Năm Thứ 4889


www.vietnamvanhien.net



Quan niệm của Phan Bội Châu về Dân Quyền 


Phan Bội Châu (1867-1940)


Tiểu Sử Phan Bội Châu



Phan Bội Châu sinh vào tháng Chạp năm Đinh Măo,  tức là năm Tự Đức thư 20 (1867), cha mẹ đặt tên là Phan Văn San. Về sau, v́ sợ phạm húy với Hoàng tử Vĩnh San, tức vua Duy Tân, con thứ của vua Thành Thái, nên đổi lại là Phan Bội Châụ Bội-Châu có nghĩa là đeo ngọc.

Sinh trưởng trong một gia đ́nh lễ giáo, thân phụ ông là Phan Văn Phổ, một nhà nho chân chính rất trọng chữ thanh cần. Thân mẫu ông là bà Nguyễn Thị Nhàn, một nữ sĩ được tiếng là người đức hạnh.

Phan Bội Châu quê ở xă Đông Liệt, tỉnh Nghệ An. Năm lên 3 tuổi, ông phải theo cha mẹ về ở nơi quê của nội tổ ở làng Đan Nhiệm, tổng Xuân Liễm, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.

Từ thuở bé, Phan Bội Châu đă được hấp thụ một nền giáo dục rất chặt chẽ nhờ vào sự đảm đang nuôi nấng, dạy dổ của mẫu thân, nhưng phần lớn cũng nhờ vào sự nghiêm khắc của thân phụ, lúc bấy giờ làm nghề dạy học.

Phan Bội Châu rất mực thông minh. Năm lên 6 tuổi được cho đi học, chỉ trong ba ngày, ông học he^'t  cuốn Tam Tự Kinh. Lên bảy tuổi học đến sách Luận ngữ, ông đă mô phỏng để làm cuốn Phan tiên sinh luận ngữ, có ư mỉa mai chúng bạn nên bị phụ thân quở phạt. Năm 1874, ở Nghệ An có phong trào Văn Thân, dù chỉ mới là một đứa bé lên tám, Phan Bội Châu cũng muốn noi gương của Trần Quốc Toản xưa đă giúp Hưng Đạo Vương để đại phá quân Nguyên ở Bến Chương Dương nêu cao lá cờ phá cường tặc báo hoàng ân nên ông đă tụ tập bọn trẻ con lại để tập trận giả bằng những súng đạn do chính ông
làm ra.

Năm 1885, hưởng ứng phong trào Cần Vương, Phan Bội Châu tổ chức Sĩ-tử Cần Vương đội. Nhưng nhận thấy rằng công cuộc Cần Vương chỉ có thể đem lại kết quả tốt đẹp khi nào người lănh đạo là một nhân vật có chân khoa bảng xuất thân, nhất là phải có danh vọng, ông phải đành quay về với lối học cử nghiệp.

Dù rất thông minh và hay chữ, Phan Bội châu thi Hương bao nhiêu lần vẫn trượt. Sở dĩ có chuyện lạ
như thế v́ :

* Lối văn khoa cử không thích hợp với người đă có sẵn một tinh thần cách mạng. Do đó, Phan Bội Châu không chịu ép ḿnh trong khuôn khổ của trường quy.

* Nhà nghèo, ông thường làm bài mướn để lấy tiền tại trường thị Đă có lần v́ phạm húy, ông bị bôi tên trong danh sách thí sinh trọn đời. Về sau, nhờ sự vận động của quan Tế-Tửu Trường Quốc Tử Giám là Khiêu Năng Tĩnh, thầy học của ông, ông được đi thi lại. Khóa thi Hương năm Canh Tư (1900), ông thi đỗ Thủ Khoa tại trường thi Nghệ An lúc bấy giờ ông đă 33 tuổi.

Năm 1901, ông có thi Hội nhưng không đỗ, ông cũng chẳng màng đến công danh nữa. Con đường cử nghiệp đối với ông chỉ là phương tiện giúp cho ông mưu đồ việc lớn, chớ chí khí của nhà cách mạng lăo  thành Phan Bội Châu đâu đă chịu gởi nơi trường khoa danh.

Tiếng tăm hay chữ và mảnh bằng Giải nguyên đă giúp Phan Bội Châu có uy tín trong việc lănh đạo công cuộc khởi nghĩa Cần Vương. Ông bắt đầu hoạt động mạnh trong nước.

Sau khi Phan Đ́nh Phùng mất, phong trào Cần Vương xuống dần và cơ hồ tan ră, Phan Bội Châu đă nối chí nhà lănh đạo tiền bối. Phan Bội Châu đứng ra kêu gọi dân chúng ở miền Thượng du khởi nghĩa.

Nhận thấy con đường cử nghiệp làm cho dân tộc đi đến chổ yếu hèn, Phan Bội Châu kêu gọi canh tân. Để khích động ḷng ái quốc của nhóm sĩ phu và nhân dân trong nước, ông đă viết ra tập Lưu cầu huyết lệ tâm thư. Ông đă vào Nam ra Bắc để liên lạc với những nhà ái quốc trong nước để vận động cho cuộc cách mạng có kết quả.

Lúc bấy giờ, những người cùng chí hướng với Phan Bội Châu ở miền Trung như Đặng Nguyên Cản, Đặng Thái Thân, Trần Quư Cáp, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng, Phan Chu Trinh, Nguyễn Cần, ở miền Bắc có Nguyễn Thượng Hiền, Lê Đại, Nguyễn Quyên, Lương Văn Can, ở miền Nam có Nguyễn Thần Hiến, Trần Chánh Chiếu. Phan Bội Châu cũng đă lên tận Yên Thế xin gặp Hoàng Hoa Thám. Để cho công cuộc Cần Vương được thống nhất, ông bàn với ông Tiểu La Nguyễn Văn Thành đồng tôn Kỳ Ngoại Hầu Cường Để lên làm Hội Chủ.

Nhận thấy c̣n phải có sự viện trợ của ngoại bang trong việc cách mạng kháng Pháp, ông bàn với các bạn cho ông được xuất dương.

Năm 1905, Phan Bội Châu xuống tàu, giả làm thương khách qua Tàu rồi sau đó sang Nhật.

Sau khi xuống tàu sang Hương Cảng rồi đến Nhật, Phan Bội Châu đến gặp Lương Khải Siêu, người lănh đạo công cuộc duy tân của Trung Hoa và sau cuộc chính biến phải lưu vong sang Nhật. Tại đây, Lương Khải Siêu giới thiệu Phan Bội Châu với những vị chính khách Nhật như Bá tước Đại Ôi và Khuyển Dương Nghị. Hai vị này khuyên ông nên về nước mời Kỳ Ngoại Hầu sang Nhật. Sau đó ít lâu, ông lại sang Nhật.

Năm 1906, Kỳ Ngọai Hầu Cường Để và nhiều du học sinh sang Nhật. Phan Bội Châu lại xin cho các du học sinh vào học ở Chấn Vơ Học Hiệu và Đồng Vạn Thư Viện. Cũng trong năm ấy, ông Phan Chu Trinh sang Hương Cảng và qua Nhật. Hai nhà cách mạng cùng họ Phan đă gặp nhau và luận bàn quốc sự. Dù Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu có bất đồng ư kiến, nhưng cả hai đều rất quư mến nhaụ

Cuối năm 1906, Phan Bội Châu lại về nước một lần nữa để dọ đường hầu để chở khí giới về cho Hoàng Hoa Thám ở Yên Thế.

Năm 1907, Phan Bội Châu lại trở sang Nhật. Sau khi kư thương ước với Pháp xong (năm 1908) chính phủ Nhật đă ra lệnh trục xuất những nhà cách mạng Việt Nam ra khỏi lănh thổ. Phan Bội Châu và các đồng chí phải trở lại Trung Hoa hoạt động.

Năm 1912, do theo lời yêu cầu của các bạn, Phan Bội Châu qua Xiêm (Thái Lan) một thời gian. Cũng trong năm này, cuộc cách mệnh Tân Hợi của Trung Hoa thành công. Từ Xiêm, ông trở lại Trung Hoa, lập ra Việt Nam Quang Phục Hội chủ trương theo chính thể dân chủ.

Năm 1912, Trung Hoa Dân Quốc được thành lập, Phan Bội Châu được đốc quản tại Thượng Hải là Trần Kỳ Mỹ và đô đốc Auq?ng Tây là Hồ Hán Dân giúp đỡ về tài chánh và tinh thần. Trong thời gian này, Phan Bội Châu giữ chức quyền Tổng lư Việt-Nam-Quang-Phục Hội.

Năm 1913, nhân việc ném bom ở Thái B́nh HàNoi Hotel, Hội đồng Đề H́nh của thực dân Pháp xử tất cả 14 án chém, Phan Bội Châu và Kỳ Ngoại Hầu Cường Để đứng đầu sổ.

Quân lính ở tỉnh thành Quảng Đông gây biến, Long Tế Quang đem binh đến dẹp và nhậm chức đô đốc Quảng Đông. V́ ăn của lót của thực dân Pháp, Long Tế Quang bắt Phan Bội Châu giam vào ngục. Chính trong thời gian bi giam giữ, ông đă viết ra tập Ngục Trung Thư Cuộc thương thuyết của Pháp và Long Tế Quang chưa xong th́ chiến cuộc Âu châu bùng nổ (1914-1918), Long tế Quang bị hạ, đảng cách mạng Trung Hoa cứu Phan Bội Châu ra khỏi ngục Quảng Châụ

Năm 1914, Phan Bội Châu lập tại Quảng Châu một cơ quan lấy tên là Tâm Tâm Xă dùng làm nơi liên lạc với những đồng chí và dự định viết sách gởi về nước để giục ḷng yêu nước của đồng bào và tuyên truyền tinh thần dân nước.

Trong tháng ba năm ấy, được biết tin toàn quyền Merlin sang công cán bên Nhựt, Phan Bội Châu liền triệu tập các đồng chí quyết đón đường hạ sát Merlin. Phạm Hồng Thái được chọn th́ hành việc này. Quả bom ở Sa-Điện nổ, tuy không giết được Merlin nhưng đă thức tỉnh được sự say ngủ của đồng bào trong nước và gây một tiếng vang khắp thế giới đều biết.

Năm 1925, nghe theo lời Lư Thụy và Lâm Đức Thụ, Phan Bội Châu gia nhập vào tổ chức Toàn thế giới bị áp bức nhược tiểu dân tộc nhưng sau đó Lư Thụy và các đồng chí lập mưu bắt Phan Bội Châu nộp cho thực dân Pháp để :

1. Tổ chức lấy được một số tiền thưởng (vào khoảng 15 vạn bạc) hầu có đủ phương tiện hoạt động.

2. Gây một ảnh hưởng sâu rộng trong việc tuyên truyền tinh thần ái quốc trong quốc dân.

Thế là Phan Bội Châu bị bắt tại Thượng Hải, bị giải về Hương Cảng rồi về Hải Pḥng, sau cùng bị giam tại nhà giam Hỏa Ḷ, Hà Nội. Để tránh việc làm cho dư luận quá xôn xao về tin Phan Bội Châu bị bắt, thực dân Pháp gắn cho ông cái tên tù quốc phạm là Trần Văn Đức.

Hội Đồng Đề H́nh nhóm xử ngày 25 tháng 11 năm 1925 dưới sự chủ tọa của viên giám đốc Brida, Đốc lư Hàno^.i là Dupuy và đại úy Bollie làm phụ thẩm, Boyer làm bồi thẩm và Arnoux Patrick làm lục sự. Hội Đồng Đề H́nh cử luật sư Bona ở Hànoi và luật sư Larre ở Hải Pḥng biện hộ cho Phan Bội Châu.

Trước những lời lẽ buộc tội gắt gao của Hội Đồng Đề H́nh, Phan Bội Châu ung dung và chẫm răi đối đáp một cách rơ ràng khúc chiết. Để bênh vực cho hành động hợp lư và quang minh chính đại của ḿnh.

Sau khi hay tin Phan Bội Châu bi án tử h́nh, phong trào vận động ân xá cho ông nổi lên rầm rộ. Hội Thanh Niên Việt Nam in ra bốn ngàn lá đơn gởi đến các cơ quan chính phủ Pháp, các sứ thần liệt quốc ở Ba Lê, các tổ chức quốc tế yêu cầu can thiệp. Việt kiều ở Pháp họp đại hội bênh vực Phan Bội Châu, gởi điện tín kháng nghị hoặc yêu cầu tới những cơ quan có liên hệ đến vụ án Phan Bội Châụ

Trước sự công phẩn của quốc dân, ngày 24/12/1925, Toàn quyền Varenne, sau khi đề nghị về Pháp, quyết định xin ân xá cho nhà chí sĩ yêu nước. Sau khi được ân xá, Toàn quyền Varenne đưa Phan Bội Châu về an trí ở miền sông Hương núi Ngự (Huế) gọi là để di dưởng tuổi già nhưng kỳ thật chúng định giam lỏng ông.

Tuy nhiên, tấm ḷng thiết tha yêu nước của ông không v́ thế mà chịu lu mờ. Ông đă âm thầm nhận lănh chức Cố vấn của Việt-Nam-QuốcDDân Đảng. Đă có lần V.N.Q.D.DD định âm mưu đem ông trốn thoát ra ngoại quốc nhưng không thành v́ không sao thoát được sự ḍm ngó của thực dân Pháp.

Năm 1940, khi phái bộ Nhật tiến vào Đông Dương th́ cũng chính là lúc thời cuộc đă chuyển sang giai đoạn mới cho cuộc Cách mạng dân tộc. Tiếc thay, trong giờ phút nghiêm trọng của lịch sử này, nhà cách mạng lăo thành Phan Bội Châu đă ĺa bỏ cơi đời theo tiền nhân về bên kia thế giới, lưu lại cho hậu thế một tấm gương sáng và nổi niềm thương nhớ không nguôi.

Trước giờ sắp lâm chung, ông đă cố gắng lấy hết hơi tàn và góp nhặt thần trí, đọc lên một bài khẩu chiếm có những lời lẽ thống thiết như sau :

Nay đang lúc tử thần chờ trước của
Có vài lời ghi nhớ về sau
Chúc phường hậu tử tiến mau.

Phan Bội Châu mất vào ngày 29/10/1940.

Nguồn: http://xuquang.com/dialinhnk/danhsi/pbcts.htm

 
Nguyễn Văn Ḥa

  Tiến sĩ, Giám đốc trung tâm đào tạo từ xa, Đại học Huế
  Tạp chí Triết học
   


Bài viết tŕnh bày và phân tích tư tưởng của Phan Bội Châu về dân quyền, cũng như ư nghĩa của tư tưởng dân quyền đó đôi với việc thực hiện quốc quyền , tức là quyền độc lập, tự chủ của dân tộc Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XX. Tiếp đó, bài viết tŕnh bày và phân tích tư tưởng của Phan Bội Châu cho rằng: muốn thực hiện được quốc quyền, chế độ chính trị của Việt Nam khi đó phải chuyển từ quân quyền sang dân quyền theo xu thế phát triển tất yếu của thời đại, với việc nâng cao dân trí thông qua giáo dục.

Dưới ảnh hưởng của các trào lưu tư tưởng phương Tây, đặc biệt từ khi qua Nhật Bản và được chứng kiến một nước có truyền thống Nho học do biết tiếp nhận và vận dụng những tư tưởng tiến bộ của Phương Tây vào công cuộc duy tân mà trở nên hùng cường; được nghiên cứu và trao đổi về nguyên nhân cách mạng xă hội, về chính thể của các nước, về tư tưởng tự do, b́nh đẳng, bác ái, dân quyền, dân trí và các biện pháp duy tân của Môngtexkiơ, Vônte, Rút xô..., ở Phan Bội Châu đă h́nh thành nên một quan niệm mới - quan niệm về dân quyền. Quan niệm này chứa đựng một nội dung mới mẻ và không kém phần phong phú, thể hiện mục đích thiêng liêng cứu nước, giải phóng dân tộc để đem lại tự do, hạnh phúc cho dân, đem lại quyền lực cho dân, để cho người dân trở thành chủ thể của các quyền lực trong xă hội.

Vấn đề dân quyền là vấn đề mới mẻ đối với các sĩ phu yêu nước Việt Nam trong những năm đầu của thế kỷ XX. Bởi lẽ, ở thời điểm đó, dân quyền là cái chưa có trong kho tàng tư tưởng của dân tộc ta, mà phải tiếp thu từ những trào lưu tư tưởng Âu Mỹ. Trước sự bất lực của hệ tư tưởng phong kiến, mà ṇng cốt là tư tưởng Nho giáo trong việc bảo vệ đất nước nửa cuối thế kỷ XIX và yêu cầu giải phóng dân tộc hồi đầu thế kỷ XX, với ḷng yêu nước nồng nàn, tài năng và sự mẫn cảm của ḿnh, Phan Bội Châu đă t́m kiếm và tiếp nhận những trào lưu tư tưởng phương Tây, đặc biệt là tư tưởng dân quyền - một thứ vũ khí tư tưởng mới lạ trong thời đại "châu Á thức tỉnh" sau "giấc ngủ" quân chủ.

Dưới chế độ phong kiến, nửa thực dân, người dân Việt Nam chỉ có trách nhiệm và nghĩa vụ phục tùng vô điều kiện yêu cầu của kẻ bề trên. Họ bị tước bỏ tất cả mọi quyền hành, họ chưa bao giờ là chủ thể của quyền lực. Bằng sự trải nghiệm của ḿnh, Phan Bội Châu cho rằng, không có dân quyền là một trong những nguyên nhân khiến cho nhân dân ta sống trong tủi nhục, cay đắng, khốn khổ và tăm tối. Trong Tân Việt Nam (1907), với sự khảo cứu lịch sử và hiện trạng của nước nhà, Phan Bội Châu đă vạch rơ: "Cái nọc độc chuyên chế của bọn người hại dân ấp ủ đă hàng ngàn năm nay từ bên Trung Quốc lây sang nước ta, đến nỗi một tên độc phu (vua) và vài vạn kẻ dung nhân (quan) làm cá thịt trăm họ dân ta. Thế mà dân ta ngu ngốc khờ dại, không biết giành dân quyền, giữ quốc mệnh, chỉ ngày đêm lo hết ḷng hết sức đem máu mỡ của ḿnh cung đơn cho bọn độc phu, dung nhân uống nuốt? Than ôi! Thật đáng thương thay".(1)

Sự lạc hậu và bất cập của hệ tư tưởng phong kiến, sự thoái hoá của vua quan nhà Nguyễn, sự bắt chước chế độ chuyên chế của nhà Thanh là những chướng ngại lớn trên con đường đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, giành lấy chủ quyền về tay nhân dân. Sự ngự trị của chế độ chính trị cũ kỹ đó cần phải thay thế bằng thể chế chính trị mới mà trong đó người dân có quyền. Theo Phan Bội Châu, dân tộc Việt Nam đă phải trải qua hàng thế kỷ dưới chế độ phong kiến và thực dân nửa phong kiến, đă sống một cuộc sống không có tự do là bởi cái nọc độc chuyên chế đă đầu độc và giết chết dân quyền. Khi dân không có quyền th́ cũng có nghĩa là, họ chỉ là một thứ công cụ để phục tùng quyền lực và ư chí của kẻ khác. Trong khi đó, theo yêu cầu của sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc và canh tân đất nước th́ quyền lực phải thuộc về nhân dân, tức là người dân phải có quyền. Dân quyền vừa là mục đích hướng tới, vừa là điều kiện để huy động sức mạnh của toàn dân, để giải phóng và phát huy mọi năng lực sáng áo của con người.

Đấu tranh để giải phóng dân tộc, để giải phóng con người thoát khỏi sự áp bức, để xem lại quyền cho người dân luôn là điều răn trở, thôi thúc trong Phan Bội Châu. Ngay trong Việt Nam quốc sử khảo (1908), Phan Bội Châu đă dành không ít tâm tuyết để bàn về mối quan hệ giữa dân quyền và quốc quyền, về mầm mống dân quyền ở nước ta, về dân quyền ở nước ta bị hao ṃn, về mối quan hệ giữa dân quyền và dân trí với nội dung khá phong phú. Tuy vậy, khái niệm "dân quyền" chưa được Phan Bội Châu định nghĩa một cách rơ ràng, có chăng chỉ là sự luận giải của ông về nữ quyền. Trong một tác phẩm về vấn đề phụ nữ, Phan Bội Châu dành một chương bàn về nữ quyền. Trong đó, ông viết: "Nữ quyền nghĩa là quyền của người đàn bà con gái, cũng như nam quyền nghĩa là quyền của người con trai. Nhưng, xét cho đến gốc chân lư, thẳm cho tới nguồn triết học th́ nữ quyền với nam quyền tất cả thâu nạp vào trong hai chữ "nhân quyền". Nhân quyền nghĩa là quyền của người mà cũng nghĩa là quyền làm người. Rằng quyền của người tức là các quyền đó là người thời đáng được, rằng quyền làm người tức là đă một con người tất cả các quyền được làm con người mà không phải làm trâu ngựa. Con trai là người, con gái cũng là người, ở trong hai chữ "quyền người" đă bao bọc cả rồi không phải phân biệt nam quyền nữ quyền, nếu phân biệt nam quyền nữ quyền cũng là dư".(2)

Theo cách lập luận trên của Phan Bội Châu, có thể hiểu rằng, dân quyền là quyền của người dân; người dân có quyền đó là lẽ tất yếu, đă là con người dù nam hay nữ đều có quyền làm người và đó cũng chính là giá trị của con người. Do đó, không có dân quyền, hay nói cách khác, không có quyền làm người th́ con người mất hết giá trị, con người không c̣n là con người mà trở thành trâu ngựa. Sự phân biệt nam quyền hay nữ quyền là không cần thiết, bởi là người tất phải có quyền, người dân phải có quyền, tất cả mọi người đều có quyền b́nh đẳng trước pháp luật. Phan Bội Châu cho rằng: "Mọi thứ dân quyền đều được b́nh đẳng".(3) Chứ đâu phải chỉ có vua, cha, chồng mới có quyền, c̣n những người khác th́ không có quyền. Quan điểm này chẳng những khác hẳn quan điểm của Nho giáo về tam cương vốn đă in dấu ấn đậm nét trong tâm thức của mọi người, mà c̣n có tác động thức tỉnh nhân dân ta đứng lên đấu tranh xoá bỏ dấu ấn đó, đứng lên đấu tranh phá bỏ sự áp chế vô lư đương thời để giành lại quyền làm người của ḿnh.

Trân trọng và đề cao quyền làm người, quyền của người dân là một trong những biểu hiện sinh động trong quan niệm của Phan Bội Châu về dân quyền. Đồng thời, ở đây cũng cho chúng ta thấy rơ sự chuyển biến tích cực trong tư tưởng của Phan Bội Châu, ông đă vượt qua hệ tư tưởng phong kiến để tiếp nhận những giá trị tiến bộ trong các trào lưu tư tưởng phương Tây nhằm phát huy và tập hợp sức mạnh của mọi người dân hướng vào sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc và canh tân đất nước. Hướng đến mục đích đó, Phan Bội Châu nhận thức được rằng, dân quyền có quan hệ với quốc quyền, dân quyền có quan hệ với sự thịnh suy và sống c̣n của đất nước.

Theo Phan Bội Châu, dân quyền trở thành tiêu chí quan trọng nhất để xem xét nước c̣n hay mất, nước mạnh hay yếu, giá trị của người dân cao hay thấp, người dân c̣n hay mất. Ngay những ḍng đầu tiên luận giải về mối quan hệ giữa dân quyền và quốc quyền, Phan Bội Châu viết: "Theo công pháp vạn quốc đă định, được gọi là một nước th́ phải có nhân dân, có đất đai, có chủ quyền. Thiếu một trong ba cái ấy đều không đủ tư cách làm một nước. Trong ba cái đó th́ nhân dân là quan trọng nhất. Không có nhân dân th́ đất đai không thể c̣n, chủ quyền không thể lập; nhân dân c̣n th́ nước c̣n; nhân dân mất th́ nước mất. Muốn biết nhân dân c̣n mất như thế nào th́ phải nh́n xem cái quyền của nhân dân c̣n mất như thế nào. Dân quyền mà được đề cao th́ nhân dân được tôn trọng, mà nước cũng mạnh. Dân quyền bị xem nhẹ, th́ dân bị coi khinh, mà nước yếu. Dân quyền hoàn toàn mất th́ dân mất, mà nước cũng mất".(4)

Như vậy, dân quyền chẳng những là tiêu chí mà c̣n là hạt nhân chi phối các yếu tố cấu thành một nước, trong đó nhân dân là cái quan trọng. Cái quan trọng đó c̣n hay mất lại phụ thuộc vào dân quyền. Điều có ư nghĩa sâu sắc nhất ở đây chính là Phan Bội Châu đă xác định rơ vai tṛ và vị trí của dân quyền đối với vận mệnh của đất nước. Đó là điều mà hầu hết các nhà Nho yêu nước cùng thời với Phan Bội Châu không dễ ǵ có thể nhận thức được. Bởi theo họ, dân là gốc của nước, nhưng để đi sâu hơn xem cái gốc đó c̣n hay mất th́ họ gặp phải những khó khăn nhất định. Những khó khăn đó đă ngăn cản họ, không cho họ đi đến nhận thức được vấn đề một cách đúng đắn. C̣n Phan Bội Châu đă vượt lên trên những khó khăn đó để tiếp tục đi sâu và làm rơ vấn đề: "Dân c̣n hay mất là tuỳ thuộc vào dân quyền". Đây là một trong' những biểu hiện sinh động khác về chất so với hệ tư tưởng phong kiến. Điều này đă được Phan Bội Châu chỉ rơ như sau: "Trong đời này nếu không có ông Mạnh Tử thời cái nghĩa "Dân quư" không sáng tỏ ra; nếu không có ông Lư Thoa thời cây cờ "Dân quyền" ai dựng lên được. Nước ta mấy ngh́n năm nay, quyền vua ngang dọc, quyền quan cũng theo đó mà tăng lên, lớn nhất không ai bằng một người, hèn nhất không ai bằng trăm họ. . . , việc đáng thương đáng buồn cho thế đạo, c̣n có ǵ hơn cái ấy nữa".(5) Điều đó có nghĩa là, chỉ có vất bỏ ngọn cờ quân chủ, nắm lấy ngọn cờ dân quyền th́ mới nhận thức được rằng, dân chẳng những là gốc của nước, mà c̣n là chủ của nước.

Nhận thức mới mẻ trên có tác dụng thức tỉnh, giác ngộ mọi người, phát huy sức mạnh của toàn dân tộc, phát huy tính tích cực, tự giác của mỗi con người vào trong mọi hoạt động chính trị, xă hội. Bởi thế, quan tâm đến dân quyền luôn là nội dung chủ yếu, là vũ khí mới lạ trong đường lối hoạt động của Phan Bội Châu.

Trong hoàn cảnh của nước ta lúc bấy giờ, dân quyền là một điều mới mẻ, là một giá trị nhân đạo có sức hấp dẫn, lay động, cổ vũ mọi người đứng lên đấu tranh nên cần phải đem "hai chữ "Dân quyền" mà ḥ hét trong nước, như một tiếng sấm vang, làm cho bao nhiêu giấc mơ phải tỉnh dậy, mà dân ta từ nay dần dần mới biết ḿnh có quyền". Thức tỉnh và giải thoát mọi người thoát khỏi ngực tối dă man, thoát khỏi thân phận trâu ngựa để tiến bước trên con đường đi tới văn minh, tự do, "dân là chủ nước, nước là của dân" là nhiệm vụ cơ bản của sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc.

Trước thực tiễn của phong trào đấu tranh của nhân dân ta trong những năm đầu thế kỷ XX, Phan Bội Châu là một trong những người đầu tiên sớm nhận thức được hệ tư tưởng phong kiến đă hết vai tṛ lịch sử và là chướng ngại trên con đường tiến lên của dân tộc, ngọn cờ quân quyền cần phải hạ xuống để dương cao ngọn cờ dân quyền. Trong Việt Nam quang phục quân phương lược (1912), Phan Bội Châu đă tuyên bố và chỉ rơ cho mọi người thấy rằng: "Phải xoá bỏ chính thể quân chủ, v́ đó là một chính thể rất xấu xa . . . Chính thể Dân chủ cộng hoà là một chính thể rất tốt đẹp . . Quyền bính của nước nhà là của chung toàn dân do nhân dân quyết định. Những dấu vết độc hại của chính thể chuyên chế không c̣n nữa. Rạng rỡ thay dân tộc Việt Nam ta! Trên mặt địa cầu, Việt Nam trở thành một dân tộc hùng cường, hoàn toàn tự do! Đó là một tôn chỉ tôi quan trọng" (7)

Với những bằng chứng cụ thể và sinh động của một số nước phương Tây, Phan Bội Châu đă chứng minh cho mọi người thấy mối quan hệ mật thiết giữa dân quyền và quốc quyền. ông viết: "Nhật, Anh, Đức, Pháp, Mỹ đều là những cường quốc, tức là đều là những nước mà dân quyền được đề cao. H́nh pháp, chính lệnh, thuế khoá, tiêu dùng đều do nghị viện quyết định, mà nghị viện th́ đều do nhân dân tổ chức nên, Chính phủ không được can thiệp vào. Hàng năm đến kỳ nghị viện họp, các nghị viên tụ tập đông đủ, Chính phủ phải tŕnh bày dự án trước nghị hội. Nghị hội tức là nhân dân. Những điều nhân dân cho là phải, chính phủ không thể không làm; những điều nhân dân cho là trái, chính phủ không được làm”.(8)

Theo Phan Bội Châu, dân quyền không thể tồn tại biệt lập với quốc quyền mà trái lại, giữa chúng có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau, trong đó dân quyền luôn được ông đề cao. Theo ông, quốc quyền không phải là một cái ǵ siêu tự nhiên mà thực chất là quyền lực của dân; dân tạo nên quốc quyền; "h́nh pháp, chính lệnh, thuế khóa... đều do nghị viện quyết định, mà nghị viện đều do nhân dân tổ chức nên"; dân uỷ quyền cho nghị viện để thực thi quyền lực của ḿnh - dân quyền; có dân quyền th́ mới có quốc quyền; quốc quyền phải là công cụ để phục vụ dân; dân lập ra quyền lực công cộng để bảo vệ cho cuộc sống của ḿnh, làm chỗ nương tựa cho ḿnh. Quan hệ giữa trách nhiệm và quyền lợi của nhân dân với chính phủ là quan hệ hai chiều, có đi và có lại, chứ không phải quan hệ một chiều khắc nghiệt như quan hệ vua với tôi trong học thuyết chính trị - xă hội của Nho giáo từ Đổng Trọng Thư trở đi. Bởi vậy, Phan Bội Châu cho rằng: "Chính phủ phải dựa vào nhân dân để mà được yên, nhân dân cũng nhờ vào chính phủ mà có giá trị. Nhân dân có nghĩa vụ giám đốc chính phủ. Nhân dân mà làm tṛn nghĩa vụ của ḿnh th́ chính phủ không dám làm sai; chính phủ có nghĩa vụ bảo vệ nhân dân. Chính phủ mà làm tṛn nghĩa vụ của ḿnh, th́ nhân dân không đến nỗi mất chỗ nương tựa. Chính phủ tức là chỉ đại biểu cho cả nước mà thôi. C̣n cái căn bản, cái then chốt th́ toàn là ở dân". (9)

Như vậy, dân quyền là cái cốt lơi, là cái cơ sở, là cái then chốt của quốc quyền, quyền lực của nhà nước phải là quyền lực của dân. Thể chế cộng ḥa chỉ có được khi người dân là người chủ tối thượng của nhà nước. Chính phủ trong khi thực hiện nhiệm vụ của ḿnh phải chịu sự kiểm soát chặt chẽ của nhân dân để cho dân quyền được tôn trọng mà không bị thoái hóa, biến chất trở thành quyền lực độc đoán của một số cá nhân. Quyền lực nhà nước phải tập trung th́ nhà nước và chính phủ, tức là cả cơ quan lập pháp và hành pháp mới thực hiện được nghĩa vụ của ḿnh đối với dân; c̣n dân phải có nghĩa vụ kiểm tra nhà nước, giám đốc chính phủ. Chỉ có thực hiện những nghĩa vụ đó th́ quốc quyền và dân quyền mới được đảm bảo. Bởi v́, xét về thực chất, dân quyền là cơ sở, nền tảng của quốc quyền, c̣n nhà nước không có quyền mà chỉ là thực hiện sự ủy quyền của dân.

Theo Phan Bội Châu, trong việc giải quyết mối quan hệ giữa chính phủ và nhân dân th́ nhân dân là cái cơ bản và then chốt. Do đó, nhân dân phải có trách nhiệm giám sát hoạt động của chính phủ, có như vậy dân quyền mới được tôn trọng và đề cao. Phan Bội Châu cho rằng: "Bao nhiêu việc chính trị đều do công chúng quyết định. Thượng nghị viện phải đợi Trung nghị viện đồng ư, Trung nghị viện phải đợi Hạ nghị viện đồng ư mới được thi hành. Hạ nghị viện là nơi đa số công chúng có quyền tài phán việc của Trung nghị viện và Thượng nghị viện. Phàm nhân dân nước ta không cứ là sang hèn, giàu nghèo, lớn bé đều có quyền bỏ phiếu bầu cử. Trên là vua nên để hay nên truất; dưới là quan nên thăng hay nên giáng, dân ta đều có quyền quyết đoán cả".(10) Ở đây, có thể thấy rằng, mặc dù Phan Bội Châu chưa nêu lên được cơ chế để thực hiện mối quan hệ giữa dân quyền và quốc quyền, giữa nhà nước và nhân dân, giữa nhân dân và chính phủ một cách rơ nét, v́ nền kinh tế - xă hội của nước ta lúc bấy giờ chưa đủ điều kiện để làm cơ sở cho việc thực hiện cơ chế đó, nhưng qua những ǵ đă được tŕnh bày ở trên cũng khiến chúng ta phải thán phục trước những yếu tố tích cực, tiến bộ trong quan niệm của Phan Bội Châu về dân quyền.

Kể từ năm 1905 trở đi, tôn trọng và đề cao dân quyền luôn là vấn đề được Phan Bội Châu quan tâm, bởi lẽ đây chẳng những là vũ khí mới lạ đối với Phan Bội Châu, mà c̣n là khát vọng cháy bỏng của dân tộc Việt Nam, là yêu cầu của hoàn cảnh lịch sử Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XX. Dân tộc phải độc lập, quyền lực phải thuộc về nhân dân. Tư tưởng đó đă phát huy và tập hợp được sức mạnh của đông đảo quần chúng nhân dân hướng vào phục vụ cho sự nghiệp cứu nước giải phóng dân tộc và canh tân đất nước.


Theo Phan Bội Châu, dân quyền không tồn tại biệt lập với dân trí mà trái lại, dân quyền và dân trí có mối quan hệ mật thiết với nhau. Phan Bội Châu cho rằng: "Dân quyền được tôn trọng là do dân trí đă lên cao... Nền cộng ḥa của nước Pháp, nước Mỹ là do dân trí mà có; nền lập hiến của Nhật, Anh, Đức cũng do dân trí mà ra".(11) Nghĩa là, nâng cao dân quyền phải đi đôi với nâng cao dân trí. Người dân phải hiểu và biết sử dụng quyền hạn của ḿnh, phải biết kiểm soát chính phủ, phải biết đề xuất các ư kiến với nhà nước để điều chỉnh, bổ sung, sửa chữa chính sách cho phù hợp với yêu cầu của cuộc sống, phù hợp với yêu cầu chính đáng của ḿnh. Đành rằng, "đă có tai th́ có quyền nghe, đă có mắt th́ có quyền ḍm, đă có miệng th́ có quyền nói, đă có tay chân th́ có quyền hành động. Nhưng mà lại có một cái quyền rất là cao quư tức là cái quyền thẩm phán. Vị thần óc bảo rằng phải là phải. Vị thần óc bảo rằng trái là trái, điều ǵ trái chúng ta nên tránh, điều ǵ phải th́ chúng ta phải nghe theo. Vị thần óc đó là một chúa tể cho trong toà pháp luật, người ta tự do ở trong pháp luật, ấy là chân chánh tự do; Người ta tự do ở ngoài ṿng pháp luật ấy th́ không phải là chân chánh tự do".(12) Nghĩa là, tự do là nhận thức được cái tất yếu và hành động theo cái tất yếu, v́ thế mỗi bước tiến của nhận thức con người cũng chính là một bước tăng tiến của sức mạnh và quyền lực của con người. Nhận thức rơ vấn đề này, Phan Bội Châu đă từng thốt lên rằng: "Than ôi! Dân trí có công với dân quyền lớn vậy thay!".(13)

Theo Phan Bội Châu, dân quyền phải dựa vào dân trí. Người dân cho dù có quyền lực nhưng không có tri thức th́ làm sao đủ điều kiện để nhận thức, để bàn luận, để đề xuất để kiểm tra? Nếu có th́ cũng chỉ là h́nh thức mà thôi. Dân quyền phải gắn chặt với dân trí. Đó là yêu cầu vừa có tính cấp thiết, vừa có tính lâu dài. Do đó, nâng cao dân trí là một trong những nhiệm vụ chiến lược trong tư tưởng của Phan Bội Châu. Dân quyền sẽ được đề cao trên cơ sở nâng cao dân trí. Trước thực trạng của dân trí nước nhà, Phan Bội Châu cho rằng cần phải nhanh chóng xóa bỏ hủ tục, đổi mới giáo dục, xóa bỏ tính ỷ lại, xây dựng "năo chất độc lập", xóa bỏ sự ngu dại, sự nghi kỵ, sự chia ĺa, xây dựng niềm tin trên cơ sở khoa học để cùng hợp lực bàn tính, thực hiện những công việc chung, đấu tranh v́ lợi ích chung. Bởi v́, thực tế cho thấy, không thể có dân quyền thực sự khi người dân chưa thoát khỏi sự mê muội và tăm tối về trí tuệ; tŕnh độ dân trí thấp kém th́ khó mà tôn trọng và đề cao dân quyền; tŕnh độ dân trí thấp kém th́ người dân khó mà sử dụng một cách chủ động và tối đa quyền lực của ḿnh.

Quan điểm dân quyền nói trên thể hiện yêu cầu cần phải giải phóng mọi người thoát khỏi hệ tư tưởng phong kiến, thoát khỏi nạn "óc đói"; thức tỉnh mọi người, nâng cao tŕnh độ và sự giác ngộ cho mọi người; chủ động tiếp thu những giá trị tinh hoa của nhân loại, đặc biệt là tư tưởng dân chủ và dân quyền của phương Tây. Quan điểm này c̣n thể hiện sự chuyển biến tích cực mới mẻ trong tư tưởng của Phan Bội Châu, từ quân chủ sang dân chủ, từ quân quyền sang dân quyền, từ tôn quân sang tôn dân. Và, ở một mức độ nào đó, xét theo khuynh hướng phát triển, có thể nói, từ xă hội thần dân sang xă hội công dân.

Dân quyền gắn liền với dân trí, v́ vậy nâng cao dân trí là yêu cầu sống c̣n của dân tộc và là xu hướng phát triển tất yếu trên con đường đi đến văn minh, phú cường. Quyền lực của nhà nước thực chất là quyền lực của dân. Bởi thế, pháp luật của nhà nước nếu không dựa vào trí tuệ th́ chỉ là cưỡng bức thô thiển và không thể tồn tại lâu dài được. Nếu không dựa trên tŕnh độ dân trí th́ dân quyền chỉ là h́nh thức, pháp luật của nhà nước chỉ là sự áp đặt từ bên trên và bên ngoài chứ không phải do nhu cầu nội tại của mỗi người dân trong đời sống xă hội. Theo Phan Bội Châu, h́nh pháp văn minh phải dựa vào giáo dục, dựa vào tŕnh độ dân trí th́ mới lâu bền và tạo được sự tự giác từ bên trong. ông viết: "Giáo dục cũng là cái gốc để gây dựng nền chính trị. Thuế khoá, h́nh pháp mọi sự đều do đó mà định". (14) Hoạt động chính trị phải dựa trên tri thức, nâng cao tŕnh độ học vấn của người dân là cơ sở vững chắc để xác lập vị thế, sự sống c̣n, sự giàu mạnh của đất nước cũng như của mỗi người dân. Phan Bội Châu viết: "Phàm người trong một nước mà giàu mạnh được có thể cùng thế giới tranh đua, giành sự sống c̣n, tất phải lấy giáo dục làm cơ sở." (15)

Tư tưởng của Phan Bội Châu về vấn đề dân quyền cần trí tuệ, dân quyền phải đồng hành với dân trí, thể hiện tầm nh́n chiến lược của ông trong việc xây dựng thực lực phục vụ cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc. Phan Bội Châu cho rằng, dân trí lên cao th́ dân quyền được tôn trọng, dân quyền được tôn trọng th́ nước mạnh. Điều đó có nghĩa là, dân trí cao th́ nước mạnh, dân trí thấp th́ nước yếu. Tương đồng với tư tưởng đó, sau này, Hồ Chí Minh có quan điểm: "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu".

Dân quyền, dân trí, văn minh của nước nhà là một thể thống nhất không thể chia cắt và có mối quan hệ mật thiết với nhau. Nước Việt Nam phải do người Việt Nam làm chủ bằng bản lĩnh và trí tuệ của ḿnh.

Trí tuệ cần phải được nâng lên thông qua con đường giáo dục. Bởi v́, "dân là chủ nước, nước là của dân". Với khẳng định đó, Phan Bội Châu tin tưởng rằng: "Sau khi duy tân rồi, th́ dân trí sẽ mở mang, dân khí sẽ lớn mạnh, dân quyền sẽ phát đạt; vận mệnh nước ta do dân ta nắm giữ".(16) Nâng cao dân trí cũng là giải pháp để đ̣i lại dân quyền. Vậy làm thế nào để nâng cao dân trí? Theo Phan Bội Châu, giáo dục là cái gốc để gây dựng nền chính trị, là khuôn đúc người, là biện pháp hữu hiệu nhất, là phương thuốc tốt nhất để nâng cao tŕnh độ dân trí. V́ thế, xă hội phải quan tâm đến giáo dục, giáo dục là quyền được học của người dân. Phan Bội Châu viết: "Mọi việc mà dân ta cần học đều mời thầy, mở trường để cho người nước ta bất kỳ giàu nghèo sang hèn, trai gái hễ từ năm tuổi trở lên, th́ vào học ở trường ấu trĩ viện; để chịu sự giáo dục của bậc ấu trĩ; tám tuổi trở lên, th́ vào học ở trường tiểu học, để chịu sự giáo dục của bậc tiểu học; mười bơn tuổi trở lên, th́ vào học ở trường trung học, để chịu sự giáo dục của bậc trung học; đến tuổi mười tám th́ tài chất đă khá, th́ vào trường cao đẳng, để chịu sự giáo dục của trường cao đẳng chuyên nghiệp". (17)

Nhận thức được rằng, tri thức đem lại quyền lực và sức mạnh cho con người, c̣n học tập được coi là sự tạo lập quyền lực của người dân, Phan Bội Châu cho rằng, mọi người trong nước ai cũng phải đi học, chi phí học tập cho mọi người đều do nhà nước và xă hội gánh chịu; nội dung giáo dục phải gắn với cuộc sống, phải hướng đến bồi dưỡng ḷng yêu nước, khai dân trí, giúp dân quyền. Giáo dục phải giúp cho con người làm chủ vận mệnh của nước nhà, chứ không phải giống như nền giáo dục đương thời mà thực dân Pháp thực hiện ở nước ta nhằm biến người dân Việt Nam thành những con trâu, con ngựa ngoan ngoăn những tên nô lệ mắt mù, tai điếc, chân tay tê liệt, những kẻ chỉ biết cúi đầu phục tùng. Quan niệm này của Phan Bội Châu không những có tác dụng lay động, thức tỉnh nhân dân ta, mà c̣n dấy lên các phong trào Duy tân, Đông du hoạt động khá sôi nổi ở nước ta, trong hai thập niên đầu của thế kỷ XX. Nó c̣n đáp ứng được khát khao cháy bỏng về một nước Việt Nam mới do người Việt Nam làm chủ.

Theo Phan Bội Châu, dân quyền là quyền lực và nhu cầu của người dân, là giá trị của con người cần phải được khẳng định bằng các văn bản nhà nước nhằm đảm bảo và tăng cường hiệu lực thực hiện. Do đó, Phan Bội Châu thấy rằng, cần phải có một bản Hiến pháp của nước Việt Nam. Năng 1929, ông đă soạn thảo xong bản Hiến pháp đó. Tiếc rằng, bản Hiến pháp này được soạn thảo trong điều kiện nước nó chưa giành được độc lập. Song, điều đáng nói ở đây chính là sự nhạy cảm trong tư duy chính trị - pháp lư của Phan Bội Châu so với những người cùng thời ông. Tóm lại, mặc dù có những hạn chế nhận định, nhưng quan niệm của Phan Bội Châu về dân quyền chứa đựng một nội dung kỳ phong phú và đặc sắc. Quan niệm đó góp phần đưa tŕnh độ nhận thức của dân tộc ta chuyển biến và phát triển lên mà bước mới, đồng thời để lại một dấu ấn đậm nét trong lịch sử tư tưởng Việt Nam.


(1) Phan Bội Châu. Toàn tập, t.2. Nxb Thuận Hóa, Huế, 1990, tr.89.

(2) Phan Bội Châu. Sđd., t.4. tr.89.

(3) Phan Bội Châu. Sđd., t.2. tr.261.

(4) Phan Bội Châu. Sđd., t.2. tr.286.

(5) Phan Bội Châu. Sđd., t.4. tr.32.

(6) Phan Bội Châu. Sđd., t.4. tr.32.

(7) Phan Bội Châu. Sđd., t.3. tr.135.

(8) Phan Bội Châu. Sđd., t.2. tr.357.

(9) Phan Bội Châu. Sđd., t.2. tr.387.

(10) Phan Bội Châu. Sđd., t.2. tr.255 - 256.

(11) Phan Bội Châu. Sđd., t.2. tr.391 - 392.

(12) Phan Bội Châu. Sđd., t.4. tr.60.

(13) Phan Bội Châu. Sđd., t.2. tr.392.

(14) Phan Bội Châu. Sđd., t.2. tr.261.

(15) Phan Bội Châu. Sđd., t.2. tr.525 - 526.

(16) Phan Bội Châu. Sđd., t.2. tr.255.

(17) Phan Bội Châu. Sđd., t.2. tr.262.


Quan niệm của Phan Bội Châu về bản tính của con người

Nguyễn Văn Ḥa
Tạp chí Triết học
   


Trong truyền thống tư tưởng của dân tộc Việt Nam, vấn đề con người luôn gắn liền với vấn đề dân tộc. Đặc biệt, mỗi khi Tổ quốc bị lâm nguy th́ sự cố kết đó càng trở nên bền chặt hơn bao giờ hết. Bởi lẽ, con người là yếu tố quyết định trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc. Tiếp nối và phát huy truyền thống đó, Phan Bội Châu - nhà tư tưởng tiêu biểu của dân tộc Việt Nam trong khoảng hai chục năm đầu của thế kỷ XX đă để lại dấu ấn khá đậm nét về vấn đề con người trong lịch sử tư tưởng của dân tộc. "Cùng thời với Phan Bội Châu, không thấy ai đả động tới vấn đề con người nhiều bằng Sào Nam, riêng điều ấy cũng chứng tỏ rằng tư tưởng của cụ Phan rơ cao hơn tư tưởng nhiều bạn đồng chí của ḿnh".

Một nội dung có ư nghĩa quan trọng trong vấn đề con người là vấn đề bản tính của con người. Vấn đề này đă được đặt ra từ thời cổ đai. Là nhà Nho yêu nước thấm nhuần truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, Phan Bội Châu cơ bản nhất trí với quan điểm của Mạnh Tử về vấn đề bản chất của con người, đó là: "Bản tính con người là thiện", là "thiên lương". Tuy thống nhất với Mạnh Tử như vậy, nhưng không phải Phan Bội Châu không có cách kiến giải độc đáo riêng của ḿnh về vấn đề đó. Khi đưa ra căn cứ để lư giải tính bản thiện của con người, Phan Bội Châu cũng nêu ra bốn thuộc tính bẩm sinh vốn có hay bốn đầu mối của thiện, đó là: ḷng thị phi (biết phải, trái), ḷng tu ố (biết hổ thẹn), ḷng tự nhượng (biết cung kính), ḷng trắc ẩn (biết xót thương). Bốn thuộc tính đó được gọi là "tứ đoan", hay "thiện đoan” để giải thích bản tính của con người. Điều đáng quư là cách lư giải của Phan Bội Châu chứa đựng một tấm ḷng yêu nước thiết tha, một khát vọng cháy bỏng v́ độc lập, tự do cho đất nước, một niềm tin mănh liệt vào lương tâm và trí tuệ của con người Việt Nam mỗi khi nó được đánh thức bởi nghĩa lớn của quốc gia. Ở Phan Bội Châu, bốn đầu mối của thiện luôn luôn hướng đến nghĩa lớn. Bởi thế, v́ một lư do nào đó mà chúng ta đau thương nhất, v́ ḷng thiện mất th́ nghĩa lớn không thành và nước sẽ mất. Phan Bội Châu viết: “V́ lợi ích chăm đua riêng để quên người khác mà ḷng thị phi chế! V́ cầu an nhịn nhục mà ḷng tu ố chết. Tranh nhau từng sợi tơ tóc mà ḷng tự nhượng chết. Quên cái vạ chủng tộc mà ḷng trắc ẩn chết. Mà mỗi khi ḷng đă chết rồi th́ đoàn thể làm sao có thể kết được? Nghĩa lớn làm sao có thể nêu cao được? Quyền công do lợi riêng mà phá hoại. Cái lo xa do lợi gần nước mắt che đậy".

Theo Mạnh Tử, bản tính của con người là thiện, v́ ai cũng có tâm. Tâm là cái chủ đạo điều khiển mọi hành vi của con người. Tâm ta tỏ là nhờ có "lương năng" (cái người ta sinh ra không cần học mà hay và "lương tri " (cái người ta sinh ra không cần suy nghĩ mà biết). Do đó, con đường, biện pháp và mục đích của nhận thức là tận tâm, tri tính, tri thiên. C̣n đối với Phan Bội Châu th́ sao? Ông không đề cập đến "lương tri, lương năng" mà nhấn mạnh đến vai tṛ của giáo dục, rèn luyện, đến sức mạnh của sự đoàn kết v́ lợi ích chung của dân tộc, để tồn tầm dưỡng tín. Phan Bội Châu cho rằng chữ "tâm" phải luôn luôn đi liền với chữ “đồng” và điều cốt yếu của tâm là đồng ḷng đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Ông nhắc nhở mọi người rằng: "Chữ "tâm" cốt phải ai ai cũng đồng". Đồng tâm v́ nghĩa lớn của dân tộc trở thành một yêu cầu ghi ḷng tạc dạ đối với mọi người Việt Nam và hơn thế nữa, ai ai cũng phải có tránh nhiệm vun đắp cho sự đồng tâm đó.

Theo Mạnh Tử, bản tính của con người được toát ra 'từ các hành vi xử sự lấy nhân, nghĩa, lễ, trí làm gốc. Bốn chuẩn mực này là cái vốn có do trời phú cho nên c̣n gọi lả "thiên lương". Phan Bội Châu cũng thừa nhận bốn chuẩn mực đó có trong nhân tính. Nhưng đối với Phan Bội Châu, phạm trù "nhân" không chỉ là yêu thương người, coi người như ḿnh, tôn trọng nguyên tắc của xă hội, mà c̣n bao chứa nhiều mặt, nhiều yếu tố phong phú và mang một ư nghĩa tích cực, sâu sắc. Bởi lẽ , ḷng yêu thương con người phải hướng đến ḷng yêu nước thương ṇi. Lông yêu nước chẳng những là phẩm chất cao quư của con người mà c̣n là trách nhiệm và mục đích của mọi suy nghĩ và hành động của con người. Trong "Hoà lệ cống ngôn" (1907), Phan Bội Châu viết: "Lấy nhiệt thành làm chính, lấy yêu nước làm mục đích, nhóm họp đoàn thể, trao đổi tri thức, phục tùng công lư, sứa đạo đức công dân, lập giao ước công dân, xướng quyền lợi công dân, giúp đỡ nhau, thương yêu nhau, không ghét nhau, không lừa dối nhau, không khinh khi nhau”.

Trong tác phẩm "Tạp kư", ông c̣n tiếp tục vạch rơ ḷng yêu nước thương ṇi là mục đích, bởi nó là nguồn gốc của tự do, độc lập, b́nh đẳng và tự cường. Như chúng ta đă biết, vấn đề tự do, b́nh đẳng là mục tiêu của giai cấp tư sản đă nêu lên nhưng không thực hiện được. Ở đây, Phan Bội Châu đă đưa ra mục tiêu đó và cho rằng nó trở thành yêu cầu và khát vọng không thể thiếu được trong mỗi con người Việt Nam. Điều đó chứng tỏ rằng trong khi phát huy truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, Phan Bội Châu c̣n biết tiếp thu những yếu tố tích cực trong các trào lưu tư tưởng phương Tây, trong đó có tư tưởng tự do và b́nh đẳng. Sẵn có một tấm ḷng yêu nước thiết tha, Phan Bội Châu đă sớm có cảm t́nh và say mê với những tư tưởng của Môngtexkiơ và Rútxô.

Đối với Phan Bội Châu, ḷng yêu nước không phải là một cái ǵ hư vô, trừu tượng, mà nó được bắt nguồn từ những cái rết gần gũi, rất cụ thể và rất đỗi chân thật đối với mỗi người. Chính ông dă tự đặt câu hỏi và trả lời câu hỏi đó một cách tự nhiên và giản dị như mạch sống của chính ḿnh: "Ôi! Nước là ǵ? Là họp người mà thành, họp ức triệu người lại mà thành.

Yêu nước là tính ǵ? Là suy cái lượng yêu ḿnh, yêu nhà mà thành vậy.

Nước c̣n th́ nhà c̣n, nước mất th́ nhà mất. Nước vốn là đầu năo của ḿnh ta, nền tảng của ta vậy...

Người biết có ḿnh th́ ắt yêu ḿnh, yêu nước tức là cái h́nh ảnh yêu ḿnh phóng đại ra vậy.

Người đă có ḿnh, có nhà th́ đều có trách nhiệm yêu nước”.

Như vậy, yêu người là cơ sở nền tảng của yêu nước, yêu ḿnh, yêu nhà. Chúng gắn bó chặt chẽ với nhau, hoà nhập vào nhau một cách tự niên. Chúng vừa đồng nghĩa với nhau, lại vừa là nguyên nhân và kết quả của nhau. V́ thế, triết lư của cuộc sống là nước mất th́ nhà tan, cứu nước cũng là cứu nhà và cũng là tự cứu lấy ḿnh, giải phóng dân tộc thoát khỏi gông xiềng nô lệ cũng chính là tự giải phóng cho ḿnh. Ḷng yêu thương con người đến mức như thế quả là đặc sắc và thấm đẫm tinh thần nhân văn cao cả trong truyền thống dân tộc Việt Nam. Quan điểm này có tác dụng kích thích tính năng động chủ quan của mỗi con người và củng cố thêm những giá trị bền vững, những tinh hoa vun đắp nên qua hàng ngàn năm lịch sử của dân tộc.

Từ ḷng yêu thương phát triển thành ḷng yêu nước thương ṇi cũng là v́ nghĩa cả của dân tộc. Phan Bội Châu viết: "Hiểu được nghĩa đồng bào th́ quốc gia càng thêm đầy đủ, mà ngày càng mạnh thêm. Đă biết đồng quốc là đồng bào th́ biết hạnh phúc của người cùng nước, tức là hạnh phúc của đồng bào ta, tức là hạnh phúc của bản thân ta. Hạnh phúc của bản thân ta, chỉ khi nào tất cả đồng bào đều sung sướng, khi đó mới có thể nói hạnh phúc chân chính của ta được. V́ cả đồng bào mà mưu hạnh phúc th́ dù có hy sinh bản thân cũng không nên tiếc. Không phải như thế lả không thương tiếc thân ta, mà chính ra rất thương tiếc thân ta đấy. V́ hạnh phúc đă khắp đồng bào th́ bản thân ta khoái lạc và vinh quang mới rất mực vậy. Bởi thế cho nên những người đă rất yêu bản thân th́ rất yêu đồng bào, mà đă rất yêu đồng bào tất yêu quốc gia, mà đă thật yêu quốc gia tất hy sinh v́ quốc gia mà bỏ hết sự tư lợi của ḿnh, đem hết sức ḿnh ra bảo vệ tổ quốc. Nghĩa đồng bào thực là nguyên khi của quốc gia vậy. Ở đây, yêu nước là yêu đồng bào, yêu ḿnh, lợi ích của quốc gia phải gắn liền với lợi ích của đồng bào và của bản thân. Như vậy, trong quan niệm của Phan Bội Châu, con người vừa có trách nhiệm, nghĩa vụ đối với Tổ quốc và đồng bào, lại vừa tự ư thức được về ḿnh - để tự ḿnh quan tâm và giải quyết những vấn đề do cuộc sống đặt ra, tự ḿnh vươn lên thích ứng với hoàn cảnh.

Coi trọng nhân nghĩa là đạo lư truyền thống Việt Nam. Nhận thức đầy đủ ư nghĩa của giá trị truyền thống đó, Phan Bội Châu, một mặt, khuyến khích mọi người làm những điều nhân ngay đối với ḿnh, đối với gia đ́nh và đối với xă hội, mặt khác, ông c̣n khuyên mọi người phải có trách nhiệm thực hiện tốt nghĩa vụ của ḿnh v́ lợi ích chung, v́ hạnh phúc của dân tộc, trong đó có cả gia đ́nh và cá nhân. Người có nghĩa lớn là người dám chấp nhận hy sinh cho sự sống c̣n của dân tộc. Đối với Phan Bội Châu, nghĩa đồng bào chẳng những là nguyên khí của quốc gia mà c̣n là thiên chức của con người Việt Nam. Đó là vốn quư của con người Việt Nam và là một trong những nguồn cội tạo nên sức mạnh của dân tộc Việt Nam.

Nhân tính là yêu nước, nhân tính là nghĩa đồng bào, nhân tính là trí tuệ , nhân tính là b́nh đẳng. Ngay trong tác phẩm "Tạp kư", Phan Bội Châu đă giải thích sự b́nh đăng là một thuộc tính tự nhiên vốn có của con người, nên mọi người sinh ra đều có địa vị như nhau, do đó, không ai được tự đặt ḿnh lên trên người và phân biệt đối xử giữa các hạng người. Ông viết: “Trời sinh ra người, có h́nh thể như nhau, có tính t́nh như nhau, ta không dám cậy ḿnh là thánh thần mà bỏ những lời nói hay của người, ta không dám cậy khôn ngoan mà bỏ những nết tốt của người. Đấy là bụng nghĩ b́nh đẳng đă có mầm mống rồi đấy, duy người ta giẫm đạp lên mà không biết đấy thôi".

Như vậy, ta thấy rằng, tư tưởng trên của Phan Bội Châu đă chịu ảnh hưởng ít nhiều của quan niệm dân chủ tư sản phương Tây.

Theo Phan Bội Châu, nguồn gốc và tôn chỉ của tự do là ḷng yêu nước thương ṇi. V́ thế, tự do là lẽ phải, là nhu cầu chính đáng của con người, tự do là cái lư mà không một thế lực nào có thể ràng buộc và ngăn cản nổi.

Nhân dân Việt Nam nhất định sẽ giành được tự do v́ đó là một việc làm đầy nhân tính và hợp với đạo lư. C̣n những kẻ đi tước đoạt tự do của người khác th́ sớm hay muộn sẽ bị tiêu diệt v́ đó là những kẻ nát nhân tính, phi đạo lư. Với Phan Bội Châu, tự do vừa là đạo lư, vừa là khát vọng của con người, nên lẽ đương nhiên là người Việt Nam không bao giờ chấp nhận làm thân phận của kẻ nô lệ, mà trái lại, phải vùng dậy đấu tranh v́ độc lập, tự do của dân tộc. Có thể nói rằng tư tưởng về tự do như vậy đă góp phần thắp sáng lên niềm tin mănh liệt và tinh thần quật cường của dân tộc, vào sức mạnh của chính nghĩa và làm bùng lên khát vọng tự do vốn âm ỉ, nung nấu trong tâm hồn của mỗi con người Việt Nam. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của Nho giáo nên Phan Bội Châu thường nhấn mạnh tự do là hành động theo các quy tắc, chuẩn mực đạo đức - gần với khuôn phép của lễ giáo phong kiến.

Đến đây, chúng ta có thể thấy rơ nội hàm của khái niệm "thiên lương" trong quan niệm của Phan Bội Châu không chỉ bó hẹp trong chuẩn mực nhân, nghĩa, lễ , trí, mà nó được mở rộng, đào sâu và được nâng lên bởi các chuẩn mực giá trị mới trên cơ sở tiếp thu những yếu tố tích cực của tư tưởng tư sản phương Tây, của chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam và của Nho giáo. Bên cạnh con người cộng đồng, c̣n có con người cá nhân. Giữa con người cộng đồng và con người cá nhân có quan hệ mật thiết với nhau. Quan niệm này đă có ư nghĩa tích cực trong việc phát hiện và huy động sức mạnh vốn có của con người Việt Nam vào sự nghiệp cứu nước giải phóng dân tộc. Song, đáng tiếc là Phan Bội Châu chưa đủ điều kiện để vươn lên tiếp nhận ánh sáng của quan điểm macxít về bản chất của con người, mà trong "Luận cương về phoiơbắc", C.Mác đă viết: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xă hội”. Phan Bội Châu chưa lư giải được bản chất xă hội của con người, chưa vạch ra được nguyên nhân xă hội là nguyên nhân sâu xa nhất, cơ bản nhất tạo ra nỗi bất hạnh của con người, hay chưa thấy đấu tranh giai cấp là để đi đến giải phóng loài người thoát khỏi áp bức và là một trong những động lực thúc đây sự phát triển của xă hội có giai cấp. Cũng qua đầy, chúng ta nhận thấy: "Thuyết thiên lương của Phan Bội Châu phản ánh ḷng tin mănh liệt vào tinh thần dân tộc của đồng bào, vào khả năng cách mạng của nhân dân. Nhưng đây cũng là một nhược điểm của Phan Bội Châu: cụ không biết hay không muốn biết rằng nếu có những tầng lớp xă hội triệt để yêu nước và cách mạng nào cũng có những tầng lớp xă hội khác lừng chừng đối với kẻ xâm lược, và lại c̣n kẻ dù là người Việt Nam vẫn ôm chân bọn thực dân ngoại quốc. Cụ không biết giai cấp và đấu tranh giai cấp là ǵ, quan hệ với cuộc cách mạng giải phóng dân tộc như thế nào, cho đến đỗi cụ cho rằng bọn Hoàng Cao Khải, Nguyễn Thân "cũng c̣n có lương tâm yêu nước". Dưới góc độ ấy thuyết ‘thiên lương" trở thành hàm hồ, nguy hiểm". Chính điều này đă được Phan Bội Châu thừa nhận trong "Lời tự phán": Đối đăi với người quá chừng thật, thường bảo trong thiên hạ không một người nào không tin được. Đó là tội v́ không cơ cảnh quyền thật”.

Những hạn chế trên đây không làm mất đi nét riêng biệt đặc sắc trong tư tưởng của Phan Bội Châu về bản tính của con người. Xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, trên cơ sở tiếp thu những yếu tố tích cực trong các trào lưu triết học phương Tây, P han Bội Châu cho rằng, bản tính con người là "thiên lương". Hàm chứa trong khái niệm "thiên lương" là những dấu hiệu cơ bản mà ở đó, ngoài dấu hiệu trước đây Nho giáo đă từng nêu lên, c̣n có những dấu hiệu mới như tự do, b́nh đẳng... Tất cả những dấu hiệu đó đều thấm đượm chủ nghĩa yêu nước, đều hướng tới một mục đích chung là khơi đậy và phát huy nguồn sức mạnh của con người Việt Nam vào sự nghiệp cứu nước giải phóng đồng bào. Bởi vậy "thiên lương" ở đây vừa mang đậm giá trị truyền thống, lại vừa phong phú và hiện đại hơn so với quan niệm trước đây.


Trang mạng Việt Nam Văn Hiến
Trang Dân Quyền
www.vietnamvanhien.net
Email: thuky@vietnamvanhien.net

Lấy Nhân Tâm làm phương tiện, dụng Dân Tâm làm chiến lược quốc pḥng và quốc sách " An Dân - Lạc Quốc"


Trở Lại Trang Mặt