một sức mạnh.
Người Việt Nam ta minh mẫn và siêng năng trên mức
trung bình. Trong quá khứ chúng ta đã chứng
tỏ khả năng tiếp thu mau chóng các khoa học và kỹ
thuật mới nhất ; sinh viên Việt Nam đã thành
công đông đảo và mỹ mãn trong những cuộc thi
tuyển khó khăn tại mọi quốc gia trên thế giới ; thợ Việt
Nam học nghề mau chóng và được sự thán phục của
mọi người. Những người Việt Nam di tản ra nước ngoài cũng
đã chứng tỏ một khả năng thích ứng xuất sắc với điều kiện
sinh hoạt hoàn toàn mới. Có thể nói
chúng ta là một dân tộc tinh anh. Một vốn liếng như
vậy dù có bị soi mòn đến đâu đi nữa cũng
không thể mất hẳn trong vòng một hai thế hệ. Nếu
tìm ra được tổ chức xã hội hợp lý con người Việt
Nam có thể phục hồi được. Và một khi con người Việt Nam
đã được phục hồi chúng ta sẽ có một tài
nguyên nhân lực rất hùng hậu.
Trong suốt dòng lịch sử khó khăn nhưng oanh liệt, người
Việt Nam đã biểu lộ một nguyện vọng tha thiết muốn giữ nước để
sống chung với nhau và xây dựng cùng nhau một tương
lai Việt Nam chung. Lòng yêu nước của người Việt dù
đã rất suy giảm vì thất vọng và bực bội vẫn
còn có thể khôi phục. Dân tộc Việt Nam
đã chứng tỏ một sức sống phi thường, đã thắng được nhiều
thử thách vô cùng cam go. Chúng ta vẫn
còn đủ sức để vượt qua thử thách hôm nay nếu biết
kịp thời trấn tĩnh.
Chúng ta có một địa lý vô cùng thuận
lợi. Đất đai của ta tuy hẹp nhưng phì nhiêu, nông
nghiệp của ta nếu hoạt động một cách hợp lý không
những có khả năng sản xuất đủ lương thực cho dân
chúng mà còn có khả năng xuất cảng. Bờ biển
của ta dài và đẹp, nước ta nằm ngay sát nhiều trục
giao thông quan trọng và ở ngay giữa một vùng đang
phát triển mạnh mẽ có tất cả mọi triển vọng để trở
thành một trung tâm kinh tế chiến lược lớn của thế giới.
Chúng ta có tiềm năng của một quốc gia rất lớn về du
lịch, công nghiệp và thương nghiệp. Sự chuyển hóa
về dân chủ gần đây của các nước Đông Nam
Á cũng là yếu tố tích cực mới, tạo ra một bối cảnh
ngày càng lành mạnh và văn minh, có
tác dụng thôi thúc đối với mọi người Việt Nam.
Chúng ta đang sống một thay đổi tư duy mang rất nhiều hy vọng.
Những cuộc chiến khốc liệt tàn phá đất nước đã
khiến người Việt Nam ý thức cái tai hại của bạo lực.
Chúng ta đã đạt tới đồng thuận rằng hòa
bình là giá trị đáng quí nhất trong
mọi giá trị. Kinh nghiệm các chế độ độc tài gian
trá kế tiếp nhau cũng đã giúp chúng ta tin
tưởng một cách thầm kín vào tự do dân chủ.
Chiến tranh lạnh chấm dứt cũng đang giúp chúng ta đoạn
tuyệt với tâm lý trông cậy ở các liên
minh ý thức hệ để dựa vào chính mình,
và do đó đã hiểu rằng cần phải hòa giải với
nhau, đoàn kết với nhau để giải quyết những vấn đề chung
và xây dựng tương lai chung. Chúng ta cũng
đã chấm dứt được những bàn cãi về mô thức
kinh tế để nhận định rằng chỉ có một nền kinh tế thị trường lấy
cạnh tranh và sáng kiến cá nhân làm
nền tảng là có thể thành công. Chúng
ta cũng đã thấu hiểu trong óc, trong tim, trong da, trong
thịt những hậu quả bi đát của hận thù và chia rẽ.
Trên rất nhiều điểm cơ bản, trí tuệ Việt Nam đã
được khai thông.
III.
Đồng thuận nền tảng cho một cố gắng quốc gia mới
Thời đại của các chủ nghĩa và ý thức hệ đã
chấm dứt. Từ nay không còn những chân lý
không thể đặt lại. Tuy vậy, một tập hợp chính trị trong
mỗi giai đoạn vẫn cần đồng thuận trên một số nhận định nền tảng.
Giữa những thay đổi dồn dập đòi hỏi những chính
sách và biện pháp đa dạng và phức tạp để
thích nghi với tình thế, mọi người cần nắm vững những
chọn lựa nền tảng, nghĩa là những gì không thay đổi
và giải thích cái tại sao của các biện
pháp và chính sách. Đó là
điều kiện để đất nước không mất phương hướng và để người
dân có thể hiểu và đóng góp một
cách có ý thức vào sinh hoạt quốc gia.
Chúng ta là một dân tộc đông đảo và
phải đương đầu với rất nhiều vấn đề trầm trọng và gai
góc, công việc của chúng ta chắc chắn là rất
phức tạp. Chính sự phức tạp đó đòi hỏi các
tổ chức chính trị phải minh định những chọn lựa có
tính chủ thuyết, chủ thuyết được hiểu theo nghĩa không
phải là chủ nghĩa hay ý thức hệ, cũng không phải
là những học thuyết với cấu trúc lý luận phức tạp,
mà là những ý kiến đơn giản được coi là
đúng và được lấy làm căn bản cho các
chính sách và biện pháp trong một giai đoạn
khá dài.
Đồng thuận căn bản của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên gồm bốn
điểm sau đây : đất nước phải được quan niệm như một không
gian liên đới và một tương lai chung, thể chế chính
trị cho Việt Nam là dân chủ đa nguyên, tinh thần chỉ
đạo của cố gắng làm lại đất nước là hòa giải
và hòa hợp dân tộc, cố gắng phát triển kinh
tế phải đặt trên nền tảng kinh tế thị trường và
sáng kiến cá nhân.
1. Quốc gia : một không gian liên đới
và một dự án tương lai chung
Nước Việt Nam ta đã hình thành từ ngàn xưa
và đã có hơn hai ngàn năm lịch sử.
Đó là một sự kiện mà mọi người Việt đều có
thể tự hào. Tuy vậy, cũng như mọi nước khác, chúng
ta mới chỉ biết đến khái niệm quốc gia, hiểu theo nghĩa một thực
thể thuộc quyền sở hữu của mọi người, gần đây thôi.
Lý do là vì chính ý niệm quốc gia
cũng là một ý niệm rất mới, được khai sinh ra cùng
với dân chủ.
Cho tới khi ý niệm dân chủ ra đời, các vương quốc
chỉ là của một nhà vua. Lãnh thổ cũng như người
dân thuộc quyền sở hữu của vua và bị đặt dưới quyền quyết
định độc quyền và tuyệt đối của vua. Đất cũng như dân
có thể đổi chủ một cách tùy tiện theo sự chuyển
nhượng giữa các vua chúa. Trong bối cảnh đó
không thể có các quốc gia đúng nghĩa. Sự
quyến luyến với mảnh đất của tổ tiên và những người quen
thuộc chưa phải là tinh thần dân tộc hay lòng
yêu nước. Người dân không có thẩm quyền
nào trên đất nước thì cũng không có
trách nhiệm nào đối với đất nước. Ý thức dân
chủ đã biến các vương quốc thành những quốc gia
và đã là nền tảng cho một nhà nước, hay
chính quyền, của dân, do dân và vì
dân.
Khác hẳn với các vương quốc đã dần dần hình
thành với thời gian, quốc gia là một thực thể bao gồm một
lãnh thổ, một chính quyền, một di sản văn hóa lịch
sử và những con người bình đẳng gắn bó với
lãnh thổ đó, chấp nhận chính quyền đó, chia
sẻ di sản lịch sử và văn hóa đó và, quan
trọng hơn hết, chấp nhận xây dựng và chia sẻ với nhau một
tương lai chung. Quốc gia ở trên mọi người và là
của chung mọi người.
Cùng với ý niệm quốc
gia như là một thực thể của chung mọi người nhưng cũng là
của mỗi người đã xuất hiện một ý thức cộng đồng theo
đó mỗi người không thể hoàn toàn tự giải
quyết lấy mọi vấn đề cá nhân của mình, trái
lại sự thành công hay thất bại của mỗi người còn
tùy thuộc vào một quốc gia mà mỗi người từ nay vừa
có bổn phận vừa có quyền lợi lại vừa có thẩm quyền
đóng góp để bảo vệ và cải thiện. Ý thức
cộng đồng này đến lượt nó tạo ra lòng yêu
nước, một tình yêu đối với những người thân thuộc,
đồng hành và cùng phấn đấu với mình.
Lòng yêu nước này không thể bị đồng
hóa với tinh thần bài ngoại của chủ nghĩa dân tộc
hẹp hòi.
Nhà nước dân chủ, đặt nền tảng trên ý niệm
quốc gia, đã là tiến bộ vĩ đại nhất của loài người
trong các thế kỷ 17 và 18. Những nhà nước-quốc gia
này vì được tổ chức để khuyến khích và
đón nhận sự hưởng ứng tự do và tự nguyện của mọi người
đã giải tỏa sinh lực, ý kiến và sáng kiến
của toàn dân, đã thúc đẩy mọi tiến bộ khoa
học, kỹ thuật, triết học, văn hóa và nghệ thuật và
đã khiến các nước phương Tây vượt xa hẳn phần
còn lại của thế giới. Trong chiều sâu, lý do
chính đã khiến các nước phương Tây đột ngột
gia tăng sức mạnh là sự khám phá ra ý niệm
quốc gia.
May mắn hơn nhiều dân tộc khác, người Việt Nam có
một truyền thống sống chung lâu dài và ổn vững do
điều kiện địa lý đặc biệt. Phần đất lâu đời của
chúng ta, miền Bắc, được vách núi dầy dặc về
phía Bắc và phía Tây bao che trong khi
phía Đông tựa lưng ra biển cả. Nhờ tình trạng biệt
lập đó mà biên giới cũng như cấu tạo nhân văn
của ta đã không thay đổi bao nhiêu trong nhiều thế
kỷ. Do đó mà ý thức cộng đồng và sự quyến
luyến với quê cha đất tổ rất cao và đã có
thể làm nền tảng cho một ý thức quốc gia và
dân tộc rất mạnh. Nhưng do sự thiếu hụt tư tưởng chính
trị, chúng ta đã chỉ biết đến ý niệm quốc gia, như
là một thực thể của chung mọi người dân, một cách
muộn màng. Chúng ta chỉ biết đến ý niệm quốc gia
vào lúc đang bị ngoại bang thống trị. Từ đó đến
nay chúng ta liên tiếp chịu đựng những cuộc chiến
và những chế độ độc tài. Chúng ta chưa bao giờ
có dân chủ, yếu tố nền tảng của quốc gia và
dân tộc, do đó chúng ta chưa xây dựng được
một quốc gia đúng nghĩa và cũng chưa vận dụng được sức
mạnh thực sự của một dân tộc.
Nếu các nhà nước-quốc gia đã là
nguyên nhân tạo ra sức mạnh và sự phồn vinh của
các nước Âu Mỹ thì sự thiếu vắng của chúng
cũng giải thích sự thua kém và những đau khổ của
nhiều nước trong đó có chúng ta.
Các nhà nước-quốc gia mạnh và có ích
lợi lớn vì chúng đã được quan niệm một cách
đúng đắn. Quốc gia là của mọi người và ở
trên tất cả. Nhà nước, hay chính quyền, chỉ
có sứ mệnh phục vụ quốc gia, do đó phải ở trong và
ở dưới quốc gia. Nhà nước không phải là cứu
cánh mà chỉ là công cụ và vì
thế chỉ cần được tạo dựng và duy trì ở mức độ thực sự cần
thiết. Quốc gia mới là cứu cánh, mà quốc gia trước
hết là tập thể những người công dân tự do và
bình đẳng.
Nhà nước không có quyền lợi của riêng
mình mà chỉ biết quyền lợi của quốc gia, trong khi quyền
lợi của quốc gia do toàn dân qui định sau một đúc
kết đứng đắn của những ý kiến cá nhân được
bày tỏ một cách tự do. Về cơ bản nhà nước-quốc gia
là dụng cụ để thực hiện đồng thuận xây dựng tương lai
chung của những con người tự do. Chính vì thế mà
nhà nước ấy một mặt động viên được sự đóng
góp của mọi người và, mặt khác, bảo đảm để mọi
người phát huy tối đa khả năng của mình và
đóng góp tối đa vào phúc lợi chung.
Chúng ta, cũng như nhiều dân tộc không may
khác, đã thua kém bởi vì chúng ta
không có được những nhà nước như thế. Ngược lại, ở
mỗi giai đoạn, chúng ta chỉ có những nhà nước của
riêng một tập đoàn cầm quyền thay vì của mọi người.
Những nhà nước đó có quyền lợi của riêng
mình và chỉ biết quyền lợi của riêng mình
cho nên chỉ có ưu tư giữ lấy quyền lực của mình
bằng mọi giá ngay cả nếu phải gây những thiệt thòi
lớn cho dân tộc. Đó là những nhà nước khống
chế thay vì phục vụ quốc gia, những nhà nước coi
dân chúng là đối tượng để kiểm soát
và sử dụng thay vì là những đối tượng để bảo vệ
và phục vụ.
Chúng ta hiện đang đứng trước tình trạng đặc biệt trầm
trọng bởi vì chúng ta chưa xây dựng xong một quốc
gia đúng nghĩa trong khi ý niệm quốc gia đang bị
xét lại và vượt qua. Như thế chúng ta vừa phải
nhanh chóng xây dựng một quốc gia đúng nghĩa lại
vừa phải đúng hẹn với tương lai, nghĩa là quan niệm quốc
gia theo nghĩa mà nó sẽ phải có.
Do sự bùng nổ của các phương tiện giao thông
và truyền thông, đồng thời với những trao đổi dồn dập
và sự bành trướng của những tư tưởng mới, các yếu
tố cấu tạo truyền thống của tinh thần quốc gia dân tộc đã
thay đổi trọng lượng tương đối.
Cảm giác yên tâm trong sự gần gũi, sự lo sợ
cái lạ và người lạ, liên hệ huyết thống, sự
ràng buộc với lịch sử và văn hóa cổ truyền, sự
quyến luyến với mảnh đất quen thuộc, sự tiện nghi trong việc giao tiếp
với những người cùng một tập quán và nếp sống,
v.v. tất cả đều trở thành không quan trọng và
ngày càng không quan trọng trong một thế giới cho
phép sự trao đổi trực tiếp và tức khắc, kể cả làm
việc chung, giữa những con người ở hai đầu trái đất và
trong đó con người di chuyển và tiếp xúc thường
xuyên, thu nhận hàng ngày đủ loại thông tin,
hình ảnh và ý kiến. Quả đất đã là
quê hương bé nhỏ chung của cả loài người và
hạnh phúc cá nhân đã trở thành
giá trị cao nhất. Những tình cảm truyền thống đã
đóng góp tạo ra tinh thần quốc gia dân tộc
ngày càng bộc lộ tính thủ cựu và hạn hẹp
của chúng.
Mặt khác vai trò và chỗ đứng của quốc gia cũng bị
công phá từ mọi phía. Từ bên ngoài,
với những kết hợp khu vực tạo ra một không gian hoạt động lớn
hơn, từ bên trong do những đòi hỏi của các
cá nhân và các cộng đồng sắc tộc, và
từ cả trong lẫn ngoài do sự bành trướng nhanh
chóng của các công ty đa quốc gia mà vai
trò và trọng lượng đang gia tăng nhanh chóng.
Trong bối cảnh đó, những lý do ràng buộc con người
với đất nước dĩ nhiên phải thay đổi và trên thực tế
đã thay đổi. Con người ngày nay ràng buộc với đất
nước trước hết vì một trong ba lý do : vì đất nước
bảo đảm cho mình những che chở và quyền lợi đặc biệt,
vì đất nước đem lại cho mình một nguồn hãnh diện
hay, một cách giản dị, vì đất nước là của
mình.
Trong các yếu tố cấu tạo ra quốc gia, lãnh thổ
không còn giá trị tuyệt đối, con người có
thể yêu nước và đóng góp cho đất nước
dù sống ở bất cứ nơi nào. Di sản lịch sử, văn hóa
và ngôn ngữ cũng đã giảm t)ầm quan trọng.
Chính quyền cũng không quan trọng. Quan niệm một tổ quốc
thiêng liêng mà mọi người phải phục tùng,
tôn kính và phục vụ vô điều kiện lại
càng lỗi thời. Còn lại những con người và dự
án tương lai chung, hai yếu tố cấu tạo của quốc gia mà
tầm quan trọng ngày càng tăng lên.
Như thế, một quốc gia chỉ có thể tồn tại nếu được quan niệm
không phải như một chủng tộc hay một quá khứ mà như
một không gian liên đới giữa những con người hiểu nhau,
quí trọng nhau và hợp tác với nhau để xây
dựng và chia sẻ một tương lai chung. Quốc gia như thế chủ yếu
là xã hội dân sự với ký ức của nó,
với những vấn đề phải giải quyết của nó và với những dự
định tương lai của nó. Nhà nước ở trong và ở dưới
quốc gia với sứ mạng phục vụ quốc gia cho nên nhà nước
có vai trò phục vụ chứ không khống chế xã
hội dân sự.
Một đất nước được hiểu như thế vẫn còn khả năng để ràng
buộc người Việt Nam với nhau và vẫn rất cần thiết cho mọi người,
đồng thời cũng là môi trường thuận lợi cho những hợp
tác. Đất nước ấy sẽ có lợi cho mọi người bởi vì
đó sẽ là môi trường phát triển tự
nhiên cho mỗi người. Đất nước ấy sẽ là nguồn yểm trợ để
mọi người chúng ta xây dựng đời mình đồng thời
cùng nhau xây dựng một niềm tự hào chung và
tăng cường những quyền lợi chung. Đất nước ấy cũng sẽ là một chỗ
dựa tình cảm cho mỗi người để hạnh phúc được toàn
vẹn. Đất nước ấy phải là của mọi người chứ không phải
là của riêng của một thế lực hay đảng phái
nào.
Đó là quan điểm của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên
về đất nước Việt Nam. Niềm tin của Tập Hợp Dân Chủ Đa
Nguyên là chỉ có một quan niệm về quốc gia như vậy
mới có thể đem lại cho mọi người Việt Nam lý do để
yêu nước và chung sức dựng nước, nghĩa là mới cho
phép Việt Nam tồn tại và vươn lên.
2. Dân chủ đa nguyên
Để thoát khỏi bế tắc hiện nay và hội nhập vào thế
giới tiến bộ, để có thể động viên một cách hữu hiệu
mọi sinh lực quốc gia vào cố gắng vươn lên mưu tìm
một chỗ đứng xứng đáng trong cộng đồng quốc tế, Việt Nam
không có chọn lựa chính trị nào khác
hơn là một thể chế dân chủ đa nguyên.
Dân chủ đa nguyên không những là chọn lựa hiển
nhiên cho Việt Nam mà còn là hướng đi tất
yếu của loài người tiến bộ.
Cuộc tranh cãi gay go nhất trong thế kỷ hai mươi đã
là cuộc tranh cãi về dân chủ. Hàng chục
triệu người trên khắp thế giới đã thiệt mạng vì
những xung đột gây ra bởi cuộc tranh cãi này. Vấn
đề cốt lõi là làm thế nào để người
dân quyết định vận mệnh đất nước, và nhiều công thức
đã được đề ra và thử nghiệm.
Cuộc tranh cãi này hiện nay có thể coi như
đã chấm dứt. Chủ nghĩa Mác-Lênin và mô
hình "dân chủ xã hội chủ nghĩa" mà nó
đề xướng đã hoàn toàn sụp đổ. Các chế độ
cộng sản còn lại chỉ còn là những chế độ độc
tài bạo ngược thuần túy. Mô hình dân
chủ đặt nền tảng trên tự do cá nhân đã thắng
về mặt lý thuyết và cũng đang thắng trên thực tế.
Số lượng các nước dân chủ đang gia tăng mau chóng.
Nhiều người nói nền dân chủ kiểu phương Tây,
mà hầu hết các dân tộc trên thế giới
đã chấp nhận là đúng, tự nhiên đã
có đa nguyên. Điều này có phần đúng,
nhưng cụm từ "dân chủ đa nguyên" có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng của nó, nhất là đối với người Việt
Nam trong giai đoạn hiện tại. Nó nói lên một tinh
thần, một thái độ và một lý tưởng. Tinh thần
đó là tinh thần bao dung và khoan nhượng,
tôn trọng mọi người, mọi ý kiến. Thái độ đó
là thái độ bác bỏ thẳng thắn mọi hình thức
độc tài chuyên chính, kể cả, và nhất
là, thứ "dân chủ" bịp bợm mệnh danh là "dân
chủ tập trung" hay "dân chủ xã hội chủ nghĩa" dành
địa vị độc tôn cho một chủ nghĩa và một tập đoàn
lãnh đạo. Lý tưởng đó là lý tưởng
xây dựng đất nước Việt Nam có chỗ đứng xứng đáng
và ngang nhau cho tất cả mọi người.
Đa đảng chưa phải là đa nguyên nếu mọi khuynh hướng
không được nhìn nhận một chỗ đứng ngang nhau. Trong những
ngày độc đoán và giáo điều nhất của
nó, chế độ cộng sản Việt Nam cũng đã có ba hoặc
bốn đảng, nhưng không phải vì thế mà nó
đã có đa nguyên. Đa đảng chỉ là yếu tố cần,
nhưng chưa đủ, của đa nguyên. Đa nguyên là một tinh
thần, trong khi đa đảng chỉ là một con số.
Trong cuộc tranh hùng với phong trào cộng sản, các
nước phương Tây đã lấy một quyết định vô cùng
táo bạo là thay vì co cụm lại trong một kỷ luật tự
vệ xơ cứng lại phát triển tối đa nền dân chủ của họ,
mà nét đậm nhất là sự tôn trọng mọi
khác biệt trong xã hội, và họ dần dần tiến tới
dân chủ đa nguyên. Tuy vậy nhiều thể chế tư bản phương
Tây chưa phải là những nền dân chủ đa nguyên
đúng nghĩa. Các nước phương Tây ở vào những
mức độ đa nguyên khác nhau.
Dân chủ đa nguyên là sự hội nhập và ứng dụng
triết lý đa nguyên vào đời sống chính trị.
Căn bản của triết lý đa nguyên là tinh thần bao
dung, là sự nhìn nhận và tôn trọng mọi
khác biệt trong xã hội. Dĩ nhiên tính đa
nguyên có trong mọi xã hội và nếu muốn ngụy
biện thì xã hội nào cũng đa nguyên cả, nhưng
điều độc đáo là triết lý đa nguyên thay
vì coi sự hiện diện của những thành tố khác biệt
như một thực tại phải nhìn nhận và khắc phục, lại coi như
một lẽ tự nhiên, một sự phong phú cần được khuyến
khích và khai thác. Đó là một phong
cách sinh hoạt chính trị. Dân chủ đa nguyên
là dân chủ nhưng không phải dân chủ nào
cũng là dân chủ đa nguyên.
Dân chủ đa nguyên là một hệ thống chính trị
mới với những đặc tính bắt buộc của nó. Ta có thể
nhấn mạnh năm đặc tính :
Một là : dân chủ đa nguyên nhìn nhận
và tôn trọng chỗ đứng và tiếng nói ngang
nhau cho mọi người thuộc mọi thành phần xã hội, mọi
tín ngưỡng và mọi khuynh hướng chính trị.
Dân chủ đa nguyên lên án mọi phân biệt
đối xử, nó chống đối quyết liệt chế độ độc đảng. Một cách
cụ thể bản hiến pháp của một thể chế dân chủ đa
nguyên không thể chứa đựng bất cứ một qui chiếu nào
về một chính đảng, một chủ nghĩa hay một tôn giáo.
Hai là : ngoài nguyên tắc phân quyền phải
có trong mọi nền dân chủ xứng đáng với tên
gọi của nó, dân chủ đa nguyên đòi hỏi tản
quyền để tôn trọng sự khác biệt giữa các địa
phương. Một chính quyền dù xuất phát từ bầu cử tự
do đi nữa cũng không phải là dân chủ đa nguyên
nếu phần lớn quyền hành tập trung trong tay chính quyền
trung ương. Trong một thể chế dân chủ đa nguyên các
chính quyền địa phương, do nhân dân địa phương bầu
ra, phải có những quyền luật định rộng rãi để tổ chức
cuộc sống phù hợp với bối cảnh riêng của mỗi vùng.
Mỗi vùng phải có diện tích và dân số
ở mức độ thỏa đáng để có thể là những thực thể đủ
tầm vóc để tự quản được và phát triển được. Như
thế một số nguyên nhân xung đột sẽ tự nhiên được giải
tỏa. Các sắc tộc ít người sẽ có được tiếng
nói đáng kể tại các địa phương mà họ tập
trung đông đảo. Các chính đảng không
có được đa số trong các cuộc bầu cử toàn quốc vẫn
có thể nắm được chính quyền tại những địa phương nơi họ
được tín nhiệm. Dân chủ đa nguyên làm nhẹ đi
mối căng thẳng chính quyền - đối lập, ở cấp trung ương cũng như
cấp địa phương, và xóa bỏ mối xung khắc "được làm
vua thua làm giặc". Tản quyền đưa tới hệ luận là
chính quyền trung ương không cai trị trực tiếp mà
chỉ đảm nhiệm các sứ mạng quốc phòng, ngoại giao, tiền tệ
và phối hợp giữa các địa phương. Một vai trò
khác của chính quyền trung ương là thực hiện
các công trình cơ sở hạ tầng trên qui
mô cả nước và trợ giúp các chương
trình địa phương đáng khuyến khích.
Ba là : dân chủ đa nguyên đặt nền tảng trên
xã hội dân sự. Bên cạnh các chính
đảng, các cộng đồng sắc tộc, địa phương và tôn
giáo, các hiệp hội công dân tổ chức theo
ngành nghề, quyền lợi, nhân sinh quan, sở nguyện, ưu tư,
v.v. được hoạt động độc lập với chính quyền, được nhìn
nhận một chỗ đứng trọng yếu, được có tiếng nói và
ảnh hưởng trong sinh hoạt cũng như trong sự tiến hóa của
xã hội. Nhà nước tự coi mình là có
sứ mạng phục vụ xã hội dân sự chứ không khống chế
xã hội dân sự, không định đoạt sinh hoạt thường
ngày thay cho xã hội dân sự. Về mặt kinh tế, điều
này có nghĩa là nền kinh tế quốc gia phải đặt nền
tảng trên các xí nghiệp tư, khu vực quốc doanh phải
được giới hạn ở mức tối thiểu và nếu không có
thì càng hay. Một xã hội dân sự mạnh
và đa dạng là bảo đảm chắc chắn nhất cho sự chuyển
hóa thường trực, tự nhiên và liên tục của
xã hội, tránh những xáo trộn đột ngột và
đầy đổ vỡ của các cuộc cách mạng.
Bốn là : dân chủ đa nguyên kính trọng
các thiểu số và luôn luôn mưu tìm thỏa
hiệp. Trong một thể chế dân chủ đa nguyên, nguyên tắc
thiểu số phục tùng đa số không được sử dụng một
cách tự động và máy móc mà chỉ được
dùng tới sau khi đã tận dụng mọi cố gắng để tìm
đồng thuận. Dân chủ đa nguyên chống lại mọi hình
thức chuyên chính, kể cả chuyên chính của đa
số. Bình thường trong một thể chế dân chủ sự chính
đáng của một chính quyền dựa trên kết quả của cuộc
bầu cử cuối cùng, nhưng trong dân chủ đa nguyên sự
chính đáng của một chính quyền còn nằm cả
trong sự thành khẩn tìm đồng thuận trong mọi quyết định
quan trọng.
Năm là : dân chủ đa nguyên trong bản chất của
nó tôn trọng mọi thành phần dân tộc và
không thể để một thành phần này bóc lột
và chà đạp một thành phần khác. Vì
thế dân chủ đa nguyên coi rất trọng công bằng
xã hội và không thể đi đôi với cái
thường được gọi là "tư bản rừng rú".
Trong một thể chế dân chủ đa nguyên, nhà nước
không còn là người chỉ huy tuyệt đối. Vai
trò của nhà nước là đảm nhiệm ba chức năng : trọng
tài trong các quan hệ giữa các thành tố của
xã hội, chế tài những vi phạm, và hòa giải
những đòi hỏi mâu thuẫn của các thành phần
dân tộc. Nhà nước hòa giải thay vì
nhà nước chỉ huy là nét đậm của dân chủ đa
nguyên. Nó phân biệt hẳn dân chủ đa
nguyên với các chế độ chuyên chính, nhưng
nó cũng khiến dân chủ đa nguyên khác với
nhiều chế độ dân chủ trong đó chính quyền vẫn
còn tham vọng định đoạt thay cho xã hội dân sự.
Với sự tôn trọng mọi khác biệt, với vai trò nền
tảng của xã hội dân sự gồm vô số các cộng
đồng, hiệp hội công dân và các xí
nghiệp, với tổ chức chính trị tản quyền, xã hội đa
nguyên là sự kết hợp vô cùng phức tạp của
vô số liên hệ đan xen. Một xã hội phức tạp như vậy
chỉ có thể tồn tại được với những luật lệ rõ ràng,
minh bạch và được áp dụng triệt để. Nhà nước trong
một thể chế dân chủ đa nguyên chỉ có thể là
một nhà nước pháp trị. Nhà nước văn minh
nào cũng phải là một nhà nước pháp trị
nhưng nhà nước dân chủ đa nguyên phải là một
nhà nước pháp trị toàn vẹn.
Nhìn vào thực trạng Việt Nam, nếu có một điều
mà chúng ta có thể quả quyết thì đó
là với tình trạng hận thù chồng chất, khủng hoảng
niềm tin và thiếu đồng nhất về lập trường hiện nay không
thể áp đặt một lực lượng nào hay một đường lối nào
mà không gặp sự chống đối mạnh mẽ. Thể chế Việt Nam tương
lai phải là một thể chế tôn trọng mọi khác biệt,
dành chỗ đứng và tiếng nói ngang nhau cho mọi
người và cho mỗi người. Thể chế này do đó bắt buộc
phải là một thể chế dân chủ đa nguyên.
Nhiều người viện cớ dân ta chưa đủ kinh nghiệm dân chủ,
tinh thần kỷ luật còn chưa cao, lòng người còn
phân tán, v.v. để cho rằng dân chủ là một xa
xỉ phẩm đối với Việt Nam. Như vậy phải chăng chúng ta
đành phải tạm thời chấp nhận một phân lượng độc tài
nào đó? Để trả lời câu hỏi này, chúng
ta chỉ cần so sánh những thành tựu của các nước
dân chủ với thành tích tồi tệ của các chế độ
cộng sản, nhìn vào những gì mà các
chế độ độc tài cánh hữu đã từng đem lại cho
các nước châu Á, châu Phi và
châu Mỹ La Tinh.
Nhưng ngược lại cũng không nên ngộ nhận về bản chất của
dân chủ. Dân chủ không giải quyết tức khắc và
toàn bộ vấn đề phát triển. Thành công của
mọi chế độ đòi hỏi những chọn lựa đúng đắn và
những con người có khả năng. Dân chủ không đem cơm
áo và sự phồn vinh để phát không. Dân
chủ không thay thế cho những chọn lựa và những con người.
Nhưng dân chủ là một phong cách sinh ho_ạt cho
phép đặt các vấn đề một cách đúng đắn
và chọn lựa một cách đúng đắn những người
có trách nhiệm. Dân chủ, và nhất là
dân chủ đa nguyên, cũng là một phương thức tổ chức
xã hội cho phép phát huy triệt để ý kiến
và sáng kiến, động lực cơ bản nhất của tiến bộ. Vì
thế mức độ dân chủ quyết định một giới hạn trên cho
phát triển. Dân chủ càng cao, khả năng phát
triển càng cao.
Ngược lại, các chế độ độc tài cấm cản ý kiến
và sáng kiến, ngăn chặn tiến hóa hòa
bình và liên tục của xã hội, dung
túng tham nhũng, bất công và lạm quyền, và
do đó ngăn cản phát triển. Chúng ta cần cảnh
giác là không thể có những chế độ độc
tài sáng suốt bởi vì nền tảng của mọi chế độ độc
tài là sự kiêu căng bệnh hoạn của một nhóm
người tự nghĩ rằng họ đủ thông minh để suy nghĩ thay cho cả một
dân tộc. Nhà độc tài trước hết là một kẻ u
mê. Vả lại, nếu quan sát, ta có thể thấy hầu hết
các tập đoàn độc tài đều thiếu văn hóa.
Dĩ nhiên dân chủ đa nguyên không thể đem lại
tất cả mọi phúc lợi của nó trong những điều kiện
dân trí, xã hội và kinh tế chưa tốt đẹp,
nhưng ngay cả trong trường hợp này dân chủ đa nguyên
vẫn còn hơn xa độc tài.
Chúng ta khẳng định : dân chủ đa nguyên thực sự
và ngay tức khắc.
Để có dân chủ đa nguyên thực sự, điều chúng
ta phải làm trước hết là xóa bỏ những hận
thù do một quá khứ đẫm máu để lại và được
một chính sách phân biệt đối xử nuôi dưỡng
suốt thời gian qua. Hòa giải dân tộc là một bắt
buộc của hoàn cảnh lịch sử. Có như thế chúng ta
mới có thể chấp nhận lẫn nhau, nhận lỗi với nhau và tha
lỗi cho nhau, để chung sống với nhau và bắt tay nhau xây
dựng một tương lai chung. Còn nếu không đa nguyên
cùng lắm chỉ có nghĩa là tạm thời chịu đựng lẫn
nhau do một so sánh lực lượng chưa ngã ngũ. Đa
nguyên mà không có hòa giải dân
tộc như vậy chỉ là đa nguyên bệnh hoạn, chỉ chuẩn bị cho
một sự thanh toán lẫn nhau. Ngược lại dân chủ đa
nguyên cũng là điều kiện cần để có thể có
hòa giải dân tộc thực sự. Hòa giải mà
không có đa nguyên chính trị cũng chỉ
là hòa giải bịp bợm, hòa giải trong sự khuất phục
của kẻ bị trị trước kẻ thống trị, nghĩa là một hòa giải
không thể có.
Đất nước ta không phải chỉ có những hận thù do
chiến tranh để lại. Chúng ta còn có vô số
nguyên nhân chia rẽ mà chúng ta đã
không giải quyết được vì ta đã không ý
thức được tầm quan trọng của các vấn đề đặt ra, hay vì
hoàn cảnh chiến tranh đã không cho phép ta
giải quyết. Những cách biệt về tôn giáo, địa
phương, sắc tộc, giàu nghèo, nhân sinh quan,
chính kiến, v.v. không thiếu, và vì
không được giải quyết nên càng ngày
càng trở nên trầm trọng. Dân chủ đa nguyên, do
tinh thần bao dung và mô thức tản quyền của nó
là giải pháp giúp mọi thành phần dân
tộc đều có chỗ đứng và tiếng nói, và do
đó có thể chấp nhận lẫn nhau, xáp lại gần nhau,
hòa hợp với nhau để cùng xây dựng một tương lai
Việt Nam chung.
Không ai phủ nhận rằng đa nguyên là một lý
tưởng đẹp, đẹp đến nỗi các chế độ độc tài, dù bị
khốn đốn vì nó, cũng không dám phủ nhận
nó một cách dứt khoát.
Dân chủ đa nguyên đang trở thành đồng thuận căn bản
của dân tộc ta trong cuộc hành trình về tương lai.
Đó cũng là hướng đi tất yếu của loài người. Những
người tranh đấu cho dân chủ đa nguyên có quyền tự
hào vì mình đang theo đuổi một lý tưởng đẹp
và cũng có quyền lạc quan vì mình đang
tranh đấu cho một lập trường nhất định sẽ thắng lợi.
3. Hòa giải và hòa hợp dân
tộc
Trong hơn bốn thế kỷ qua, kể từ khi họ Mạc cướp ngôi nhà
Lê hồi đầu thế kỷ 16, nước ta liên tiếp đi từ cuộc chiến
tranh này đến cuộc xung đột khác. Đất nước bị chia cắt
nhiều lần trong hơn hai thế kỷ, bị đô hộ và bị đặt dưới
những chế độ hành chánh khác nhau trong gần một
trăm năm. Chiến tranh, nội loạn, trả thù, báo oán,
bách hại đã là những yếu tố thường trực trong lịch
sử cận đại của ta. Khốc liệt nhất là cuộc chiến sau cùng
1945-1975 trong đó lần đầu tiên chúng ta xung đột
với nhau cả về ý thức hệ, và sau đó phe chiến
thắng thi hành chính sách bỏ tù và
hạ nhục, đồng thời với vô số biện pháp phân biệt đối
xử.
Do hoàn cảnh lịch sử, chất liệu nhân xã của
chúng ta đã bị tổn thương nặng nề. Những đổ vỡ đòi
hỏi một thời gian hàn gắn rất lâu dài, do đó
tinh thần căn bản của mọi chính sách cho nhiều thế hệ tới
sẽ phải là hòa giải và hòa hợp dân
tộc. Hòa giải dân tộc để xóa bỏ những hận
thù và hiềm khích của quá khứ để đi đến
hòa hợp dân tộc trong cố gắng xây dựng một tương lai
chung.
Trong một thế giới thay đổi dồn dập như hiện nay, quốc gia nào
cũng phải chịu những xáo trộn không ngừng. Ngành
này tiến lên trong khi ngành kia suy thoái,
khu vực này bành trướng trong khi khu vực khác
trì trệ. Những chênh lệch xã hội liên tiếp
xuất hiện và các chính sách dù
hoàn chỉnh đến đâu cũng không thể nào thỏa
mãn được tất cả mọi người. Cho nên quốc gia nào,
dân tộc nào cũng luôn luôn phải hòa
giải với nhau vì các mối xung đột quyền lợi và
căng thẳng luôn luôn xảy ra. Hòa giải đã trở
thành triết lý điều hành quốc gia.
Hòa giải là bắt buộc của mọi dân tộc dù ở
trình độ nào và có lịch sử nào.
Nhưng dân tộc Việt Nam là một trong những dân tộc
cần hòa giải hơn cả.
Chúng ta cần hòa giải cộng đồng quốc gia nói chung
với các sắc tộc ít người đã có mặt
trên đất nước này từ ngày mở nước và
luôn luôn bị chà đạp và hắt hủi trong suốt
dòng lịch sử.
Chúng ta cần hòa giải các tôn giáo,
nhất là Phật giáo và Công giáo, hai
tôn giáo đã bị các nhà cầm quyền Việt
Nam cũng như ngoại bang bách hại, đàn áp,
phân biệt đối xử và đặt vào thế đối đầu với nhau.
Đã thế, các hiềm khích, hậu quả của một
hoàn cảnh lịch sử trong đó cả hai tôn giáo
đều là nạn nhân, thay vì được giải tỏa còn
đôi khi bị thổi phồng và khai thác cho những tham
vọng bất chính.
Chúng ta cần hòa giải và hòa hợp hai miền
Nam-Bắc đã thường xuyên bị chia cắt và đặt
vào thế tương tranh và kể từ 1975 bị chia rẽ bởi một
chính sách không khác gì một sự chiếm
đóng của đảng cộng sản.
Chúng ta cần hòa giải đất nước với cộng đồng người Việt
hải ngoại đã phải bỏ người thân, tài sản, mồ mả tổ
tiên ra đi vì không thể chấp nhận được một
chính quyền hà khắc, đã phải chịu đựng những khổ
đau và mất mát rất lớn do hải tặc, sóng gió
và công an.
Chúng ta cũng cần hòa giải người Việt Nam với đất nước
Việt Nam. Phải nhìn nhận rằng làm người Việt Nam trong
thế kỷ 20 đã là một điều không may. Đất nước
đã chỉ là hy sinh. Hơn thế nữa, các tập
đoàn lãnh đạo kế tiếp nhau còn nhân danh đất
nước để phạm những tội ác rất nghiêm trọng. Dĩ
nhiên, đất nước không đồng hóa với người cầm quyền,
nhưng vẫn được thể hiện qua người cầm quyền. Vì thế, khi trong
một thời gian quá dài chỉ có những người cầm quyền
gian trá hay bạo ngược, hay vừa gian trá vừa bạo ngược,
thì chính hình ảnh của đất nước cũng bị tổn hại
và lòng yêu nước cũng bị suy giảm. Hòa giải
người Việt Nam với đất nước Việt Nam là điều phải làm để
phục hồi lòng yêu nước, một yếu tố không thể thiếu
nếu chúng ta còn muốn một tương lai cho Việt Nam. Muốn
như thế nhà nước, người đại diện đất nước, phải là một
nhà nước khiêm tốn, hiền hòa. Tổ quốc Việt Nam phải
được cảm nhận như một tình yêu và một dự án
tương lai chung.
Nhưng gần nhất và cũng đau đớn nhất, chúng ta vừa
tàn sát nhau trong một cuộc tương tranh kéo
dài ba mươi năm. Những vết thương vẫn còn chảy máu
và thay vì được hàn gắn đã bị trầm trọng
hóa bởi một chính sách phân biệt đối xử
thô bạo.
Trong cuộc xung đột vừa qua chúng ta đã không
có chọn lựa tốt nào. Chúng ta đã chỉ
có những chọn lựa đau buồn, giữa cái dở và
cái mà một cách chủ quan chúng ta thấy
là còn dở hơn. Chúng ta đã chỉ chịu đựng
chứ không làm chủ các biến cố. Rất ít người
Việt Nam nào đã thực sự tranh đấu cho cái
mà mình ưa thích. Trong tuyệt đại đa số, người
Việt Nam, quốc gia cũng như cộng sản, đã chỉ chống lại phe
mà mình thấy là còn tồi tệ hơn hàng
ngũ mình đang đứng. Người không chịu đựng được sự thối
nát của các chính quyền quốc gia thì đứng
vào hàng ngũ cộng sản, mặc dầu cũng biết bản chất bạo
ngược của nó, còn người thấy rằng để đất nước lọt
vào tay cộng sản là một tai họa quá lớn thì
đứng vào hàng ngũ quốc gia, mặc dầu cũng chán
ghét sự thối nát của nó. Anh em ruột thịt, bạn
bè thân thích đã chỉ vì một sự lượng
định nặng nhẹ khác nhau, hay đã chỉ bị hoàn cảnh
xô đẩy, mà phải quay lưng lại với nhau, mạt sát
nhau, bắn giết nhau. Cho nên, ngoài những đổ vỡ về vật
chất và sinh mạng, còn có một đổ vỡ lớn hơn trong
lòng mỗi người Việt Nam.
Để rồi, kẻ thì đã thua trận, bị tù đày
và nhục mạ, người thì nhận ra tất cả những hy sinh của
mình chỉ là để đóng góp cho một công
trình đập phá đất nước. Chẳng có ai có
lý do gì để bắt lỗi ai, tất cả chúng ta đều
đã thất bại bẽ bàng. Chúng ta đều là nạn
nhân. Chúng ta phải bắt tay nhau cùng làm
lại lịch sử.
Thách đố trước mắt chúng ta là một tập đoàn
cầm quyền đã gây đổ vỡ trầm trọng cho đất nước, đã
thất bại trên tất cả mọi phương diện và trong tất cả mọi
địa hạt, nhưng vẫn xấc xược tự cho mình độc quyền cai trị đất
nước vô thời hạn và đàn áp thô bạo mọi
tiếng nói đối lập, dù là ôn hòa. Tập
đoàn này dùng mọi biện pháp để ngăn chặn
hòa giải và hòa hợp dân tộc vì họ
biết rằng chỉ có thể duy trì được sự thống trị của họ nếu
dân tộc Việt Nam bất lực vì hận thù và chia
rẽ. Không những không xoa dịu những vết thương của cuộc
chiến, bằng những biện pháp đàn áp chính
trị, xếp loại dân chúng và phân biệt đối xử,
họ còn mở rộng hiềm khích tới nhiều thành phần
dân tộc và kéo dài hận thù tới thế hệ
vừa lớn lên.
Ngày hôm nay khát vọng của tuyệt đại đa số
nhân dân Việt Nam là dân chủ. Nhìn lại
anh em, nhận lại bạn bè phải là tinh thần chỉ đạo của một
tập hợp dân tộc mới, trong đó không có kẻ
đúng người sai mà chỉ có những người anh em
bình đẳng cùng ngậm ngùi cho đất nước và
cùng kết hợp trong một cuộc vận động dân chủ. Hòa
giải và hòa hợp dân tộc chính là điều
kiện cốt lõi để cô lập và đánh bại tập
đoàn độc tài ngoan cố.
Nhưng vượt lên trên những sôi động nhất thời,
hòa giải và hòa hợp dân tộc cũng là
một đoạn tuyệt lịch sử cần thiết để bẻ gãy cái
vòng luẩn quẩn của hận thù và chia rẽ đã
giam hãm chúng ta từ nhiều thế kỷ qua, nhất là từ
nửa thế kỷ nay. Đây là một đoạn tuyệt lịch sử rất
khó khăn vì ý niệm hòa giải dân tộc
hoàn toàn thiếu vắng trong tâm lý
chính trị Việt Nam. Trong gần tám thế kỷ, kể từ
nhà Trần, nhổ cỏ tận gốc, tru di tam tộc, tiêu diệt
toàn bộ vẫn là những biện pháp được người cầm
quyền sử dụng thay cho hòa giải. Dần dần cách ứng xử hung
bạo đó đã ăn rễ vào tâm lý tập thể
làm cho ý niệm hòa giải trở thành xa lạ đối
với người Việt Nam. Vì thế nhiều người đã nói rằng
dân tộc Việt Nam không có nhu cầu hòa giải
trong khi thực sự chúng ta là một trong những dân
tộc cần hòa giải nhất. Chính vì thiếu tinh thần
hòa giải mà chúng ta đã bị tù
hãm trong hận thù. Cái vòng oan nghiệt
đó đã khiến chúng ta không động viên
được mọi sinh lực của đất nước để vươn lên và giải
thích tại sao chúng ta đã phải quằn quại
mãi trong đói khổ và thua kém.
Hòa giải và hòa hợp dân tộc là điều
kiện cần cho thắng lợi của cuộc vận động dân chủ hiện nay
và cũng là điều kiện cần cho thành công của
cố gắng phục hưng đất nước ngày mai.
Thực thi hòa giải dân tộc không phải chỉ đơn thuần
là một tình cảm mà còn đòi hỏi những
biện pháp cụ thể. Nhà nước Việt Nam tương lai sẽ đặt con
người tự do làm đối tượng phục vụ cao nhất. Nhà nước Việt
Nam tương lai sẽ coi đa nguyên như một giá trị tuyệt đối.
Đa nguyên về mọi mặt tâm linh, văn hóa, chính
trị, kinh tế, xã hội. Nhà nước Việt Nam tương lai sẽ chế
tài nghiêm khắc mọi ngôn ngữ và thái
độ xúc phạm với mọi sắc tộc, mọi cộng đồng, mọi tín
ngưỡng, mọi quan điểm. Ngược lại nhà nước sẽ khuyến khích
và giúp đỡ tận tình mọi sáng kiến và
cố gắng đem mọi người Việt Nam thuộc mọi vùng, mọi sắc tộc, mọi
tôn giáo, mọi nhân sinh quan, mọi chính kiến
đến gần nhau hơn trong tinh thần tôn trọng mọi khác biệt.
Nhà nước Việt Nam tương lai sẽ phải phục hồi danh dự cho những
người đã bị hạ nhục, phải bồi thường thiệt hại, dù chỉ
là một cách không đầy đủ, cho những nạn nhân.
Xóa bỏ hận thù có nghĩa là sẽ không
có những vụ án chính trị, ngược lại sẽ có
một đạo luật cấm nhà nước truy tố bất cứ ai vì chức vụ
mà họ đã giữ, trừ khi họ đã vi phạm một
cách rất nghiêm trọng ngay chính những luật lệ
đương hành lúc họ tại chức. Mọi công dân
có quyền tố cáo những hà hiếp mà
mình đã là nạn nhân, và nhà
nước sẽ xử lý những tranh tụng đó như những tranh tụng
giữa những công dân bình đẳng trước pháp
luật.
Những biện pháp đó, được thực hiện với thành
tâm hàn gắn những vết thương do lịch sử để lại, sẽ
giúp chúng ta dần dần tiến tới hòa hợp dân
tộc trong cố gắng xây dựng và chia sẻ một tương lai Việt
Nam chung. Chúng ta sẽ khép lại một trang sử đau buồn của
đất nước và mở ra một trang sử mới viết bằng tình tự
dân tộc.
4. Phát triển đất nước trên nền tảng
dân chủ, kinh tế thị trường và sáng kiến cá
nhân
Điều nhức nhối nhất của chúng ta là tình trạng lạc
hậu và nghèo khổ. Do đó trọng tâm của mọi cố
gắng quốc gia phải là phát triển, và một
cái nhìn thấu đáo về vấn đề phát triển
là vô cùng quan trọng.
Ba phần tư nhân loại vẫn còn đang sống trong nghèo
khổ, một nửa đang sống trong nghèo khổ cùng cực.
Cách đây hai thế kỷ, ngay tại các nước phát
triển nhất, quá phân nửa dân số đã chết trước
tuổi dậy thì. Phát triển như vậy là một hiện tượng
rất mới tại một số nước nhờ một số điều kiện đặc biệt mà
chúng ta cần nhận diện để nắm bắt.
Trước hết, chúng ta hiểu phát triển như thế nào?
Phát triển là một thay đổi liên tục và
kéo dài trong thời gian, cho phép sử dụng
ngày một hữu hiệu hơn tài nguyên và
nhân lực, đem lại cho quốc gia lợi tức ngày một lớn hơn
và cho con người cuộc sống ngày càng cao hơn về cả
vật chất lẫn tinh thần.
Phát triển là một khái niệm tương đối. Một quốc
gia được coi là phát triển khi đạt thành
tích cao so với phần còn lại của thế giới về lợi tức
bình quân trên mỗi đầu người, về giáo dục, y
tế, gia cư và cơ sở hạ tầng, khi hoạt động kinh tế mạnh
và hiện đại, môi trường sinh sống sạch và đẹp,
các phương tiện di chuyển, thông tin, học hỏi và
giải trí dồi dào.
Phát triển, ngay cả với định nghĩa trên đây, cũng
không phải là tất cả. Sự thành công của một
quốc gia, ngoài phát triển, còn là sự kiện
mọi người gắn bó một cách tự nguyện trong cố gắng
xây dựng một tương lai chung và mỗi người cảm thấy được
làm chủ đ^ời mình, được sống theo ý mình,
được quí trọng trong một xã hội không đe dọa, được
hưởng phúc lợi do cố gắng của mình, được bảo đảm những cơ
hội thăng tiến công bình, và có lý do
để tin rằng ngày mai sẽ hơn ngày hôm nay và
cuộc sống của con cái mình sẽ hơn cuộc sống của
mình. Đó là mục tiêu chúng ta muốn
đạt tới.
Phát triển không phải chỉ là sự gia tăng tổng sản
lượng quốc gia. Do đó, một mức độ tăng trưởng 5% của tổng sản
lượng quốc gia với những hệ thống giáo dục và y tế
hoàn chỉnh, môi trường thiên nhiên được bảo vệ
và cải thiện, lợi tức được phân chia tương đối đồng đều,
phải được đánh giá là tốt hơn nhiều lần một tăng
trưởng 15% trong đó mọi vấn đề văn hóa, xã hội
và môi sinh bị bỏ rơi. Một thí dụ cụ thể là
trường hợp của Trung Quốc hiện nay. Mức độ tăng trưởng tuy khá
cao, nhưng sự thiệt hại gây ra cho môi trường nếu qui ra
chi phí để phục hồi còn cao hơn. Sự chênh lệch
giàu nghèo quá lố và sự chênh lệch
giữa các vùng ngày càng trở thành
báo động, thêm vào đó là gần một phần
tư dân số trở thành du mục sống vất vưởng trên
các hè phố hay các khu tập trung đột xuất tại
các vùng ngoại ô. Chúng ta không thể
chấp nhận một tăng trưởng như thế. Chúng ta tìm kiếm một
phát triển hài hòa và cân bằng, bởi
vì chỉ có phát triển đó mới có thể
kéo dài và mới xứng đáng được coi là
một mục tiêu quốc gia.
Tuy phát triển không phải chỉ là phát triển
kinh tế, nhưng phát triển kinh tế là yếu tố quan trọng
nhất và cũng là chìa khóa cho phát
triển cân đối toàn bộ. Chúng ta là một trong
những dân tộc nghèo khổ và chậm tiến nhất nên
phát triển kinh tế là mục tiêu cấp bách nhất
đối với chúng ta.
Chúng ta cần đánh tan ngay một lấn cấn tai hại.
Bịp bợm lớn nhất trong thế kỷ 20 đã là luận điệu cho rằng
một xã hội muốn tiến nhanh cần một chế độ độc tài
sáng suốt, cần đình hoãn xây dựng dân
chủ và hy sinh một số tự do căn bản. Bịp bợm này
đã là nguyên nhân của những tang tóc
ghê gớm. Nó đã tạo ra và nuôi dưỡng
các chế độ phát xít quân phiệt tại Ý,
tại Đức và tại Nhật. Nó đã giúp cho phong
trào cộng sản nảy sinh, phát triển và tồn tại
trong ba phần tư thế kỷ. Nó đã tiếp tay duy trì
các chế độ độc tài tại châu Mỹ La Tinh và
châu Á trước đây. Và nó vẫn đang được
dùng làm chỗ dựa lý luận của nhiều chế độ độc
tài khác, trong đó có Việt Nam.
Những chế độ này đã chỉ đem lại những kết quả tồi tệ.
Các chế độ độc tài tại Ý, Đức và Nhật
đã tích lũy mâu thuẫn, đã bế tắc và
phải lao đầu vào các cuộc chiến tự hủy. Chế độ cộng sản
tại Liên Xô đã hủy hoại tài nguyên,
môi trường, đã đày đọa dân chúng rồi
sụp đổ. Tất cả những chế độ độc tài khác đều có
một thành quả giống nhau : đói khổ và lạc hậu.
Sự thực, phát triển là hậu quả của tự do và
dân chủ. Nhưng vì tự nó phát triển cũng
thúc đẩy và phát huy tự do dân chủ nên
dễ có ngộ nhận giữa hậu quả và nguyên nhân
đưa đến lập luận cứ tạm chấp nhận độc tài để có
phát triển rồi sau đó phát triển sẽ đem tới
dân chủ. Sự ngộ nhận này đã bị các tập
đoàn độc tài khai thác.
Kinh nghiệm của các dân tộc chứng minh điều đó.
Hiện tượng phát triển trên qui mô quốc gia đã
bắt đầu xuất hiện tại châu Âu và Hoa Kỳ sau khi
nh¨ững xã hội đặt nền tảng trên dân chủ được
thành lập. Nguyên nhân đã làm nảy sinh
ra phát triển là trọng lượng của nhà nước trong
đời sống thường ngày được giảm nhẹ, một hiến pháp
dân chủ và ổn vững được thượng tôn, luật pháp
thay thế cho các quyết định tùy tiện của người cầm quyền,
con người được tôn trọng và được bảo vệ, kinh tế hoạt động
theo qui luật của thị trường, hoạt động kinh doanh được tôn vinh,
buôn bán và trao đổi được đề cao, ý kiến
và sáng kiến được khuyến khích và tưởng
thưởng, lợi nhuận được nâng lên hàng một giá
trị.
Quốc gia châu Á duy nhất đã bắt kịp các nước
phương Tây ngay đầu thế kỷ 20 là Nhật đã
phát triển được nhờ mau chóng chấp nhận sinh hoạt kinh tế
phương Tây. Dưới cái vung thống trị của một giai cấp hiệp
sĩ kiêu căng sống tách rời hẳn khỏi quần chúng, một
xã hội dân chủ đã âm thầm hình
thành giữa đại đa số người Nhật và đã khiến cho
nước Nhật vươn lên ngay từ thế kỷ 18, rồi vươn lên mạnh mẽ
từ nửa sau thế kỷ 19.
Sự kiện hai chế độ phát xít Ý và quốc
xã Đức đã đem lại một số tiến bộ lúc ban đầu,
và chế độ quân phiệt Nhật đã duy trì được
phát triển trong vài thập niên, giúp ta nhận
diện một yếu tố khác của phát triển vốn đã
có trong những phát triển trước đây : đồng thuận
dân tộc. Cả ba dân tộc này vào thời điểm
đó đều cùng bực tức vì thua kém và
đều có được những lãnh tụ đủ sức lôi cuốn để
đoàn kết họ trong một cố gắng chung .
Kinh nghiệm của các nuớc vừa phát triển tại châu
Á cần được nhìn một cách chính xác
bởi vì, trái với nhận định hời hợt của một số người
và trái với giải thích gian trá của
các chế độ độc tài, các quốc gia này
đã phát triển được vì họ đã dân chủ
hơn và tự do hơn các nước chậm tiến khác, mặc dầu
chưa thể nói họ đã đạt tới dân chủ trọn vẹn
và đúng nghĩa.
Các nước châu Mỹ La Tinh với tài nguyên phong
phú đã quằn quại trong hơn một thế kỷ rưỡi trong lạc hậu
dưới các chế độ độc tài và đã chỉ vươn
lên từ thập niên 1980 nhờ dân chủ.
Tại châu Âu, ba nước Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha
và Hy Lạp, vì vướng mắc vào các chế độ độc
tài mà đã tụt hậu bi đát ; họ đã chỉ
vươn lên từ thập niên 70 nhờ vứt bỏ được ách độc
tài.
Ngay cả những tiến bộ kinh tế được ghi nhận gần đây tại Trung
Quốc và Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ :
chúng đã có được nhờ kinh tế thị trường và
nhờ một mức độ tự do lớn hơn.
Kinh nghiệm của mọi dân tộc đã chứng minh : dân chủ,
quyền tư hữu, kinh tế thị trường, nhà nước nhẹ là những
yếu tố làm nảy sinh ra phát triển kinh tế.
Nhưng kinh nghiệm cũng cho thấy cùng những yếu tố ấy đã
tạo ra những phát triển kinh tế khác nhau về vận tốc
và về cường độ tại các quốc gia khác nhau,
và nhiều quốc gia với điều kiện thiên nhiên bất lợi
đã phát triển mạnh mẽ hơn những quốc gia khác,
cũng dân chủ và còn có tài
nguyên phong phú hơn nhiều. Các yếu tố tâm
lý và văn hóa đã đóng góp vai
trò quyết định.
Sau khi đã quan sát lịch sử của các dân tộc
chúng ta cũng có thể tiếp cận hiện tượng phát
triển bằng lý luận kinh tế.
Phát triển kinh tế đòi hỏi ba yếu tố vừa cần vừa đủ : con
người có ước muốn kinh doanh, có thể kinh doanh,
và có phương tiện để kinh doanh.
Để ước muốn kinh doanh người dân cần một bối cảnh tâm
lý thuận lợi : hoạt động kinh doanh được xã hội
quí trọng, ý kiến và sáng kiến được đề cao,
sự chấp nhận rủi ro được tôn vinh ; họ cũng cần có
lý do để lạc quan tin tưởng rằng kinh doanh sẽ có lợi
và lợi tức đó sẽ là của họ. Nói một
cách khác, để kinh doanh, cùng với một bối cảnh
kinh tế lạc quan, nhà kinh doanh cần một tâm lý
xã hội thuận lợi cho kinh doanh và một bảo đảm chắc chắn
về quyền tư hữu. Yếu tố khởi động này của phát triển giải
thích tại sao các nước cộng sản đã suy sụp
vì không tôn trọng quyền tư hữu. Nhưng quan trọng
hơn, nó giải thích tại sao hiện tượng phát triển
đã chỉ có tại một số quốc gia nhờ một tâm lý
xã hội thuận lợi.
Để có thể kinh doanh, doanh nhân cần một xã hội
có trật tự và an ninh, cần được luật pháp đảm bảo
và được tự do hành động ; họ không thể bị
trói buộc bởi quá nhiều qui định, không bị
gò bó trong một kế hoạch quốc gia cứng chắc, không
phải nộp thuế quá cao, không bị sách nhiễu bởi một
guồng máy chính quyền tham nhũng. Chúng ta
nhìn thấy ở đây sự cần thiết của một thể chế dân chủ
pháp trị, của một hoạt động kinh tế thị trường thay vì
kinh tế hoạch định, của một guồng máy nhà nước nhẹ. Nhưng
chúng ta cũng nhìn thấy một lần nữa các yếu tố
tâm lý : đạo đức và lương thiện. Tham nhũng cũng
là hậu quả của sự suy đồi của đạo đức xã hội.
Người kinh doanh dĩ nhiên cũng cần có phương tiện, nghĩa
là có nguồn nhân lực cần thiết với những khả năng
cần có, có một cơ sở hạ tầng tốt, có vốn đầu tư,
có một hệ thống tín dụng ngân hàng đắc lực
để huy động vốn luân chuyển. Vốn đầu tư chỉ là một trong
những yếu tố và cũng không phải là yếu tố quan
trọng nhất. Vốn có ít thì đầu tư ít,
và lợi nhuận sẽ đẻ ra vốn. Vả lại tư bản có trí
khôn và lôgíc của chính nó, ở
đâu kinh doanh có lợi vốn sẽ tìm đến. Điều quan
trọng hơn hết vẫn là con người, những con người có kỹ
năng và có tinh thần trách nhiệm. Một lần nữa yếu
tố tâm lý và văn hóa là nòng
cốt.
Nói chung, phát triển cần một bối cảnh tự do dân
chủ và là một vấn đề chủ yếu văn hóa và
tâm lý. Chính vì thế mà một số quốc
gia dù tài nguyên ít ỏi, dù bị
tàn phá ghê gớm vẫn vươn lên mạnh mẽ. Nước
Đức và nước Nhật bại trận và tan hoang đã chỉ cần
một vài thập niên để trở thành những nước
phát triển nhất. Dân tộc Hòa Lan chen chúc
trên một mảnh đất nhỏ với tài nguyên thiên
nhiên ít ỏi cũng đã xây dựng được một trong
những quốc gia phồn vinh nhất thế giới. Chính vì
phát triển trước hết là một vấn đề văn hóa
và tâm lý mà cho tới nay nó đã
chỉ giới hạn ở một số quốc gia.
Cần phân biệt tâm lý và văn hóa với
trí tuệ và kiến thức. Bẩm sinh con người có
trí tuệ bằng nhau hay gần bằng nhau và do đó nhờ
giáo dục có thể đạt tới một trình độ hiểu biết
ngang nhau. Sự khác biệt là tâm lý và
văn hóa, là óc cầu tiến, tính chấp nhận rủi
ro của kinh doanh, là tinh thần trách nhiệm, là
cách ứng xử trong cuộc sống tập thể.
Chúng ta cần thay đổi xã hội và con người để
có phát triển.
Chúng ta cần một xã hội dân chủ, quí trọng
con người, đặt lòng tin ở con người, để cho con người tự do
quyết định xây dựng đời mình. Chúng ta cần một
nhà nước pháp trị, có luật pháp đầy đủ
và không có quá nhiều thủ tục, chúng
ta cần một cơ chế thị trường thay vì một kế hoạch áp đặt.
Chúng ta cần những con người tự do, trách nhiệm, lương
thiện, gắn bó vào cộng đồng, cầu tiến và thi đua
chứ không ghen tức và phá hoại. Chúng ta cần
những con người ham thích kinh doanh, khao khát
làm giàu một cách lương thiện.
Chúng ta cần một bộ máy kinh tế hoạt động không
cưỡng chế. Nhà kinh doanh phải được phép tự do
hành động theo các qui luật khách quan của kinh
doanh và thị trường. Công bằng xã hội là một
ưu tư thường trực của một chính quyền đứng đắn, nhưng công
bằng xã hội phải được thực hiện ở khâu phân phối lợi
tức quốc gia, qua thuế khóa, chứ không thể can thiệp trực
tiếp vào sự điều hành hoạt động kinh doanh.
Chúng ta cũng cần một bối cảnh pháp lý, nghĩa
là hiến pháp và pháp luật, ổn định để người
dân có thể yên tâm xây dựng cuộc sống
và lập ra những dự định cho tương lai mà không lo
sợ một thay đổi luật chơi đột ngột làm hỏng dự án kinh
doanh của mình.
Nhưng hiến pháp và luật pháp ổn vững không
có nghĩa là chính quyền ổn vững. Sự thay đổi
thường xuyên người cầm quyền trong một bối cảnh pháp
lý ổn vững không hề cấm cản cảnh sát tiếp tục bảo
vệ an ninh trật tự, không hề cấm cản các thẩm phán
tiếp tục xử án và cũng không hề cấm cản một
nhà máy tiếp tục hoạt động. Điều có thể tác
hại cho sinh hoạt kinh tế là những cuộc cách mạng
làm đảo lộn tất cả, là những thay đổi đột ngột luật
pháp và định hướng quốc gia.
Đẩy xa lý luận hơn nữa, ta còn có thể nói
những chính phủ dân chủ không có đa số
áp đảo để thay đổi tùy tiện luật pháp và
chính sách còn có thể là một đảm bảo
cho sự ổn định bối cảnh pháp lý, và do đó
có lợi cho phát triển. Một chính quyền áp
đảo và nhiều quyền lực chỉ cần thiết để có thể quyết định
mau chóng những thay đổi, và áp đặt một kế hoạch
phát triển quốc gia. Nhưng kế hoạch quốc gia là điều
chúng ta nên tránh. Kế hoạch quốc gia là một
sản phẩm duy ý chí, tàn dư của thời đại thế giới
chưa đủ sáng suốt và kinh nghiệm để nhận định rằng cần để
cho xã hội, qua qui luật thị trường khách quan, quyết
định những gì cần làm, làm tới mức nào
và làm như thế nào. Kế hoạch quốc gia là
một cản trở cho phát triển mà chúng ta phải loại
bỏ, điều chúng ta cần là một định hướng cho quốc gia
và những dự án cho từng vấn đề, đặc biệt là những
dự án xây dựng cơ sở hạ tầng. Dĩ nhiên trong một
hoàn cảnh còn khó khăn và còn nhiều
trở ngại cho phát triển, chúng ta cần một chính
quyền có khả năng quyết định những chọn lựa cần thiết nhằm
tháo gỡ những ách tắc do quá khứ để lại. Nhưng khả
năng này một chính quyền dân chủ và nhẹ vẫn
có thể có được nhờ thuyết phục để tạo ra đồng thuận
và hậu thuẫn của quần chúng trên một số chọn lựa
căn bản phải làm.
Tóm lại, để phát triển đất nước, và trước hết
là phát triển kinh tế, chúng ta cần một thể chế
dân chủ, một nhà nước pháp trị, một sinh hoạt kinh
tế thị trường, một sự tôn trọng tuyệt đối ý kiến và
sáng kiến cá nhân, một niềm tin mạnh mẽ vào
con người. Thể chế đó sẽ làm nảy nở óc sáng
tạo, tinh thần cầu tiến, tinh thần trách nhiệm. Nhưng
chúng ta cũng cần một cố gắng văn hóa quan trọng để
thượng tôn những giá trị của tiến bộ và đưa những
giá trị đó vào tâm hồn và phản xạ của
mọi người. Những giá trị đó là hòa
bình, tự do, dân chủ, nhân quyền, bình đẳng,
nhà nước pháp trị, hợp tác, lợi nhuận liên
đới và môi trường.
Xây dựng một xã hội dân chủ đa nguyên,
phát huy các giá trị tiến bộ, chúng ta sẽ
có phát triển, đặc biệt là phát triển kinh
tế. Đó là chủ thuyết phát triển của chúng
ta. Chúng ta quả quyết rằng một xã hội như thế và
với những giá trị như thế dù muốn không phát
triển cũng không được. Ngược lại, một xã hội không
dân chủ, hoặc không có những giá trị tiến bộ
thì dù muốn và cố gắng đến đâu cũng sẽ
không có phát triển, hay chỉ có phát
triển ở một mức độ thấp. Tài nguyên thiên
nhiên và vốn đầu tư là những yếu tố rất thứ yếu.
Trong một chủ thuyết phát triển như thế, vai trò của
nhà nước chủ yếu là gìn giữ hòa bình
và trật tự an ninh, bảo đảm quốc phòng và
công lý, tạo những quan hệ bang giao tốt với cộng đồng thế
giới, hòa giải và trọng tài những tranh tụng của
xã hội dân sự. Vai trò của nhà nước trong
kinh tế sẽ được giới hạn trong ba phạm vi : thuế, chi tiêu
công cộng và điều chỉnh khối lượng tiền tệ. Thuế để
nhà nước có ngân sách làm nhiệm vụ
của mình và bảo đảm an sinh và liên đới
xã hội. Các chi tiêu công cộng để xây
dựng, bảo trì và cải thiện cơ sở hạ tầng, thúc
đẩy, kích thích một số ngành nghề. Việc điều chỉnh
khối lượng tiền tệ lưu hành, chủ yếu qua ấn định một mức
lãi suất, có ảnh hưởng trực tiếp trên giá
cả, đầu tư và tăng trưởng. Trong cả ba phạm vi đó,
nhà nước cũng cần hành động với tất cả dè dặt để
tránh đảo lộn sinh hoạt kinh tế. Ổn định là yếu tố cốt
lõi của kinh doanh. Riêng việc ấn định lãi suất,
chúng ta phải tránh trường hợp chính quyền
hành động theo những yêu cầu chính trị ngắn hạn,
bằng cách giao phó cho một định chế ngân
hàng trung ương xuất phát từ chính phủ nhưng
không chịu sự chi phối tùy tiện của chính phủ.
Một lần nữa, nhu cầu phát triển buộc ta phải có một
nhà nước hòa giải và trọng tài để cho
xã hội dân sự lo việc phát triển thay vì một
nhà nước chỉ huy và định đoạt thay cho xã hội
dân sự. Vai trò hòa giải và trọng tài
trong sinh hoạt kinh tế buộc nhà nước phải từ bỏ mọi chức năng
kinh doanh. Các công ty quốc doanh không nên
có, hay nếu có thì cần được coi là những
bó buộc chẳng đặng đừng trong một thời gian nhất định. Trong chủ
thuyết phát triển của chúng ta, nhà nước
không chen lấn với xã hội dân sự, mà tập
trung mọi cố gắng để làm tròn và làm tốt
chức năng thực sự của một nhà nước.
IV.
Những định hướng lớn
Bước vào thế kỷ 21,
chúng ta phải làm lại đất nước. Chúng ta phải đổi
mới hoàn toàn hệ thống chính trị, kinh tế,
xã hội, quan hệ giữa nhà nước và người dân,
quan hệ giữa nước ta và thế giới ; chúng ta phải
xét lại vai trò của xã hội dân sự, chọn lựa
những giải pháp dài hạn cho các vấn đề công
bằng xã hội và giới hạn dân số.
Chúng ta sẽ làm lại đất nước trên những định hướng
lớn sau đây :
1. Xây dựng đất nước trên những giá
trị thay vì một chủ nghĩa
Một xã hội tiến bộ phải được xây dựng trên nền tảng
của những giá trị tiến bộ.
Các nước phương Tây sở dĩ phát triển mạnh mẽ
và vượt hơn hẳn phần còn lại của thế giới là
vì xã hội của họ đặt nền tảng trên những giá
trị cơ bản đúng. Những giá trị đó là
hòa bình, tự do, dân chủ, bình đẳng,
nhân quyền, nhà nước pháp trị, đối thoại, hợp
tác, lợi nhuận, môi trường và liên đới. Những
giá trị này không phải của riêng người phương
Tây mà vốn đã hiện diện trong mọi xã hội
và trong mọi nền văn minh. Ưu điểm của các nước phương
Tây là họ đã biết đề cao và phát huy
triệt để một phần lớn trong số các giá trị này để
lấy làm nền tảng cho xã hội. Nhờ vậy họ đã
có được sức mạnh và sự phồn vinh. Tiếp xúc với
các nước phương Tây, các quốc gia đều nhận ra sự
thua kém của mình và đều tìm cách
thỏa hiệp với nền văn minh phương Tây. Tuy nhiên
quán tính tự nhiên đã khiến hầu hết
các quốc gia đều có khuynh hướng chỉ chấp nhận một phần
những thành tố của xã hội phương Tây để hội nhập
nó vào truyền thống của mình, chẳng hạn như học
hỏi kỹ thuật phương Tây trong khi v¨ẫn giữ nguyên cơ
cấu xã hội cũ. Nhưng một nền văn minh là một tổng thể cấu
tạo bởi những giá trị gắn bó với nhau cho nên rất
khó lấy một thành tố của một nền văn minh để ghép
vào một nền văn minh khác. Không thể chấp nhận kỹ
thuật của phương Tây trong khi vẫn từ chối những giá trị
cơ bản đã làm nẩy sinh và đã thúc
đẩy sự tiến phát của các kỹ thuật đó. Kinh nghiệm
của các quốc gia đã chứng tỏ rằng thái độ nửa
chừng này chỉ đem lại những thành công giới hạn.
Nước Nga mặc dầu đã bắt đầu canh tân từ cuối thế kỷ 17
đã không bắt kịp được Tây Âu và
đã khủng hoảng, cuối cùng trở thành một chế độ
cộng sản với hậu quả tai hại mà thế giới đã thấy ; nước
Nhật đã tích lũy những mâu thuẫn để rồi bị dẫn đến
chiến tranh tự hủy. Ngày nay cả Nhật và Nga đều đã
nhận ra sai lầm đó. Nhật đã chấp nhận toàn bộ
các giá trị của thế giới tiến bộ từ sau Thế Chiến II
và Nga cũng đang chuyển hóa mạnh mẽ theo chiều hướng
đó.
Chấp nhận một cách thành thực và quả quyết những
giá trị chính trị, văn hóa, xã hội của thế
giới tiến bộ là điều kiện tiên quyết. Nhật Bản vì
chọn lựa như vậy đã trở thành một cường quốc hàng
đầu thế giới. Các nước châu Á khác từ ba
thập niên gần đây đi theo khuôn mẫu Nhật Bản cũng
đang trỗi dậy mạnh mẽ. Tuy nhiên, vì vẫn còn nhiều
vướng mắc với quá khứ và chưa chọn lựa một cách
dứt khoát các giá trị tiến bộ mới, đặc biệt
là dân chủ, các nước vừa phát triển tại
châu Á đã tích lũy nhiều mâu thuẫn dẫn
tới cuộc khủng hoảng trầm trọng trong năm 1997 và đã chỉ
bắt đầu phục hồi sau khi đã dân chủ hóa. Chấp nhận
toàn bộ các giá trị tiến bộ là chọn lựa
chúng ta phải làm và phải làm một
cách thật quả quyết. Giữa sự dùng dằng, lưỡng lự của
các nước trong vùng, chọn lựa này là một cơ
may cho phép chúng ta vươn lên bắt kịp và
vượt qua họ.
Trong những giá trị trên đây, giá trị
mà ta cần nhất là hòa bình. Truyền thống
chống ngoại xâm dần dần đã khiến ta coi bạo lực như
là phương cách tự nhiên để giải quyết xung đột. Ta
quen tôn vinh những anh hùng có chiến công
hiển hách mà coi nhẹ những cố gắng xây dựng
âm thầm, nền tảng của mọi tiến bộ. Từ nay chúng ta phải
nguyền rủa bạo lực và nâng hòa bình
lên làm một giá trị tuyệt đối.
Chúng ta đừng lo sợ chấp nhận những giá trị mới sẽ
làm ta mất đi quốc hồn quốc túy. Những giá trị
này đã có sẵn trong xã hội ta, chỉ tiếc
rằng ta đã không phát huy chúng một
cách đầy đủ đến nỗi phải khổ nhục và thua kém như
ngày nay. Chấp nhận chúng không phải là tự
phủ nhận chúng ta mà chỉ có nghĩa là
phát huy cái hay sẵn có trong chúng ta. Vả
lại, tiến lên và bắt kịp thế giới là điều kiện để
chúng ta có thể tồn tại như một quốc gia và giữ
được văn hóa và bản sắc dân tộc.
Trên những giá trị chung các nước phương Tây
đã xây dựng nên nhiều nếp sống khác nhau
tùy đặc thái riêng của mỗi nước. Xã hội Anh
khác với xã hội Pháp, văn hóa Đức
khác với văn hóa Ý, nước Mỹ không giống như
nước Thụy Điển. Trên căn bản các giá trị mới Nhật
Bản và nhiều nước châu Á khác vẫn giữ được
truyền thống của họ. Trên căn bản các giá trị tiến
bộ Việt Nam cũng vẫn sẽ là Việt Nam, nhưng là một Việt
Nam vinh quang hơn.
Chúng ta cần một cuộc vận động tư tưởng lớn. Giáo dục của
ta, luật pháp của ta, các sinh hoạt văn hóa,
xã hội, kinh tế của ta đều phải nhấn mạnh và tôn
vinh các giá trị tiến bộ. Trường học ngoài sứ mệnh
cốt lõi của nó là chuyển giao kiến thức,
còn phải là môi trường tập quen tuổi trẻ với tinh
thần bao dung, tinh thần trách nhiệm, cách suy nghĩ tự do
và khách quan và lòng yêu quí
đất nước, đồng bào, nhân loại và thiên
nhiên. Một cố gắng đặc biệt cũng sẽ được dành cho thể dục
thể thao nhằm phát huy óc khách quan, tinh thần
tranh đua trong hòa bình, tinh thần thượng tôn luật
pháp. Cuộc vận động tư tưởng này là cố gắng quan
trọng nhất trong mọi cố gắng, bởi vì đây chính
là cố gắng xây dựng nền tảng của xã hội mới.
2. Lấy tự do làm động lực để phát huy
óc sáng tạo và tinh thần cầu tiến
Dân tộc ta có truyền thống giữ nước vẻ vang, nhưng
bù lại ta cũng đã mất quá nhiều thời giờ và
nghị lực cho cố gắng chống ngoại xâm. Trong những tranh đấu cam
go ấy ta luôn luôn phải đề cao kỷ luật và sự nhất
trí, luôn luôn phải gác lại những tranh
cãi để đương đầu với những vấn đề cấp bách. Lịch sử chật
vật ấy một mặt khiến chúng ta có khả năng thích
nghi cao với điều kiện sinh sống nhưng mặt khác cũng làm
ta dần dần mất đi cái nhìn dài hạn, sáng
kiến, óc phát minh và tinh thần mạo hiểm.
Chúng ta có một bờ biển dài và một đại
dương hiền hậu, nhưng biển cả hình như không có một
tiếng gọi nào với chúng ta cả. Chúng ta đã
thiếu hẳn quyết tâm chinh phục và tận dụng đại dương.
Chúng ta không có kỹ thuật đóng tàu
và đi biển, không có đội thương thuyền, không
có những nhà hải hành lớn. Chúng ta chỉ
sống với đất như một dân tộc lục địa. Chúng ta đã
hài lòng với khuôn mẫu Khổng Mạnh từ đời này
qua đời khác mà không hề có ý định
thay đổi, mặc dầu khuôn mẫu độc đoán và hà
khắc đó sau khi đã cho phép chúng ta đạt
những thành tựu lớn lúc ban đầu, đã bắt
chúng ta dẫm chân tại chỗ trong nhiều thế kỷ sau
đó.
Óc sáng tạo và tinh thần cầu tiến là điều
chúng ta phải học và tập quen. Muốn như thế chúng
ta phải khuyến khích và tôn vinh tự do suy nghĩ
và phát biểu. Chúng ta cần nâng lên
hàng một nguyên tắc tuyệt đối là trong nước Việt
Nam tương lai sẽ không thể có những vấn đề cấm bàn
tới và cũng không thể có những ý kiến cấm
nêu ra. Không một người Việt Nam nào có thể
bị trừng phạt vì lối sống của mình hay vì những
gì mình phát biểu, trừ trường hợp trực tiếp
kêu gọi bạo lực.
3. Phát huy lòng yêu nước tự nguyện
Trong gần suốt dòng lịch sử chúng ta sống dưới những chế
độ quân chủ tuyệt đối coi đất nước của riêng một
dòng vua, khi chúng ta không bị ngoại thuộc.
Lòng yêu nước của chúng ta vì vậy
không có điều kiện để phát triển. Khi ý niệm
quốc gia như là của mọi người và phải được sự đóng
góp của mọi người xuất hiện, do hậu quả của một di sản trong
đó vua là trời và dân là nô lệ,
nó đã mau chóng bị tuyệt đối hóa. Tổ quốc
trở thành thiêng liêng, tối thượng, không
có trách nhiệm nào và không chấp nhận
một đòi hỏi nào. Tổ quốc đó đã được
dùng làm chiêu bài cho quá nhiều tội
ác. Chiến tranh, tang tóc, thất vọng, sự chịu đựng
quá lâu một chế độ độc tài vừa tồi dở vừa bạo
ngược, mặc cảm thua kém các dân tộc khác
làm cho lòng yêu nước của chúng ta bị tổn
hại trầm trọng. Chính vì lòng yêu nước
đã bị suy giảm mà trước đây chúng ta
đã để cho đảng cộng sản, một đảng mà lý tưởng
là phục vụ cho một phong trào quốc tế thay vì đất
nước, xuất hiện như một đảng yêu nước, lôi kéo được
một số đông đảo đồng bào và khống chế chính
trường. Chính vì ý chí và
lòng yêu nước đã hao mòn mà
ngày nay chúng ta đã không phản ứng đủ quyết
liệt trước một chế độ độc tài đảng trị coi đất nước là
của riêng mình như các vua chúa ngày
xưa, trong khi cả nhân loại đang tiến về dân chủ và
chính chúng ta cũng biết đất nước rất cần dân chủ.
Nhưng chúng ta là người Việt Nam, và tương lai của
chúng ta gắn liền với tương lai của đất nước Việt Nam.
Chúng ta không có chọn lựa nào khác
hơn là xây dựng một tương lai Việt Nam chung. Và để
xây dựng tương lai chung đó, lòng yêu nước
vẫn là mẫu số chung bắt buộc. Chúng ta cần một sức bật
mới của lòng yêu nước. Chúng ta cần phục hồi
và phát minh lại lòng yêu nước.
Chúng ta cần xác định lòng yêu nước như một
tình cảm tự nguyện của những con người tự do, ràng buộc
mật thiết với nhau để xây dựng một tương lai chung cho
mình và cho con cháu. Chúng ta cần để cho
mỗi người yêu nước theo cách của mình, chúng
ta không thể để cho lòng yêu nước bị đồng hóa
với sự tán thành một chủ nghĩa. Chúng ta cần
hòa giải người Việt Nam với đất nước. Chúng ta cần một tổ
quốc hiền hòa, một tổ quốc có trái tim, một tổ
quốc đáng yêu, một tổ quốc của nhân quyền và
dân quyền, một tổ quốc khuyến khích, một tổ quốc có
trách nhiệm và gần gũi với mọi người thay vì
quá thiêng liêng đến nỗi trở thành trừu tượng
và xa cách.
Muốn như thế chính quyền, người đại diện và hành
động nhân danh tổ quốc, phải là một chính quyền
khiêm tốn, cần kiệm và tận tụy, quí trọng từng
người dân và để cho mỗi người thấy rõ ràng
mình được quí trọng. Chính quyền ấy sẽ hóa
giải mọi hận thù, sẽ nhân danh sự liên tục quốc gia
để xin lỗi, phục hồi danh dự và bồi thường thiệt hại cho mọi nạn
nhân của những oan ức. Chính quyền ấy sẽ thường trực cảnh
giác để không một thành phần dân tộc
nào cảm thấy bị bỏ rơi. Chính quyền ấy sẽ không bắt
bất cứ ai phải yêu nước, trái lại sẽ dồn mọi cố gắng tạo
điều kiện để mọi người có thể yêu nước.
Cùng với dân chủ tự do, ý kiến và
sáng kiến, nhưng trên tất cả, lòng yêu nước
sẽ là một vũ khí chủ yếu giúp chúng ta
chinh phục tương lai.
4. Tôn trọng và phát huy xã
hội dân sự
Mọi quốc gia văn minh đều phải đặt nền tảng trên xã hội
dân sự. Xã hội dân sự là toàn thể
các giáo hội, hiệp hội, câu lạc bộ, các tổ
chức thiện nguyện, các nghiệp đoàn, hợp tác
xã, công ty, xí nghiệp. Nói chung, đó
là tất cả các kết hợp của người dân, được
thành lập để cùng theo đuổi một số mục đích chung
và không nhắm tranh giành quyền lực chính
trị.
Ý niệm xã hội dân sự đã được xuất hiện
cùng một lúc với các xã hội văn minh.
Đó là những sợi dây chằng chịt gắn bó những
con người với nhau và gắn bó con người với xã hội.
Những sợi dây liên lạc đan xen đó tạo ra sự bền chắc
của quốc gia. Các kết hợp công dân tạo thành
xã hội dân sự cũng là những cái nôi
cho ý kiến, sáng kiến và tiến bộ. Một xã
hội dân sự mạnh bảo đảm các ý kiến mới được nảy
sinh nhanh chóng, các mâu thuẫn được phát
hiện và giải quyết kịp thời, xã hội không ngừng
tiến hóa trong hòa bình và trật tự.
Trong mô hình xã hội của chúng ta, xã
hội dân sự còn được giao phó một vai trò
quan trọng là thực hiện liên đới xã hội,
giúp đỡ và bênh vực những người yếu kém
và thiếu may mắn.
Mọi kết hợp đều tạo ra sức mạnh. Sức mạnh của xã hội dân
sự là sức mạnh tổng hợp, nhưng không bao giờ thống nhất,
của các kết hợp công dân có khi cùng
hướng với nhau, có khi biệt lập với nhau và cũng
có khi đối chọi với nhau. Sức mạnh của xã hội dân
sự từng lúc và từng cơ hội hòa nhập với nhà
nước hay đối lập với nhà nước, nhưng lúc nào cũng
ảnh hưởng trên nhà nước và không bao giờ
có tham vọng tranh quyền với nhà nước bởi vì
nó không có và không thể có
tham vọng chính trị.
Xã hội dân sự đảm bảo sự năng động của xã hội
và đồng thời cũng bảo đảm tự do, dân chủ, nhân
quyền, ngăn chặn mọi ý đồ độc tài chuyên
chính. Mọi chế độ độc tài bạo ngược đều nhắm trước hết
tiêu diệt xã hội dân sự. Bản chất của các chế
độ độc tài là dựa trên một thiểu số để khống chế
một xã hội phân hóa. Các bạo quyền
không cần dân chúng tin yêu mình
mà chỉ cần người dân đừng gắn bó với nhau để
không có sức đề kháng. Không gì thỏa
mãn các tập đoàn độc tài hơn là sự
thờ ơ và bất lực của quần chúng.
Triết lý của một chế độ dân chủ, trái lại, coi
xã hội dân sự là thành tố áp đảo
và nền tảng của quốc gia vì thế vai trò của
nhà nước là làm cho các kết hợp công
dân ngày càng đông đảo, không ngừng
tiến lên và mạnh lên để đóng góp
tích cực cho sự phồn vinh của xã hội. Nhà nước
dân chủ đa nguyên tự coi mình là công
cụ của xã hội dân sự với sứ mệnh bảo đảm hoạt động
lành mạnh của xã hội dân sự, để xã hội
dân sự tạo hạnh phúc cho các công dân.
Đó không phải là một sự từ nhiệm mà
là một triết lý chính trị mới của một chính
quyền đủ tự tin để đặt lòng tin vào các công
dân. Trong quan hệ biện chứng với xã hội dân sự,
nhà nước dân chủ đa nguyên tự coi mình
là người trọng tài, phối hợp và thể hiện những
nguyện vọng của xã hội dân sự. Nhà nước phục vụ chứ
không khống chế xã hội dân sự.
Sẽ không thể có một cản trở nào cho sự thành
lập và phát triển của các kết hợp công
dân. Đặc biệt các hiệp hội không có mục
đích lợi nhuận sẽ chỉ cần khai báo sự thành lập
chứ không cần giấy phép hoạt động. Các hiệp hội
có mục đích văn hóa, xã hội còn
có quyền đòi hỏi nhà nước giúp đỡ.
5. Xác định Việt Nam là đất nước xây
dựng trên các cộng đồng
Đất nước ta tuy có một lịch sử dài nhưng lại là
một đất nước mới. Miền Trung mới hội nhập xong từ th°ê kỷ 17,
miền Nam từ thế kỷ 18. Nước ta đã tiếp nhận rất nhiều
đóng góp mới về đất đai và chủng tộc. Tuy vậy tổ
chức của ta lại không thích nghi với những thay đổi
đó và vẫn được quan niệm một cách sai lầm như
là đất nước của một cộng đồng duy nhất : cộng đồng người Kinh.
Lịch sử của ta là lịch sử của người Kinh. Văn hóa của ta
là văn hóa của người Kinh. Các quan niệm về đạo
lý, xã hội, luật pháp đều dựa trên người
Kinh và nhắm phục vụ cho người Kinh. Có lẽ là
quá trình mở nước và giữ nước khó khăn của
ta đã không cho ta thời giờ và phương tiện để suy
nghĩ một cách nghiêm túc về một chính
sách cộng đồng, nhưng phải nói thực là
chúng ta rất thiếu sót về điểm này. Trong suốt
dòng lịch sử, trừ một vài ngoại lệ ít ỏi, người
Kinh hầu như chưa hề nhìn nhận một trách nhiệm nào
đối với các sắc tộc ít người mà chỉ áp đặt
khuôn mẫu của mình, nếu cần bằng bạo lực. Tình
trạng này nếu không được nhận định rõ rệt để kịp
thời có chính sách thỏa đáng có thể
dẫn tới những hậu quả rất tai hại, nhất là trong bối cảnh thế
giới hiện nay và sắp tới. Nhiều quốc gia đang và sẽ
còn phải khốn đốn vì những cuộc nổi dậy cuồng nhiệt của
các sắc tộc ít người vùng lên đòi bản
thể. Nếu chúng ta không cảnh giác để cho
tình trạng này xảy ra thì hai vùng rộng lớn
của đất nước là miền Thượng Du phía Bắc và miền
Cao Nguyên Trung Phần có thể trở thành bất ổn
và không phát triển được.
Các cộng đồng đều phải được tôn trọng như nhau trong một
đất nước Việt Nam được định nghĩa như là đất nước của các
cộng đồng. Cộng đồng người Việt gốc Khmer đã sống từ ngàn
xưa tại miền Nam, cộng đồng người Việt gốc Hoa đã góp
công lớn khai mở ra miền Nam phải được coi là những người
Việt Nam trọn vẹn trước luật pháp cũng như trong tình cảm
dân tộc.
Quốc gia Việt Nam phải gạt bỏ hẳn ý đồ đồng nhất hóa để
mưu tìm đồng tiến trong dị biệt. Chúng ta phải khẳng định
rằng đất nước Việt Nam không được định nghĩa bằng một chủng tộc
mà bằng sự chấp nhận chia sẻ một tương lai chung.
Ngày nay người Kinh đã chiếm đa số trên khắp
lãnh thổ, giải pháp thành lập những vùng tự
trị cho các sắc tộc không còn khả thi nữa, nhưng
tản quyền sẽ cho phép các sắc tộc có tiếng
nói đáng kể trong các chính quyền địa
phương. Văn hóa, ngôn ngữ của các sắc tộc ít
người phải được coi là thành phần của văn hóa Việt
Nam mà nhà nước có nhiệm vụ gìn giữ. Lịch
sử Việt Nam cũng phải được xét lại và được coi như lịch
sử của các sắc dân đã hợp lại để tạo thành
đất nước Việt Nam.
Tinh thần tôn trọng các cộng đồng cũng phải được mở rộng
ra tới các cộng đồng tôn giáo, các cộng đồng
tư tưởng, các cộng đồng nghề nghiệp và các cộng
đồng không thành hình thái do nếp sống
khác nhau của từng địa phương mà có. Các
cộng đồng này phải được đảm bảo chỗ đứng và tiếng
nói trong một định chế quốc gia với nhiều thẩm quyền.
Kể từ ngày 30-4-1975 chúng ta lại có thêm
một cộng đồng mới : cộng đồng người Việt hải ngoại. Những người Việt
Nam này đã phải bỏ nước ra đi vì không thể
chịu đựng những biện pháp hạ nhục, trù dập và
phân biệt đối xử. Đất nước Việt Nam phải mở rộng vòng tay
và tấm lòng đối với họ. Họ phải được nhìn nhận
quyền công dân tức khắc và trọn vẹn, cho họ cũng như
cho con cái sinh ra tại nước ngoài.
Sự hình thành của cộng đồng Việt Nam hải ngoại là
một yếu tố rất mới và một may mắn lớn cho đất nước. Nhờ cộng
đồng này người Việt Nam đã làm quen được với mọi
nếp sống và mọi nền văn minh, đã thử nghiệm mọi
khuôn mẫu tổ chức xã hội, đã len lỏi vào mọi
bộ môn khoa học kỹ thuật. Cộng đồng này, một khi nối lại
được quan hệ bình thường với đất nước, sẽ là một bảo đảm
rằng Việt Nam sẽ là một nước cởi mở, sẽ rũ bỏ được mọi cố chấp
và thành kiến, sẽ vĩnh viễn ra khỏi ngõ cụt cố
chấp. Cộng đồng này tuy chưa đông nhưng có tiềm
năng đóng góp lớn cho đất nước. Người Việt hải ngoại sẽ
là những đầu cầu khoa học, kỹ thuật, văn hóa, thương mại
vô cùng quí báu mà nhà nước
Việt Nam không có phương tiện để tạo ra. Kinh nghiệm cho
thấy rằng các quốc gia phát triển mau chóng trong
những năm gần đây đều đã nhờ sự đóng góp của
một cộng đồng hải ngoại hùng mạnh. Bất cứ một nhà nước
Việt Nam khôn ngoan nào cũng phải khuyến khích
liên lạc giữa trong và ngoài nước, nhìn nhận
một thực thể Việt Nam Hải Ngoại và tìm mọi sáng
kiến để cộng đồng Việt Nam hải ngoại ngày một lớn mạnh.
6. Dứt khoát chọn lựa một nền kinh tế thị trường
lấy tư doanh làm nền tảng
Kinh nghiệm thế giới trong nhiều thập niên qua đã chứng tỏ
rằng các chính sách kinh tế tập thể, quốc doanh
đều dẫn đến thất bại. Kinh nghiệm cũng đã cho thấy rằng thị
trường tự do là hướng dẫn chính xác nhất cho sản
xuất và là bảo đảm chắc chắn nhất cho một sự phân
phối hiệu nghiệm. Chọn lựa kinh tế phải có cho Việt Nam
là một nền kinh tế thị trường, lấy xí nghiệp tư
làm nền tảng, lấy óc kinh doanh và sáng
kiến làm sức mạnh, lấy tinh thần cầu tiến và làm
giàu làm động cơ, lấy lợi nhuận làm phần thưởng
và chất kích thích.
Chọn lựa ấy có nghĩa là nhà nước sẽ không
làm tất cả những gì mà tư doanh có thể
làm được. Vai trò kinh tế chủ yếu của nhà nước
là bảo đảm sự ổn vững của đồng tiền, ngăn ngừa những cạnh tranh
bất chính và đầu tư vào những ngành nhiều
triển vọng mà tư nhân chưa dám hoặc chưa đủ khả
năng đầu tư. Nhà nước cũng có chức năng cảnh giác
trước những khuynh hướng kinh doanh có hại và khuyến
khích những hoạt động kinh tế có lợi, nhưng nhà
nước thực hiện chức năng này chủ yếu bằng thông tin
và nâng đỡ chứ không phải bằng mệnh lệnh và
cấm đoán. Nhà nước sẽ dồn mọi cố gắng bảo vệ sự
toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ trật tự an ninh, bảo vệ
công lý, bảo vệ môi trường sinh sống, phát
huy các mối bang giao quốc tế có lợi, xây dựng
và củng cố đồng thuận dân tộc, nghĩa là làm
đúng chức năng của một nhà nước.
7. Không ngừng cảnh giác bảo vệ công
bằng xã hội
Trong các nhiệm vụ của nhà nước dân chủ đa
nguyên, nhiệm vụ trọng yếu nhất là bảo đảm công bằng
xã hội. Trong căn bản triết học của nó, chủ nghĩa đa
nguyên tôn trọng mọi thành phần trong xã hội,
do đó nó không chấp nhận để một thành phần
bóc lột và chà đạp một thành phần
khác. Chúng ta tôn vinh lợi nhuận như một
giá trị và tìm kiếm lợi nhuận chủ yếu là để
có phương tiện thực hiện liên đới xã hội. Vả lại,
một dân tộc không có liên đới thì
không còn là một dân tộc. Chúng ta
hiểu công bằng xã hội là liên đới xã
hội. Chúng ta không thể bỏ rơi những người yếu kém,
sa cơ lỡ bước, như một xã hội văn minh không thể từ khước
một cái nạng cho người thương tật. Chúng ta nhìn
nhận sự bình đẳng của mỗi con người trong xã hội
và chúng ta cần dành những phương tiện để thực
hiện sự bình đẳng đó.
Công bằng xã hội là điều kiện cơ bản để giữ
gìn sự bền chắc của nền tảng xã hội, bảo đảm sự tham gia
tích cực và phấn khởi của mọi người vào tương lai
đất nước, tránh những xung đột có thể làm
gãy đổ đà tiến của dân tộc về tương lai và
đưa đến bạo loạn.
Trong thực tế, phát triển kinh tế thường đẻ ra và
làm trầm trọng thêm những chênh lệch trong xã
hội. Nhiệm vụ trọng yếu của nhà nước là ngăn chặn
và làm giảm thiểu những nguyên nhân căng
thẳng mà sự phát triển, vì không thể
nào hoàn toàn cân đối, chắc chắn sẽ đem lại.
Công bằng xã hội đòi hỏi một cố gắng không
ngừng trong việc tái phân phối lợi tức quốc gia nhằm
bênh vực những thành phần yếu kém.
Công bằng xã hội đòi hỏi một hệ thống bảo trợ
xã hội đảm bảo những nhu cầu tối thiểu về thực phẩm và
sức khỏe cho mọi người.
Công bằng xã hội đòi hỏi một hệ thống giáo
dục và đào tạo phổ cập và liên tục đảm bảo
những cơ hội thăng tiến đồng đều cho mọi công dân.
Nhìn một cách ngắn hạn công bằng xã hội
có thể là một gánh nặng cho quốc gia và một
trở ngại cho phát triển kinh tế nhưng, nhìn một
cách dài hạn hơn và sáng suốt hơn,
nó là một bắt buộc để đà phát triển kinh tế
có thể tiếp tục. Công bằng xã hội cũng là
điều kiện tối cần thiết để đảm bảo tình tự dân tộc
và sự gắn bó của quốc gia.
Công bằng xã hội tuyệt đối là điều không thể
có. Điều quan trọng là nhà nước coi công
bằng xã hội là ưu tư thường trực. Chính vì
công bằng xã hội là vấn đề vừa cần thiết, vừa tế
nhị mà chúng ta phải gìn giữ nó thật cẩn
trọng, coi nó như một cuộc chiến đấu giữ nước.
Nhà nước dĩ nhiên đảm nhận nhiệm vụ thực hiện công
bằng xã hội. Nhưng nhà nước cũng sẽ đặc biệt khuyến
khích xã hội dân sự, qua các tổ chức thiện
nguyện, góp phần tích cực vào công
tác trọng đại đó. Một phần ngân sách
xã hội sẽ được sử dụng qua ngả xã hội dân sự.
Các tổ chức thiện nguyện sẽ được tài trợ, trong một tỷ lệ
do khả năng ngân sách, so với nguồn tài
nguyên mà họ đã động viên được từ quần
chúng cho các công tác xã hội.
Việc tham gia tích cực của xã hội dân sự vào
cố gắng thực hiện công bằng xã hội vừa có
tác dụng vận động sự đóng góp của quần
chúng vào công tác liên đới xã
hội vừa có hiệu lực đặc biệt về mặt tinh thần. Trước một văn
phòng cứu trợ xã hội của nhà nước người cần được
giúp đỡ có thể chỉ gặp một công chức, nhưng tại một
cơ quan thiện nguyện họ gặp một người tình nguyện làm
công tác xã hội vì niềm tin, họ gặp một
người và một tấm lòng, sợi dây liên đới
xã hội và tinh thần phấn đấu vượt qua trở ngại chỉ
có thể mạnh thêm.
Chúng ta cần khẳng định rằng công bằng xã hội
là nhiệm vụ của nhà nước với sự hợp tác của
xã hội dân sự chứ không phải là trách
nhiệm của các xí nghiệp. Các xí nghiệp
ngoài bổn phận tôn trọng nhân phẩm của công
nhân, tôn trọng luật pháp của nhà nước
và tôn trọng những hợp đồng đã ký kết với
các công nhân, chỉ có chức năng tạo ra lợi
nhuận để đóng góp vào sự giàu mạnh của
xã hội và để nộp thuế cho nhà nước, để nhà
nước có tài nguyên bảo đảm liên đới xã
hội. Chúng ta khẳng định rằng công bằng xã hội
không thể can thiệp vào hoạt động kinh tế và trở
thành một trở ngại cho các xí nghiệp.
8. Tiến tới một nền kinh tế công nghiệp và
dịch vụ
Với đất đai canh tác tuy ít nhưng phì nhiêu,
Việt Nam có tiềm năng nông nghiệp đáng kể.
Nông nghiệp trong ngắn hạn là đòn bẩy cho sự hồi
sinh và điểm khởi đầu của phát triển kinh tế. Do
đó nông nghiệp là trọng tâm kinh tế tức khắc
của chúng ta và cũng sẽ còn là trọng
tâm kinh tế của chúng ta trong khoảng một thập niên
nữa.
Tuy nhiên trong trung hạn, vì đất đai chật hẹp và
dân số đông đảo, Việt Nam không thể là một
nước nông nghiệp lớn. Ngược lại vị trí của ta thuận lợi,
nhân lực của ta dồi dào và tinh nhuệ. Chức năng tự
nhiên của chúng ta là chức năng của một quốc gia
công nghiệp, thương nghiệp và hàng hải.
Chúng ta phải chuẩn bị ngay từ bây giờ cho tương lai
đó.
Mục tiêu kinh tế của chúng ta trong hai mươi năm tới
là chuyển hóa từ một nền kinh tế nông nghiệp sang
một nền kinh tế công nghiệp và thương nghiệp. Điều
này có nghĩa là mặc dầu năng suất và sản
lượng của nông nghiệp vẫn không ngừng tăng lên trọng
lượng của nông nghiệp trong tổng sản lượng quốc gia cũng như
trong phối trí nhân lực sẽ giảm dần đi. Bước đầu của cố
gắng chuyển hóa này là phát triển những
ngành công nghiệp gắn bó với nông nghiệp như
công nghiệp thực phẩm, chế tạo phân bón, thuốc trừ
sâu, nông cơ, v.v. song song với cố gắng tìm thị
trường xuất khẩu cho nông phẩm.
Ngoài những cố gắng dồn vào những ngành mà
triển vọng đã thấy rõ như ngư nghiệp, du lịch,
chúng ta sẽ đặc biệt chú trọng tới hai triển vọng mới
là dịch vụ thương cảng và tin học. Cả hai ngành
này đều đòi hỏi một chính sách mở cửa trọn
vẹn, thẳng thắn ra thế giới bên ngoài.
Do vị trí và bờ biển thuận lợi của ta, Việt Nam có
thể có những thương cảng rất lớn. Chúng ta sẽ sẵn
sàng ký những hợp đồng xây dựng và khai
thác dài hạn một số thương cảng với các tổ hợp
nước ngoài. Nhưng điều quan trọng để thu hút những dịch
vụ thương mại quốc tế là tình hình trật tự an ninh
phải ổn định, thể chế chính trị phải cởi mở và hệ thống
viễn thông phải hoàn chỉnh.
Người Việt Nam ta rất có khiếu về ngành tin học.
Đây là một ngành đang phát triển và
còn cần tới rất nhiều chuyên viên với giá rất
cao. Tin học nếu được sử dụng đúng đắn cũng là dụng cụ
quản lý khách quan cho phép loại trừ nhiều
nguyên nhân đưa tới tham nhũng. Nước ta hiện đang có
rất nhiều dự án tin học hóa khu vực công mà
các định chế quốc tế sẵn sàng tài trợ.
Chúng ta có thể lấy việc thực hiện các dự
án này làm bàn đạp để đào tạo một
đội ngũ chuyên viên tin học giỏi và cập nhật về kỹ
thuật. Triển vọng càng cao vì các tiến bộ về
truyền thông ngày càng cho phép thực hiện
những hợp đồng tin học trên khắp thế giới mà không
cần xuất ngoại.
Nhà nước phải lấy làm mục tiêu nối kết mọi gia
đình vào mạng lưới Internet để sử dụng tối đa mạng lưới
này như một phương tiện thông tin, học hỏi, trao đổi
và mua bán.
Chúng ta sẽ không thiết lập các khu kinh tế với qui
chế đặc biệt như kiểu "khu chế xuất" mà sẽ dành mọi
khuyến khích và dễ dãi cho các hoạt động
kinh tế trên cả nước, với một luật kinh doanh chung cho
toàn lãnh thổ.
Đất nước ta may mắn là một quốc gia duyên hải, các
vùng đông dân đều không xa bờ biển và
cũng không xa các cảng tốt. Dựa vào ưu thế
đó chúng ta sẽ thiết lập các trung tâm
công nghiệp trải đều trên khắp lãnh thổ.
Chính sách này đòi hỏi một đầu tư quan
trọng cho hệ thống giao thông và truyền thông nhưng
bù lại sẽ tiết kiệm được những tốn kém còn quan
trọng hơn về di dân, và đồng thời cũng tránh được
nạn nhân mãn tại các thành phố lớn mà
các quốc gia đang mở mang đều gặp. Cần nhấn mạnh rằng mọi
chính sách tương lai đều tuyệt đối không mang
tính cưỡng bách. Tái phối trí dân số
và lực lượng lao động là hiện tượng thường trực và
tự nhiên trong mọi quốc gia, nhất là tại các quốc
gia đang phát triển, nhưng cách hay nhất vẫn là để
người dân toàn quyền chọn lựa nghề nghiệp và nơi
sinh sống sau khi được thông tin đầy đủ về các cơ hội.
Đó là phương thức để trí tuệ cá nhân
và sách lược quốc gia bổ túc cho nhau và
điều chỉnh lẫn nhau.
9. Theo đuổi một "chủ nghĩa nước nhỏ"
Chúng ta hiện nay là một nước rất thua kém,
yêu cầu cấp bách nhất của chúng ta là
phát triển, bắt kịp các nước mở mang. Do đó
chính sách căn bản của Việt Nam trong giai đoạn
này phải là một chủ nghĩa nước nhỏ.
Chủ nghĩa nước nhỏ là gì? Nói một cách giản
dị, đó là nhẫn nhục hôm nay để lớn mạnh ngày
mai.
Về mặt đối nội, chủ nghĩa nước nhỏ có nghĩa là
chúng ta sẽ không chia rẽ và xung khắc với nhau về
những chủ thuyết cao siêu, sẽ cùng nhau nhận diện số phận
hẩm hiu, thương yêu và đùm bọc lẫn nhau để
cùng dắt tay nhau ra khỏi bế tắc. Nhà nước sẽ từ chối
những chi tiêu có tính huênh hoang gây
thanh thế, tập trung mọi tài nguyên và sinh lực cho
cố gắng ra khỏi tình trạng thua kém. Nhà nước sẽ
trân trọng bảo vệ và gìn giữ những thành quả
ít ỏi đã đạt được, nhà nước sẽ đặt trọng tâm
vào giáo dục và đào tạo, và sẽ đầu
tư vào một nền giáo dục thực dụng trước tiên.
Về mặt đối ngoại, chúng ta sẽ không tranh giành một
vai trò quốc tế nào, sẽ không có thái
độ trong những tranh chấp quốc tế trừ khi để bênh vực lẽ phải,
đạo đức và công pháp quốc tế. Chúng ta sẽ cố
gắng tạo một hình ảnh hiền hòa, khiêm tốn để được
cộng đồng quốc tế chấp nhận như một quốc gia có thể giao thương
được, sẽ dứt khoát không can dự vào một xung đột
quốc tế nào.
Điều đáng lo ngại hiện nay là chúng ta đang sống
trong một khu vực có nhiều khả năng gây ra căng thẳng,
thậm chí xung đột. Chúng ta coi sự hiện diện quân
sự tích cực của Hoa Kỳ trong vùng là một yếu tố
cần thiết để bảo đảm hòa bình và ổn vững,
và chúng ta sẽ khuyến khích sự hiện diện
đó.
Chúng ta coi hợp tác với Hoa Kỳ và các nước
phương Tây là một phúc lợi lớn không những mở
ra cho ta những thị trường lớn, đem lại những chuyển giao khoa học kỹ
thuật quí báu mà còn giúp ta tiếp
thu cách tổ chức, suy nghĩ và làm việc của
các xã hội dân chủ tiên tiến. Chúng ta
sẽ thành thực và khiêm tốn hợp tác với họ
và học hỏi nơi họ.
Với một chính sách đối ngoại khiêm tốn và
hòa bình chúng ta sẽ không cần một
quân lực đông đảo. Với một chính sách đối nội
tôn trọng mọi quyền tự do và dựa trên tinh thần
hòa giải và hòa hợp dân tộc, chúng ta
sẽ không cần một bộ máy cảnh sát công an đồ
sộ. Quân đội và cảnh sát vì vậy sẽ được giảm
tới mức tối thiểu, nhưng đầy đủ, để làm tròn nhiệm vụ của
những công cụ phi chính trị bảo vệ lãnh thổ
và giữ gìn trật tự an ninh.
Tinh thần của chủ nghĩa nước nhỏ là nhìn nhận sự thua
kém của mình và động viên tất cả tài
nguyên và sinh lực để đưa đất nước đi lên. Với
dân số đông đảo và những con người cần mẫn, lại được
một vị trí thuận lợi, Việt Nam có tiềm năng lớn và
có quyền mong muốn một chỗ đứng vẻ vang trên thế giới nếu
biết cố gắng và nhẫn nhục trong một vài thập niên.
10. Thực hiện một chính sách đối ngoại
hòa bình và hợp tác song song với một
chính sách láng giềng tốt
Trong một thế giới đầy tranh đua như hiện nay các mối bang giao
tốt là điều không thể thiếu. Chúng ta sẽ
không bỏ lỡ một cơ hội nào để thiết lập và tăng
cường mọi liên hệ hợp tác với mọi quốc gia trên thế
giới, trước hết là với các quốc gia lân cận.
Đối với các nước phương Tây, đặc biệt là
Pháp và Hoa Kỳ là hai nước đã từng
có những quan hệ phức tạp và xung động, chúng ta
bình thường hóa không những quan hệ ngoại giao
mà cả quan hệ văn hóa và tình cảm.
Chúng ta còn rất nhiều để học hỏi nơi họ và cũng
có rất nhiều để trông đợi ở một sự hợp tác lưỡng
lợi. Chúng ta cũng cần lưu ý đặc biệt đến những quốc gia
mà chính sách di dân còn dễ
dãi hoặc có triển vọng dễ dãi để phát triển
cộng đồng người Việt hải ngoại. Một chính sách đối ngoại
hiếu hòa và khiêm tốn, đi song song với sự tận dụng
khả năng đóng góp của cộng đồng Việt Nam hải ngoại
là căn bản của những cố gắng ngoại giao của chúng ta.
Nhưng gần hơn hết chúng ta phải củng cố và tăng cường chỗ
đứng của ta tại khu vực châu Á và Thái
Bình Dương đặc biệt là trong lòng khối ASEAN.
Trong lòng khối này chúng ta sẽ góp phần
tích cực tăng cường sự liên đới, hạ thấp dần những
hàng rào văn hóa và mậu dịch, thúc
đẩy sự hình thành thực sự của một vùng trao đổi tự
do.
Gần nhất, ta phải thắt chặt quan hệ hợp tác với hai nước bạn
láng giềng Lào và Cam-bốt. Chúng ta
đã là nạn nhân của một âm mưu chia để trị
xuất phát từ thời ngoại thuộc Pháp mà ngày
nay ta phải phá vỡ. Biên giới của ta với hai nước
này không đổi từ hơn hai thế kỷ nay. Đó là
một trong những biên giới ổn vững nhất thế giới, làm chứng
cho khả năng sống chung hòa bình giữa Việt Nam,
Lào và Cam-bốt. Nhưng chúng ta cũng cần
dõng dạc tuyên cáo một chính sách
hiếu hòa thực sự và làm nhiều cố gắng ngoại giao
để đánh tan những hiểu lầm do một quá khứ còn
khá mới để lại. Chúng ta sẽ đề nghị và vận động để
ký kết với hai nước láng giềng này một hiệp ước
tôn trọng các biên giới hiện có với mọi dễ
dãi về giao thông và thương cảng để họ có
thể khai thông ra đại dương. Chúng ta sẽ đề nghị với họ
cùng hợp tác xây dựng các trục lộ giao
thông ra biển, và nếu có thể, tiến tới một thỏa ước
tự do đi lại và di trú. Cả Lào và Cam-bốt
đều cần đường ra biển qua ngả Việt Nam nên sự hợp tác sẽ
là điều tự nhiên nếu họ vững tin rằng Việt Nam tôn
trọng bản thể và lãnh thổ của họ. Việt Nam, Lào
và Cam-bốt có nhiều triển vọng để hình
thành một khối hợp tác gắn bó trong đó cả
ba đều có lợi và đều phát huy được thế mạnh kinh
tế riêng của mình.
Đối với Trung Quốc chúng ta cần giải quyết trong tinh thần hữu
nghị những tranh chấp về lãnh hải và hải đảo để mở đầu
một giai đoạn hợp tác. Hai nước có chung một biên
giới dài, đã từng chia sẻ một văn hóa và
cũng có rất nhiều tương đồng về cấu tạo nhân văn cho
nên sự hợp tác là một lẽ tự nhiên. Điều
đáng lo ngại hiện nay là Trung Quốc một mặt đang gia tăng
sức mạnh quân sự và mặt khác biểu lộ một
chính sách bá quyền khu vực. Đối với Trung Quốc,
chúng ta cần chứng tỏ một thái độ khiêm tốn,
hòa nhã nhưng kiên quyết bảo vệ chủ quyền
trên lãnh thổ, vùng biển và các hải
đảo. Chúng ta hy vọng sự hiện diện quân sự tích cực
của Hoa Kỳ trong vùng sẽ là một đảm bảo cho hòa
bình và an ninh. Chúng ta có lý do
để tin rằng Trung Quốc sẽ chọn lựa đường lối hòa hoãn
và hợp tác, nhưng hiện đại hóa khả năng tự vệ của
chúng ta cũng là một yếu tố khuyến khích Trung
Quốc đi theo đường lối tốt đẹp đó. Trong ngắn hạn, khi vấn đề
thống nhất của Trung Quốc chưa giải quyết xong, chúng ta sẽ
chú trọng đặc biệt vào sự phát triển các
quan hệ ngoại thương phi chính trị với Đài Loan.
Chúng ta không thể phủ nhận vai trò lãnh đạo
kinh tế châu Á của Nhật và phải đặt quan hệ kinh tế
với Nhật lên hàng một quốc sách phát triển.
Chúng ta phải tranh thủ vốn đầu tư của các công ty
Nhật, đồng thời quân bình đầu tư của Nhật với đầu tư từ
các nước khác.
Sau cùng chúng ta cũng cần có một nhận định
sáng suốt và thực tiễn đối với các nước thuộc
Đông Âu và Liên Xô cũ. Các nước
này là những thị trường đầy tiềm năng trong đó
chúng ta đã sẵn có nhiều người bạn, nhiều quan hệ
và hiểu biết cần được khai thác.
11. Ngăn chặn đà gia tăng dân số
Chúng ta hiện có một dân số gần 80 triệu dân,
đứng hàng thứ 13 trên thế giới, với một diện tích
rất hẹp, 330.000 cây số vuông. Đã thế tỷ lệ đất đai
thực sự canh tác và sinh sống được của ta lại rất thấp,
chỉ ở mức một phần ba. Trong khi đó dân số của ta tiếp tục
gia tăng một cách báo động, gần 2% mỗi năm. Mặt
khác khả năng kinh tế và điều kiện địa lý của ta
không cho phép dự trù những đầu tư lớn vào
việc mở rộng vùng đất sinh sống và canh tác. Chặn
đứng đà gia tăng dân số vì vậy là một vấn đề
sinh tử và cấp bách.
Kinh nghiệm của chính quyền cộng sản cho thấy là một
chính sách hạn chế sinh đẻ quả quyết đến độ dã man
chỉ làm xuống cấp con người chứ không làm giảm
dân số. Vấn đề cần được giải quyết ở tận gốc rễ văn hóa
và nhân sinh quan của nó. Trong giáo dục học
đường và đại chúng cần phổ biến các kiến thức về
ngừa thai và bình thường hóa quan hệ nam nữ, cần
tách rời việc lập gia đình và có con
cái với việc thỏa mãn nhu cầu sinh lý.
Sinh đẻ nhiều cũng do hai nguyên nhân khác mà
ta cần khắc phục, đó là trình độ văn hóa
và vai trò xã hội kém của phụ nữ, và
sự lo âu của tuổi già. Nâng cao trình độ văn
hóa của phụ nữ và hội nhập một cách tích
cực phụ nữ vào sinh hoạt kinh tế xã hội là một đầu
tư cần thiết để chặn đà gia tăng dân số. Mọi kinh nghiệm
trên thế giới đều chứng tỏ rằng càng có
trình độ văn hóa cao, càng tham gia tích
cực vào sinh hoạt kinh tế, phụ nữ càng có khuynh
hướng tự hạn chế sinh đẻ. Kinh nghiệm cũng cho thấy rằng bảo đảm cuộc
sống cho người già sẽ hạn chế được một cách đáng
kể đà gia tăng dân số vì con đông trước hết
là một đảm bảo cho tuổi già ở các nước thiếu an
sinh xã hội. Phải săn sóc người già nếu
không muốn phải tiếp nhận thêm quá nhiều trẻ thơ
mà chúng ta không có khả năng nuôi
dưỡng và giáo dục. Chúng ta cần một đạo luật bảo
đảm một lợi tức tối thiểu cho những người già cả. Chính
sách này sẽ tạo một tâm lý an toàn
và chắc chắn sẽ làm giảm ngay mức sinh đẻ, nhất là
với niềm tin là lợi tức bảo đảm cho tuổi già sẽ
càng ngày càng tăng với phát triển kinh tế.
Sau cùng chúng ta cũng có quyền tin tưởng
là đà gia tăng dân số sẽ giảm xuống trong một
xã hội văn minh không trọng nam khinh nữ đến độ phải đẻ
cho đến khi có con trai, một xã hội có thông
tin đầy đủ và có cơ hội thăng tiến cho mọi người. Một khi
có đủ lạc quan để lập kế hoạch cho tương lai mình,
các cặp vợ chồng sẽ tự nhiên nhận thấy họ phải hạn chế số
con cái.
V. Chế độ chính trị cho một nước Việt Nam
dân chủ đa nguyên
Việc chọn lựa
một
chế
độ
chính
trị
không thể là một chọn lựa
thuần túy lý thuyết, càng không thể
là sự sao chép một khuôn mẫu sẵn có
đã thành công tại một quốc gia khác,
dù chúng ta trân trọng tới đâu kinh nghiệm
của các dân tộc trong cuộc hành trình tới
dân chủ và phồn vinh.
Chúng ta chọn lựa một chế độ chính tri đáp ứng
sáu yêu cầu cơ bản của đất nước :
- xây dựng dân chủ,
- thực hiện hòa giải và hòa hợp dân tộc,
- phát triển đất nước,
- giảm thiểu chênh lệch giữa các vùng,
- thỏa mãn những khát vọng chính đáng của
các cộng đồng sắc tộc và tôn giáo,
- và thực hiện thống nhất đất nước thực sự.
Dưới ánh sáng của sáu yêu cầu cơ bản
đó chúng ta chọn một chế độ chính trị dân
chủ đại nghị và tản quyền.
1. Hai thành kiến sai lầm về chế độ chính
trị
Trước khi thảo luận về một chế độ chính trị hợp tình, hợp
lý cho Việt Nam, chúng ta cần giải tỏa hai thành
kiến, cũng là hai lo âu không đúng nhưng rất
phổ biến của người Việt.
1.1. Dân chủ đa nguyên và ổn định
chính trị
Lo âu thứ nhất là một chế độ đa nguyên và đa
đảng có thể gây ra tình trạng phân tán
đảng phái, trong đó không có đảng nào
có được đa số để nắm chính quyền và do đó
gây ra tình trạng bất ổn chính trị. Người ta
có thể lo sợ rằng chính quyền sẽ thay đổi liên tục
tùy theo những hợp tan của những liên minh tạm bợ.
Lo âu này không có căn cứ, nó xuất
phát từ một hiểu lầm do một tuyên truyền đầu độc mà
nhiều người Việt Nam đã là nạn nhân.
Sự kiện có ít hay nhiều đảng phái tùy thuộc
chủ yếu ở thể thức đầu phiếu, chứ không phải ở mức độ tự do
chính trị. Nói một cách giản dị : lối đầu phiếu
đơn danh và một vòng đưa tới chế độ lưỡng đảng vì
loại bỏ các đảng nhỏ, trong khi lối đầu phiếu theo tỷ lệ đưa tới
sự xuất hiện của nhiều chính đảng.
Bầu đơn danh và một vòng có nghĩa là mỗi
đơn vị bầu cử bầu ra một dân biểu và các ứng cử
viên ra tranh cử với tư cách pháp lý
cá nhân, dù có thể mang nhãn hiệu của
một chính đảng, ai được số phiếu cao nhất sẽ đắc cử. Lối bầu cử
này có lợi cho các chính đảng lớn, loại
các đảng nhỏ và bảo đảm sự hiện hữu thường trực của một
đa số để thành lập và điều hành chính phủ
một cách ổn vững, ngược lại nó không cho
phép các khuynh hướng thiểu số có tiếng nói
tại nghị trường. Trên thực tế nó thường đưa tới chế độ
lưỡng đảng. Như vậy lối đầu phiếu đơn danh và một vòng
là giải đáp kỹ thuật cho ưu tư có một chính
quyền ổn vững mà không cần giới hạn tự do chính trị
về mặt pháp chế.
Bầu theo tỷ lệ có nghĩa là đầu phiếu chung trên cả
nước hay trong mỗi vùng, giữa các chính đảng với
nhau, và số dân biểu đắc cử của mỗi chính đảng sẽ
tỷ lệ với số phiếu của mình, thí dụ đảng được 20% số
phiếu thì trên nguyên tắc cũng được 20% dân
biểu. Lối đầu phiếu này rất dân chủ vì cho
phép mọi khuynh hướng có tiếng nói và chỗ
đứng trong quốc hội, nhưng ngược lại nó có nguy cơ đưa
tới một quốc hội phân tán trong đó không
có đảng nào có đa số đủ để cầm quyền.
Giải pháp tối ưu là một sự phối hợp giữa hai lối đầu
phiếu này để vừa đảm bảo dân chủ vừa đảm bảo sự ổn vững
tương đối của chính quyền. Về mặt kỹ thuật có thể
có vô số công thức, kể cả lối đầu phiếu đơn danh hai
vòng với tác dụng kết hợp các đảng có
cùng khuynh hướng trong vòng hai.
Những nhận định này cho phép ta khẳng định rằng viện
lý do ổn định chính trị để giới hạn hoạt động
chính đảng là vô căn cứ. Trong nước Việt Nam tương
lai không cần có, và cũng không thể
có, bất cứ một giới hạn nào đối với quyền thành
lập và phát triển các chính đảng.
Cũng cần chấm dứt một sự lẫn lộn gian trá về ổn định. Ổn định
có hai nghĩa.
Nghĩa thứ nhất là ổn định dân sự, nghĩa là ổn định
trong cuộc sống của mỗi công dân, là đảm bảo
không bị bắt bớ, tịch thu tài sản, cấm kinh doanh,
không là nạn nhân của những thay đổi luật
pháp đột ngột và thường xuyên, hay những quyết định
tùy tiện của chính quyền. Ổn định này rất cần
thiết cho phát triển kinh tế, vì có như thế người
dân mới có thể yên trí để tiên liệu
và hoạch định sinh hoạt của mình. Ổn định này
đòi hỏi dân chủ, nhân quyền và nhà
nước pháp trị.
Nghĩa thứ hai là ổn định của tập đoàn cầm quyền, hay
nói khác đi là sự kéo dài của một
chính quyền với cùng những người cầm quyền. Sự kéo
dài này, nếu không do bầu cử tự do mà
là do một chế độ độc tài bạo ngược, còn rất
mâu thuẫn với ổn định dân sự và do đó
hoàn toàn mâu thuẫn với phát triển, bởi
vì người dân luôn luôn phải sống trong sợ sệt,
không dám và không thể lập những kế hoạch
kinh doanh lâu dài.
Kinh nghiệm cho thấy ổn định dân sự rất cần cho phát
triển, trong khi ổn định của tập đoàn cầm quyền hoàn
toàn không có ảnh hưởng, hoặc chỉ có ảnh
hưởng xấu. Tại Nhật, từ sau Thế Chiến II tới nay, ít có
chính phủ nào kéo dài được hai năm. Tại
Ý, tuổi thọ trung bình của các chính phủ
còn ngắn hơn nhiều. Mặc dầu vậy kinh tế của cả hai nước
này đều phát triển nhanh chóng, họ đều là
thành viên của nhóm bảy nước phát triển
nhất. Trong khi các nước có những chính quyền
kéo dài như Việt Nam, Cuba, Bắc Triều Tiên
và nhiều nước thuộc châu Phi và châu Mỹ La
Tinh lại rất trì trệ và lạc hậu.
Khi các tập đoàn độc tài - như ban lãnh đạo
Đảng Cộng Sản Việt Nam - nói cần phải có ổn định để
phát triển, nhiều người đồng ý với họ vì hiểu
đó là ổn định dân sự trong khi họ thực hiện ổn định
theo nghĩa thứ hai, nghĩa là ổn định của tập đoàn cầm
quyền. Đó là một sự gian trá cần được tố
giác.
1.2. Thống nhất và tản quyền
Lo âu thứ hai là tản quyền có thể phương hại tới
thống nhất lãnh thổ và tái lập lại tình
trạng sứ quân.
Câu trả lời dứt khoát là không.
Các vùng không phải là những quốc gia, tự
quản không đồng nghĩa với độc lập. Luật pháp của
vùng không thể mâu thuẫn với luật pháp quốc
gia.
Cũng nên có một cái nhìn lành mạnh
hơn về thống nhất, vượt lên trên sự thống nhất hành
chính, nặng nề và bàn giấy. Thống nhất chủ yếu
là thống nhất trong lòng người. Khi mỗi người và
mỗi địa phương cảm thấy có chỗ đứng và tiếng nói
trong cộng đồng quốc gia trong khi những nét đặc thù của
mình vẫn được tôn trọng thì họ càng cảm thấy
hòa nhập vào quốc gia, và hòa hợp dân
tộc càng mạnh thêm. Ngược lại, trong thế giới vừa dồn dập
vừa phức tạp hiện nay và trong một quốc gia với gần một trăm
triệu người, một chính quyền trung ương tập quyền không
thể nào định đoạt tất cả, các địa phương trên thực
tế vẫn tự trị, nhưng tự trị một cách bất hợp pháp, nghĩa
là luôn luôn ở trong thế xung đột hợp lý
nhưng bất hợp pháp với chính quyền trung ương, và
do đó với cộng đồng quốc gia. Trung ương tập quyền vì vậy
đưa tới sứ quân thay vì thống nhất. Chính vì
tác dụng đoàn kết dân tộc của nó mà
tản quyền cần được thực hiện cả trên bình diện quốc gia
lẫn trong tổ chức của mỗi vùng.
Tản quyền là xu hướng áp đảo của thời đại này,
và là kết luận của hai thế kỷ thử nghiệm dân chủ
trên trái đất. Điều đáng ngạc nhiên là
các dân tộc đã mất một thời gian dài như vậy
để khám phá một sự thật đơn giản : một nội các chỉ
có thể gồm một số ít người, và một số ít
người không thể quyết định tất cả cho một quốc gia rộng lớn với
số người đông đảo, sinh sống trên những vùng đất với
những điều kiện địa lý và nhân văn khác
nhau.
Tản quyền có những ưu điểm rõ rệt : nó khuyến
khích sinh hoạt chính trị tại các địa phương,
nó đem dân chủ tới mọi nơi với mọi người, nó
tránh được những đường dây hành chính
dài và phức tạp cho sinh hoạt thường ngày,
nó kích thích sinh hoạt văn hóa và
báo chí địa phương, nó cho phép mỗi địa
phương chọn lựa công thức sinh hoạt phù hợp nhất với đặc
tính của mình và nhờ đó mà
phát triển.
Các vùng nghèo khó sẽ có được một
chính quyền riêng dành tất cả ưu tư cho việc
phát triển vùng và đưa vùng lên ngang
tầm phát triển của cả nước, thay vì bị quên
lãng bởi một chính quyền trung ương bận rộn với những vấn
đề dồn dập của các vùng đã phát triển
và có hoạt động mạnh. Không ai báo động một
cách thành tâm và chính xác
tình trạng khó khăn của một vùng bằng một
chính quyền của vùng mà sứ mạng duy nhất là
phát triển vùng.
Tản quyền còn đóng góp vào sự ổn vững của
quốc gia và của dân chủ. Một mặt nó vô hiệu
hóa những âm mưu đảo chính (lật đổ chính
quyền trung ương rồi làm gì với các chính
quyền địa phương?). Mặt khác nó tránh các
khủng hoảng đáng lẽ không có ở cấp trung ương, bởi
vì vấn đề có thể đặt ra ở từng địa phương một vào
những thời điểm khác nhau. Một ưu điểm vô cùng quan
trọng khác của tản quyền là nó làm giảm bớt
xung đột chính trị bởi vì một đảng có thể thua ở
cấp trung ương nhưng vẫn có thể nắm quyền tại một số địa phương,
nơi mà họ được tín nhiệm. Xung khắc chính quyền -
đối lập vì vậy sẽ bớt gay gắt. Trong hoàn cảnh lịch sử
hiện nay của Việt Nam, tản quyền vì vậy tránh được
tình trạng được thì được hết, thua thì thua
luôn, và đóng góp tích cực cho
hòa giải và hòa hợp dân tộc.
Tản quyền cho phép những khuynh hướng thiểu số, các
tôn giáo và các sắc tộc ít người
có trọng lượng chính trị đáng kể tại những địa
phương mà họ hiện diện đông đảo, do đó làm
dịu bớt những tâm trạng bất mãn và các
ý đồ ly khai, tự trị.
Một điểm lợi quan trọng khác của tản quyền là
chính nhờ các chính quyền địa phương mà mỗi
khi có thay đổi chính quyền thì những người
lên cầm quyền ở trung ương cũng không phải là những
người tập sự mà ít nhất đã có kinh nghiệm ở
cấp địa phương.
Tuy nhiên, muốn tản quyền có nội dung và tác
dụng thực sự của nó, các vùng phải có một
diện tích và một dân số khả dĩ có thể tồn
tại và phát triển được.
Nước ta hiện nay có khoảng 80 triệu dân, khi đà gia
tăng dân số đã khựng lại, dân số của chúng ta
sẽ ổn định ở một mức độ nào đó chung quanh con số 100
triệu dân. Chúng ta có thể có từ mười đến
mười lăm vùng, mỗi vùng từ năm tới mười triệu người.
Để tránh những phiền phức về hành chính và
nhất là về hộ tịch, các vùng sẽ là sự kết
hợp của một số tỉnh hiện có. Việc tập trung các tỉnh
vào một vùng sẽ dựa trên các tiêu
chuẩn cấu tạo sắc tộc, chức năng kinh tế, tài nguyên
thiên nhiên và giao thông.
Mỗi vùng sẽ có một nghị viện riêng được quyền bổ
nhiệm chính quyền vùng, ban hành các luật
lệ vùng không mâu thuẫn với hiến pháp
và pháp luật quốc gia, biểu quyết mức độ của một số sắc
thuế, biểu quyết ngân sách địa phương.
Chính quyền vùng do nghị viện địa phương bầu ra để thi
hành những chính sách đã được nghị viện địa
phương biểu quyết.
Các vùng không có quyền có quân
đội, không được phát hành tiền tệ riêng,
không có đại diện ngoại giao, không được quyền
ký hiệp ước với các nước khác, không được
làm chủ các công ty có mục đích kinh
doanh, không được tổ chức những trưng cầu dân ý
có mục đích chính trị. Mọi cuộc bầu cử và
trưng cầu dân ý phải được chính quyền trung ương
cho phép và nhìn nhận kết quả mới có
giá trị.
Các vùng không được ký hiệp ước với nhau.
Việc phối hợp giữa các vùng hoàn toàn thuộc
thẩm quyền của chính quyền trung ương.
Mỗi công dân có quyền chọn lựa nơi cư trú
trên toàn lãnh thổ. Các vùng
không có quyền cấm cản sự nhập cư vào vùng
mà chỉ có quyền giới hạn phạm vi lưu thông của
các công dân trong tình trạng điều tra
pháp lý.
Số lượng cảnh sát vùng không được vượt quá
một tỷ lệ, do chính quyền trung ương qui định, so với số cảnh
sát quốc gia hiện diện tại vùng.
Chính quyền trung ương được quyền ấn định một nội dung tối thiểu
cho mỗi trình độ giáo dục. Các bằng cấp cho
phép hành nghề tự do phải được chính quyền trung
ương chuẩn nhận.
Các cơ quan chính quyền tỉnh và dưới cấp tỉnh sẽ
do một đạo luật quốc gia qui định theo nguyên tắc tản quyền.
2. Chế độ chính trị
2.1. Chế độ đại nghị : thể chế dân chủ
và ổn vững nhất
Quyết tâm của chúng ta là thực hiện dân chủ
và ngăn chặn sự trở lại của bất cứ một hình thức độc
tài nào. Chúng ta lựa chọn thể chế chính
trị trên căn bản của quyết tâm đó. Việc đầu
tiên phải làm là chọn lựa giữa một trong ba
công thức : chế độ tổng thống, chế độ bán tổng thống
và chế độ đại nghị.
Trước hết, chúng ta loại bỏ chế độ tổng thống, nghĩa là
chế độ trong đó một người được dân chúng trực tiếp
bầu cử theo phổ thông đầu phiếu và nắm trọn quyền
hành pháp, vì nó dành quá
nhiều quyền lực cho một người và, trong hoàn cảnh của một
nước vừa thử nghiệm dân chủ, nó có khả năng đưa tới
lạm quyền và độc tài.
Trên mặt thuần túy lý thuyết chế độ tổng thống
có ưu điểm của nó, mà ưu điểm nổi bật nhất
là đảm bảo một chính quyền mạnh có khả năng quyết
định mau chóng những chọn lựa chiến lược cần thiết, nhưng
trên thực tế không nên quên ba sự kiện rất cơ
bản : một là hiện nay nguy cơ chiến tranh không còn
nữa, ngay cả chiến tranh lạnh cũng đã chấm dứt, nhu cầu
có một chính quyền mạnh để lấy những quyết định quan
trọng một cách nhanh chóng không còn đặt ra
nữa ; hai là cho tới nay, trừ trường hợp của Hoa Kỳ, tất cả mọi
chế độ tổng thống trên thế giới đều đã thất bại ; ba
là chế độ tổng thống dễ đưa tới một chế độ độc tài
cá nhân, như trường hợp của hầu hết các quốc gia
theo chế độ này, hoặc một xung đột bế tắc giữa hành
pháp và lập pháp.
Chính sự thất bại của các chế độ tổng thống đã đưa
đến sự xuất hiện của các chế độ "bán tổng thống", nghĩa
là vừa có một tổng thống vừa có một thủ tướng.
Tổng thống vừa là nguyên thủ quốc gia vừa chia sẻ một phần
quyền hành pháp, nhiều hay ít theo qui định của
hiến pháp, với một thủ tướng chịu trách nhiệm trước quốc
hội trong đa số các trường hợp. Tổng thống do phổ thông
đầu phiếu trực tiếp bầu ra nên uy thế rất lớn, ngang hàng
với một tổng thống trong chế độ tổng thống thuần túy ngay cả khi
quyền hiến định có thể khác. Uy thế này là
một bảo đảm cho ổn vững chính trị, tương tự như một chế độ tổng
thống, bù lại cái giá phải trả là, một mặt,
một số bất lợi của chế độ tổng thống và, mặt khác, những
mâu thuẫn về thẩm quyền không tránh khỏi trong nội
bộ hành pháp giữa tổng thống và thủ tướng.
Các chế độ bán tổng thống có tác dụng giảm
bớt những bất lợi của chế độ tổng thống bằng cách dung
hòa nó với chế độ đại nghị. Đã có nhiều chế
độ bán tổng thống thành công. Tuy nhiên, chế
độ bán tổng thống là một chế độ rất phức tạp, bản chất
và nội dung chế độ có thể thay đổi tùy theo những
yếu tố tình cờ : tổng thống và thủ tướng cùng đảng
hay khác đảng, nhiệm kỳ của tổng thống và của quốc hội
ngắn dài bằng nhau hay khác nhau, tổng thống hay quốc hội
mới được bầu gần đây.
Trong một chế độ đại nghị, quyền hành pháp ở trong tay
một thủ tướng do quốc hội bầu ra và chịu trách nhiệm
trước quốc hội. Như thế khi bầu ra một quốc hội, một cách
gián tiếp, người dân cũng chọn lựa một thủ tướng. Ưu điểm
của chế độ đại nghị là người dân bầu trước hết cho một dự
án chính trị của một đảng thay vì cho một người
và sau đó chọn lựa một dân biểu trong số những ứng
cử viên sinh hoạt gần gũi với họ mà họ có điều kiện
để đánh giá ; qua dân biểu của họ, họ cũng
có khả năng theo dõi và kiểm soát một
cách thường trực sinh hoạt của chính phủ.
Thể chế đại nghị là thể chế dân chủ nhất và cũng
là thể chế đúng đắn nhất, với điều kiện là
không dẫn tới tình trạng lạm phát chính đảng
và một quốc hội tê liệt vì bị phân hóa
giữa nhiều khuynh hướng đối nghịch. Điều kiện này, như kinh
nghiệm đã chứng minh, có thể thỏa mãn được bằng
cách bầu tất cả hoặc phần lớn các dân biểu quốc hội
theo phương thức bầu cử đơn danh và một vòng.
Cả hai chế độ đại nghị và bán tổng thống nếu được thực
hiện đứng đắn đều có khả năng đảm bảo dân chủ và
phát triển. Chúng ta chọn lựa chế độ đại nghị vì
sự giản dị và tính dân chủ cao của nó.
2.2. Tổ chức chính quyền
Một thể chế tản quyền đưa tới sự hiện hữu tất nhiên của hai nghị
viện ở cấp trung ương. Thượng nghị viện đại diện cho các
vùng, trong khi quốc hội đại diện cho quần chúng. Ở mỗi
vùng, chỉ cần một nghị viện giữ vai trò của quốc hội ở
cấp địa phương.
Thượng nghị viện chỉ có ở cấp trung ương. Mỗi vùng
có một số thượng nghị sĩ bằng nhau do cử tri toàn
vùng trực tiếp bầu ra, cộng đồng người Việt hải ngoại cũng sẽ
được đại diện. Thượng nghị viện có vai trò : bảo đảm sự
thống nhất và hòa hợp quốc gia qua các
vùng, đề nghị các dự luật, phúc nghị, nếu cần,
các đạo luật do quốc hội biểu quyết, khuyến cáo và
đề nghị với chính phủ về các chính sách
và về việc bổ nhiệm nhân sự cấp cao. Thượng nghị viện
có quyền đòi các viên chức chính
quyền mọi cấp ra điều trần.
Quốc hội gồm các dân biểu mà đại đa số sẽ được bầu
theo lối đầu phiếu đơn danh và một vòng, số còn
lại được bầu theo tỷ lệ. Trong một nước Việt Nam với dân số 80
triệu, quốc hội có thể gồm khoảng 500 dân biểu, trong
đó khoảng 450 được bầu theo thể thức đơn danh và một
vòng, số còn lại bầu theo tỷ lệ trên cả nước. Việc
đa số được bầu theo thể thức đơn danh và một vòng bảo đảm
rằng sẽ không có tình trạng lạm phát
chính đảng và sẽ có một đa số (của một đảng hay do
liên minh của một vài đảng cùng khuynh hướng) để
thành lập một chính phủ. Thiểu số bầu theo tỷ lệ cho
phép mọi đảng phái có mặt trong quốc hội và
cũng cho phép những người lãnh đạo các
chính đảng có tầm vóc quốc gia khỏi phải tranh cử
tại địa phương và để tập trung cố gắng cho những vấn đề của cả
nước.
Quốc hội có quyền chỉ định và bãi nhiệm thủ tướng,
biểu quyết mọi đạo luật, biểu quyết ngân sách, chất vấn
chính phủ về mọi chính sách và biện
pháp của nhà nước.
Tại mỗi vùng, phần nghị viên được bầu theo tỷ lệ có
thể cao hơn, các nghị viên có thể được bầu một nửa
theo phương thức đơn danh một vòng, một nửa theo tỷ lệ.
Để giới hạn con số các chính đảng, cần đặt một mức tối
thiểu để có thể hiện diện trong quốc hội hay nghị viện
vùng qua lối bầu tỷ lệ, thí dụ 5%.
Về hành pháp, ở cấp trung ương, thủ tướng do quốc hội bầu
ra và chịu trách nhiệm trước quốc hội. Các bộ
trưởng do thủ tướng chỉ định. Tại các vùng, hành
pháp nằm trong tay một thống đốc do nghị viện vùng bầu ra
và chịu trách nhiệm trước nghị viện vùng.
Vị nguyên thủ quốc gia, tổng thống, có thể do một cử tri
đoàn gồm tất cả dân biểu, thượng nghị sĩ ở cấp trung ương
bầu ra. Vị nguyên thủ quốc gia này vì được bầu ra
do một cử tri đoàn hùng hậu sẽ có một uy
tín rất cao. Tổng thống không giữ một quyền hành cụ
thể nào cả, nhưng là vị nguyên thủ quốc gia
đúng nghĩa, đứng ngoài và đứng trên cả lập
pháp, hành pháp lẫn tư pháp, có vai
trò bảo đảm sự liên tục, ổn vững và đoàn kết
của quốc gia.
Pháp Viện Tối Cao, gồm những thẩm phán được chọn trong
các luật gia, có nhiệm kỳ dài, khoảng mười năm, do
tổng thống, chủ tịch thượng nghị viện và chủ tịch quốc hội bổ
nhiệm, mỗi vị một phần ba. Pháp Viện Tối Cao có quyền
phán quyết tính hợp hiến hay bất hợp hiến của các
đạo luật, trọng tài những tranh tụng giữa các cơ quan
quyền lực, xét xử những cấp lãnh đạo cấp cao, xét
lại các bản án do các tòa án quốc
gia cũng như địa phương.
2.3. Các chính đảng : một thành
tố khắng khít của đất nước
Trong một thể chế như vậy sẽ có thể có rất nhiều
chính đảng, nhưng ở cấp trung ương sẽ chỉ có vài
đảng lớn. Ở mỗi địa phương cũng sẽ chỉ có một số đảng địa phương
giới hạn bên cạnh các đảng có tầm vóc quốc
gia.
Mọi chế độ dân chủ đích thực đều phải trân trọng
sinh hoạt chính đảng. Không thể có sinh hoạt
chính trị đứng đắn nếu không có chính đảng.
Trong hoàn cảnh nước ta, sau bao năm dài dưới các
chế độ độc tài trong đó mọi sinh hoạt chính trị bị
đàn áp, các chính đảng không những
cần thiết mà còn cần được khai sinh, khuyến khích
và nuôi dưỡng. Các chính đảng là yếu
tố không thể thiếu cho đất nước, và vì thế quốc gia
không những không được cấm cản mà còn phải
sẵn sàng trả giá cho sinh hoạt chính đảng.
Các chính đảng phải tự tài trợ trước hết bằng
đóng góp của đảng viên và cảm tình
viên, nhưng các đảng có tầm vóc sẽ được
ngân sách tài trợ. Bù lại, mọi phương thức
kinh tài khác kể cả việc nhận ủng hộ tài
chánh của các công ty, xí nghiệp sẽ bị chế
tài nghiêm khắc theo luật pháp. Một tỷ lệ khoảng 1%
ngân sách quốc gia sẽ được dành cho việc tài
trợ các chính đảng ở cấp trung ương và một tỷ lệ
tương đương ở cấp ngân sách vùng. Nguồn tài
trợ, tại trung ương cũng như tại địa phương, chia làm hai phần :
một phần chia cho các chính đảng theo số dân biểu
hoặc nghị viên ; một phần chia theo tổng số phiếu của mỗi
chính đảng. Để tránh tình trạng lạm phát
chính đảng, cần ấn định một tầm vóc tối thiểu - dựa theo
số dân biểu, nghị viên hay số phiếu được bầu - để được
hưởng trợ cấp. Chi phí chính đảng này dĩ
nhiên là lớn, nhiều người có thể nghĩ là
quá lớn, nhưng sẽ tránh cho chúng ta những thiệt
hại còn nặng nề hơn gấp nhiều lần khi các chính
đảng, vì không được tài trợ, trở thành con
tin của những thế lực tài phiệt hay khi họ phải kiếm tài
nguyên bằng những biện pháp bất chính. Một khi cộng
đồng quốc gia đã tài trợ cho các chính đảng
thì bù lại cộng đồng quốc gia cũng có quyền
đòi hỏi nơi các chính đảng một sự trong sạch tuyệt
đối. Sinh hoạt chính trị sẽ được kính trọng và
dân chủ cũng vì thế mà lành mạnh hơn.
VI. Chấm đứt độc tài và thiết
lập dân
chủ đa nguyên
Vấn đề trọng đại trước mắt của chúng ta là chấm dứt chế
độ độc tài đảng trị trong thời gian ngắn nhất và trong
những điều kiện tốt đẹp nhất. Chúng ta đã quá chậm
trễ so với thế giới và không còn thời giờ để
phí phạm. Chúng ta không thể chấp nhận một
tình trạng hỗn loạn hậu cộng sản.
Trong thế giới của hòa bình, đối thoại và hợp
tác hiện nay, mọi giải pháp dùng tới bạo lực đều
không tranh thủ được sự ủng hộ của thế giới. Đất nước Việt Nam
cũng đã chịu quá nhiều đổ vỡ và người Việt Nam
cũng đã quá chán chường và mệt mỏi để
có thể chấp nhận một cuộc nội chiến mới. Những diễn biến gần
đây trên thế giới cũng đã chứng tỏ rằng đấu tranh
bất bạo động có khả năng đánh đổ các chế độ độc
tài, ngay cả các chế độ độc tài cộng sản được tổ
chức thật tinh vi. Đấu tranh bất bạo động là giải pháp
ngắn nhất và tốt đẹp nhất để đưa tự do dân chủ đến thắng
lợi. Đó là phương thức mà chúng ta phải
chọn.
Nét đậm nhất của đất nước hiện nay là tuyệt đại đa số
người Việt Nam đã đồng ý rằng chế độ độc tài đảng
trị là một tai họa, kể cả đại bộ phận những người đã
đóng góp tạo dựng ra nó. Cuộc đấu tranh để thiết
lập dân chủ đa nguyên vì vậy có thể qui tụ,
và phải qui tụ, mọi người thuộc mọi quá khứ chính
trị.
1. Bốn điều kiện cần
và đủ của cuộc cách mạng dân chủ
Lịch sử các cuộc vận động chính trị lớn tại các
quốc gia qua các thời đại cho thấy có bốn điều kiện vừa
cần vừa đủ để một cuộc cách mạng - hiểu theo nghĩa tích
cực của một sự thay đổi toàn diện của cả chế độ lẫn định hướng
quốc gia - thành công :
Điều kiện thứ nhất là mọi người trong nước đồng ý rằng
chế độ hiện hữu là tệ hại và phải thay đổi.
Điều kiện thứ hai là đảng hay giai cấp cầm quyền, vì mất
đồng thuận trên lý tưởng chung hay vì bị ung thối,
đã chia rẽ, phân hóa và đã mất bản
năng tự tồn của một đoàn thể.
Điều kiện thứ ba là đại đa số quần chúng đạt tới đồng
tình về một chế độ mới và những mục tiêu quốc gia
mới.
Điều kiện thứ tư là có một tập hợp chính trị xuất
hiện phù hợp với nguyện ước của toàn dân làm
điểm hội tụ cho những khát vọng đổi mới.
Dĩ nhiên không bao giờ có điều kiện nào được
thực hiện xong 100% cả, nhưng tới một mức độ chín muồi
nào đó ta có thể coi một điều kiện là
đã đạt được.
Nhìn vào bối cảnh hiện tại của đất nước chúng ta
có thể khẳng định là hai điều kiện đầu đã
có. Toàn dân đã chán ghét chế
độ và đang nôn nóng chờ đợi thay đổi. Khát
vọng dân chủ ngày càng lên cao trong
dân chúng ; hơn thế nữa sự chuyển hóa về dân
chủ ngày càng được nhìn như một lẽ tự nhiên
và một sự bắt buộc, càng trì hoãn chừng
nào càng gây thiệt hại cho đất nước chừng
đó. Không những dân chúng mà cả một số
lượng đông đảo cán bộ và đảng viên cộng sản
cũng đang mất kiên nhẫn trước sự ù lì của ban
lãnh đạo đảng cộng sản.
Mặt khác, đảng cộng sản cũng đã ruỗng nát.
Cán bộ đảng viên đã mất hết mọi tin tưởng
vào chủ nghĩa xã hội và ban lãnh đạo đảng,
ngược lại ban lãnh đạo đảng cũng đánh giá đa số
đảng viên là tham nhũng, thiếu khả năng và phẩm
chất. Những xung đột rất trầm trọng đã xảy ra ngay giữa
các cán bộ cấp cao. Tâm lý ngự trị trong
đảng là thi nhau giành giật, mạnh ai nấy sống. Đảng cộng
sản đã mất ý chí và sức sống của một
đoàn thể.
Điều kiện thứ ba cũng đã gần đạt được. Đại bộ phận quần
chúng, kể cả đảng viên cộng sản, đều đã đồng
ý rằng chế độ chính trị tương lai của Việt Nam bắt buộc
phải là một thể chế dân chủ đa nguyên, dành
chỗ đứng ngang nhau cho mọi người và cho mỗi người ; mọi người
đều đã đồng ý rằng nền kinh tế của Việt Nam phải
là kinh tế thị trường lấy tư doanh làm nền tảng, lấy cạnh
tranh làm sức mạnh và lấy lợi nhuận làm chất
kích thích. Hơn thế nữa chúng ta còn
ý thức được rằng phải thực hiện cuộc cách mạng dân
chủ này bằng đường lối bất bạo động, trong tinh thần hòa
giải dân tộc. Chúng ta chỉ còn thiếu một dự
án chính trị rõ ràng và minh bạch,
đặt ra những vấn đề lớn của đất nước cùng với những hướng giải
quyết. Trong tinh thần đó dự án chính trị
này là một đóng góp.
Sau cùng chúng ta cũng đã thấy xuất hiện những cố
gắng kết hợp quan trọng. Một số những khuôn mặt tranh đấu, thuộc
những quá khứ chính trị khác nhau cũng đang dần
dần trở nên quen thuộc với quần chúng. Những điều kiện cho
một sự tập hợp các lực lượng dân chủ đã gần như hội
đủ.
Như vậy việc còn lại phải làm là hoàn tất
điều kiện thứ ba, nghĩa là đạt tới đồng thuận trên một dự
án chính trị, và xây dựng điều kiện thứ tư,
nghĩa là hình thành một kết hợp dân chủ
có tầm vóc. Có thể nói chúng ta
đã đi được ba phần tư lộ trình dẫn đến dân chủ,
nhưng đoạn đường còn lại, xây dựng một tập hợp
chính trị làm tụ điểm cho khát vọng dân chủ,
cũng là đoạn đường cam go nhất bởi vì chúng ta gặp
phải một liên minh gắn bó giữa, một bên, là
chính sách đàn áp thô bạo của một
đảng cầm quyền cực kỳ lì lợm và, bên khác,
là sự thụ động của một dân tộc đã rã
hàng sau quá nhiều thất vọng và thương tổn.
2. Năm giai đoạn của cuộc vận động dân chủ
Làm thế nào để xây dựng ra tập hợp dân chủ
đó? Lịch sử của các nước, các thời cũng đã
chứng tỏ rằng mọi cuộc đấu tranh cách mạng muốn thành
công đều phải qua năm giai đoạn tổ chức rõ rệt. Cuộc vận
động dân chủ, tuy bao dung về tinh thần và bất bạo động
trong phương pháp, cũng vẫn là một cuộc đấu tranh
cách mạng bởi vì nó nhằm thay đổi cả chế độ
chính trị lẫn tổ chức xã hội. Như thế chúng ta
cũng phải qua lộ trình năm giai đoạn đó.
2.1. Xây dựng một cơ sở tư tưởng
Cơ sở tư tưởng của một kết hợp chính trị gồm một dự án
chính trị, những lý luận bảo vệ cho những chọn lựa trong
dự án, và một đồng thuận trong chiến lược đấu tranh. Dự
án đó phải là một tổng hợp công phu giữa một
nhận định nghiêm túc về bối cảnh đất nước và những
tư tưởng đúng đắn nhất của thời đại. Một phong trào
chính trị muốn thành công cần được xây dựng
trên một cơ sở tư tưởng mạnh. Cơ sở tư tưởng phải là một
lý tưởng đủ đẹp và đủ tính khả thi để vừa gắn
bó mọi chí hữu với nhau vừa tranh thủ được sự yểm trợ cho
phong trào. Giai đoạn xây dựng cơ sở tư tưởng có
thể coi là tạm hoàn tất khi đã có dự
án chính trị được thành phần có trí
tuệ nhất của đất nước đánh giá là xuất sắc, đứng
đắn và khả thi.
2.2. Xây dựng một đội ngũ cán bộ
nòng cốt
Tranh thủ sự ủng hộ cho dự án chính trị, tổ chức
nhân lực và phương tiện để đưa cuộc đấu tranh tới
thành công là công việc của đội ngũ
cán bộ nòng cốt. Trong cuộc vận động dân chủ hiện
nay chúng ta đang gặp khó khăn lớn là những người
có khả năng chính trị vừa ít vừa phân
tán. Cố gắng chính như vậy phải là một mặt bằng
mọi cách qui tụ những phần tử quí hiếm đó
và mặt khác cố gắng đào tạo ra những cán bộ
nòng cốt mới. Công việc này tuy rất khó
nhưng không thể né tránh bởi vì cuộc đấu
tranh chính trị nào xét cho cùng cũng vẫn
là cuộc đọ sức giữa những đội ngũ cán bộ. Một tổ chức
chính trị luôn luôn phải tôn trọng một tỷ lệ
nào đó giữa đội ngũ cán bộ nòng cốt
và tổng số thành viên. Sức khỏe cần hơn sức
vóc. Phẩm chất cần hơn số lượng. Trong thời đại hiện nay, khi
mà các phương tiện truyền thông hiện đại cho
phép một nhóm nhỏ quan hệ trực tiếp và thường
xuyên với quần chúng, vai trò của đội ngũ
cán bộ nòng cốt lại càng quan trọng.
2.3. Xây dựng và kiểm điểm phương tiện
Cuộc đấu tranh nào muốn thành công cũng cần những
phương tiện. Phương tiện không phải chỉ là phương tiện vật
chất. Phương tiện có thể là của tổ chức, do các
thành viên và cảm tình viên
đóng góp, cũng có thể là của các tổ
chức đồng minh, và cũng có thể là khả năng vận
động những sự yểm trợ của các tổ chức quốc tế, các cơ
quan truyền thông, các tổ chức bảo vệ nhân quyền
và tự do báo chí, các nhân vật
có uy tín trong một bối cảnh nào đó.
Các phương tiện có thể xuất hiện dưới nhiều hình
thức và đến từ nhiều nguồn khác nhau. Điều quan trọng
là phải tiên liệu được và hoạch định được sự sẵn
sàng của chúng. Xây dựng và kiểm điểm phương
tiện là điều tối quan trọng bởi vì trong đấu tranh
chính trị hoặc phải có các phương tiện cần thiết
cho đường lối của mình, hoặc sẽ phải không nhiều
thì ít thực hiện đường lối của kẻ cung cấp phương tiện.
2.4. Xây dựng cơ sở quần chúng
Cơ sở quần chúng cần được hiểu trước hết là tập thể
thành viên ngoài đội ngũ cán bộ nòng
cốt. Sự kiện một thành viên thuộc vào đội ngũ
nòng cốt hay cơ sở có thể là do trình độ
chính trị nhưng cũng có thể vì những lý do
khác : sức khỏe, thời giờ có thể dành cho cuộc
tranh đấu, hoàn cảnh gia đình và cá
nhân ở một thời điểm. Cơ sở quần chúng cũng là
những tập thể các thân hữu, đặc biệt là các
thân hữu có uy tín. Sau cùng, cơ sở quần
chúng cũng là vốn cảm tình mà tổ chức
đã tranh thủ được. Cố gắng xây dựng cơ sở quần
chúng chủ yếu là một cố gắng tuyên truyền nhằm hai
mục tiêu : một là thuyết phục quần chúng về sự cần
thiết phải đóng góp vào một giải pháp chung
cho đất nước chứ mỗi người không thể tự giải quyết các vấn
đề cá nhân bằng những giải pháp cá
nhân ; hai là tranh thủ sự đồng tình của quần
chúng đối với tổ chức.
2.5. Tiến công giành chính quyền
Chỉ sau khi bốn giai đoạn trên đã được thực hiện mới
có thể nghĩ đến việc tiến công giành chính
quyền và phương pháp để nắm chính quyền mới
có thể được quyết định. Trong thực tế những người dân chủ
Việt Nam phải dứt khoát loại bỏ giải pháp vũ trang ngay
từ đầu vì giành chính quyền bằng bạo lực
đòi hỏi phát động nội chiến rất sớm và giữ chiến
tranh ở một mức độ giới hạn rất lâu trước khi tổng tấn
công. Tình trạng nội chiến này gây tang
tóc và đổ vỡ kéo dài cho đất nước và
có thể không có lối thoát. Thế giới văn minh
đã từ bỏ bạo lực như một phương tiện đấu tranh chính trị,
dân tộc Việt Nam sau những kinh nghiệm đau đớn của giai đoạn nội
chiến vừa qua lại càng phải từ khước bạo lực một cách dứt
khoát hơn. Chiến lược của những người dân chủ Việt Nam
là diễn tiến hòa bình.
Năm giai đoạn phải đi theo thứ tự nhưng không nhất thiết
là giai đoạn trước phải hoàn tất giai đoạn kế tiếp mới
bắt đầu. Các giai đoạn gối đầu lên nhau. Tiến trình
năm giai đoạn là một công thức hướng dẫn hành động,
nó là một điều kiện cần nhưng không phải là
điều kiện đủ. Đi sai tiến trình này thì chắc chắn
thất bại nhưng theo đúng tiến trình chưa chắc đã
thành công. Sự thành công còn
tùy thuộc nhiều yếu tố định lượng : cơ sở tư tưởng được hưởng
ứng đến mức độ nào, cán bộ nhiều hay ít và
khả năng thế nào, phương tiện dồi dào tới mức nào.
Một nhận xét rất quan trọng là hai giai đoạn đầu,
xây dựng một cơ sở tư tưởng và hình thành
đội ngũ cán bộ nòng cốt, chiếm gần hết thời giờ và
công lao của một cuộc cách mạng. Phải vài thập
niên mới có nổi một cơ sử tư tưởng đúng đắn,
lành mạnh, được quần chúng chia sẻ và một đội ngũ
cán bộ chừng vài trăm người với vài chục người
là những cán bộ thực sự nòng cốt, nắm vững cơ sở
tư tưởng, có bản lãnh, có quyết tâm,
có kỹ thuật và kỷ luật đấu tranh. Nhưng một khi hai yếu
tố này đã có, tổ chức có thể dựa vào
một vận hội lịch sử mà phát triển rất nhanh chóng
và giành được thế chủ động trong vòng vài
năm, thậm chí vài tháng.
Nhận định của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên là cuộc vận
động dân chủ hiện nay mới chỉ ở giữa giai đoạn thứ nhất và
bước đầu của giai đoạn thứ hai. Nhưng không phải vì thế
mà có thể kết luận bi quan rằng thắng lợi của dân
chủ còn xa.
3. Nội dung của cuộc vận động dân chủ
Từ những phân tích trên, cố gắng đấu tranh để chấm
dứt chế độ độc tài và xây dựng dân chủ của
Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên sẽ tập trung vào những
công tác trọng điểm sau đây.
3.1. Thức tỉnh quần chúng về sự cần thiết của
một giải pháp chung cho cả dân tộc
Sự mâu thuẫn đáng phẫn nộ giữa tiềm năng to lớn và
hiện trạng bi đát của dân tộc, giữa ước vọng dân chủ
rộng khắp và sự kéo dài thách đố của chế độ
độc tài toàn trị có một nguyên nhân
chính : đó là tâm lý luồn lách
để tìm những giải pháp cá nhân cho những vấn
đề cá nhân. Tâm lý đó là di sản
lịch sử và văn hóa của hàng ngàn năm trong
đó con người hoàn toàn không có tiếng
nói, phải chịu đựng chính quyền như một định mệnh
và tìm cách thích ứng để tự tồn. Luồn
lách để tồn tại đã, một mặt, buộc người dân phải
chấp nhận làm những điều không lương thiện và
góp phần làm ung thối thêm xã hội, mặt
khác, khiến người dân phải thỏa hiệp với chế độ độc
tài tồi dở, đóng góp cho nó và do
đó giúp nó tồn tại, một điều không ai muốn.
Cố gắng đầu tiên, trọng đại và cam go của những người
dân chủ là thức tỉnh dân chúng rằng bắt buộc
phải có một giải pháp chung, nghĩa là một thay đổi
chế độ chính trị, chứ mỗi người không thể xé lẻ
và luồn lách để tự giải quyết những vấn đề cá
nhân bằng những giải pháp cá nhân. Sẽ chỉ
có một thiểu số không đáng kể thành
công như vậy và sự thành công nếu có
cũng chỉ là tạm bợ và đầy bất trắc.
Phải đánh đổ trước hết chủ nghĩa luồn lách và
phát huy ý chí sống lương thiện, xứng đáng
và trách nhiệm. Chừng nào quần chúng
còn chưa tin là mọi người Việt Nam đều gắn bó với
nhau trong một số phận chung, và do đó cần một giải
pháp chung, cuộc vận động dân chủ vẫn chưa thể
thành công và chế độ độc tài vẫn tồn tại,
hay nếu có sụp đổ do sự ruỗng nát của chính
nó thì cũng chỉ nhường chỗ cho một tình trạng hỗn
loạn vô chính phủ còn tồi tệ hơn cả một chế độ độc
tài.
Khó khăn chính của cuộc cách mạng tâm
lý này là nó đòi hỏi cả lý
luận lẫn sự kích thích và do đó chỉ
có những kết hợp chính trị mới có thể vận động
được một cách hữu hiệu. Các nhà nghiên cứu,
các nhà tư tưởng, ngay cả các nhân sĩ uy
tín, nếu có, cũng bất lực vì chính sự kiện
họ đứng một mình cũng đã không nhiều thì
ít chứng tỏ họ chọn lựa giải pháp cá nhân
và khiến cho những hô hào của họ về một ý
thức chung mất rất nhiều tác dụng. Tập Hợp Dân Chủ Đa
Nguyên hiểu trách nhiệm và vai trò của
mình trong cuộc đột phá tâm lý này.
3.2 Giành thắng lợi dứt khoát về mặt tư
tưởng và lý luận
Dự Án Chính Trị Dân Chủ Đa Nguyên này,
cùng với những đóng góp của các tổ chức
dân chủ khác, sẽ là vũ khí đấu tranh tư
tưởng để bẻ gãy những lý luận ngụy biện của đảng cộng sản
và giải tỏa những lấn cấn còn tồn tại trong nhân
dân.
Chúng ta phải bẻ gãy lập luận cho rằng dân chủ sẽ
đưa tới hỗn loạn. Chúng ta sẽ chứng minh rằng dân chủ
là điều kiện căn bản để bảo đảm không có hỗn loạn,
là phương thức sinh hoạt cho phép xã hội tiến
hóa và đổi mới không ngừng trong trật tự.
Chúng ta phải bẻ gãy lập luận cho rằng muốn phát
triển cần có kỷ luật và muốn có kỷ luật cần hy
sinh dân chủ, giới hạn tự do và nhân quyền.
Nhân dân Việt Nam cần được giải thích rõ
ràng rằng không thể có kỷ luật quốc gia nào
khác hơn là hiến pháp và luật pháp.
Nhân dân Việt Nam cũng cần được thuyết phục rằng dân
chủ, tự do và nhân quyền không những không
là những trở ngại mà còn là những điều kiện
không có không được cho một phát triển
lành mạnh, liên tục và kéo dài ;
những tiến bộ ban đầu tại một số nước độc tài như Trung Quốc
và Việt Nam chỉ là hậu quả của việc nới lỏng một số tự do
và tháo gỡ một phần chính sách quản
lý độc đoán và sẽ mau chóng đạt tới giới
hạn nếu không có chuyển biến thực sự về dân chủ.
Trên thực tế đà phát triển tại hai nước này
đã khựng lại vì hai chính quyền Trung Quốc
và Việt Nam không chịu đẩy mạnh thêm cải tổ theo
chiều hướng dân chủ hóa.
Chúng ta phải bẻ gãy lập luận cho rằng xã hội
phương Đông khác với xã hội phương Tây,
và do đó không thể chấp nhận những giá trị
của phương Tây như tự do cá nhân, dân chủ
và nhân quyền. Tự do, dân chủ và nhân
quyền là những giá trị phổ cập của cả loài người,
không riêng gì của phương Tây. Các
giá trị đó có mặt trong mọi nền văn minh, kể cả
tại Việt Nam. Ưu điểm của các nước phương Tây là
đã biết phát huy mạnh mẽ những giá trị đó,
nhờ thế họ đã phồn vinh và vượt xa phần còn lại
của thế giới. Chúng ta cần phát huy những giá trị
đó để tiến lên. Và vì chúng ta
đã chậm trễ nên cần phát huy một cách mạnh
mẽ và quả quyết.
Chúng ta cần phơi bày sự sai trái của lập luận cho
rằng các giá trị văn hóa châu Á
có lợi cho phát triển hơn các giá trị văn
hóa phương Tây. Đằng sau lập luận mị dân đó
là ý đồ biện hộ cho những chế độ độc tài
chuyên chính. Dĩ nhiên các nền văn hóa
châu Á có nhiều điểm tích cực nhưng những
điểm tiêu cực còn nhiều hơn và trầm trọng hơn.
Các nước châu Á đã phát triển nhờ
chấp nhận cách suy nghĩ, tổ chức và làm việc
dân chủ của người phương Tây chứ không vì phủ
nhận phương Tây và đề cao những nét đặc thù
của mình. Vả lại, các nước châu Á có
những nền văn hóa và phong tục rất khác nhau,
nên không thể nói một cách chung chung tới
những giá trị phương Đông hay châu Á được.
Chúng ta cần ý thức rằng đây không phải chỉ
là những cuộc tranh luận lý thuyết. Đằng sau những lập
luận ngụy biện bênh vực cho các chế độ độc tài
là những nhà tù khắc nghiệt, những đày đọa
thô bạo mà những con người đáng quí nhất của
đất nước là nạn nhân, trong khi một thiểu số cường
hào tha hồ vơ vét tài nguyên quốc gia.
Chúng ta cũng cần phải cực lực bác bỏ một thứ "chủ nghĩa
kinh tế" mà một số chính quyền, trong đó có
Việt Nam, đang lấy làm lý cớ để phủ nhận hoặc giới hạn tự
do, dân chủ và nhân quyền. Kinh tế không phải
là tất cả, và ngay cả trên địa hạt thuần túy
kinh tế tỷ lệ tăng trưởng cũng không phải là tất cả. Một
thành tích tăng trưởng kinh tế 10% không cho
phép chính quyền tự mãn là có
công rồi áp đặt một chế độ độc tài lên
dân chúng, nhất là khi sự tăng trưởng đó chỉ
là sự phục hồi một phần sau nhiều năm đổ vỡ do chính
quyền gây ra và phải trả bằng một giá rất đắt về
văn hóa, đạo đức, môi trường. Mục tiêu quốc gia
là một xã hội phồn vinh, có văn hóa cao,
có sự phân phối hợp tình hợp lý lợi tức quốc
gia, có cơ hội thăng tiến công bằng cho mọi người,
có liên đới giữa người và người và giữa mọi
người với đất nước, có bảo đảm tự do và phẩm giá
cho mọi người, có khả năng không ngừng vươn lên,
có môi trường thiên nhiên được bảo vệ
và liên tục cải thiện.
Một cố gắng khác, rất quan trọng, là chứng minh cho những
đảng viên cộng sản và cán bộ của nhà nước
còn đang phân vân và ngờ vực rằng họ
hoàn toàn không có lý do chính
đáng nào để lo ngại sự cáo chung của chế độ độc
tài đảng trị cả, trái lại họ còn có mọi
lý do để vui mừng trước những thắng lợi của dân chủ. Danh
dự, nhân phẩm và những quyền lợi hợp pháp của họ sẽ
được tôn trọng. Hơn thế nữa, họ còn trút bỏ được
mặc cảm tội lỗi tiếp tay cho một chế độ tồi dở. Họ sẽ có niềm tự
hào đóng góp đưa đất nước tiến lên với
phúc lợi càng ngày càng lớn cho mọi người,
kể cả chính họ.
Cố gắng tranh thủ sự hưởng ứng của những cán bộ đảng viên
cộng sản không khó về mặt lý luận vì trong
đại bộ phận họ cũng đều là nạn nhân của chế độ và
cũng rất bất mãn. Khó khăn là ở di sản tâm
lý do cuộc chiến và cách cai trị thô bạo của
đảng cộng sản để lại. Nhiều người không tin rằng hận thù
có thể xóa bỏ dễ dàng trong khi đó
thì vẫn còn những luận điệu cực đoan của một thiểu số
vô ý thức và vô trách nhiệm gây
thêm sự lo ngại. Bởi vậy cuộc vận động dân chủ, một mặt,
phải khẳng định một cách thật quả quyết tinh thần hòa
giải và hòa hợp dân tộc và, mặt khác,
phải chứng minh một cách hùng hồn rằng sẽ không
có bất cứ một biện pháp phân biệt đối xử
nào. Muốn như thế hàng ngũ dân chủ phải qui tụ mọi
thành phần thuộc mọi quá khứ chính trị. Một tập
hợp chính trị dù có thiện chí và
đường lối đứng đắn đến đâu mà chỉ gồm những người quốc gia
cũ hay cộng sản cũ cũng vô vọng.
3.3. Phát động mạnh mẽ cuộc tranh đấu
đòi dân chủ trong nước
Chúng ta may mắn có được một số người quả cảm dám
nói lên tiếng nói dân chủ - tiếng nói
của trí tuệ và lương tâm - bất chấp an ninh
nhân thân. Họ đã bị đàn áp thô
bạo. Hàng ngàn người đang mòn mỏi trong các
nhà tù, hàng ngàn cuộc đời bị gãy
đổ, hàng ngàn gia đình bi đát. Nhiều người
bị trù dập và bị cô lập về mọi mặt văn hóa,
xã hội và kinh tế. Họ sống trong căng thẳng và hồi
hộp, gia đình họ sống trong thiếu thốn và lo âu.
Những người dân chủ tại Việt Nam đang hy sinh cho cả dân
tộc để dựng cao ngọn cờ dân chủ. Họ xứng đáng được mọi
người Việt Nam tôn vinh, biết ơn và yểm trợ.
Yểm trợ những người dân chủ trong nước là một nghĩa vụ đạo
đức và tình cảm, nhưng cũng là một bắt buộc chiến
lược. Có được yểm trợ thì những người dân chủ trong
nước mới cảm thấy phấn khởi và mới có khả năng tiếp tục
và tăng cường cuộc chiến đấu gian lao và hoàn
toàn không cân xứng này, phong trào
dân chủ trong nước nhờ đó mới bành trướng được,
thông điệp dân chủ nhờ đó mới tới được với mọi
người, cuộc vận động dân chủ mới có thể thành
công.
Cho đến nay, cộng đồng người Việt hải ngoại đã đạt được nhiều
thành quả đáng kể trong việc vận động dư luận quốc tế,
các tổ chức nhân quyền, các chính phủ
dân chủ để bênh vực họ. Chúng ta cũng đã
có kinh nghiệm về cách vận động hậu thuẫn quốc tế.
Chúng ta sẽ tiếp tục và gia tăng sự yểm trợ về vật chất,
tinh thần và thông tin đối với anh em trong nước. Những cố
gắng yểm trợ những người dân chủ trong nước tự chúng cũng
có tác dụng thúc đẩy dân chủ và cũng
là thành phần khắng khít của cuộc vận động
dân chủ.
Hiện nay những thắng lợi đã đạt được đặt ra cho chúng ta
một yêu cầu mới, đó là đưa cuộc vận động dân
chủ trong nước từ giai đoạn của những phản kháng cá
nhân sang giai đoạn của những đấu tranh có phối hợp,
có tổ chức và có tiếng nói chung. Để đạt
mục tiêu này không những phải tăng cường cố gắng yểm
trợ mà còn phải đem lại cho anh em dân chủ trong
nước niềm tin, một trong những yếu tố quyết định của niềm tin đó
là sự hình thành của một kết hợp dân chủ lớn
và đứng đắn tại hải ngoại.
3.4. Nâng cao tinh thần và hiệu năng của
những cố gắng
vận động sự yểm trợ của thế giới
Bối cảnh thế giới hiện nay đang rất thuận lợi cho cuộc đấu tranh
dân chủ hóa Việt Nam. Các nước phát triển
ngay cả khi theo đuổi một chính sách hợp tác thực
tiễn đối với chính quyền cộng sản cũng không có cảm
tình và sự trọng nể. Họ đều nhận định rằng một nước Việt
Nam dân chủ sẽ có lợi hơn cho họ và trên thực
tế không ngừng gây áp lực buộc nhà cầm quyền
Việt Nam đẩy mạnh những cải tổ có lợi cho tiến trình
dân chủ hóa. Ở những mức độ nhiệt tình khác
nhau, họ đều là đồng minh của những người dân chủ Việt
Nam. Còn dư luận thế giới thì hoàn toàn ủng
hộ chúng ta. Bối cảnh thuận lợi này cho tới nay vẫn chưa
được khai thác đúng mức. Chúng ta cần cải tiến về
cả nội dung, tinh thần và phương pháp vận động sự yểm trợ
của thế giới.
Về nội dung, dĩ nhiên chúng ta vẫn tiếp tục những cố gắng
từ trước tới nay là tố giác những vi phạm nhân
quyền và đường lối phản dân chủ của chính quyền
cộng sản. Tuy nhiên, để tranh thủ sự ủng hộ nồng nhiệt hơn nữa
của dư luận thế giới chúng ta còn phải thêm một nỗ
lực khác mà tới nay chưa được ý thức và
quan tâm đúng mức là trình bày đường
lối của đối lập dân chủ Việt Nam, để đối lập dân chủ Việt
Nam xuất hiện dưới mắt thế giới như một giải pháp thay thế
đáng tin cậy. Cũng trong mục tiêu đó, chúng
ta sẽ phải giới thiệu những gương mặt tiêu biểu của cuộc vận động
dân chủ không phải chỉ như những nạn nhân cần được
bảo vệ mà còn là những hy vọng của đất nước
ngày mai.
Những cố gắng vận động sự yểm trợ của thế giới cho đến nay đã
đạt nhiều kết quả, nhưng vẫn còn bị giới hạn do tình
trạng thiếu kết hợp và phối hợp. Do tình thế phân
tán lực lượng, các cố gắng không chỉ thuần
túy vì mục đích tăng cường cuộc vận động dân
chủ mà đôi khi còn nhắm tranh thủ trước hết hậu
thuẫn cho đoàn thể mình. Tình trạng này
không những làm giảm rất nhiều hiệu năng mà
còn gây ấn tượng không tốt đối với đối lập dân
chủ. Tinh thần mới mà Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên đề
nghị cho cố gắng vận động là chỉ nhắm đem lại thắng lợi cho cuộc
vận động dân chủ trong các cố gắng tranh thủ sự hưởng ứng
của thế giới. Điều này khó, nhưng phải thực hiện được nếu
tổ chức dân chủ muốn thế giới nhìn đối lập dân chủ
Việt Nam như một thực thể vừa có thực lực vừa biết tự trọng.
Phương pháp vận động cũng cần được xét lại, trước hết
là để tập trung cố gắng vào những hoạt động thực sự
có lợi cho tiến trình dân chủ hóa thay
vì phí phạm sinh lực cho những hoạt động ồn ào
không gây được sự kính trọng của dư luận thế giới.
Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên, bằng quan hệ khiêm tốn
và thành tín với mọi lực lượng và mọi
thành phần dân chủ trong cũng như ngoài nước, sẽ cổ
võ cho một sự xét lại và cải tiến mặt trận quốc tế
vận. Quyết tâm tìm hiệu năng tối đa trên mặt trận
này sẽ đem lại nhiều hệ quả tốt đẹp cho đối lập dân chủ
Việt Nam. Nó sẽ khiến đối lập dân chủ Việt Nam ý
thức rằng cần xuất hiện trước thế giới như hy vọng cho tương lai chứ
không phải như những tàn dư của một quá khứ, như
một lực lượng bao dung chứ không phải như một lực lượng phục
thù. Nó sẽ khiến những người dân chủ nhận thức sự
cần thiết của một dự án chính trị đứng đắn và
có sức thuyết phục.
Quan trọng hơn, nó sẽ khiến chúng ta nhìn
rõ yêu cầu kết hợp chặt chẽ giữa các thành
phần dân chủ trong và ngoài nước. Ý thức tầm
quan trọng của mặt trận quốc tế vận cũng là ý thức tiềm
năng to lớn và vai trò chiến lược của cộng đồng người
Việt hải ngoại, đánh tan mặc cảm tội lỗi vì không
có mặt trên đất nước và hiểu rằng trong và
ngoài nước đều quan trọng như nhau, đều cần nhau và đều
phải quí trọng nhau.
Và quan trọng hơn hết, nó sẽ khiến chúng ta nhận
thức rằng phải phối hợp và kết hợp nếu muốn được thế giới tận
tình hỗ trợ. Chúng ta sẽ hiểu rằng cần vượt lên
trên những khác biệt chi tiết để đoàn kết trong một
mặt trận dân chủ.
3.5. Xúc tiến sự hình thành một
mặt trận dân chủ
Không một người dân chủ nào không nhận thức
được sự cần thiết của một mặt trận dân chủ có tầm
vóc. Đây là một việc phải thực hiện bởi vì
ngay cả trong trường hợp đảng cộng sản chấp nhận bầu cử tự do phe
dân chủ cũng sẽ thất bại nếu phân tán lực lượng.
Đây cũng là một công việc có thể thực hiện
được vì thời gian đã gạn lọc những ý kiến
và ngày nay chỉ còn rất ít những
khác biệt về quan điểm.
Bước đầu của cố gắng hình thành mặt trận dân chủ
này là đẩy mạnh hơn nữa những tiếp xúc, thảo luận
và trao đổi bộc trực trong tinh thần tương kính đã
tiến hành từ nhiều năm nay về bối cảnh quốc tế và về hiện
tình đất nước, về những chọn lựa cơ bản cho tương lai, về những
vấn đề cấp bách phải giải quyết và về hướng giải quyết
cho những vấn đề đó. Chính qua những cuộc trao đổi
này mà một đồng thuận có thể đạt tới và
những con người cần có để giành thắng lợi cho nó
có thể tìm ra.
Giai đoạn vận động này cần được xúc tiến ở cả trong lẫn
ngoài nước song song với cố gắng phổ biến rộng rãi
lý tưởng dân chủ đa nguyên tới quần chúng.
Nó có mục đích tìm ra những người
cùng chí hướng để kết hợp hành động. Nó
cũng có mục đích tìm hiểu và đối chiếu mọi
lập trường chính trị để nhận diện ra những tổ chức chính
trị dù không hoàn toàn chia sẻ quan điểm của
nhau nhưng vẫn có thể phối hợp hành động.
Sự kết hợp trong một mặt trận dân chủ này phải vượt
lên trên mọi ngăn cách do quá khứ để lại,
trong tinh thần hòa giải dân tộc thành thực
và trọn vẹn, hoàn toàn hướng về tương lai. Sức
mạnh của kết hợp này không dựa trên cơ chế tổ chức
mà dựa trên đồng thuận về mục đích và phương
pháp đấu tranh, cùng với sự tin tưởng lẫn nhau. Kết hợp
này phải mở cửa cho mọi cá nhân và
đoàn thể thuộc mọi xuất xứ miễn là thành thực chia
sẻ lý tưởng dân chủ đa nguyên, thành thực
tán thành tinh thần hòa giải và hòa
hợp dân tộc và quả quyết từ khước bạo lực. Mọi bất đồng
quan điểm khác đều có thể thỏa hiệp.
Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên đặc biệt đánh giá
cao vai trò của những người dân chủ hiện có mặt
trong guồng máy nhà nước cộng sản trong việc khai
thông tiến trình dân chủ hóa.
Chúng ta khẳng định mặt trận dân chủ này là
một mặt trận chống tất cả mọi hình thức độc tài trong
đó độc tài cộng sản chỉ là một, chống sự áp
bức, chống sự tồi dở và gian trá. Mặt trận dân chủ
này hoàn toàn không phải là sự
kéo dài của cuộc xung đột trong quá khứ, mà
là một kết hợp hướng về tương lai. Nó mở cửa cho mọi
người dân chủ thuộc mọi quá khứ chính trị và
mọi cương vị. Nhưng ngược lại, nó cũng chỉ mở cửa cho những
người thật sự dân chủ.
Để có hiệu năng, như mọi liên minh chính trị, mặt
trận dân chủ sẽ cần một tổ chức thành viên có
sức mạnh vượt trội vừa làm đầu tàu vừa để bảo đảm sự ổn
vững. Với nhận định đó Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên,
một mặt, sẽ nỗ lực phát triển chính mình và
thống nhất với các tổ chức bạn để tạo ra đầu tàu
đó, mặt khác sẽ luôn luôn có đủ
khiêm tốn để nhìn nhận vai trò lãnh đạo của
một tổ chức dân chủ khác có ưu thế hơn.
Tuy nhiên, nhận thức về sự cần thiết của một đầu tàu
không thể làm chúng ta quên rằng trong
hoàn cảnh phân hóa mà lịch sử để lại
không một cá nhân nào, không một tổ
chức nào có đủ uy tín để có thể được chấp
nhận là trung tâm của một tập hợp dân tộc mới. Những
xảo thuật để giành thế thượng phong chỉ làm xấu
thêm một hoàn cảnh tự nó đã khó khăn.
Mọi tổ chức đều phải coi những cố gắng của mình như những
đóng góp cho thắng lợi của dân chủ. Mọi tổ chức, kể
cả những tổ chức lớn do sự kết hợp của nhiều tổ chức, đều phải tự coi
mình là những thành tố, những chặng đường của một
kết hợp càng ngày càng lớn hơn.
Hình thức, chiến thuật và lãnh đạo sẽ uyển chuyển
theo tình huống. Khi chính quyền cộng sản đã
nhượng bộ và chấp nhận luật chơi dân chủ, cuộc vận động sẽ
công khai và cơ quan lãnh đạo sẽ đặt ở trong nước.
Chừng nào chính quyền cộng sản vẫn còn ngoan cố
tiếp tục chính sách đàn áp, hoạt động trong
nước sẽ kín đáo và cơ quan lãnh đạo sẽ đặt
tại hải ngoại.
Trong cả hai trường hợp chúng ta cần một sự hiện diện
tích cực trên cả nước và trong mọi địa hạt.
Chúng ta sẽ tận dụng mọi kẽ hở, nắm lấy mọi cơ hội, kết
thân với mọi người muốn đổi mới đất nước để tạo ra và
nhân lên những cơ sở đối lập càng ngày
càng tích cực, càng ngày càng
công khai. Một mặt chúng ta nỗ lực để mở rộng thêm
cánh cửa bưng bít của chính quyền cộng sản
và tận dụng luồng giao lưu giữa trong và ngoài
nước, mặt khác chúng ta vận dụng mọi sáng kiến để
tạo áp lực càng ngày càng mạnh và
nhiều mặt lên chế độ. Chế độ cộng sản Việt Nam đang chao đảo trầm
trọng trước khát vọng dân chủ của toàn dân
và của ngay cả đại bộ phận đảng viên cộng sản. Đa số
các cơ quan của chính guồng máy đảng và
nhà nước cũng đã chống lại đường lối của ban lãnh
đạo và tiếp tay một cách kín đáo nhưng hữu
hiệu cho trào lưu đổi mới về dân chủ. Chúng ta đang
có một khí thế rất mạnh mà chúng ta phải
tận dụng để tiến công tập đoàn cộng sản thủ cựu trên
mọi mặt trận, chặn đánh mọi lối thoát của nó, trừ
lối thoát về dân chủ đa nguyên.
3.6. Mục tiêu chính : bầu cử tự do
Bằng mọi phương tiện hòa bình và bằng mọi
sáng kiến, mặt trận dân chủ sẽ phát động cuộc tranh
đấu đòi bầu cử tự do. Sau đó sẽ tranh thủ để đạt thắng
lợi trong những cuộc bầu cử đó.
Bầu cử tự do là một đòi hỏi vừa chính đáng
vừa ở trong tầm tay. Dù ngoan cố đến đâu ban lãnh
đạo đảng cộng sản cũng chắc chắn sẽ phải nhượng bộ. Họ không
có chọn lựa nào khác bởi vì xã hội
Việt Nam đã gần chín muồi cho một thay đổi lớn, câu
hỏi duy nhất có thể đặt ra chỉ là thay đổi có xảy
ra trong hòa bình và trật tự hay không.
Hơn hai triệu thanh niên, trong đó gần nửa triệu thanh
niên có trình độ đại học hoặc tương đương, đi
vào thị trường lao động mỗi năm với tất cả sinh lực và
ước vọng. Đại đa số không tìm được công ăn việc
làm hay không tìm được việc làm phù
hợp với khả năng. Đạo quân bất mãn này đã
rất lớn và ngày càng lớn thêm. Họ cũng
đã dần dần ý thức rằng chế độ này làm hỏng
đời họ và làm hỏng đất nước. Khi ý thức này
đã rõ rệt, nó sẽ nổ bùng mạnh hơn nhiều
trái bom nguyên tử, không một sức mạnh nào
có thể chống cự được.
Hơn năm mươi triệu nông dân Việt Nam trong suốt một phần tư
thế kỷ qua vừa là thành phần đóng góp nhiều
nhất vừa là thành phần bị hà hiếp nhất đã
đạt tới giới hạn của sự chịu đựng, sự phản kháng đã bắt
đầu trên một qui mô lớn dù chưa có phối hợp.
Các tôn giáo bị đàn áp một
cách thô bạo quá lâu không còn
chấp nhận tiếp tục chịu đựng nữa. Áp lực từ trong và
ngoài nước đã buộc đảng cộng sản phải nới lỏng các
biện pháp chèn ép. Sự nới lỏng này chỉ
có tác dụng kích thích thêm những
đòi hỏi tự do tôn giáo bởi vì mâu
thuẫn giữa chính quyền cộng sản và các tôn
giáo đã tích lũy quá lâu và
quá nhiều.
Giới doanh nhân và tiểu thương, tuy số lượng không
cao nhưng có trọng lượng lớn nhờ tính năng động,
đã nhận ra rằng họ là nạn nhân chính của
chính sách co cụm và xiết lại từ sau đại hội 8 của
đảng cộng sản và họ chỉ có lối thoát với một sự
thay đổi chế độ.
Thành phần ưu tú trong các xí nghiệp tư
cũng như công, ngay cả trong các cơ quan nhà nước
và guồng máy đảng, đang tích lũy bực bội vì
không thi thố được khả năng và cũng chỉ được đãi
ngộ một cách rất không xứng đáng. Họ cũng là
thành phần hiểu rõ hơn ai hết sự tồi dở của chế độ
và sự cần thiết của một chuyển đổi nhanh chóng về
dân chủ.
Toàn dân bất mãn vì tệ tham nhũng, quan
liêu bàn giấy, vì môi trường bị ô
nhiễm, vì trật tự an ninh không được bảo đảm, trộm cướp
và các băng đảng xã hội đen hoành
hành, vì nạn ma túy lan tràn đang hoặc
đã phá hủy cuộc đời của con em họ. Trong khi đó
thì đảng và nhà nước chỉ dồn mọi cố gắng để
đàn áp những tiếng nói đứng đắn đòi tự do
và dân chủ.
Tất cả những bất mãn đó đã tích lũy từ
lâu, nhưng điều mới là mọi người đều đã hiểu rằng
chỉ có một giải pháp cho họ và cho đất nước
là dân chủ hóa.
Sự bất mãn cam chịu và thụ động đang chuyển mình
thành nguyện ước thay đổi chế độ. Nó cũng dần dần dẫn tới
hành động. Những tiếng nói phản kháng đã
bắt đầu cất lên từ hàng ngũ thanh niên và
sinh viên. Những cuộc tiếp xúc giữa các cấp
lãnh đạo đảng và nhà nước với doanh nhân,
văn nghệ sĩ, chuyên viên và thanh niên trong
những năm gần đây hầu hết đã biến thành những buổi
chất vấn và tố giác công khai đối với chế độ.
Nông dân cũng không còn thụ động nữa,
hàng trăm vụ phản kháng về ruộng đất, thuế khóa
và giá cả xảy ra mỗi tháng. Vụ nổi dậy tại
Thái Bình, qui tụ hàng trăm ngàn nông
dân trong nhiều tháng, đã là một báo
động lớn đối với chế độ, nhưng nó chỉ là điềm báo
trước của một đợt nổi dậy toàn bộ của nông thôn nếu
chế độ không thay đổi. Một số cơ sở của chính đảng cộng
sản cũng đã công khai biểu lộ thái độ bất phục
tương đối với đảng.
Xã hội Việt Nam ngày nay đang như một nồi hơi đang tức
khí có thể bùng nổ bất cứ lúc nào.
Một thực tại hiển nhiên là đảng và nhà nước
cộng sản dù ngoan cố và thủ đoạn đến đâu cũng
không kháng cự được trào lưu tiến hóa chung
của thế giới và nhất là những tiến bộ về truyền
thông. Chế độ ngày càng phải miễn cưỡng mở cửa ra
thế giới, bình thường hóa quan hệ ngoại giao và
thương mại với mọi quốc gia, hội nhập dần dần vào sinh hoạt quốc
tế. Lượng thông tin giữa Việt Nam và thế giới sẽ tiếp tục
gia tăng nhanh chóng, mọi bức tường ngăn chặn, kể cả những bức
tường lửa trên hệ Internet, sẽ đều trở thành ngớ ngẩn
và vô vọng.
Chế độ cộng sản, trong chiều sâu, cũng đã hiểu rằng
nó sẽ cáo chung. Hiện tượng đại bộ phận cán bộ
các cấp ngả theo mê tín dị đoan, tin bói
toán là dấu hiệu của một tập thể chao đảo và mất
lòng tin. Sau một nửa thế kỷ cầm quyền độc đoán và
bóp nghẹt cá nhân, chế độ cộng sản đã
là nạn nhân của chính nó. Nó
đã không đào tạo ra được những con người có
đủ gan dạ và quyết tâm, chưa nói tới tài
năng và bản lãnh, để làm những nhà độc
tài. Chế độ độc tài bạo ngược phải chấm dứt vì
nó không còn nhân sự cần có.
Nét đậm nhất hiện nay của đảng cộng sản là đại đa số
cán bộ, ngay cả các cán bộ ở những cấp khá
cao, không còn cảm thấy gắn bó với sự tồn vong của
chế độ nữa. Họ không cảm thấy bị đe dọa nếu chế độ thay đổi, đại
đa số còn tin rằng họ sẽ có một vai trò hữu
ích hơn và một cuộc sống vinh quang hơn. Đội ngũ thủ cựu
ngoan cố một mặt đang già đi và teo lại, mặt khác
ngày càng bị cô lập và lố bịch hóa.
Trong vòng không đầy một thập niên nữa sẽ
không còn thành phần bảo thủ ngoan cố. Nhưng thay
đổi sẽ không chờ đến khi đội ngũ thủ cựu biến mất, nó sẽ
xảy ra ngay khi mà thành phần này không
còn đủ mạnh để khống chế bộ máy đảng và nhà
nước nữa. Điểm đột phá này đã gần kề.
Cho tới nay, đảng cộng sản đã trụ được trong chính
sách chống dân chủ nhờ hai yếu tố. Một là, đội ngũ
lãnh đạo của nó gồm chủ yếu những thành phần được
đào tạo và bị đầu độc bằng chủ nghĩa Stalin-Mao với đầu
óc thiển cận hẹp hòi và cá tính hung
bạo. Hai là, dân chúng Việt Nam đã
quá kiệt quệ và chán chường sau nhiều năm chiến
tranh và đổ vỡ. Nhưng ngày nay chính nhân sự
của đảng cũng đã thay đổi, văn minh hơn và cũng ít
quyết tâm hơn ; trong khi đó thì nhân
dân Việt Nam cũng đã dần dần hồi phục được sinh lực
và ngày càng tin tưởng vào dân chủ.
Như vậy diễn tiến về dân chủ là điều chắc chắn phải tới
và phải tới trong tương lai gần bởi vì tương quan lực
lượng ngày càng biến đổi nhanh chóng hơn theo
hướng có lợi cho xã hội dân sự Việt Nam và
bất lợi cho đảng cộng sản, có lợi cho tiến trình
dân chủ hóa và bất lợi cho xu hướng thủ cựu trong
đảng cộng sản.
Ở vào thời điểm này, vai trò của cộng đồng người
Việt hải ngoại có tầm quan trọng quyết định. Người Việt hải
ngoại gồm trên hai triệu người, với gần một nửa triệu người tốt
nghiệp đại học và một số thu nhập cao hơn tổng sản lượng quốc
gia (GDP) của quốc nội. Cả khối người ấy nếu chỉ được thôi
thúc bằng lòng thù hận thì cũng không
tác động được vào trong nước và do đó
không làm gì được chế độ cộng sản. Ngược lại, nếu
lấy lòng yêu nước, lấy hòa giải và
hòa hợp dân tộc làm tinh thần chỉ đạo và lấy
thắng lợi của dân chủ làm mục tiêu tranh đấu duy
nhất thì chỉ cần một phần nhỏ của khối người ấy cũng là
một lực lượng đủ để thắng đảng cộng sản. Họ sẽ có khả năng
và phương tiện để liên lạc đều đặn với trong nước, một mặt
động viên đồng bào tham gia cuộc vận động dân chủ,
mặt khác khuyến khích và phối hợp rất nhiều người
dân chủ trong nước, kể cả những người dân chủ trong guồng
máy đảng và nhà nước cộng sản hiện đã chiếm
đa số nhưng chưa thành đội ngũ. Họ sẽ bảo đảm mặt trận vận động
quốc tế, tranh thủ sự hỗ trợ của thế giới. Và họ có thể
nhân lên nhiều lần tác dụng của các cố gắng
tranh đấu cho dân chủ ở trong nước. Người Việt hải ngoại
ngày càng ý thức rằng họ vừa có vai
trò của một đội tiền phong đắc lực trên mặt trận quốc tế
vận vừa có tiềm năng của một hậu phương an toàn và
hùng mạnh, cung cấp đầy đủ nguồn tài chính,
thông tin, ý kiến và lý luận cho mặt trận
quốc nội. Ý thức rằng một kết hợp dân chủ trong
nước-ngoài nước có thể đánh bại đảng cộng sản dễ
dàng đang càng ngày càng rõ rệt,
và khi nó đã rõ rệt thì chế độ cộng
sản sẽ bắt buộc phải chấp nhận tiến trình dân chủ
hóa để tránh sụp đổ trong thảm khốc.
Đấu tranh để buộc đảng cộng sản phải chấp nhận luật chơi dân chủ
và bầu cử tự do như vậy là một cuộc đấu tranh chắc chắn
sẽ thắng lợi và sẽ thắng lợi sớm.
Vấn đề của các lực lượng dân chủ là tập trung cố
gắng để bầu cử tự do đến thật sớm và trong những điều kiện thật
tốt đẹp.
Những cuộc bầu cử tự do sẽ không thể do chính quyền cộng
sản quyết định một mình và tổ chức một mình. Bầu
định chế nào, bầu vào lúc nào, bầu như thế
nào, những ai được quyền đi bầu và những ai được quyền
ứng cử là những quyết định trên đó đối lập
dân chủ Việt Nam phải có tiếng nói.
Bầu cử tự do chỉ có thể diễn ra khi mọi quyền tự do chính
trị cơ bản đã được chính thức và long trọng
xác nhận và các luật lệ mâu thuẫn với
các quyền tự do chính trị đã được bãi bỏ.
Bầu cử tự do phải diễn ra trong tinh thần hòa giải dân
tộc, vượt lên trên mọi hàng rào hành
chính do chính quyền hiện tại tạo ra hay do hoàn
cảnh mà có. Một cách cụ thể, trước khi có
bầu cử mọi chính trị phạm phải được trả tự do và phục hồi
quyền công dân trọn vẹn, các tiền án
chính trị phải được xóa bỏ, người Việt hải ngoại cũng
phải được nhìn nhận quyền bầu cử và ứng cử.
Bầu cử tự do cũng phải được tổ chức bởi một chính quyền hội đủ
điều kiện để được nhìn nhận là có khả năng đảm bảo
cho bầu cử được công bằng và lương thiện. Chính
quyền này sẽ hoan nghênh sự hiện diện không giới hạn
của những quan sát viên quốc tế vô tư trong những
cuộc bầu cử tự do.
Những đòi hỏi trên đây dù rất khiêm tốn
và rất hợp tình hợp lý nhưng chắc chắn sẽ gặp sự
chống đối của chính quyền cộng sản, vì thế phải vận dụng
mọi áp lực quần chúng và quốc tế trong mọi
lãnh vực để buộc đảng cộng sản phải nhượng bộ và tham gia
vào tiến trình dân chủ hóa.
Chúng ta không đánh giá được sự ngoan cố của
đảng cộng sản để có thể tiên liệu được lúc
nào họ sẽ phải nhượng bộ và chấp nhận bầu cử tự do. Nhưng
chúng ta có thể tin chắc bầu cử tự do sẽ tới trong một
tương lai không xa và cần chuẩn bị để giành thắng
lợi ngay từ bây giờ.
Song song với cố gắng chuẩn bị để giành thắng lợi, các
lực lượng dân chủ cũng cần chuẩn bị tâm lý để
đón nhận thất bại. Một khi dân chủ và bầu cử tự do
đã được chấp nhận trên nguyên tắc, chắc chắn
thành phần bảo thủ còn lại trong đảng cộng sản sẽ bị
vô hiệu hóa và một phần đáng kể đảng
viên cộng sản, kể cả một số cơ sở của đảng cộng sản sẽ gia nhập
hàng ngũ dân chủ, nhưng đảng cộng sản vẫn còn
dù có thể dưới một danh xưng khác và vẫn
là một chính đảng mạnh trong cuộc bầu cử. Nhờ số lượng
đảng viên và sức mạnh tài chính họ vẫn
có khả năng thắng trong cuộc bầu cử đầu tiên nếu
các lực lượng dân chủ không kết hợp nhanh
chóng và vận động hữu hiệu. Nhưng ngay trong trường hợp
này, đảng cộng sản, hoặc hậu thân của nó dưới một
danh xưng khác, cũng không thể là một đảng cầm
quyền độc đoán nữa ; chế độ dân chủ đã được thiết
lập và người thắng lớn vẫn là đất nước.
Trong đấu tranh để đòi bầu cử tự do cũng như để giành
thắng lợi qua các cuộc bầu cử tự do đó, Tập Hợp Dân
Chủ Đa Nguyên lúc nào cũng chủ trương xóa bỏ
hận thù, tôn trọng mọi người và mọi chính
kiến để hợp tác với nhau và cùng nhau xây
dựng tương lai Việt Nam chung. Tinh thần hòa giải và
hòa hợp dân tộc này không thể bị đồng
hóa với thái độ sẵn sàng cấu kết và đồng
lõa với bất cứ ai. Thái độ của Tập Hợp rất minh bạch. Tập
Hợp có mục tiêu và đường lối rõ ràng
và Tập Hợp sẽ kiên trì theo đuổi. Tập Hợp sẽ dồn
mọi cố gắng để giành thắng lợi cho mặt trận dân chủ trong
bầu cử tự do. Nếu thắng, Tập Hợp sẽ cùng với các tổ chức
đồng minh trong mặt trận dân chủ, và có thể
cùng với cả một số tổ chức chính trị khác, chia sẻ
trách nhiệm trước dân tộc. Nếu không may thắng lợi
về tay những lực lượng khác lập trường, Tập Hợp sẽ tiếp tục đấu
tranh trong cương vị của một đối lập đứng đắn và trách
nhiệm.
Như tất cả mọi cuộc vận động chính trị, cuộc đấu tranh
này sẽ đòi hỏi nhiều thỏa hiệp. Tùy mức độ hưởng
ứng nhiều hay ít mà sách lược đấu tranh để chấm
dứt chế độ độc tài và thiết lập dân chủ, những chọn
lựa cơ bản, cũng như chính sách chuyển tiếp trong dự
án chính trị này sẽ được thực hiện toàn bộ
hay một phần trong mỗi thời điểm, sớm hay muộn trong thời gian. Tinh
thần của Tập Hợp là tinh thần đối thoại và hợp
tác. Tập Hợp sẽ chấp nhận những thỏa hiệp, kể cả những thỏa hiệp
giai đoạn, nhưng sẽ không nhân nhượng trên ba lập
trường căn bản : lý tưởng dân chủ đa nguyên, tinh
thần hòa giải và hòa hợp dân tộc, và
phương thức đấu tranh bất bạo động.
VII.
Chuyển tiếp thành công về dân chủ
1. Bài toán
chuyển tiếp
Sau khi chế độ độc tài đảng trị chấm dứt chúng ta sẽ trải
qua một giai đoạn chuyển tiếp cực kỳ khó khăn. Trong một khoảng
thời gian chừng năm năm, chúng ta sẽ phải làm những cố
gắng rất phi thường để vượt qua những thử thách vô
cùng cam go, trước khi đất nước có thể trở thành
một quốc gia bình thường và hội nhập thực sự vào
cộng đồng quốc tế.
Chúng ta sẽ phải chuyển đổi từ một hệ thống nhất nguyên,
tập trung, chuyên quyền sang một chế độ đa nguyên, tản
quyền và phân quyền.
Chúng ta sẽ phải thay thế một kinh tế hoạch định đặt nền tảng
trên các xí nghiệp quốc doanh bằng một kinh tế thị
trường lấy các xí nghiệp tư làm sức mạnh.
Chúng ta sẽ phải biến một guồng máy nhà nước quan
liêu, bàn giấy, công cụ của một đảng thành
một nhà nước hữu hiệu, trách nhiệm, lành mạnh,
phục vụ cho công ích.
Chúng ta sẽ phải chấm dứt lối quản lý bằng nghị quyết
và chỉ thị để thiết lập một nhà nước pháp trị.
Chúng ta sẽ phải thay thế một nền giáo dục tuyên
truyền và nhồi sọ bằng một nền giáo dục khách quan
và khai phóng.
Chúng ta kế thừa một đất nước suy kiệt toàn diện, trộm
cướp lộng hành, tham nhũng đã thành nền nếp,
buôn lậu đã thành một phong trào quốc gia,
các bệnh truyền nhiễm lan tràn một cách
không kiểm soát, tuổi trẻ thất học và bỏ học, con
người suy nhược, bi quan và chán nản, môi trường
sinh thái bị hủy hoại và ô nhiễm, chủ quyền kinh tế
và ngay cả đất đai đã mất nhiều về tay người ngoại quốc,
hàng chục triệu người sống trong cảnh nghèo khổ
cùng cực. Chúng ta sẽ phải biến đất nước đó
thành một đất nước có kỷ cương, có chủ quyền,
có lòng tin, có liên đới, có sức bật
kinh tế và có sức thu hút đầu tư nước
ngoài.
Chúng ta kế thừa một đất nước chồng chất hận thù do chiến
tranh và các chính sách phân biệt đối
xử để lại. Chúng ta sẽ phải hàn gắn những đổ vỡ mà
không gây ra những đổ vỡ mới. Chúng ta sẽ phải phục
hồi danh dự cho những người đã bị xúc phạm mà
không xúc phạm những người khác, phải bồi thường
thiệt hại cho những nạn nhân mà không tạo ra những
nạn nhân mới.
Chúng ta cần minh định : vấn đề đặt ra không phải
là đi tìm một công thức mầu nhiệm nào
có thể biến đất nước thành giàu mạnh, không
làm gì có một công thức như vậy. Vấn đề
là từ những thực tại của đất nước và bối cảnh thế giới
nhận diện những vấn đề cần được giải quyết ưu tiên và đề
ra những giải đáp.
Mục tiêu của giai đoạn chuyển tiếp này là tăng sản
lượng quốc gia lên gấp đôi trong khoảng thời gian năm năm
đồng thời cải thiện được môi trường và giềng mối xã
hội, hóa giải mọi hận thù và hiềm khích,
thực sự đưa một Việt Nam hòa hợp vào quỹ đạo tiến bộ. Mục
tiêu này có thể đạt được và sẽ phải đạt được
bằng những chính sách và biện pháp
không mâu thuẫn với những định hướng lớn đã vạch ra.
Chúng ta có quá nhiều vấn đề văn hóa
xã hội trầm trọng và cấp bách cần giải quyết nhưng
lại chỉ có những tài nguyên rất eo hẹp. Nếu
chúng ta dành quá nhiều tài nguyên
cho các vấn đề ấy thì chúng ta sẽ không
còn tài nguyên để phát triển kinh tế
và sẽ dẫm chân tại chỗ trong cảnh đói khổ. Ngược
lại có những vấn đề văn hóa xã hội gay gắt đến độ
nếu không được giải quyết sẽ triệt tiêu mọi cố gắng kinh
tế. Phải nhìn nhận một thực tế phũ phàng là
chúng ta sẽ còn phải chung sống với sự nghèo khổ
cơ cực nhiều năm nữa. Trong hoàn cảnh ngân sách eo
hẹp chúng ta sẽ phải thiết lập một thứ tự ưu tiên cho
các vấn đề. Tinh thần chỉ đạo là giải quyết cấp
bách những vấn đề tối cần thiết cho hòa giải dân
tộc, an ninh xã hội và phát triển kinh tế,
các vấn đề khác sẽ được giải quyết theo một thứ tự ưu
tiên khác ngay khi khả năng kinh tế cho phép.
2. Những biện pháp chính trị
2.1. Trả chính quyền về cho nhân
dân
Việc đầu tiên phải làm là phi chính trị
hóa guồng máy chính quyền, quân đội
và công an. Công chức và quân
nhân có quyền tham gia các tổ chức chính trị
nhưng mọi sinh hoạt đảng phái trong mọi cơ quan hành
chính và quân sự của nhà nước sẽ bị
nghiêm cấm. Bộ máy hành chính, quân
đội và công an phải là những công cụ phi
chính trị, hoàn toàn độc lập với mọi chính
đảng, tuyệt đối tôn trọng hiến pháp, tuyệt đối phục
tùng mọi chính quyền dân cử. Quân đội
và công an sẽ trở lại với sứ mạng cao cả là bảo vệ
đất nước, giữ gìn trật tự an ninh, và do đó cần
được tách rời hẳn khỏi mọi hoạt động kinh doanh. Các
công ty hiện do quân đội và công an làm
chủ sẽ được giải tư. Những người đang làm việc tại các
công ty đó nếu muốn có thể được giải ngũ để tiếp
tục công việc.
Quân đội sẽ được hiện đại hóa về trang bị và huấn
luyện, đồng thời cũng sẽ được tinh giản quân số.
2.2. Thực hiện hòa giải và hòa
hợp dân tộc
Một cố gắng phải bắt đầu ngay và tiếp tục trong nhiều năm
là thực hiện đường lối hòa giải và hòa hợp
dân tộc. Hòa giải và hòa hợp dân tộc
là một quốc sách của giai đoạn chuyển tiếp.
Mọi chính trị phạm sẽ được trả tự do và phục hồi quyền
công dân ngay tức khắc.
Mọi người vì lý do chính trị, vì các
chính sách đánh tư sản, cải cách ruộng đất,
hay vì đã từng là công chức quân
nhân của miền Nam mà đã bị giam cầm, hạ nhục sẽ
được phục hồi danh dự và sẽ được bồi thường thiệt hại ít
nhất là một cách tượng trưng.
Nhà nước sẽ nhân danh sự liên tục quốc gia nhận lỗi
về những sai lầm trong quá khứ, nhất là đối với những
người đã chết oan dù ở trong hàng ngũ nào
và trong giai đoạn nào.
Những người đã bị tịch thu tài sản sẽ được nhà
nước nhận bồi hoàn, sự bồi hoàn thực sự sẽ được thi
hành dần dần với thời gian theo khả năng kinh tế của nhà
nước.
Một cơ quan đặc biệt, cấp bộ, sẽ được thành lập để thực hiện
chính sách hòa giải dân tộc, đặc biệt
là để nhận và giải quyết những hồ sơ khiếu nại và
đòi bồi thường của dân chúng. Một ủy ban của quốc
hội sẽ có trách nhiệm đảm bảo rằng mọi luật lệ và
qui định không đi ngược với quốc sách hòa giải
và hòa hợp dân tộc. Một hội đồng hòa giải
và hòa hợp dân tộc, độc lập với chính quyền
và gồm đại diện của các chính đảng, đại diện
các tôn giáo, đại diện các sắc tộc và
các nhân vật có uy tín thuộc xã hội
dân sự sẽ được thành lập để giám sát việc
thực hiện hòa giải và hòa hợp dân tộc.
Nhà nước sẽ nghiêm cấm mọi hành động trả thù
báo oán và phân biệt đối xử. Mọi người Việt
Nam dù có quá khứ nào đều được đối xử
bình đẳng trong nghĩa vụ cũng như trong quyền lợi. Mọi
công chức, quân nhân đều sẽ được duy trì ở lại
chức vụ đang giữ. Mọi thay đổi nhân sự đều sẽ phải có
lý do kỹ thuật, khách quan và chính
đáng.
Việc thực thi hòa giải và hòa hợp dân tộc sẽ
cần một thời gian rất dài. Mọi biện pháp của nhà
nước phải luôn luôn chứng tỏ thiện chí muốn thực sự
hàn gắn những đổ vỡ do quá khứ để lại, để mọi người Việt
Nam hài lòng bắt tay nhau xây dựng đất nước.
Để chính sách hòa giải và hòa hợp
dân tộc có nền tảng chính đáng và
thêm sức mạnh, một đạo luật về hòa giải và
hòa hợp dân tộc sẽ được soạn thảo để toàn dân
biểu quyết qua trưng cầu dân ý.
2.3. Ban hành một hiến pháp mới cho
Cộng Hòa Việt Nam và tu chỉnh luật pháp
Hiến pháp này sẽ do một quốc hội lập hiến, cơ chế đầu
tiên được bầu ra, biểu quyết. Hiến pháp này
phù hợp với chế độ chính trị đã được chọn lựa
và trình bày, và sẽ không được mang
bất cứ một qui chiếu nào về một chủ nghĩa, một tôn
giáo hay một chính đảng nào. Hiến pháp mới
sẽ long trọng xác nhận những quyền tự do căn bản. Án tử
hình sẽ được bãi bỏ vì nó phản văn minh
và thực ra nó cũng không có cái hiệu
lực mà sự dã man của nó có thể làm
ta lầm tưởng. Sau khi hiến pháp mới đã biểu quyết xong,
quốc hội lập pháp - có thể là ngay chính
quốc hội lập hiến biểu quyết tự biến thành quốc hội lập
pháp nếu hoàn cảnh cho phép - sẽ biểu quyết
các bộ luật căn bản. Tinh thần chỉ đạo cho việc soạn thảo
các bộ luật căn bản này là giản dị, sáng
sủa, dễ hiểu và dễ tôn trọng trong bối cảnh đất nước.
Các đạo luật đầu tiên không nhất thiết phải
hoàn chỉnh. Điều quan trọng là đặt những nền tảng
lành mạnh cho sinh hoạt quốc gia, các đạo luật sau
đó sẽ được bổ túc thêm để càng ngày
càng đầy đủ và hoàn chỉnh. Các đạo luật
hiện hành sẽ được rà soát lại ; một số đạo luật
mới có thể xuất phát từ các đạo luật hiện
hành, sau khi đã loại bỏ các qui chiếu về chủ
nghĩa xã hội và đảng cộng sản, và các điều
khoản phản dân chủ hay trái ngược với các quyền tự
do hiến định.
2.4. Bắt đầu đem tản quyền vào thực tế
Ngay sau đó cần đem tản quyền vào sinh hoạt chính
trị. Điều này có nghĩa là cần một đạo luật tổ chức
lãnh thổ qui định ranh giới của từng địa phương và một
lịch trình bầu cử và thành lập các
chính quyền địa phương. Nguyên tắc chỉ đạo là
các vùng phải khá thuần nhất về mặt địa lý,
giao thông, cấu tạo sắc tộc, chức năng kinh tế, và phải
có diện tích và dân số đầy đủ để có
thể là những thực thể tồn tại và phát triển được.
3. Những biện pháp văn hóa xã hội
Những vấn đề gay gắt nhất và cấp bách nhất đang đặt ra
cho đất nước không phải là những vấn đề kinh tế mà
là những vấn đề văn hóa xã hội.
3.1. Tăng cường trật tự an ninh
Việt Nam ngày hôm nay đang là một trong những nước
thiếu an ninh nhất thế giới. Mối đe dọa an ninh đầu tiên
chính là đảng và nhà nước cộng sản. Bắt
người trái phép, giam cầm và đánh đập
dã man đã trở thành thông lệ. Tình
trạng thiếu an ninh cũng do những thành phần bất hảo càng
ngày càng đông đảo và càng
ngày càng lộng hành. Dĩ nhiên những tệ đoan
xã hội là sản phẩm tự nhiên của xã hội bế
tắc hiện nay và chắc chắn sẽ giảm sút với sự trở lại của
hy vọng và niềm tin. Nhưng dầu sao đi nữa thì đất nước ta
cũng sẽ còn bất ổn trong một thời gian khá lâu
và an ninh trật tự sẽ là một vấn đề nhức nhối cho một
chính quyền dân chủ vừa được thành lập. Bảo đảm
trật tự an ninh không có nghĩa là giới hạn tự do
mà còn là một điều kiện bắt buộc để có tự
do thực sự.
Luật pháp cần nghiêm minh chứ không cần phải khe
khắt, và nhất là không cần phải hung bạo.
Mọi người Việt Nam đến tuổi trưởng thành đều được cấp thẻ căn
cước và giấy thông hành, có quyền ở bất cứ
nơi nào mình muốn và di chuyển tự do trên
lãnh thổ hay ra nước ngoài.
Luật pháp không rõ ràng cũng là một
nguyên nhân đưa đến phạm pháp. Trong tương lai đất
nước ta cần một luật pháp thật giản dị, thật dễ hiểu và
dễ tôn trọng nhưng cũng rất nghiêm khắc với những sai phạm.
Chính quyền hiện nay có rất nhiều công an, nhưng
công an được sử dụng trước hết vào việc bảo vệ quyền lực
của đảng cộng sản thay vì bảo vệ trật tự an ninh, để đàn
áp những khát vọng tự do dân chủ hơn là để
đàn áp những tệ đoan xã hội. Bởi vậy trong tương
lai các cơ quan công an tình báo, bảo vệ
chính trị sẽ được chuyển qua lực lượng bảo vệ trật tự an ninh.
Việc tăng cường trật tự an ninh như vậy chỉ là một sự cải tổ
guồng máy an ninh. Sự cải tổ này không những
không tốn kém mà còn có thể tiết kiệm
rất nhiều cho ngân sách. Một chính quyền Việt Nam
thực sự dân chủ, không có nhu cầu đàn
áp đối lập có thể giảm ngân sách an ninh
và đồng thời tăng cường trật tự xã hội.
3.2. Khắc phục các tệ nạn xã hội
Chúng ta hiện đang chứng kiến một cuộc giằng co bất phân
thắng bại giữa chính quyền cộng sản và các tổ chức
buôn lậu được sự bao che của nhiều bộ phận của chính
nhà nước. Về điểm này, một chính phủ đứng đắn phải
vừa cảm thông vừa quả quyết. Cảm thông vì những
người buôn lậu đã chỉ phản ứng lại một cách quản
lý kinh tế không chấp nhận được của chính quyền
và vì họ được sự hậu thuẫn của nhiều thành phần
dân chúng. Cảm thông cũng vì hiện nay
buôn lậu là nguồn sinh sống của rất nhiều người. Nhưng dầu
thế nào đi nữa tệ buôn lậu bắt buộc phải chấm dứt
vì nó là một thách thức đối với quốc gia,
một mất mát lớn cho ngân sách và một cạnh
tranh bất chính và nguy hiểm cho hàng nội địa.
Chính quyền hiện tại không có khả năng để chấm dứt
phong trào buôn lậu vì không có nổi
hậu thuẫn cần thiết trong dân chúng. Chỉ có một
chính quyền có uy tín, được toàn dân
chấp nhận và tin tưởng là đứng đắn và có
khả năng đưa đất nước đi lên mới có thể thuyết phục được
quần chúng rằng chấm dứt phong trào buôn lậu
là điều có ích cho mọi người, và nhờ
đó mới cô lập được các tổ chức buôn lậu.
Chính sách cần có là trước hết dẹp tan
các tổ chức buôn lậu qui mô đồng thời nhìn
nhận một hình thức mậu dịch biên giới tầm vóc nhỏ
và có kiểm soát. Mục đích của giai đoạn đầu
chưa phải là dẹp hẳn buôn lậu mà là
làm cho các tổ chức lớn tan vỡ thành những
nhóm nhỏ có thể chế ngự được. Sau đó thuế
đánh vào mậu dịch biên giới sẽ tăng dần lên
song song với các biện pháp kiểm soát càng
ngày càng chặt chẽ hơn, để sau một thời gian chừng năm
năm việc trao đổi qua biên giới trở thành bình
thường.
Tham nhũng là bệnh ung thư đối với sinh hoạt kinh tế.
Không dẹp được tham nhũng thì bất cứ chính
sách kinh tế nào, dù hoàn chỉnh đến
đâu cũng sẽ thất bại. Tệ tham nhũng ngày nay đã đạt
tới một mức độ khó tưởng tượng. Nguyên nhân
chính của tham nhũng trước hết là chính bản chất
của chế độ độc tài toàn trị trong đó việc bổ nhiệm
và thay thế các quan chức hoàn toàn
không tùy thuộc vào quần chúng và dư
luận. Sau đó là guồng máy nhà nước
áp đảo và kềnh càng, là luật lệ rườm
rà, mâu thuẫn cho phép những giải thích chủ
quan, thiên vị, tùy tiện. Tham nhũng là lợi dụng
công quyền cho lợi ích cá nhân, do đó
muốn chống tham nhũng trước hết phải giảm trọng lượng của quyền lực
nhà nước, nghĩa là phải thay thế guồng máy
nhà nước nặng nề và toàn quyền bằng một nhà
nước nhẹ và quyền lực giới hạn. Sau đó cần một luật
pháp giản dị, minh bạch khiến người dân biết chắc chắn
những gì mình có thể làm và những
gì mình không được làm và không
còn là những con tin của các quan chức nhà
nước.
Một nguyên nhân quan trọng khác là sự cấu kết
và bao che giữa các đảng viên cộng sản với nhau.
Chính quyền cộng sản đã thú nhận là họ
không chống được tham nhũng, nhưng điều họ chưa chịu thú
nhận là chính đảng cộng sản là một nguyên
nhân của tình trạng tham nhũng, do đó tệ tham nhũng
sẽ chỉ khắc phục được khi đảng cộng sản không còn độc
quyền chính trị.
Chống tham nhũng cũng như chống buôn lậu cần phải có quyết
tâm nhưng cũng cần có lòng tin và hậu thuẫn
của toàn dân. Một trong những đồng minh của ta trong trận
chiến cam go này là tự do ngôn luận. Trong một chế
độ thực sự tự do, nạn tham nhũng và hà hiếp dân
chúng nếu không bị dẹp hẳn thì cũng phải rút
xuống ở một mức độ thấp. Sự tố cáo của những người công
dân tự do biết rõ mọi quyền của mình là vũ
khí chống tham nhũng hiệu lực nhất.
Mọi sáng kiến sẽ được hoan nghênh để tranh thủ sự hưởng
ứng tích cực của toàn dân vào cố gắng quốc
gia này.
3.3. Bãi bỏ hoàn toàn mọi
chính sách và biện pháp kiểm duyệt
Hiến pháp mới phải long trọng nhìn nhận quyền tự do
sáng tác và phát hành sách
báo và văn hóa phẩm, và cấm chỉ mọi đạo
luật theo chiều hướng kiểm duyệt. Trong nước Việt Nam tương lai sẽ
không thể có một sự giới hạn nào về tự do
phát biểu đến từ chính quyền cả. Luật pháp sẽ chỉ
chế tài những văn hóa phẩm trắng trợn kêu gọi bạo
lực, xúc phạm đến danh dự và quyền lợi của các
công dân hay các đoàn thể công
dân và bị chính các cá nhân hay
đoàn thể này truy tố. Các hiệp hội công
dân như vậy sẽ nắm một vai trò then chốt trong việc bảo vệ
sự lành mạnh của văn hóa. Chúng ta đừng quên
rằng xã hội dân sự là nền tảng của thể chế
dân chủ đa nguyên.
3.4. Bảo đảm sự khách quan của giáo dục
và một trình độ văn hóa tối thiểu cho mọi
công dân
Sẽ không có vấn đề nhà nước áp đặt
sách giáo khoa chính thức. Quyền sáng
tác sách giáo khoa sẽ không bị giới hạn
và quyền chọn sách giáo khoa hoàn
toàn thuộc các nhà giáo. Nhưng một định chế
độc lập với chính quyền, xuất phát từ các
nhà giáo, sẽ soạn thảo ra những sách giáo
khoa đầu tiên, và sau đó có thẩm quyền giới
thiệu, nhưng không áp đặt, với các nhà
giáo những sách nào có phẩm chất đầy đủ để
có thể được dùng làm sách giảng dạy.
Giáo dục là một đầu tư rất tốn kém của đất nước
vì vậy nùó phải thuần túy hướng về mục
tiêu truyền bá kiến thức và mở mang trí tuệ
chứ không thể bị lợi dụng cho những tuyên truyền một
chi)ều.
Một chú trọng đặc biệt dành cho việc giảng dạy Việt văn.
Đó là điều mà ta không thể tiết kiệm được
bởi vì một trình độ văn hóa tối thiểu và
một khả năng truyền thông tối thiểu vừa là điều kiện
không có không được cho phát triển kinh tế,
vừa là một điều kiện cần thiết cho sự ổn vững của xã hội,
cho hòa bình giữa những con người.
Từ nhiều năm nay chính quyền cộng sản hầu như đã bỏ rơi
hoàn toàn mọi cố gắng về giáo dục. Chúng ta
đã mất đi rất nhiều học sinh và phẩm chất của giáo
dục ở mọi cấp đã sút giảm trầm trọng, nhất là từ
khi chế độ cộng sản thực hiện chính sách kinh tế thị
trường hoang dại. Phải thi hành cưỡng bách giáo
dục và giáo dục miễn phí ít nhất tới hết
lớp 9. Rất có thể là ngân sách sẽ
không cho phép tuyển dụng đủ số giáo chức cần
có, trong trường hợp này chúng ta cần phát
động một phong trào liên đới quốc gia về văn hóa,
sinh viên tiếp tay dạy học sinh, lớp trên tiếp tay dạy lớp
dưới trong tinh thần tình nguyện hay với thù lao tượng
trưng. Cũng cần lưu ý rằng tình trạng bi đát của
ngành giáo dục hiện nay không khó khắc phục.
Sự xuống cấp của giáo dục hiện nay phần chính do
chính sách của nhà nước cộng sản. Giáo dục
bị xem là dịch vụ kiếm tiền cho nhà nước thay vì
một đầu tư vào tương lai. Nhà nước cộng sản cũng
không phân biệt giáo dục với tuyên truyền. Học
sinh bị nhồi sọ những kiến thức mà cả người dạy lẫn người học
đều biết là sai và vô ích. Thêm
vào đó sự bế tắc của kinh tế cũng như sự băng hoại của
xã hội khiến cho thanh thiếu niên và phụ huynh
không biết học để làm gì.
3.5. Cải thiện môi trường sinh sống và
danh lam thắng cảnh
Chúng ta là một quốc gia đã bị quá nhiều
tàn phá, do đó chúng ta phải gìn giữ
và bảo trì cẩn trọng các di tích lịch sử
và các danh lam thắng cảnh. Đó là những
tài sản quí báu, những nguồn tự hào
và là những gạch nối gắn bó người Vi_ệt Nam với
nhau. Việc trùng tu các di tích này sẽ
không tốn kém lắm vì số lượng ít ỏi,
và cũng có thể không tốn kém gì hết
cho nhà nước. Chúng ta sẽ cho đấu thầu quyền khai
thác và nghĩa vụ bảo trì một số di tích
và thắng cảnh có giá trị du lịch cho các
công ty tư nhân, sẽ giao phó một số di tích
có tính tôn giáo cho các giáo
hội. Mặt khác cũng cần qui định và thực hiện nghiêm
minh những tiêu chuẩn về xây dựng để ngăn chặn việc
xây cất thiếu an toàn hoặc xô bồ làm hại cảnh
quan. Du lịch sẽ là một sinh hoạt kinh tế quan trọng và
chúng ta khó hình dung kỹ nghệ du lịch có
thể thành công nếu đất nước ta không đẹp.
Cố gắng văn hóa này gắn liền với một kế hoạch bảo vệ
môi sinh trong địa hạt kinh tế. Chính sách
đánh bắt vô tổ chức và vô trách nhiệm
hiện nay đã làm suy giảm trầm trọng nguồn hải sản của ta.
Chúng ta cần có ngay những qui định giản dị, minh bạch
và được áp dụng triệt để nhằm cứu vùng biển
và cứu nguồn hải sản. Phong trào phá rừng
bán gỗ bừa bãi - vẫn còn tiếp tục - đang có
cơ nguy biến nước ta thành cằn cỗi ; phong trào
này phải được chặn đứng ngay tức khắc. Việc phục hồi lại
cây rừng vừa cần nhiều vốn lại vừa cần sự bảo vệ và chăm
sóc đều đặn cho nên có thể ngân sách
nhà nước không cáng đáng nổi. Cần
nghiên cứu giải pháp giao khoán từng vùng
rừng, từng khu rừng cho các công ty tư nhân phục hồi
và khai thác, với những quyền lợi và những cam kết
rõ rệt.
Song song với cố gắng phát triển công nghiệp cũng phải
có những qui định rõ ràng về cách xử
lý các loại phế liệu.
3.6. Giữ đất của ông cha cho con cháu
Từ nhiều năm nay, chính quyền cộng sản đã làm ngơ
để nhiều vùng đất có giá trị chiến lược lọt
vào tay người ngoại quốc. Việc mua bán đất này,
nhiều khi được thực hiện qua trung gian của những người Việt cho mượn
tên đứng làm chủ, là một mất mát lớn cho đất
nước. Chúng ta quá đông dân và
có quá ít đất đai, chúng ta phải gìn
giữ cẩn trọng từng tấc đất của cha ông để lại.
Cần duyệt xét lại những sang nhượng đất đai để chặn đứng vụ
bán đất mờ ám cho người ngoại quốc. Một biện pháp
vừa dung hòa được nhu cầu thu hút tư bản vừa giữ được đất
Việt cho người Việt là không những cho phép
mà còn khuyến khích người Việt định cư ở nước
ngoài mua nhà và đất tại Việt Nam. Đó cũng
là biện pháp để gắn bó người Việt hải ngoại
và quê hương.
Những đất đai chuyển nhượng bất chính sẽ bị thu hồi, trong
trường hợp nghiêm trọng có thể bị tịch thu không bồi
hoàn.
4. Những biện pháp kinh tế
Về mặt kinh tế việc đầu tiên mà một chính quyền
đứng đắn phải làm là chấm dứt lối cai trị bằng nghị
quyết, thông cáo, quyết định, chỉ thị và thay
vào đó bằng những luật lệ rõ ràng, minh
bạch và ổn vững. Một bộ luật kinh doanh là điều
không thể thiếu và cũng không thể đợi. Đồng thời
chúng ta cần tập trung cố gắng quốc gia vào những vấn đề
cấp bách.
4.1. Giải tư đại bộ phận các xí nghiệp
quốc doanh và tư hữu hóa ruộng đất
Nhà nước không có chức năng làm xe đạp,
bán quần áo, mở công ty du lịch và cửa
hàng ăn uống, quản lý khách sạn và vũ
trường. Những công ty quốc doanh, nông trường quốc doanh
làm mất tinh thần chấp nhận rủi ro, làm trì trệ
các sáng kiến và làm mất tinh thần
trách nhiệm. Chúng ta coi tư doanh là nền tảng của
kinh tế quốc gia, do đó giải tư các xí nghiệp quốc
doanh và tư hữu hóa ruộng đất là một chính
sách cốt lõi của giai đoạn chuyển tiếp. Kinh nghiệm của
các nước chuyển hóa về kinh tế thị trường cho thấy việc
giải tư phải được thực hiện trong một thời gian thật ngắn để
tránh tệ nạn đầu cơ, tẩu tán tài sản quốc gia,
làm xuống cấp các xí nghiệp cần giải tư.
Chúng ta sẽ giải tư tức khắc tất cả mọi công ty, xí
nghiệp quốc doanh có thể giải tư được để đem lại cho kinh tế một
sinh lực mới.
Chúng ta sẽ xúc tiến ngay việc tư hữu hóa ruộng
đất theo nguyên tắc trả quyền sở hữu lại cho những người đang
canh tác trên đất của mình, tùy trường hợp
cấp không hoặc bán lại cho nông dân những đất
đai đang được nhà nước giao phó. Việc tư hữu hóa
nông nghiệp đặt ra nhiều vấn đề phức tạp về cả hai mặt kỹ thuật
lẫn tình cảm, thí dụ như trường hợp của những người
đã bị truất hữu một cách oan ức trước đây,
nên cần có một chính sách rất thận trọng.
Nguyên tắc chỉ đạo của chính sách giải tư và
tư hữu hóa là những gì tư nhân có thể
làm được nhà nước sẽ không làm. Chính
sách này sẽ phải hoàn tất về cơ bản sau hai năm
cho công nghiệp và sau năm năm cho nông nghiệp.
4.2. Khuyến khích tối đa đầu tư kể cả đầu tư
từ nước ngoài
Bãi bỏ từng bước các luật đầu tư hiện nay vì
chúng còn quá gò bó và
vì chúng dành cho người ngoại quốc những quyền
mà người Việt Nam không có, chúng còn
chia rẽ người trong nước với người sống ở nước ngoài. Trong
tương lai người đầu tư nước ngoài sẽ có tất cả mọi quyền
hạn mà họ đang có và sẽ có nhiều tự do hơn
hiện nay nhưng sẽ không thể có những quyền mà người
Việt Nam không có. Thời gian để hoàn tất mọi thủ
tục thành lập công ty sẽ không thể quá hai
tuần lễ. Cần nhận thức giá trị rất tương đối của các bộ
luật nâng đỡ đầu tư. Nếu những đặc quyền chỉ có hiệu lực
ngắn hạn thì luật đầu tư chỉ lôi kéo được những đầu
tư hời hợt, còn nếu những đặc quyền về đầu tư có hiệu lực
dài hạn thì luật đầu tư sẽ có khuynh hướng trở
thành luật lệ bình thường. Vả lại, quyết định đầu tư chỉ
tùy thuộc rất ít vào những biện pháp khuyến
khích và tùy thuộc rất nhiều vào bối cảnh
chính trị và kinh tế.
4.3. Đẩy mạnh sự phát triển của thị trường nội
địa
Chúng ta sẽ lấy thị trường trong nước làm bàn đạp
để tiến lên. Với 80 triệu dân, nước ta là một thị
trường rất lớn và sự trao đổi giữa những người Việt Nam với nhau
tự nó đã là một động cơ kinh tế vô
cùng quan trọng. Trong bất cứ một nền kinh tế nào, ngay
cả trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, trừ trường hợp rất
đặc biệt của các nước xuất khẩu dầu lửa, thị trường nội địa bao
giờ cũng quan trọng hơn hoạt động xuất nhập cảng. Thị trường nội địa
vừa quan trọng về khối lượng, vừa là nơi thử nghiệm cho
hàng xuất khẩu, lại vừa là kho trái độn cần thiết
để đương đầu với những biến thiên của thị trường quốc tế. Thị
trường nội địa có mạnh thì hoạt động xuất cảng mới
phát triển được. Thị trường nội địa sẽ được kích
thích do sự giải tỏa mọi cưỡng chế về kinh doanh và sự
thúc đẩy những chương trình công cộng quan trọng.
Các ngành nông nghiệp, ngư nghiệp, công
nghiệp thực phẩm, dệt và may mặc là những bàn đạp
đầu tiên cho thị trường nội địa của ta.
Phát triển thị trường nội địa phải đi song hành với
phát triển kinh doanh nội địa. Chúng ta không
có những nhà tư bản lớn cho nên cần tích cực
thúc đẩy, nâng đỡ và khuyến khích các
xí nghiệp cá nhân và các công
ty tầm cỡ nhỏ, giúp họ phát đạt và gia tăng tầm
vóc, dần dần trở thành những nhà tư bản lớn.
Một bắt buộc khẩn cấp của chính sách phát triển
thị trường nội địa là phải tu sửa và tăng cường hệ thống
đường giao thông và truyền thông, các phương
tiện chuyên chở và truyền tin.
4.4. Dồn cố gắng cho hai công trình giao
thông chiến lược
Hai công trình lớn mà chúng ta phải bắt đầu
ngay và phải tiếp tục trong nhiều năm, qua nhiều giai đoạn,
là công trình hiện đại hóa và mở rộng
theo đúng tiêu chuẩn quốc tế đường xe lửa Thống Nhất
và công trình xây dựng hai tuyến xa lộ Bắc
Nam dọc theo bờ biển và trong đất liền. Đây là
những công trình vừa tối cần thiết cho các hoạt
động kinh tế, vừa cụ thể hóa sự thống nhất của đất nước, lại vừa
tạo nhiều công ăn việc làm trên khắp lãnh
thổ. Những dự kiến hiện nay cho hai công trình này
còn ở mức rất thấp so với nhu cầu của nước ta mà phần lớn
sinh hoạt tập trung dọc theo hai trục giao thông này. Mở
rộng và hiện đại hóa hai công trình
này cũng là điều cần thiết cho dự án xây
dựng và khai thác cảng Cam Ranh, một dự án trọng
điểm mà ta sẽ tiến hành mạnh mẽ trong nhiều năm để đem
lại sức mạnh kinh tế cho cả nước và cho miền Trung, miền nhiều
triển vọng nhất của đất nước do vị trí bờ biển nhưng hiện nay
là vùng kém mở mang nhất.
5. Những nguồn tài trợ cố gắng phục hưng
Một chương trình phục hưng dù khiêm nhường đến
đâu cũng đòi hỏi rất nhiều chi phí. Chúng ta
sẽ gặp nhiều khó khăn, nhưng chúng ta cũng sẽ có
những nguồn tài trợ.
Trước hết là chấm dứt những phí phạm do chính
quyền cộng sản tạo ra mà phí phạm lớn nhất là do
chính Đảng Cộng Sản Việt Nam. Hiện nay hàng trăm
ngàn người được trả lương chỉ để làm việc cho bộ
máy của đảng cộng sản. Hàng ngàn nhà
và phòng ốc bị chiếm dụng trái phép
làm trụ sở, văn phòng cho các chi bộ đảng.
Cán bộ, đảng viên tham nhũng lợi dụng quyền thế biển thủ
một phần quan trọng tổng sản lượng quốc gia. Trong tương lai khi đảng
cộng sản phải chấp nhận một chỗ đứng bình thường ngang
hàng với các chính đảng khác, nhà
nước sẽ tiết kiệm được một khoản ngân sách lớn, giải tỏa
một nguồn nhân lực lớn và thu hồi một số tài sản
lớn.
Nguồn tài trợ thứ hai là do sự tiết giảm ngân
sách an ninh quốc phòng. Chúng ta không
có ý đồ chinh phục nước nào và ngược lại
cũng không còn lo ngại bị chinh phục bằng quân sự.
Sự phòng vệ các vùng biển và hải đảo cũng
không cần đến một lục quân đông đảo như ngày
nay mà cần một quân đội cơ giới tinh nhuệ. Guồng
máy công an gần nửa triệu người của nhà nước cộng
sản trước hết nhằm đàn áp những nguyện vọng dân
chủ. Một nhà nước dân chủ thực sự có thể giảm một
phần quan trọng chi phí mà còn tăng cường được khả
năng bảo vệ lãnh thổ và duy trì trật tự an ninh.
Nguồn tài trợ thứ ba là do sự giải tư các
xí nghiệp quốc doanh. Như đã trình bày ở
phần trên, mục đích chính của chính
sách giải tư là hợp lý hóa và
lành mạnh hóa sinh hoạt kinh tế. Tuy vậy chương
trình giải tư cũng sẽ đem lại một tài khoản quan trọng.
Nguồn tài trợ thứ tư do sự đóng góp tích
cực hơn của cộng đồng Việt Nam hải ngoại hơn hai triệu người sau khi
một chế độ dân chủ thực sự, phù hợp với nguyện vọng
sâu xa của đồng bào hải ngoại đã được thiết lập.
Khối người Việt hải ngoại, với trên hai triệu người, phần lớn
định cư tại các nước phát triển và một lợi tức
thường niên không dưới 30 tỷ USD có khả năng tiết
kiệm 10 tỷ USD mỗi năm. Nhưng cộng đồng người Việt hải ngoại
không những chỉ là nguồn đầu tư mà còn
có thể có những đóng góp quan trọng
khác về văn hóa, khoa học và kỹ thuật. Một khi
quan hệ với trong nước đã được bình thường hóa,
cộng đồng người Việt hải ngoại sẽ là một đòn bẩy lớn cho
cố gắng phát triển đất nước.
Nhưng nguồn tài trợ quan trọng nhất và càng
ngày càng dồi dào hơn là do chính sự
phát triển của kinh tế. Hiện nay rất nhiều ngành nghề bị
tê liệt, rất nhiều tài năng bị triệt tiêu do sự cấm
cản hay sách nhiễu của chính quyền cộng sản. Trả lại tự
do kinh doanh thực sự cho dân chúng là ta đã
khai thông được nhiều sinh lực mới và có thể chờ
đợi những đóng góp mới. Chính sách kinh tế
đứng đắn và lương thiện của ta cũng sẽ có khả năng động
viên nguồn tài chính còn lại trong
nhân dân. Không có sức mạnh nào lớn hơn
sức mạnh mà chúng ta sẽ có nhờ giải tỏa và
động viên sinh lực của một dân tộc gần 80 triệu người cần
mẫn. Chúng ta có quyền chờ đợi những thành quả
nhanh chóng và to lớn.
6. Chuyển tiếp về dân chủ sẽ thành
công, đất nước sẽ vươn lên
Chúng ta có quyền hy vọng và lạc quan. Đất nước ta
tuy có vấp ngã nhưng vẫn còn khả năng đứng dậy
và đi tới.
Chúng ta không cần trông đợi ở một phép mầu
hay một ân huệ nào cả. Phép mầu ấy chúng ta
có thể tự tạo ra cho mình, ân huệ ấy chúng
ta có thể tự ban cho mình một cách giản dị.
Bình thường hóa quan hệ giữa người Việt Nam với nhau.
Long trọng xác nhận đất nước là của mọi người chứ
không phải là của riêng một đảng hay một chủ nghĩa
nào. Nhìn nhận chỗ đứng ngang nhau cho mọi người
và cho mỗi người. Cởi bỏ những xiềng xích của hận
thù và bất dung để nhìn nhau như anh em. Đem lại
lạc quan và niềm tin ở một nhà nước thành
tín và lương thiện. Đem lại những đảm bảo rõ rệt,
chắc chắn cho quyền tư hữu và quyền kinh doanh. Quyết tâm
bài trừ tham nhũng và những tệ đoan xã hội đang
phá hoại cơ thể quốc gia. Tất cả những điều này
chúng ta đều có thể làm được và có
thể làm ngay được. Rồi chúng ta sẽ thấy đất nước
này thay da đổi thịt, rồi chúng ta sẽ thấy dân tộc
này vùng dậy chồm tới chinh phục tương lai. Chúng
ta sẽ khám phá ra sự mầu nhiệm của những giá trị
rất đơn giản như tự do, dân chủ, hòa hợp dân tộc.
Đất nước sẽ đứng dậy, đi tới và tiến lên rất mạnh mẽ.
VIII.
Vì đất nước hôm nay và ngày mai: chung một
giấc mơ Việt Nam
Nước Việt Nam có khả năng
trở thành một cường quốc và nhất định sẽ là một
nước lớn và giàu mạnh nếu chúng ta động viên
được mọi trái tim Việt Nam, mọi khối óc Việt Nam, mọi
bàn tay Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng tương lai chung.
Bài học lớn nhất của nửa sau thế kỷ hai mươi này
là một dân tộc muốn vươn lên chỉ cần hai yếu tố :
những con người cần mẫn và đồng thuận dân tộc.
Chúng ta là một dân tộc đông đảo, con người
của ta thông minh và cần mẫn, địa lý của ta thuận
lợi, chúng ta lại đang tiến tới đồng thuận dân tộc.
Chúng ta có quyền lấy một lạc quan lịch sử làm
hành trang cho cuộc hành trình về tương lai.
Chúng ta cũng có quyền lạc quan vì cuộc đấu tranh
của ta trong sáng, đó là cuộc đấu tranh để đẩy lui
sự tồi dở và sự gian trá, để tôn vinh mọi người,
tôn vinh quyền làm người và quyền được hưởng hạnh
phúc như một dân tộc lớn mà dân tộc ta rất
xứng đáng để có.
Dân tộc Việt Nam đã phải trả những giá rất đắt cho
hận thù và chia rẽ, cho óc độc quyền lẽ phải, cho
sự cuồng tín và tôn thờ bạo lực. Chúng ta
đã thức tỉnh và đã nhìn ra nh¨ững vết
xe đổ.
Thử thách trước mặt chúng ta rất lớn, nhưng hy vọng
thôi thúc chúng ta còn lớn hơn. Đằng sau
những trở ngại là cả một tương lai rực sáng. Chế độ độc
tài này sẽ là chế độ độc tài cuối
cùng tại Việt Nam. Rũ bỏ được nó chúng ta sẽ vĩnh
viễn đi vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của tự do,
dân chủ, bao dung, đùm bọc, kỷ nguyên vinh quang của
những cố gắng chung và của thành công chung.
Chúng ta đã hiểu bằng máu và nước mắt
và đã chấp nhận trong da thịt những giá trị giản
dị nhưng mầu nhiệm như tự do, dân chủ, hòa bình,
công lý, bao dung, cố gắng. Chúng ta đã
nhuần thấm tình dân tộc nghĩa đồng bào trong sự tủi
nhục chung vì thua kém. Chúng ta đã thấy
rõ ràng rằng tất cả mọi người Việt Nam đều bị ràng
buộc với nhau trong một thân phận chung. Chúng ta đang
tiến tới một đồng thuận dân tộc lớn nhất kể từ ngày
ông cha mở nước. Đồng thuận ấy sẽ là vũ khí
vô địch giúp chúng ta tiến lên xây dựng
một đất nước đẹp tươi cho muôn đời con cháu.
Chúng ta hãy cùng nhau cất lên chung một lời
nguyền.
Nước Việt Nam sẽ là một nước lớn.
Làm người Việt Nam trong thế kỷ hai mươi đã là một
điều bất hạnh thì làm người Việt Nam trong thế kỷ hai
mươi mốt sẽ phải là một niềm vui, một may mắn và một
nguồn hãnh diện.
Thế giới đã biết đến Việt Nam như là nạn nhân của
hận thù và chia rẽ, của óc độc quyền lẽ phải
thì thế giới sẽ phải biết đến Việt Nam sau này như
là vùng đất của sự bao dung, như là một mẫu mực
thành công của tình anh em tìm lại, của sự
hồi sinh từ hoang tàn và đổ nát.
Đó là lý tưởng của thời đại chúng ta.
Đó là gia tài mà chúng ta sẽ để lại
cho các thế hệ sau. Đó là giấc mơ Việt Nam
mà các chí hữu của Tập Hợp Dân Chủ Đa
Nguyên cùng theo đuổi và muốn chia sẻ với mọi người
Việt, trong cũng như ngoài nước, hôm nay và
ngày mai.
Tóm
lược
Thành Công Thế Kỷ 21
Chúng ta từ giã một
thế kỷ đau buồn, mở đầu trong ngoại thuộc và chấm dứt dưới độc
tài, ở giữa là ba mươi năm chiến tranh tàn khốc.
Ngày nay chúng ta là một trong những dân tộc
nghèo đói, lạc hậu và bế tắc trong một thế giới
mới mà sự thua kém kéo dài có thể
làm tan vỡ các quốc gia và đẩy dân tộc của
các quốc gia này vào cảnh lầm than vô hạn
định.
Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên tin rằng dân tộc Việt Nam
xứng đáng với một số phận khác và nhiệm vụ lịch sử
của những người Việt hôm nay là cứu dân tộc ra khỏi
lầm than và cứu đất nước ra khỏi nguy cơ thua kém vĩnh
viễn. Chúng ta là một dân tộc đông đảo
và cần mẫn, có một lịch sử lâu dài và
một địa lý thuận lợi, chúng ta có mọi triển vọng
để vươn lên nếu thay đổi được tổ chức xã hội.
Việt Nam trong bối cảnh thế giới
Thế giới đang trải qua một chuyển hóa trọng đại mà những
nét đậm nhất đã có thể nhìn thấy.
Các chủ nghĩa đã bị đào thải, nhường chỗ cho những
giá trị tiến bộ đang trở thành phổ cập: hòa
bình, tự do, dân chủ, nhân quyền, nhà nước
pháp trị, đối thoại, hợp tác, lợi nhuận, liên đới
và môi trường.
Dân chủ đang thắng lợi, số lượng các quốc gia từ bỏ chế độ
độc tài để chuyển sang dân chủ ngày càng
đông. Sự chuyển đổi về dân chủ đã không
gây ra bạo loạn tại quốc gia nào, trái lại
đã đem lại trật tự và ổn vững.
Các liên minh ý thức hệ đã chấm dứt, nhường
chỗ cho những kết hợp giữa các nước cùng khu vực hoặc văn
hóa trong mục đích giúp nhau cùng tiến.
Vai trò của các chính quyền quốc gia đang
sút giảm. Các qui ước quốc tế ngày càng
nhiều và dần dần thay cho luật pháp quốc gia, các
công ty đa quốc gia tầm vóc lớn xuất hiện ngày
càng đông đảo và đang trở thành những trung
tâm quyền lực mới, trong nhiều trường hợp có trọng lượng
và ảnh hưởng lớn hơn đa số các nước.
Chính ý niệm quốc gia dân tộc cũng đang bị
xét lại. Ý niệm tổ quốc thiêng liêng phải
được phụng thờ vô điều kiện không còn hợp thời nữa.
Muốn tồn tại được quốc gia phải cần thiết và có
ích cho người dân, phải là một phúc lợi thay
vì một gánh nặng.
Trong một bối cảnh thế giới tranh đua, các dân tộc chậm
tiến như Việt Nam một mặt bị đặt trước nguy cơ bị chèn ép
và bóc lột, mặt khác do xu hướng tự động
hóa dần dần mất đi một vũ khí chiến lược là
nhân công rẻ, về lâu về dài chỗ đứng
trên thế giới và chính sự tồn tại cũng bị đe dọa.
Bù lại, bối cảnh thế giới mới cũng đem lại những vận hội rất tốt
mà các dân tộc chậm tiến có thể tận dụng để
vươn lên : các tập đoàn độc tài không
còn được nâng đỡ và che chở nữa, các
dân tộc đủ quyết tâm có thể loại bỏ chúng để
tiến tới dân chủ và tổ chức lại đất nước một cách
hợp lý ; sự cạnh tranh gắt gao khiến cho việc thu hút tư
bản và kỹ thuật trở thành dễ dàng ; thế liên
thuộc tự nhiên trong một thế giới ngày càng nhỏ lại
buộc các nước tiên tiến phải tạo điều kiện thuận lợi cho
hòa bình và phát triển ; khả năng chấp nhận
những cố gắng và hy sinh lớn hơn cho phép các nước
chậm tiến lợi dụng được chính sự phồn vinh tại các nước
đã phát triển để tiến nhanh hơn.
Việt Nam có đầy đủ những điểm lợi và điểm bất lợi của một
nước chậm tiến nhưng cũng có những nguy cơ và triển vọng
của riêng mình.
Chúng ta là một quốc gia rất cô lập do sự ngoan cố
duy trì một chế độ độc tài và một chủ nghĩa
đã bị thế giới vứt bỏ. Cuộc chiến thảm khốc và
cách quản lý thô bạo không những đã
làm tiêu hao tài nguyên mà còn
hủy hoại một cách trầm trọng môi trường và
làm xuống cấp con người. Các tệ nạn xã hội gia
tăng, các giá trị nền tảng ngày càng phai
nhạt. Xã hội ngày một thêm rối loạn do trộm cướp,
buôn lậu, tham nhũng, mafia. Nguy hiểm hơn nữa là sự
chán chường của dân chúng. Đại đa số người Việt Nam
hiện nay không những chỉ thù ghét chính
quyền mà còn mất cả lòng tin ở đất nước. Mồi nguy
lớn nhất là những người cầm quyền không ý thức được
sự thờ ơ báo động của người dân, do đó vẫn tiếp tục
cai trị một cách thách đố khiến quần chúng
ngày càng lãnh đạm hơn với đất nước. Những biện
pháp mở cửa mà chính quyền cộng sản bắt buộc phải
chấp nhận đã cải tiến đáng kể đời sống nhân
dân nhưng sự ngoan cố từ chối cải tổ chính trị vẫn
kìm hãm đất nước trong trì trệ.
Nhưng chúng ta cũng có nhiều triển vọng lớn : một
ngôn ngữ thuần nhất, dễ học và đủ để chuyên chở mọi
kiến thức ; một dân tộc đông đảo và cần mẫn,
có khả năng học hỏi và thích nghi cao ; một địa
lý khá thuận lợi ; một lịch sử sống chung dài
và một sự gắn bó lớn với quê cha đất tổ. Lợi điểm
lớn nhất là chúng ta đã có thay đổi tư duy,
đã đạt tới đồng thuận trên rất nhiều điểm cơ bản.
Đồng thuận nền tảng
Chủ thuyết để làm lại và thăng tiến đất nước của Tập Hợp
Dân Chủ Đa Nguyên đặt trên bốn chọn lựa cốt
lõi sau đây :
1. Quốc gia Việt Nam phải được quan niệm như
là một không gian liên đới và một dự
án tương lai chung. Trong quan niệm ấy, nhà nước chỉ
là công cụ để thực hiện một đồng thuận dân tộc,
đúc kết của những nguyện ước cá nhân được
phát biểu một cách tự do. Nhà nước ấy phải ở trong
và ở dưới quốc gia, và phải xuất phát từ chọn lựa
tự do của dân chúng.
2. Thể chế của Việt Nam phải là thể chế
dân chủ đa nguyên, tôn trọng mọi khác biệt
và dành chỗ đứng ngang nhau cho mọi người và cho
mỗi người. Nhà nước phải thực sự tản quyền, cho phép
các địa phương tự tổ chức sinh hoạt của mình theo những
điều kiện đặc biệt. Nhà nước tự coi như có sứ mệnh phục
vụ xã hội dân sự và tạo điều kiện để xã hội
dân sự phát triển và đem lại phúc lợi cho
đất nước. Nhà nước đặt nền tảng trên thỏa hiệp thay
vì xung khắc, không áp dụng một cách
máy móc nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số.
Nhà nước coi công bằng xã hội là một ưu tư
thường trực. Nhà nước dân chủ đa nguyên phải
là một nhà nước nhẹ, tuyệt đối tôn trọng và
thực thi luật pháp, tập trung vào sứ mệnh hòa giải
những tranh chấp, trọng tài các quan hệ trong xã
hội dân sự và chế tài những vi phạm.
3. Hòa giải và hòa hợp
dân tộc là một bắt buộc. Hòa giải để xóa bỏ
những hận thù và hiềm khích do lịch sử để lại giữa
các sắc tộc, giữa các địa phương, giữa các
tôn giáo, giữa người dân và chính
quyền. Quan trọng nhất là hòa giải những hận thù
do cuộc chiến và các chính sách phân
biệt đối xử mà chế độ cộng sản để lại. Hòa giải để tiến
tới hòa hợp trong cố gắng xây dựng một tương lai Việt Nam
chung. Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên khẳng định rằng thiếu một
chính sách hòa giải và hòa hợp
dân tộc thành thực và quả quyết thì Việt Nam
sẽ không có tương lai ngay cả nếu chế độ cộng sản chấm
dứt.
4. Cố gắng phát triển đất nước phải đặt nền
tảng trên kinh tế thị trường, lấy ý kiến và
sáng kiến cá nhân làm động cơ và lấy
lợi nhuận làm chất kích thích. Tập Hợp Dân
Chủ Đa Nguyên khẳng định phát triển là thành
quả của tự do và dân chủ, vì thế cải tổ
chính trị phải đi trước cải tổ kinh tế. Trong bối cảnh Việt Nam
hiện nay, dân chủ hóa thực sự và toàn diện
phải là bước đầu bắt buộc. Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên
cực lực bác bỏ như là một sự bịp bợm lập luận theo
đó muốn phát triển nhanh phải tạm thời giới hạn tự do,
dân chủ và nhân quyền. Tập Hợp Dân Chủ Đa
Nguyên coi ổn định chính trị là cần thiết cho
phát triển, nhưng ổn định không phải là sự lưu giữ
dài hạn một tập đoàn cầm quyền mà là hiến
pháp dân chủ và ổn vững, luật pháp
không thay đổi đột ngột và tùy tiện. Sinh hoạt kinh
tế thị trường phải đặt nền tảng trên các xí nghiệp
tư, nhà nước không có chức năng kinh doanh.
Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên tin rằng phát triển kinh
tế chủ yếu là một vấn đề tâm lý và văn
hóa, vì thế cần phát huy một văn hóa kinh
doanh, tôn vinh cố gắng làm giàu chính
đáng và gây một tâm lý tin tưởng
và lạc quan trong xã hội. Niềm tin của Tập Hợp Dân
Chủ Đa Nguyên là một nhà nước nhẹ, thực sự
dân chủ và không tham nhũng trong một xã hội
đề cao kinh doanh, chắc chắn sẽ đưa tới phát triển.
Những định hướng lớn
- Xây dựng đất nước trên những giá trị tiến bộ thay
vì trên một chủ nghĩa. Những giá trị tiến bộ
đó là hòa bình, tự do, dân chủ,
bình đẳng, nhân quyền, nhà nước pháp trị,
đối thoại, hợp tác, lợi nhuận, liên đới và
môi trường.
- Lấy tự do làm động lực để phát huy óc
sáng tạo và tinh thần cầu tiến. Trên đất nước Việt
Nam sẽ không thể có ý kiến nào cấm nêu
ra và cũng không thể có đề tài nào
cấm bàn đến.
- Phát huy lòng yêu nước tự nguyện. Lòng
yêu nước là sức mạnh để chinh phục tương lai của dân
tộc với điều kiện là phải tự nhiên và tự nguyện.
Trách nhiệm chính của nhà nước là
làm cho đất nước ngày càng cần thiết, đáng
yêu và đáng tự hào.
- Tôn trọng và phát huy xã hội dân sự.
Xã hội dân sự là toàn bộ những kết hợp của
người dân và được coi là nền tảng của đất nước.
Nhà nước tự coi là có vai trò tạo điều kiện
để xã hội dân sự tạo phúc lợi cho đất nước chứ
không định đoạt và làm thay cho xã hội
dân sự.
- Xác định Việt Nam là đất nước của các cộng đồng.
Đất nước Việt Nam không phải là của riêng sắc tộc
Kinh. Lịch sử và văn hóa Việt Nam phải được coi là
lịch sử và văn hóa của mọi sắc tộc đã kết hợp lại
để tạo thành đất nước Việt Nam. Cộng đồng người Việt hải ngoại
phải được coi là thành phần khắng khít của đất
nước. Mọi người Việt Nam sinh sống tại hải ngoại phải được coi
là những công dân với đầy đủ quyền lợi và
nhiệm vụ.
- Chọn lựa dứt khoát kinh tế thị trường. Những gì tư
nhân có thể làm nhà nước sẽ không
làm.
- Không ngừng cảnh giác bảo vệ công bằng xã
hội. Bảo vệ những người yếu kém, bảo đảm cơ may thăng tiến đồng
đều cho mọi người, trước hết là qua giáo dục và
đào tạo.
- Tiến tới một nền kinh tế công nghiệp và dịch vụ. Việt
Nam không có chức năng lâu dài của một nước
nông nghiệp. Cố gắng chuyển hóa Việt Nam thành một
nước công nghiệp và dịch vụ là cần thiết và
cấp bách, bắt đầu từ kỹ nghệ thực phẩm. Một quan tâm đặc
biệt sẽ được dành cho ba ngành : tin học, du lịch
và hàng hải. Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên
không tán thành việc thiết lập những khu kinh tế
đặc biệt mà chủ trương dành tất cả mọi dễ dãi cho
kinh doanh trên toàn lãnh thổ.
- Theo đuổi một chủ nghĩa nước nhỏ. Khiêm tốn và
hòa hoãn với mọi quốc gia, nhẫn nhục hôm nay để
giàu mạnh ngày mai.
- Thực hiện một chính sách đối ngoại hòa
bình và một chính sách láng giềng
tốt. Tìm mọi cơ hội để thắt chặt quan hệ hợp tác với
các nước đã phát triển mạnh, đặc biệt là
Hoa Kỳ. Phát huy mọi sáng kiến để hóa giải những
vấn đề còn tồn đọng với Lào, Kampuchea và Trung
Quốc, đi đến quan hệ láng giềng tốt.
- Ngăn chặn đà gia tăng dân số, chủ yếu qua cố gắng thăng
tiến phụ nữ và bảo trợ người già.
Chế độ chính trị
Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên khẳng định rằng :
- Đa nguyên chính trị không phải là
nguyên nhân đưa tới lạm phát chính đảng. Số
lượng chính đảng tùy thuộc chủ yếu vào thể thức
đầu phiếu. Tự do và dân chủ cũng không hề tạo ra bất
ổn, trái lại còn là điều kiện cần để có ổn
định chính trị. Mặt khác, ổn định chính trị
không thể đồng nghĩa với sự duy trì dài hạn một
đảng cầm quyền.
- Tản quyền không đưa tới nạn sứ quân, trái lại
còn đóng góp vào sự thống nhất thực sự của
đất nước vì cho phép các địa phương phát
triển hài hòa theo điều kiện đặc thù của
riêng mình, vì thế mà các địa phương
càng thấy ràng buộc với đất nước.
- Quan tâm lớn nhất của chúng ta là phải thiết lập
dân chủ bền vững và loại bỏ mọi cơ nguy có thể đưa
tới sự tái lập một chế độ độc tài.
Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên đề nghị một chế độ dân chủ
đại nghị và tản quyền.
Lãnh thổ sẽ được qui định thành từ 10 đến 15 vùng,
mỗi vùng gồm một số tỉnh hiện nay, có nghị viện và
chính quyền riêng, được quyền tự quản, được quyền ban
hành những đạo luật địa phương không mâu thuẫn với
luật pháp quốc gia và được giao phó phần lớn
trách nhiệm tư pháp và an ninh trật tự trong
vùng.
Ngoại giao, quốc phòng và tiền tệ hoàn toàn
thuộc chính quyền trung ương.
Cơ quan quyền lực cao nhất là quốc hội mà đại đa số
dân biểu được bầu ra theo thể thức bầu cử đơn danh và một
vòng.
Một thượng nghị viện sẽ đại diện cho các vùng, có
quyền yêu cầu quốc hội xét lại các đạo luật
và có quyền đề nghị và khuyến cáo đối với
chính phủ.
Chính phủ do một thủ tướng đứng đầu. Thủ tướng do quốc hội bầu
ra và chịu trách nhiệm trước quốc hội. Thủ tướng được
quyền chỉ định các bộ trưởng.
Tổng thống là nguyên thủ quốc gia, không giữ một
quyền hành cụ thể nào, có vai trò nghi
thức, bảo đảm sự liên tục, ổn vững và đoàn kết của
quốc gia.
Pháp viện tối cao có quyền phán quyết tính
hợp hiến của các đạo luật, trọng tài những tranh tụng
giữa các cơ quan quyền lực, chung thẩm các bản án
của mọi tòa án và xét xử những cấp
lãnh đạo cao nhất của nhà nước.
Các chính đảng được coi là thành tố cần
thiết của sinh hoạt chính trị và được tài trợ do
ngân sách quốc gia theo trọng lượng chính trị thể
hiện qua các cuộc bầu cử, ngược lại bị cấm hoạt động kinh
tài và nhận trợ giúp của các công ty.
Sách lược đấu tranh để chấm dứt độc tài
và thiết lập dân chủ
Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên nhận định các điều kiện
khách quan để cuộc vận động dân chủ thành
công đã gần hội đủ, chỉ còn thiếu một yếu tố, cũng
là yếu tố quan trọng nhất, là một kết hợp dân chủ
có tầm vóc. Để giành thắng lợi cho dân chủ,
Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên đề nghị một chiến lược đấu tranh
gồm những công tác trọng điểm sau đây :
- Thức tỉnh dân chúng về sự cần thiết của một lối
thoát chung cho đất nước. Thuyết phục quần chúng từ bỏ
chủ nghĩa luồn lách, cam chịu chế độ và tìm giải
pháp cá nhân để tự gỡ rối. Mọi người nên
và phải tham gia vào cuộc vận động dân chủ
vì nước và vì mình.
- Giành thắng lợi dứt khoát về mặt tư tưởng và
lý luận. Bẻ gãy những lý luận ngụy biện gian
trá chống dân chủ của tập đoàn độc tài ngoan
cố và thuyết phục quần chúng rằng dân chủ
không những cần thiết để bảo đảm tự do và phẩm giá
cho mọi người mà còn là điều kiện không thể
thiếu để phát triển đất nước ; dân chủ không hề đưa
tới hỗn loạn mà còn là điều kiện bắt buộc để
khôi phục lòng yêu nước và ý thức
trách nhiệm, bảo đảm trật tự an ninh lâu dài.
- Yểm trợ mạnh mẽ cuộc đấu tranh đòi dân chủ trong nước.
Khuyến khích, tiếp tay và hỗ trợ để đưa cuộc đấu tranh
cho dân chủ ở trong nước từ giai đoạn của những phản kháng
cá nhân sang giai đoạn đấu tranh công khai có
phối hợp và có tổ chức.
- Đẩy mạnh và gia tăng hiệu năng của các cố gắng động
viên sự yểm trợ của thế giới cho cuộc vận động dân chủ. Tập
Hợp Dân Chủ Đa Nguyên đề nghị phối hợp các cố gắng
ngoại vận trong tinh thần vận động cho thắng lợi chung và giới
thiệu đối lập dân chủ Việt Nam trước thế giới như một giải
pháp thay thế đáng tin cậy.
- Xúc tiến sự hình thành của một mặt trận
dân chủ. Mặt trận dân chủ phải mở cửa cho mọi người
dân chủ không phân biệt quá khứ chính
trị, không phân biệt thành phần, nhưng ngược lại
cũng chỉ mở cửa cho những người dân chủ thực sự. Mặt trận
dân chủ sẽ đặc biệt hoan nghênh sự tham gia của những người
dân chủ đã hoặc đang hiện diện trong đảng và
nhà nước cộng sản. Khi chính quyền cộng sản đã
nhượng bộ và chấp nhận luật chơi dân chủ, mặt trận sẽ hoạt
động công khai và cơ quan lãnh đạo sẽ đặt ở trong
nước. Chừng nào chính quyền cộng sản còn cấm
đoán và đàn áp, các hoạt động sẽ
kín đáo và cơ quan lãnh đạo sẽ đặt ở nước
ngoài. Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên sẽ dồn mọi cố gắng
để đóng góp tích cực cho việc hình
thành và phát triển của mặt trận dân chủ
này trong tinh thần khiêm tốn và nhân nhượng.
- Mặt trận dân chủ sẽ tập trung mọi cố gắng và sáng
kiến để vận động áp lực quần chúng trong nước và
áp lực quốc tế buộc chính quyền cộng sản phải chấp nhận
bầu cử tự do và sau đó sẽ phấn đấu để giành thắng
lợi trong những cuộc bầu cử tự do đó.
- Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên nhận định rằng tình
hình Việt Nam đã gần chín muồi cho một chuyển biến
hòa bình về dân chủ. Áp lực dân chủ
hóa đang gia tăng nhanh chóng, chẳng bao lâu sẽ
buộc chính quyền cộng sản phải nhượng bộ để tránh sụp đổ
trong hỗn loạn. Trong cuộc vận động để gia tăng áp lực dân
chủ hóa và để xây dựng mặt trận dân chủ, cộng
đồng người Việt hải ngoại có vai trò chiến lược quyết
định và cũng có khả năng để đảm nhiệm vai trò
đó. Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên khẳng định rằng đấu
tranh để buộc chế độ cộng sản phải chấp nhận bầu cử tự do là một
cuộc đấu tranh chắc chắn sẽ thắng lợi và trong đó những
người dân chủ Việt Nam dù ở trong hay ngoài nước
đều có vai trò quan trọng như nhau.
Cuộc đấu tranh giành dân chủ chắc chắn sẽ phải trải qua
nhiều thỏa hiệp. Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên sẵn sàng
chấp nhận mọi thỏa hiệp có tác dụng làm gia tăng
vận tốc tiến trình dân chủ hóa, nhưng sẽ
không thể nhượng bộ trên ba điểm căn bản : lý tưởng
dân chủ đa nguyên, tinh thần hòa giải và
hòa hợp dân tộc, phương thức đấu tranh bất bạo động.
Chuyển tiếp về dân chủ
Chuyển tiếp từ một chế độ độc tài toàn trị, nhất
nguyên, tập trung và chuyên quyền, đặt nền tảng
trên quốc doanh, coi thông tin và giáo dục
như những dụng cụ tuyên truyền và nhồi sọ sang một chế độ
dân chủ đa nguyên, tản quyền và phân quyền,
lấy kinh tế thị trường và xí nghiệp tư làm nền
tảng, coi thông tin và giáo dục như những phương
tiện để khai phóng và thăng tiến là một công
trình vừa cực kỳ khó khăn, vừa phải thực hiện nhanh
chóng để không làm thất vọng những kỳ vọng của quần
chúng, lại vừa cần mọi thận trọng để tránh đổ vỡ.
Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên nhận định rằng đất nước sẽ cần
một thời gian chừng năm năm trước khi sinh hoạt dân chủ thực sự
đi vào nề nếp. Trong giai đoạn này chính quyền
dân chủ sẽ phải giải quyết các vấn đề theo một thứ tự ưu
tiên.
Chính trị :
- Trả chính quyền về cho nhân dân : phi chính
trị hóa guồng máy hành chính, quân
đội và công an.
- Thực hiện hòa giải và hòa hợp dân tộc. Cấm
tuyệt đối mọi hành động trả thù báo oán.
Lưu dụng mọi cán bộ công nhân viên và
quân đội. Mọi thay đổi nhân sự phải thuần túy do
lý do kỹ thuật. Phục hồi danh dự và bồi thường thiệt hại,
ít nhất một cách tượng trưng cho nạn nhân của bạo
lực và bất công trong quá khứ. Soạn thảo và
đem biểu quyết qua trưng cầu dân ý một đạo luật về
hòa giải và hòa hợp dân tộc.
- Bầu cử quốc hội lập hiến và ban hành một hiến
pháp dân chủ cho Cộng Hòa Việt Nam. Hiến
pháp sẽ thể hiện đầy đủ và quả quyết mọi quyền công
dân, qui định chế độ dân chủ đại nghị tản quyền. Các
đạo luật sẽ được rà soát lại để tu chính theo tinh
thần dân chủ và bổ túc nếu cần. Án tử
hình sẽ được bãi bỏ.
- Ngay khi tình hình tạm ổn vững, một đạo luật về tản
quyền sẽ được đưa ra để quốc hội thảo luận và biểu quyết.
Nguyên tắc chỉ đạo là các vùng phải
khá thuần nhất về mặt địa lý, giao thông và
chức năng kinh tế và phải có tầm vóc đủ để
có thể tự quản và phát triển được.
Văn hóa xã hội :
- Tăng cường trật tự an ninh. Cải tổ bộ máy an ninh, chuyển lực
lượng công an chính trị sang tăng cường cho công
tác bảo vệ trật tự.
- Khắc phục các tệ nạn xã hội. Nghiêm khắc
và quả quyết bài trừ tham nhũng, buôn lậu và
các băng đảng. Vận động sử hưởng ứng tối đa của báo
chí và xã hội dân sự vào cố gắng
lành mạnh hóa xã hội.
- Bãi bỏ hoàn toàn và vĩnh viễn mọi biện
pháp kiểm duyệt, ban hành tự do báo chí
và ngôn luận.
- Bảo đảm sự khách quan và đúng đắn tuyệt đối của
các sách giáo khoa và qui định một
trình độ văn hóa tối thiểu bắt buộc cho thanh niên,
ít nhất tới hết lớp 9. Vận động sinh lực toàn quốc cho cố
gắng văn hóa, giáo dục.
- Cải thiện môi trường và danh lam thắng cảnh. Chấm dứt
nạn phá rừng, đánh bắt hải sản vô trách
nhiệm, kiểm soát nghiêm túc cách xử
lý các phế liệu.
- Chặn đứng tệ bán đất một cách mờ ám, vụ lợi cho
người ngoại quốc, cho phép và khuyến khích người
Việt hải ngoại mua nhà đất tại Việt Nam.
Kinh tế :
- Giải tư đại bộ phận các xí nghiệp quốc doanh và
tư hữu hóa ruộng đất. Việc giải tư các xí nghiệp
quốc doanh sẽ được thực hiện nhanh chóng và hoàn
tất sau hai năm. Chính sách tư hữu hóa ruộng đất
sẽ hoàn tất sau năm năm.
- Khuyến khích tối đa đầu tư kể cả đầu tư nước ngoài.
Bãi bỏ từng bước các đạo luật về đầu tư nước
ngoài, ban hành một đạo luật kinh doanh áp dụng
cho cả người Việt lẫn người ngoại quốc. Bãi bỏ những giấy
phép đầu tư, qui định thời gian làm thủ tục mở công
ty không thể quá hai tuần lễ.
- Đẩy mạnh sự phát triển của thị trường nội địa, đặc biệt khuyến
khích tiểu thương. Đặt mục tiêu nông cao mức sống
nông dân.
- Dồn cố gắng cho hai công trình giao thông chiến
lược là xa lộ hóa quốc lộ Xuyên Việt và hiện
đại hóa đường xe lửa Thống Nhất. Tân trang và khai
thác cảng Cam Ranh như là một trong những công
trình trọng điểm để phát triển miền Trung.
Đất nước sẽ vươn lên
Mặc dầu mọi đổ vỡ, phí phạm và chậm trễ, người Việt Nam
vẫn có quyền lạc quan. Đất nước ta tuy có vấp ngã
nhưng vẫn còn đủ sức để gượng dậy và đi tới.
Bình thường hóa quan hệ giữa người Việt Nam với nhau.
Long trọng xác nhận đất nước là của chung mọi người chứ
không phải là của riêng một đảng hay một chủ nghĩa.
Nhìn nhận chỗ đứng ngang nhau cho mọi người và cho mỗi
người. Cởi bỏ những xiềng xích của hận thù và bất
dung để nhìn nhau như anh em và quyết tâm
cùng nhau xây dựng một tương lai chung. Tất cả những điều
này chúng ta đều có thể làm và đều
có thể làm ngay. Rồi chúng ta sẽ cùng nhau
khám phá ra sự mầu nhiệm của những giá trị rất đơn
giản như tự do, dân chủ, hòa hợp dân tộc.
Chế độ độc tài này sẽ là chế độ độc tài
cuối cùng tại Việt Nam. Rũ bỏ được nó, đất nước ta sẽ
vĩnh viễn đi vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của tự
do, dân chủ và bao dung, kỷ nguyên của những cố gắng
chung và của thành công chung.
Làm người Việt Nam trong thế kỷ 20 đã là một điều
bất hạnh thì làm người Việt Nam trong thế kỷ 21 sẽ phải
là một niềm vui, một may mắn và một nguồn hãnh
diện.
Thế giới đã biết đến Việt Nam như là nạn nhân của
hận thù và chia rẽ, của óc độc quyền lẽ phải
thì thế giới sẽ phải biết đến Việt Nam sau này như
là vùng đất của sự bao dung, như là một mẫu mực
thành công của tình anh em tìm lại, của sự
hồi sinh từ hoang tàn và đổ nát.
Đó là giấc mơ Việt Nam mà trên thềm thế kỷ
21 Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên muốn chia sẻ với đồng
bào trong và ngoài nước.
Nguồn:
http://www.thongluan.org
Trang mạng Việt Nam Văn Hiến
Trang Dân Chủ Đa
Nguyên
www.vietnamvanhien.net
email: thuky@vietnamvanhien.net
Trang
mạng Việt Nam Văn Hiến là nơi bảo tồn di sản văn hóa của
Việt tộc
và phục hồi nền An Lạc
& Tự Chủ.
|