.Cung nghinh mặt trời.
Người cổ xưa khi tế lễ hay tôn vinh mặt trời thường đứng thẳng người hay đứng khuỵu hai chân xuống như ở thế đứng tấn, giơ hai tay khỏi đầu, thường xòe hai bàn tay hay đưa hai tay ra trước mặt hướng về phía mặt trời.
Ta hãy so sánh những hình người trên vách đá này với những hình người đang tế lễ mặt trời ở các nơi khác. Xin đưa ra vài ví dụ:
-Đưa hai tay cao lên trời.
.Nam Dương
Trong hang Metanduno ở Nam Dương có hình vẽ trên đá thời tiền sử cho thấy cảnh người cung nghinh, thờ phương mặt trời đưa hai tay cao lên trời hướng về phía mặt trời.
Hình vẽ trên đá thời tiền sử cho thấy cảnh người cung nghinh, thờ phương mặt trời giơ hai tay cao lên đầu trong hang Metanduno ở Nam Dương (Madanjeet Singh, The Sun, Symbol of Power And Life, UNESCO, 1993).
.Thổ dân Mỹ Châu
Tại rừng cây hóa thạch ở Arizona, Hoa Kỳ có những hình người cung nghinh, thờ phượng mặt trời đưa hai tay cao lên trời với bàn tay thấy rõ các ngón tay.
Hình người cung nghinh, thờ phượng mặt trời tại rừng cây hóa thạch ở Arizona, Hoa Kỳ (Madanjeet Singh).
.Kyrgyzstan
Người khắc trên đá ở Kyrgyzstan được cho là pháp sư ‘shaman’ giơ hai tay lên trời với bàn tay xoe ra đủ năm ngón, biểu tượng cho tôn vinh mặt trời, tạo hóa.
.Ấn Độ ngày nay.
Các tín đồ theo đạo mặt trời ở Ấn Độ, vào rạng đông mỗi ngày họ lội xuống sông Hằng đứng giơ hai tay cao lên trời cung nghinh mặt trời mọc ở chân trời.
Các tín đồ theo đạo mặt trời ở Benares Ấn Độ, đang cung nghinh mặt trời mọc ở bờ sông Hằng (Madanjeet Singh).
Tác giả đang cung nghinh mặt trời hướng về thần mặt trời Viêm Đế, thần tổ của Bách Việt, Người Mặt Trời ở bờ sông Hằng ở Varanasi, Ấn Độ.
……
Hãy so sánh những hình cung nghinh, tôn vinh mặt trời của các văn hóa, tín người thờ mặt trời này với hình trên vách đá Hoa Sơn của Lạc Việt cổ ta thấy giống trăm phần trăm.
Người Lạc Việt cổ cung nghinh mặt trời với hai tay giơ cao lên trời hướng về mặt trời vẽ trên vách đá Hoa Sơn.
-Đưa hai tay ra trước mặt.
Đôi khi ở tư thế ngồi hay đứng đưa hai tay ra phía trước mặt
.Ai Cập cổ
Kệ tang Khonsu cho thấy sự thờ phượng Thần Mặt Trời Bò cái Mehet-Weret, Egyptian Museum, Cairo (Madanjeet Singh fig. 461).
.Thiên Chúa giáo
Tranh dát mảnh (mosaic) của Achilli cho thấy các tu sĩ Ái Nhĩ Lan giơ tay theo kiểu người Ai Cập cổ tôn thờ mặt trời (hang thờ St Columbanus, nhà thờ St Peter, Vatican) (Madanjeet Singh).
.Văn Hóa Đông Sơn
-Trống đồng âm dương Hoàng Hạ, Ngọc Lũ I…
Người của đại tộc Đông Sơn cung nghinh mặt trời với hai tay giơ cao ra trước mặt trong một ngôi nhà nọc thờ mặt trời trên trống đồng âm dương Hoàng Hạ…
(ta thấy rõ đây không phải là trò chơi “trồng hoa trồng nụ” như một số nhà khảo cổ học Việt Nam cho là vậy).
-Thạp đồng Hợp Minh.
Một người búi tóc có dáng dấp phụ nữ (bà đồng, nữ pháp sư) đưa hai tay ra phía trước mặt cung nghinh, tôn vinh hay cầu xin mặt trời, vũ trụ trên thạp đồng Hợp Minh.
…..
Hãy so sánh những hình cung nghinh, tôn vinh bằng cách đưa hai tay ra phía trước mặt của Ai Cập cổ, Thiên Chúa giáo và của văn hóa Đông Sơn này với hình trên vách đá Hoa Sơn của Lạc Việt cổ ta thấy giống trăm phần trăm.
Hình người đang cung nhinh, tôn vinh mặt trời đưa tay ra phía trước mặt trên vách đá Hoa Sơn của Lạc Việt cổ.
Như thế các người tổ tiên Lạc Việt nhẩy múa ở đây là những người đang ở tư thế tế lễ mặt trời trăm phần trăm.
Những người đứng hay ngồi ở tư thế cung nghinh mặt trời này ăn khớp và cho thấy vững chắc đây là cảnh hiến tế mặt trời trăm phần trăm.
.Mặt trời là nọc, dương, đực, nam. bộ phận sinh dục nam.
Chữ NỌC trong chữ viết nòng nọc vòng tròn-que có nghĩa là đực, dương, mặt trời, bộ phận sinh dục`nam vì thế mặt trời thường đi với phái nam (giống hệt một trăm phần trăm bọc trứng vũ trụ của Mẹ Tổ Âu Cơ sinh ra toàn là con trai, các mặt trời Lang) và mặt trời thường đi với bộ giống phái nam đang cương cứng. Ví dụ như thấy ở:
.Kyrgyzstan
Người thờ mặt trời có bộ giống nam cương cứng cường điệu Thời Đồ Đồng-Tiền Đồ Sắt (hình a, Saimaly Tash, Kyrgyzstan, Madanjeet Singh).
.Thụy Điển
Hình vẽ người hay thần mặt trời có dương vật cường điệu, cương cứg trên đá ở Vitlycke, Bohuslan, Thụy Điển.
Người mặt trời cầm rìu khắc trên đá ở Vitlycke, Bohuslan, Thụy Điển (H.R. Ellis Davidson, p.62-63).
.Ý
Hình khắc trên đá ở Val Camonica trên rặng Alps của Ý có hình mặt trời ở giữa hai chân dính vào bộ phận sinh dục nam. Có tác giả giải thích cho là có mang biểu tượng cho mắn sinh.
Người hay thần mặt trời có hình mặt trời ở giữa hai chân dính vào bộ phận sinh dục nam ở Val Camonica, Ý(Madanjeet Singh).
Hãy so sánh những người mặt trời, thờ phương mặt trời có bộ phận sinh dục nam cường điệu đang cương cứng đầy hùng tính này với hình người đang cung nghinh mặt trời vẽ trên vách đá Hoa Sơn với bộ giống nam đang cương cứng dưới đây ta thấy giống trăm phần trăm.
Người Lạc Việt cổ đang cung nghinh mặt trời vẽ trên vách đá Hoa Sơn với bộ giống nam đang cương cứng.
Những người nam với bộ phận sinh dục nam cương cứng đứng ở tư thế cung nghinh mặt trời vẽ trên đá này ăn khớp với các nơi khác cho thấy vững chắc trăm phần trăm đây là cảnh hiến tế mặt trời.
.Vũ khí, tế khí (ceremonial weapon), linh trượng (scepter).
Mặt trời là dương, đực, nọc vì thế khí biểu, tế khí của mặt trời nguyên thủy là một nọc nhọn, gậy, cây lao về sau là linh trượng, rìu, búa, vũ khí nhọn. Những vật này đầu thường có hình vật biểu tượng mặt trời như rìu Việt đầu chim cắt của Điền Việt. Vì thế những người tế lễ mặt trời, thờ phương mặt trời thường cầm hay mang những khí biểu, tế khí, linh trượng có gốc từ nọc, vọt nhọn biểu tượng cho mặt trời.
Ở trên, ta thấy rất rõ những hình người mặt trời hay thờ phượng mặt trời khắc trên đá đều cầm hay mang các khí biểu, tế khí, khí giới (ở Thụy Điển tay cầm rìu, đeo gậy, kiếm hay linh trượng bên hông và ở Ý tay cầm lao).
Những người Lạc Việt cổ vẽ trên vách đá Hoa Sơn này cũng thường đeo gậy, lao, kiếm hay linh trượng.
Những người Lạc Việt cổ vẽ trên vách đá Hoa Sơn đeo gậy, lao, kiếm hay linh trượng.
Hình người Lạc Việt cổ ở Huashan đeo rìu hay linh trượng đầu hình búa (giống hình chiếc búa trong từ Việt rìu búa) trên một điêu khắc hình trống diễn đạt lại cảnh lễ hiến tế của người Lạc Việt cổ Hoa Sơn tại khu tĩnh dưỡng Minh Sĩ Điền Viên gần thác Bản Giốc. Không biết tác giả điêu khắc này có làm một cách trung thực hay không?
Đặc biệt nhất là những người cao to có dáng dấp lãnh tụ đeo một linh trượng rất đặc biệt, một đầu có hình vòng tròn và một đầu theo các nhà khảo cổ học Trung Quốc có hình thú vật.
Một lãnh tụ Lạc Việt cổ đeo linh trượng một đầu có hình vòng tròn và một đầu có hình thú vật.
Rất tiếc tôi không có hình chi tiết vẽ hình các đầu thú vật nên không biết rõ là đầu con thú gì.
Bây giờ ta hãy giải đọc cây linh trượng đặc biệt này theo cốt lõi văn hóa Bách Việt dựa trên lưỡng hợp chim-rắn, Tiên Rồng tức theo chữ viết nòng nọc vòng tròn-que.
Đầu gậy hình vòng tròn là nòng (O), âm, theo duy âm là không gian và theo duy dương là mặt trời đĩa tròn của ngành nòng âm. Còn đầu gậy hình con thú mặc dù không biết rõ là con thú gì nhưng theo trực giác, tôi biết phải là đầu một con thú mang dương tính Nọc (I) đi đôi với vòng tròn Nòng. Tôi gọi linh trượng này là linh trượng nòng nọc, âm dương Tiên-Rồng.
Ta hãy so sánh linh trượng, tế khí, hay khí giới nòng nọc Tiên Rồng này của người Lạc Việt cổ với chiếc rìu ở từ Việt ‘yue’ trong giáp cốt văn đời nhà Thương.
Từ Việt yue trên giáp cốt văn (Wang Hongyuan).
Lưu ý ta thấy chiếc rìu Việt yue ở đây có một đầu hình vòng tròn nòng O mang âm tính, nòng O ứng với Khôn và một đầu hình cây chĩa ba mang dương tính, ba nọc nhọn là ba dương ứng với quẻ Càn. Cây rìu Việt này là một thứ rìu Việt thờ mang ý nghĩa nòng nọc, âm dương, càn khôn, sinh tạo, tạo hóa.
Như thế linh trượng nòng nọc Tiên Rồng của người lãnh tụ Lạc Việt cổ giống rìu Việt yue này và cũng phải mang ý nghĩa đó.
Để hiểu và thấy rõ hơn nữa hãy so sánh linh trượng nòng nọc Tiền Rồng có đầu hình vòng tròn và một đầu thú vất của người Lạc Việt cổ với linh trượng Ai Cập cổ was.
Thần mặt trời Horus với khôn mặt lưỡng hợp, sinh tạo đội vương miện nhất thể biểu tượng cho hai vùng Nam Bắc thống nhất, tay trái cầm linh trượng was nòng nọc, âm dương.
Các nhà Ai Cập học ngày nay cũng chưa biết rõ nguồn gốc và ý nghĩa của gậy was ra sao, chỉ phỏng đoán có nghĩa là “power” (sức mạnh) và “dominion” (quyền thế). Giải thích theo hình ngữ nòng nọc, ta thấy gậy was có đầu con thú có sừng hình nọc, hình búa chim mang dương tính biểu tượng cho nọc, đực, mặt trời, vũ trụ dương, bộ phận sinh dục nam, lửa, Càn và đầu dưới chẻ hẻ hình vòm omega (vòng tròn nòng O mở ra), hình chuông úp biểu tượng cho âm, vòm vũ trụ, bầu trời, tử cung hay âm đạo biểu tượng cho nòng, âm, Khôn, vòm không gian (xin nhắc lại hình khắc trên đá hình omega, hình chuông úp, chữ U lật ngược của thổ dân Úc châu có nghĩa là đàn bà).
Gậy was là gậy âm-dương, sinh tạo, tao hóa, vũ trụ-mặt trời hiển nhiên có một nghĩa là “power” là “dominion” (Giải Đọc Trống Đồng Nòng Nọc, Âm Dương Đông Nam Á).
Linh trượng was biểu tượng cho nòng nọc, âm dương, sinh tạo, tạo hóa. Linh trượng nòng nọc Tiên Rồng của người Lạc Việt cổ ở đây giống linh trượng was nòng nọc, âm dương của Ai Cập cổ thờ mặt trời. Hơn thế nữa linh trượng của Lạc Việt cổ có đầu nòng O vẫn giữ nguyên dạng nòng vòng tròn nguyên thủy (dạ con) trong khi đầu gậy omega (âm đạo) của Ai Cập cổ đã là biến dạng của nòng O.
Hiển nhiên linh trượng hay khí biểu nòng nọc, âm dương, Tiên Rồng của người Lạc Việt cổ là một gậy biểu trong Vũ Trụ giáo, đạo Mặt Trời, cốt lõi của văn hóa Bách Việt. Ngưởi Lạc Việt cổ cầm linh trượng nòng nọc, âm dương có đầu vòng tròn nòng âm và đầu hình đầu thú nọc dương bắt buộc phải mang hình bóng thần mặt trời hay đội lốt các vị thần mặt trời giống như các vị thần mặt trời Ai Cập cổ cầm gậy was.
Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, linh trượng nòng nọc, âm dương của người Lạc Việt cổ này là gậy biểu, khí biểu của Viêm Đế-Thần Nông (mặt trời-không gian, trụ- vũ) ở cõi tạo hóa, vũ trụ và biểu tượng cho hai ngành Lửa Mẹ Âu Cơ và ngành Nước Cha Lạc Long Quân, cho Tiên Rồng ở cõi thế gian.
Những tế vật, khí giới gốc nọc nọn này của người Lạc Việt cổ ăn khớp với các tế khí, khí giới của các tộc Người Mặt Trời khác nhất là cây linh trượng nòng nọc, âm dương, sinh tạo của Lạc Việt cổ giống cây linh trượng nòng nọc, âm dương was của Ai Cập cổ cho thấy vững chắc đây là cảnh hiến tế mặt trời.
Lưu ý
Hình vẽ người hay thần mặt trời ở Vitlycke, Bohuslan Thụy Điển ở trên mang hình bóng Người Việt Mặt Trời theo đúng nghĩa chữ Nọc trong chữ viết nòng nọc vòng tròn-que trăm phần trăm.
.Nọc là Vọt là roi (nọc ra đánh mấy chục roi). Vượt ruột thịt với Vọt (dùng vọt đánh cho con thú chạy vọt nhanh lên, vượt qua mặt, vượt qua chướng ngại vật; máy xe vọt là máy xe mạnh chậy nhanh, những bước nhẩy vọt). Hán Việt Việt với nghĩa là Vượt có gốc từ Việt ngữ Vọt roi này.
.Nọc là vọt, roi sau thành vật nhọn, khí giới như lao, vớt (dao lớn dùng làm khí giới) ăn khớp với Hán Việt Việt với nghĩa là rìu, búa. Người này tay cầm rìu búa đeo gậy hay linh trượng hay dao với, rìu Việt.
.Nọc là cọc, cược, bộ phận sinh dục nam. Hình người này có bộ phận sinh dục nam cương cứng như cái nõ (ăn khớp với từ cổ c…c nõ, với từ hiện kim c…c lõ).
.Việt là nọc, bộ phận sinh dục nam, dương, mặt trời. Người này có hình mặt trời trên người.
Rõ như dưới ánh sáng mặt trời người hay thần mặt trời khắc trên đá ở Thụy Điển diễn đạt trọn vẹn ý nghĩa của chữ Nọc trong chữ viết nòng nọc vòng tròn-que, diễn tả trọn vẹn ý nghĩa của Hán Việt Việt.
Người mặt trời ở Vitlycke, Bohuslan này là hình bóng của Người Việt Người Mặt Trời dòng thần mặt trời Viêm Đế trăm phần trăm.
Những người Lạc Việt cổ trên vách đá Hoa Sơ đang tế lễ mặt trời trăm phần trăm.
.Phái nữ
Khác với các cảnh tế lễ mặt trời ở trong các nền văn hóa cổ khác của thế giới, đặc biệt ở đây có sự hiện diện của phái nữ. Trong các hình người ở khu vực này thấy có hai người tóc dài bện thành dải hình con rắn, dài quá lưng được cho là hai người nữ.
Hai người nữ tóc bện thành dải dài quá lưng.
Mặt trời là dương, đực, phái nam nên trong xã hội phụ quyền nhất là phụ quyền cực đoan rất muộn về sau, tế lễ mặt trời chỉ dành cho phái nam tuyệt nhiên không có bóng dáng đàn bà (giống như nhà đình của Việt Nam là di duệ của nhà thờ mặt trời như thấy trên trống Quảng Xương, ngày xưa cấm đàn bà con gái bước vào đình). Ở đây với sự hiện diện của phái nữ cho thấy người Lạc Việt cổ, thứ nhất nếu là hai người nữ thường dân, thì người Lạc Việt còn trọng nữ, họ theo mẫu hệ. Họ cũng có thể thờ phượng mặt trời âm nữ đĩa tròn không có tia sáng, thờ nữ thần mặt trời như thái dương thần nữ Âu Cơ, như Ameraterasu của Nhật Bản. Thật vậy ta thấy rõ ngoài mặt trời có nọc tia sáng tỏa rạng mang dương tính còn có các hình đĩa tròn.
Hình đĩa tròn.
Theo duy dương, vì ở đây là cảnh tế lễ mặt trời, thì các hình đĩa tròn này có độ cao biểu tượng cho mặt trời nữ đĩa tròn không có tia sáng (như hình mặt trời đĩa tròn trên lá cờ Nhật Bản, con cháu của thái dương thần nữ Ameraterasu).
Thứ hai, trong lễ hội nhẩy quanh hình mặt trời này thì đây có độ cao hai người nữ này là hai nữ pháp sư, hai bà đồng.
Bà đồng ăn khớp với văn hóa Việt cổ trăm phần trăm. Tín ngưỡng đồng bóng là một tín ngưỡng đặc thù của Bách Việt mà Trung Hoa không có. Đồng bóng còn thịnh hành ở Việt Nam gần đây.
Mapuche một tộc thổ dân ở Chile, Nam Mỹ vốn gốc từ Đông Nam Á qua Mỹ châu thờ mặt trời cũng có đồng bóng và bà đồng là nét chủ yếu của văn hóa của họ (Rìu Việt ở Nam Mỹ Châu).
Sự hiện diện của hai phái nam nữ trong cảnh tế lễ mặt trời, thờ phượng mặt trời cho thấy xã hội Lạc Việt cổ còn giữ nguyên lý nòng nọc, âm dương đề huề, Tiên và Rồng hòa hợp.
Ngoài ra một trong hai người nữ này đang mang thai.
Người nữ đang mang thai.
Nếu hình này diễn tả một người trần tục thì đây cho thấy người Lạc Việt cổ tôn vinh người có thai, tôn vinh sự sinh sản, mắn sinh nằm trong tín ngưỡng sinh tạo của Vũ Trụ giáo. Nếu người mang thai này mang ý nghĩa biểu tượng tín ngưỡng tức bà đồng đang mang thai thì đây là hình ảnh của Mẹ Đời, Mẹ Sinh Tạo, Thần Nữ Mắn Sinh. Hình ảnh này cũng thấy ở văn hóa Việt Nam trong các hình khắc trên bãi đá cổ ở Sapa, Bắc Việt. Trong các hình khắc ở Sapa thấy hình một người mang thai:
Hình một người mang thai trong các hình khắc trên bãi đá cổ ở Sapa (Nguồn Lê Trọng Khánh, Phát Hiện Hệ Thống Chữ Khoa Đẩu Thuộc Văn Hóa Đông Sơn).
Người mang thai ở Sapa này đi chung với hình người mặt trời nam nữ đã thấy ở trên, ăn khớp với hình người có thai đi chung với những người nam nữ tế thần mặt trời ở Huashan này.
Cũng nên nói ngược lại là cảnh người Lạc Việt cổ tế lễ mặt trời ở Hoashan chứng thực là trong các hình khắc ở bãi đá cổ Sapa cũng có cảnh tế lễ mặt trời, nói một cách khác những hình khắc trên đá ở Sapa thuộc Người Bách Việt, Người Mặt Trời. Hy vọng có dịp tôi được nhìn thấy tận mắt những hình khắc trên đá ở Sapa và hy vọng có thể giải đọc thêm được nhiều chi tiết nữa.
Ngoài ra cũng thấy hình một người nữ đẻ bọc ruột thịt với hình người có thai, mang hình ảnh Mẹ Đời Sống, Mẹ Sinh Tạo ở hòn gạch nung đời nhà Lê hiện để tại Viện Bảo Tàng Lịch Sử, Hà Nội .
Hình Mẹ Đời Sống, Mẹ Sinh Tạo đẻ ra một cái bọc mang hình ảnh Mẹ Tổ Âu Cơ sinh ra bọc trứng Hùng Vương, đời nhà Lê, Viện Bảo Tàng Lịch Sử Việt Nam (ảnh của tác giả).
Cảnh thai nghén, sinh đẻ này ăn khớp với đức tin sinh tạo, mắn sinh của mặt trời trong Vũ Trụ giáo cho thấy vững chắc đây là cảnh hiến tế mặt trời, một khuôn mặt dương của Vũ Trụ giáo.
.Cảnh phồn thực
Người lái đò cho chúng tôi biết sau chùm cây, trên vách đá có hình hai người đang làm tình.
Sau chùm cây, trên vách đá có hình hai người đang làm tình.
Đây là tín ngưỡng phồn thực, sinh tạo nằm trong đạo mặt trời, Vũ Trụ giáo. Cảnh giao hợp này cũng thấy trên nắp thạp đồng Đào Thịnh của văn hóa Đông Sơn.
Làm tình trong lễ hiến tế cũng là một khuôn mặt đặc biệt thấy trong các cuộc lên đồng tế lễ vũ trụ, mặt trời ở Đông Nam Á và hải đảo. Một số ông mo bà đồng làm tình trong khi lên đồng mang chủ đích, cầu mắn sinh, sinh sản, sản xuất, được mùa. Có tác giả còn giải thích dùng sự giao hợp trong lúc tế lễ là để gợi ý, kích thích thượng đế, thần linh giao hòa âm dương với nhau để trời đất, càn khôn hòa hợp, tương hòa với nhau, không đối nghịch tạo ra những ảnh hưởng xấu lên con người.
Cảnh giao hoan, phồn thực này ăn khớp với đức tin đại vũ trụ và con người tiểu vũ trụ cần phải có tương hòa, giao hòa với nhau ngoài ý nghĩa duy tục là nòng nọc, âm dương, sinh tạo, mắn sinh, cho thấy vững chắc đây là cảnh hiến tế mặt trời trong Vũ Trụ giáo.
.Thuyền rồng
Theo tài liệu còn cho biết hình vẽ trên vách đá Hoa Sơn này có cả hình thuyền và cho là thuyền rồng dùng làm thuyền đua trong lễ hội nước (http://www.roughguides.com/travel/asia/china/guangxi-and-guizhou/nanning/hua-shan-cliff-paintings.asp). Rất tiếc tôi chưa được thấy hình vẽ trên vách đá. Tuy nhiên tôi đã thấy chiếc tầu đưa du khách đi xem nghệ thuật vẽ trên đá này có đầu và đuôi thuyền đã được làm phỏng theo hình chiếc thuyền được gọi là thuyền rồng đã nói.
.
Con thuyền “rồng” đưa khách du lịch từ Tuolong lên Hoa Sơn có đầu và đuôi thuyền làm mô phỏng theo hình vẽ trên đá (ảnh của tác giả).
Hy vọng các nghệ sĩ làm thuyền mô phỏng theo hình vẽ không lệch lạc nhiều với hình gốc. Ta thấy đầu và đuôi thuyền hình rắn mỏ chim lớn mang dương tính (chim rìu, chim cắt, chim Việt), có bờm gió dưới dạng chim-rắn riêng rẽ hay nhất thể. Rõ như ban ngày đây chưa phải là rồng long của Trung Hoa.
So sánh đầu và đuôi các con thuyền ở hình vẽ trên vách đá Hoa Sơn này (qua con thuyền chở du khách này) với các con thuyền trên trống đồng nòng nọc, âm dương ta thấy rất rõ chúng giống hình thuyền trên trống đồng của đại tộc Đông Sơn ở dạng chim-rắn riêng rẽ trên Ngọc Lũ I hay ở dạng kết hợp nhất thể trên trống Quảng Xương, Hữu Chung.
Qua sự so sánh này ta thấy rõ thuyền mới chỉ là thuyền đầu rắn mới bắt đầu thần thoại hóa, chỉ là một thứ rắn có sừng, rắn Việt, một thứ thuồng luồng chưa hẳn là thuyền rồng long Trung Hoa (xin nhắc lại Bách Việt, Người Mặt Trời dòng thần mặt trời Viêm Đế họ Khương, Sừng nên các vật tổ đều là loài có sừng: Chim Việt mỏ cắt có mũ Sừng, Hươu Việt có sừng muông gạc, Kì Dương, Lộc Tục và Rắn Việt có sừng ‘thuồng luồng’). Rắn Việt là vật tổ biểu tượng cho khuôn mặt nước dương, mặt trời Nước Lạc Long Quân của Lạc Việt.
Cũng nên biết là người Lạc Việt Tráng cũng tự nhận mình là con cháu của Rồng. Đúng ra họ phải nhận là con cháu của Rắn Việt, nhận là Rồng là theo văn hóa muộn và đã bị ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa giống như Lạc Long Quân của Việt Nam chúng ta. Bằng chứng là hình thuyền vẽ trên vách đá 2.500 trước giống hình các thuyền đầu rắn hay rắn-chim trên các trống đồng của đại tộc Đông Sơn có niên đại cũng vào khoảng thời gian đó.
Ngược lại nhìn theo góc cạnh khác khi nhận là thuyền rồng thì mặc nhiên phải chấp nhận con rồng long Trung Hoa có gốc từ Rắn Việt thuồng luông Việt (Giải Đọc Trống Đồng Nòng Nọc, Âm Dương Đông Nam Á).
Sự hiện diện của thuyền Rắn Việt ở dạng khởi đầu thần thoại của Đại Tộc Việt, Người mặt trời cho thấy cảnh lễ hội, hiến tế vẽ trên vách đá Hoa Sơn chắc chắn là lễ hội tế lễ mặt trời nghiêng về ngành mặt trời Nước Lạc Việt.
.Mầu máu, mầu mặt trời.
Hình vẽ mầu đỏ do quặng sắt đỏ và máu liên hệ với mầu đỏ biểu tượng cho mặt trời (mầu đỏ là mầu hỏa).
Máu là một tế thực của thờ phương mặt trời, biểu tượng cho mặt trời cho thấy cảnh lễ hội, hiến tế vẽ trên vách đá Hoa Sơn chắc chắn là lễ hội tế lễ mặt trời.
Kết Luận
Hình vẽ ở Hoa Sơn là một tác phẩm vẽ trên đá cổ thời vĩ đại, lớn nhất thế giới, là một tuyệt tác phẩm của nghệ thuật trên đá có một không hai của nhân loại, của Lạc Việt cổ nói riêng và của Bách Việt nói chung nếu không muốn nói là của tổ tiên của Việt Nam chúng ta, bởi vì Việt Nam có một gốc, một ngành Lạc Việt, con cháu Lạc Long Quân. Việt Nam là tộc Bách Việt duy nhất của Bách Việt còn tồn tại ngày nay. Việt Nam là di duệ hiện hữu đại diện cho Lạc Việt, cho Bách Việt. Dầu cho Hoa Sơn ở Quảng Tây bây giờ tuy thuộc đất Trung Quốc nhưng văn hóa Hoa Sơn vẫn là văn hóa Lạc Việt, Bách Việt mà Việt Nam là di duệ còn hiện hữu ngày nay. Người Việt chiếm đất Champa nhưng văn hóa hóa Champa như tháp Champa không thể nào nói là văn hóa Việt. Văn hóa Hoa Sơn không thể nào là văn hóa Trung Hoa.
Hình vẽ ở Hoa sơn là một trang sử đá quí giá vô cùng viết lại cái cốt lõi, bản sắc Việt, viết về vũ trụ quan, nhân sinh quan, đời sống tâm linh, tín ngưỡng đạo Mặt Trời, Vũ Trụ giáo, xã hội Lạc Việt cổ… dựa trên nguyên lý nòng nọc, âm dương Tiên Rồng.
Những hình vẽ cách đây 2.500 năm mang phong thái nghệ thuật Đông Sơn cho thấy trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn phải cổ hơn rất nhiều. Như thế trống loại Vạn Gia Bá (Thời Xuân Thu 770-474 BC) khai quật được ở miền tây tỉnh Vân Nam được các nhà khảo cổ Trung Quốc cho là loại cổ nhất, họ khoa trương cho rằng nguồn gốc trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn có nguồn gốc ở Vân Nam với ngụ ý là của Trung Hoa (!) chưa hoàn toàn thuyết phục được. Biết đâu một ngày nào đào tìm được một trống của đại tộc Đông Sơn cổ hơn ở phần đất Việt Nam.
Hình vẽ trên vách đá bên bờ sông Zuo của người Lạc Việt mà các học gỉa Trung Quốc hiện nay cho là cảnh hiến tế. Theo sự giải đọc của tôi như đã thấy mọi chi tiết đề mang nghĩa liên hệ với cảnh lễ hội, hiến tế, tế lễ mặt trời. Đây đích thực là cảnh hiến tế mặt trời trăm phần trăm của người Lạc Việt cổ, một tộc của Bách Việt Người Mặt Trời dòng dõi thần mặt trời Viêm Đế.
Với hình mặt trời lớn ở trọng tâm gồm mặt trời có nọc tia sáng nằm trong đĩa tròn không gian mang nghĩa mặt trời nòng nọc, âm dương, sinh tạo, tạo hóa, vũ trụ ứng với thần mặt trời tạo hóa Viêm Đế và những mặt trời nhỏ con cháu ứng với thần mặt trời con theo duy dương là bốn thần mặt trời ở cõi tạo hóa đại vũ trụ và bốn thần mặt trời ở cõi sinh tạo thế gian ứng với bốn tổ phụ mặt trời của chúng ta là Đế Minh, Mặt Trời Ánh Sáng (Lửa), Kì Dương Vương, mặt trời Đất, Lạc Long Quân mặt trời, Mặt Trời và Hùng Vương (khuôn mặt sinh tạo) Mặt Trời Gió vị chi tổng cộng là chín mặt trời. Trong nhóm mặt trên vách đá Hoa Sơn ở trên ta cũng đếm được một mặt trời lớn và 8 mặt trời nhỏ.
Nhóm chín thần tổ mặt trời của chúng ta có một nhánh Lạc Việt và 9 mặt trời của Lạc Việt cổ Hoa Sơn giống hệt như truyền thuyết Cửu Thần chín mặt trời Ennead của Ai Cập cổ. Xin nhắc lại truyền thuyết Cửu Thần ở Helipolis là của dòng thần Atum-Ra, dòng mặt trời Chiều, Hoàng Hôn, mặt trời Nước ứng với truyền thuyết Lạc Việt mặt trời Nước, mặt trời Chiều, mặt trời Hoàng Hôn Lạc Long Quân (Sự tương Đồng Giữa Cổ Sử Việt và Ai Cập 3). Như thế Lạc Việt Việt Nam, Lạc Việt Tráng, “Lạc” Ai Cập cổ đều có truyền thuyết 9 vị thần tổ mặt trời.
Quan niệm về Vũ Trụ Tạo Sinh và các tộc mặt trời ứng với các mặt trời khác nhau trong Vũ Trụ giáo đã được ghi lại ở trang sử đá này đã có vào thời Quốc Chiến và Đông Hán.
Điểm này cũng được ghi rõ trong sử đồng của đại tộc Đông Sơn qua các trống đồng nòng nọc, âm dương có những hình mặt trời khác nhau biểu tượng cho các tộc mặt trời, thờ phượng mặt trời khác nhau của Bách Việt và theo các giai đoạn khác nhau của Vũ Trụ Tạo Sinh, của Vũ Trụ Tạo Sinh.
Không còn gì để nghi ngờ nữa. Đại Tộc Việt, Bách Việt là Người Mặt Trời thuộc họ mặt trời Hồng Bàng, ngành Viêm Việt, thần mặt trời Viêm Đế, có tổ Hùng mặt trời, các Lang Hùng mặt trời, các Hùng Vương mặt trời, có chim biểu tượng cho mặt trời là chim rìu, chim cắt, chim Việt, có thú biểu hươu Việt là hươu sừng mang gạc, có Rắn Việt là rắn có sừng… Một lần nữa những trang sử đá này chứng thực và xác quyết như vậy.
Các nhà làm văn hóa Việt nếu còn chưa tin những điều tôi viết là Đại Tộc Việt, Bách Việt là Người Mặt Trời, các Hùng Vương là vua mặt trời, trống đồng của đại tộc Đông Sơn có hình mặt trời là trống biểu của Hùng Vương mặt trời… thì xin hãy tìm đến trang sử đá này mà suy nghiệm. Hãy ngồi dưới vách đá này nhắm mắt lại để hồn Lạc Việt cổ khai tâm cho biết rõ.