Việt Nam Văn Hiến
Năm Thứ 4888


www.vietnamvanhien.net




 Trang mạng Việt Nam Văn Hiến xin được trân trọng lưu trữ và phổ biến những biên khảo và sáng tác của ngài   X.Y. Thái Dịch Lý Đông A,   trong mục đích bảo tồn di sản văn hoá cuả Việt tộc và để tri ân sự hiện hữu của ngài trong dòng sinh mệnh Việt cùng những đóng góp vô cùng quý báu cho nền văn hóa Việt.

Nhóm mạng Việt Nam Văn Hiến



Đạo Trường Ngâm
X.Y.Thái Dịch Lý Đông A





Lược Tiểu Sử  X.Y. Thái Dịch Ðông A

 

X.Y. Thái Dịch Ðông A tên thật Nguyễn Hữu Thanh, sinh năm 1920, tuổi Canh Thân, mệnh Mộc, tại huyện Kim Bảng  tỉnh Nam. Ông thông hiểu về Dịch , Phật Học, Lịch Sử, v.v... khi mới 16 tuổi. Theo lời kể, ông được linh quang thần nhập thể  vào lúc 16 tuổi, nên được khai mở trí tuệ: đọc rất mau, thâu tóm tưởng rất lẹ.

 

Năm 1942, Ông đến thư viện Liễu Châu (Trung Hoa) để kiểm lại các sách viết về triết học, lịch sử, xả hội, khoa học Tây Phương Ðông Phương, nghiên cứu địa Trung Hoa, đồng thời khảo sát thêm về lịch sử văn minh Việt. Tại đây, Ông bắt đầu viết các sách thuộc bộÐại Việt Duy Dân  Ðại Cương Thảo Án Quốc Sách Toàn Pho”, tức các sách thuộc chủ thuyết Duy Dân Nhân Chủ. Sách Ông viết rất nhiều (khoảng 30 bộ) nhưng phần lớn không được phổ biến nhiều do, một số bị thất lạc. Sách của Ông dùng nhiều từ ngữ Hán Việt, ý tưởng rất xúc tích, cách trình bày với dạng thức đặc biệt.

 

          Ðông A khai triển văn hóa truyền thống dân tộc kết hợp với các suy về sự kết cấu hội nhân loại hội tự tính để lập thuyết. Một cách giản lược, lấy người làm trục, căn bản triết của chủ nghĩa Duy Dân ba bình diện ba thành phần biện chứng đưa đến một quan điểm thống nhất, đại đồng, chân xác về người:

 

-         trụ: duy nhiên, nguyên.

-         Nhân loại: duy nhân, nhất nguyên.

-         Dân tộc: duy dân, đa nguyên tương đối.

 

trụ một lãnh vực thuần túy khách quan...trong đó con người sinh vật đặt thù luôn luôn nổ lực vượt trên vận động tự nhiên để thành lập hội nguyên thủy hội tự tính, từ đó con người mới xứng danh người. Ý niệm hội ý niệm căn bản của mọi quan điểm về người.

 

          Ngày 1 tháng 1 năm 1943, X.Y. Thái Dịch Ðông A sáng lập Thư Trưởng Việt Duy Dân Ðảng để đấu tranh chống Pháp chống Cộng. thời chưa đến với người Quốc Gia chân chính, nên sau trận Nga My (1945) Hòa Bình (1946) đấu kháng với Cộng Sản, Ông tuyên bố giải tán Ðảng biệt tích, lúc ấy Ông 26 tuổi. Sau năm 1946, người ta không còn ghi nhận những hoạt động nào của Ông, ngoài những lời đồn đãi Ông đã bị Cộng Sản thủ tiêu như đã thủ tiêu lãnh tụ của các đảng phái cách mạng thời đó. Tuy nhiên các quan tình báo Pháp ngay cả Cộng Sản Việt Nam đã không bằng chứng nào chứng tỏ Ông đã bị sát hại cả.

 

           Nhà cách mạng Ðông A đã quyết tâm đi làm cách mạng cứu nước giữ nòi bằng cả trái tim đầy máu nóng, một lòng yêu nước thương nòi nồng nàn. Các tác phẩm của Ông ngoài phần văn chương trác tuyệt tâm huyết ngút trời đối với Quốc Gia Dân Tộc, còn một hệ tưởng tuyệt vời cao sâu thực tiển, nhân ái, viễn kiến chính trị suốt dọc, làm nền tảng cho cuộc cách mạng phục hoạt sắp tới cho dân tộc Việt một cuộc cách mạng khuôn mẫu cho nhân loại sau này. Các tác phẩm của Ông đã được xuất bản : Ðạo Trường Ngâm, Huyết Hoa, Chu Tri Lục, Duy Nhân Cương Thường, Thiết Giáo, Việt Sử Thông Luận, một số tài liệu.

 

          Tóm lại, lãnh tụ X.Y. Thái Dịch Ðông A được kể một trong số ít triết gia Việt Nam, một nhà cách mạng nhân bản hội, một nhà chính trị đạo đức, một nhà đại thi hào của dân tộc.

 

 

Gió Đáy thuộc Duy Dân Học , xuất bản thứ nhất tại Sài Gòn, Việt Nam tháng 9 năm 1969 (Kỷ Dậu 4848 tuổi Việt)


Mục Lục

1.Ðạo trường ngâm
26.Hươu ngựa
2.Huyết Hoa
27.Thi hồn
3.Thiên tài hoa
28.Thi nhiệt
4.Bạch vân đìếu
29.Chiến sĩ tư
5.Vạn niên thư
30.Lục niên thành
6.Bach vân đàn họa
31.Thăng long điếu
7.Hồn cố quốc
32.Xuân cảm
8.Nam thi tháo
33.Hận mế châu
9.Nhàn ngâm
34.Hận mế hê
10.Thiên cổ thông
35.Ðường vua Ðinh
11.Tự hào
36.Vết bô cô
12.Thánh đồng ngâm
37.Ðịch lộng dư âm
13.Xuân thu ngữ
38.Túy tưởng
14.Tơ đồng
39.Xuân thu hoa
15.Ruộng và nương
40.Ðại Việt âm
16.Dương tử giang âm
41.Kinh đô hành
17.Chính khí Việt
42.Tiên long châu hành
18.Xuân tráng sĩ
43.Bạch sơn hành
19.Lưỡi gươm Việt
44.Nga my hành
20.Hứng ngâm
45.Nga my nguyệt
21.Xuân thu ngâm
46.Nguyên tử đạn
22.Hoài cảm
47.Ðồi nga my
23.Quốc sĩ
48.Khai bút
24.Vong quốc nô
49.Ðà giang
25.Chim mồi



THAY LỜI TỰA

MUSES

Nhà văn nghệ phải phát thệ cái yêu thương; yêu thương huyết tính của loài người. Nhà văn nghệ phải thể nghiệm được yêu thương trong sinh mệnh lịch sử, hiện tại tương lai trong loài người, trong sống thật, sống máu sống đấu tranh của loài người. Nhà văn nghệ phải ca tụng những cuộc đắc thắng ngã.

Thế cho nên nhà văn nghệ phải của dân chúng, phải trở về bình dân, phải phần tử bình dân, còn phải người tin thờ bình dân, đấy toàn thể cái hiện thân của yêu thương, hy vọng, tin thờ tưởng đang tranh đấu phải "mắt ", "mặt cúi". Nhà văn nghệ không làm " chợ" được, văn nghệ không thể làm tiếng "chó sủa" được (Shelley), đồng thời không thể làm đồ đùa cho giai cấp độc quyền (Tolstoi), cũng không thể làm "đồ chơi của bọn tục". " tiếng đau khổ thực ảm đạm nghiêm nghị" (Chu Xuyên Bạch Thôn). Bỏ loài người ra, văn nghệ không giá trị hết, nhưng bỏ đa số loài người ra với bỏ lòng yêu thương ngã ra, văn nghệ không thể một giá trị thích đáng. Nhà văn học phải một "giáo tiên tri dùi mài" (Fichte). "Phải thổi tiếng kèn đánh thức lên" (Shelley). "Phải làm sao cho loài người tự hiểu mình, tự tin mình càng khát chân " (Gorky). Thế cho nên "văn nghệ lương tâm của loài người" (Herbert).

Cái lương tâm việc đánh thức chỉ thể bằng yêu thương đang đau khổ trong vật lộn. Muốn được thế, văn nghệ phải ngã không còn chấp trước nữa. Văn nghệ còn hình thể của tưởng, cho nên văn nghệ tự thân cũng phải lành, đẹp thực. Lành thực không hỗ giải được cho một tiêu chuẩn đúng đắn, chỉ đẹp biểu hiện được ràng giá trị nhất.

Cho nên văn nghệ hình tượng, cảm tưởng tượng trưng. Đẹp phải biểu hiện độc lập thuần túy trên hình thể mầu sắc, đẹp phải trình bày cái độc đặc của nội dung, "chỉ thực chất sinh ra hình thức" (G the). Văn thể phải sự tỏ lộ của nội tâm người cầm bút (Gorky). Mỗi bức vẽ phải một vở kịch một màn, cái diễn trình phải chú trọng trong sắc vận. Khó thể tìm thấy trong những nhà văn hào lớn lao như Balzac, một nhà tả thực chủ nghĩa hay lãng mạn chủ nghĩa (Gorky), văn nghệ chỉ sinh mệnh phô bày ra (Herbert) loài người trong đời sống cũng như khôngvào tưởng thì không thể nở hoa được (Thạch Xuyên San Tứ Lang), đó sứ mệnh thực hiện chủ nghĩa, đó còn cách mạng lãng mạn chủ nghĩạ

Văn nghệ hoa của đạo , huyết hoa.

Văn nghệ phải sống.

Hãy mở cửa sổ ra cho ta hít hơi thở của không khí anh hùng (Romain Rolland). Phải phá tan màn tối ra cho ánh sáng, hơi thoảng chiếu vào phát nhiệt cho loài người khỏi tăm tối, cho hạt giống của hoa quý từ dưới thối ra, mục nát, bùn lầy, hôi tanh, đượm hơi sương mai không khí sáng nở lên trái quả tươi màụ

Nếu loài người duy vật thật, tất không văn nghệ, chỉ khoa học của vật chất luật tắc.

Nếu loài người duy tâm thật, tất không văn nghệ, chỉ tông giáo qua thần thức.

Văn nghệ chủ của thời đại mới dẫn dắt loài người bằng phương pháp ý thức của tự loài ngườị

Văn nghệ không phải thượng tầng kiến trúc, chỉ dưỡng sinh nền tảng của mọi người. Cho nên Lễ Nhạc chính trị phương thức chính trị của Nho duy sinh. Lễ Nhạc phải phát xuất tự nơi dân chúng sống thật mới được.

Lễ Nhạc (một trong văn nghệ) phải chính trị hóa, hơn nữa giáo dục hóa. "Một văn nghệ nào, nếu không lấy đạo đức hóa tưởng thực dụng làm mục tiêu chỉ một thứ sống bất lương bệnh thái".

Nhưng văn nghệ không thểbọn quan liêu, chính khách nhàn tản theo đòi được. Văn nghệ phải để cho yêu thương của tưởng tranh đấu chủ trì, văn nghệ của dân chúng mới được.


X.Y. Thái Dịch Đông A

4823 tuổi Việt (1944)

(trích trong Huyết Hoa)



 

Đạo Trường Ngâm

 

Một vòng không đáy, đáy sinh người.

Ngoảnh lại trông đi mấy việt khơi

Thường vậy danh văng vẳng.

nay hữu thực bời bời.

Tiết gin thiên cổ tìdnh khôn dãi,

Óc tính trăm năm, gan dễ phơi.

Khép mở hồng hoang vần chuyển mãi,

Duy nhiên khoày động ba nghìn trời.

 

Ba nghìn trời một khoáy thấy đâu,

Ðám bụi trần ai luống đục ngầu.

Sách Hóa trắng tinh không một chữ,

Gậy thần đốt trúc hai đầu.

Sông Thao nước cuốn bên bồi lở,

Núi Tản mây vần, độ bể dâu.

Ðông Tây một nhẽ, xuyên kim cổ,

trụ huyền hoàng, mối Lạc Âu.

 

Mối Lạc Âu gỡ trải bao giờ,

Bơn cát ngàn tre gió phất phơ

Trúc lụa đã dày phen tri loạn.

Son xanh còn chiếu dạ được thua.

Cương thường chắp nối hai kiếp lại.

Văn trì trương một nguyện xưa.

Hỗn độn đã nhiều công mang mớ,

Chờn thây cho mưa nắng hững hờ!

 

Nắng mưa tâm sựtrên đời,

Tao hóa như không, lọ trời!

Ðồng Trung Hoa đến mang làm cột,

Máy Pháp lan sang để chem. người.

Ðạo nghĩa gớm cho quân lợm khẩu.

Nhân quyèn khiếp cả xanh ngươi!

Nghẫm xem muôn vật đều dắc ý.

Rẽ rạch Hồng Bàng tính cổ thời.

 

Tính cổ thời ngày một đi đi,

Trách ai cảt cử gọi Hoa Di.

Cỏ xanh kia lấy bạo thay bạo.

Gạch tía này sướng chi khổ chi?

Sự tích thôi đều hươu quạ.

Sinh linh thế ấy phân ly.

Xuân Thu ướm hỏi bởi vị.

Hay bởi Xuân Thu bởi vị .

 

Bởi chút vị tìm lẽ đời,

Ba sinh còn hồn mộng đôi nơi,

Giang sơn dựng thuở ai tác bể.

Quan gây từ kẻ trụ  trời,

Tác giả danh gốc đạo.

Noãn bào trăm họ ấy giềng ngưòi.

Ðáy dòng nước băng băng chảy mãi.

Chớp bể mưa nguồn nào ngơi!

 

Chớp bể mưa nguồn kéo khắp miền.

chi tắm gội, truân chuyên.

Bút nghiên, đèn sách đều sai lạc,

Kim cổ, Ðông Tây cũng hão huyền.

biết lửa hưong tìm chấp nối,

hay vàng đá dể trao truyền,

Văn minh nghĩ kỹ còn nhiều việc.

 Ðem cả muôn loài lên Duy Nhiên.

 

4822 T.V. (1943)


Huyết Hoa

 

Hồn bạch trĩ bâng khuâng tìm nước ,

Tìm cội dài, ngậm ngắn núi Viêm Phương.

Tìm nắng mưa bầu đoàn loài một tổ,

Ðậu cành Nam đèo đẵng đau thương.

 

Hồn tài tử vơi đầy ngụ oan khổ,

Khúc đoạn trường nên tuyệt cổ văn chương.

Một tấm son chủt trinh này gột rửa,

Chót đèo bồng tình cố quốc tha hương.

 

Hồn nghiệt ngoài khơi trong bến Ngự.

Dầu tái sinh hứ hạnh dạ còn vương.

Cán Long Tuyền mài sương hàn Ðỗ .

Tấm lòng người vong quốc chết đau thương

 

quốc chi

huyết chi hoa.

 

Trời mãi, đất mãi không tha.

Năm năm mây bạc, đầu bạc chẳng già.

Quả tim đúc lại, nhủ cho ngàn biển.

tình vẫn mãi, hữu tình không tha!

Hận lòng như gió thổi, thổi đời thuở.

Sự nước non dài, dài cả một ta.

 

4822 T.V. (1943)


 

Thiên Tài Hoa

 

Sao Viêm Phương chọn chốn giáng tinh thần

Trong muôn hoa lấy mộthồng trần.

Chợt bóng mát chân sim ta tìm gặp.

Ðầu dây leo  bình dị đoá siêu quần.

 

Ðóa siêu quần ta gọi thiên tài hoa.

Nếp tinh quang in năm cánh kỷ .

Sắc đỏ trời Nam phun ánh lửa.

Hương không thơm ẩn tích Ngân .

 

Tận Ngân huyền diệu chất thiên tài.

Gió mưa hồn cố quốc tít non đoài.

Ðoá hoa huyểt người ta bừng thức giấc,

Sao Viêm Phương chói lọi mọc trên đài.

 

4824 T.V. (1945)

 

Vạn Niên Thư

 

Việc muôn năm trước lắm ngưòi đương,

Việc muôn năm sau nhiều kẻ nối.

Non sông không thiếu khách trì trương,

Vận mệnh phần tay ai giềng mối.

 

Ngày ngày tháng tháng đi dòi dõi,

Tốn ích trong mối thế thường

Lao lực trần ai thương lặn lội,

Con thoi nhật nguyệt nắng đòi sương.

 

Bởi chút thiên sinh liệu dưỡng phương

Lòng tằm, ruột lúa nhường nông nổi.

Tự thuở tương tri những vấn vương,

Nguyện đem hương lửa ràng công tội.

 

Khúc hát non Côn làn suối dội.

Bài thơ mây trắng gió am trường,

Sáu năm cung kiếm tinh nửa gối,

Kẻ trước người sau đều đoạn trường.

 

Bởi chút tinh hồn của cố hương.

Cỏ gai mịt đi tìm tõi

Vạch đường tinh vệ bể Uổng Dương

Viếng núi Thu Tinh trời vòi vọi.

 

Con thuyền lon thách chìm nổi,

Tắc kiếm thần Rùa dẹp nhiễu nhương.

Ngồi lại đem thi thánh chắp thành nối,

Ði ra lên ngựa mở hoàng vương.

Tấm lòng để chúc muôn năm trường,

Sự nghiệp làm dây các vận hội.

Năm trăm năm nữa gíó Nam Dương.

Chớ bảo ta trong hàng trăm tuổi.

 

4823 T.V. (1944)

 

Bạch Vân Đàn Họa

 

Mây lành hiện về cát xây ngai

Ðiền phá ai người dễ biêt ai?

Ðủng đỉnh Thái Nguyên ngay trước mắt.

Dập dìu Ba Thục chính mang tai.

Thần dẫn dắt đường tam hiểm.

Y bát trao truyền vận thất khai.

Ngày đến Tiểu Văn Lang sẽ thấy.

Ngẩng nhìn sao Tất sang phai phai.

 

4824 T.V. (1945)


Hồn Cố Quốc

 

Hồn ngược sóng ba sinh.

Hồn về núi Thu Tinh.

Chợ Cao Ðang đồng vọng,

Cố quốc biết bao tình!

 

4823 T.V.


Nam Thi Tháo

 

Những nguồn thơ bất tuyệt như thiên cổ,

Bằng mồ hôi, máu lện chảy đời đòi.

Cả nòi gióng trên tiến hành lao khổ,

Vần Nam Thi lên mỗi dịp bời bời.

 

Cuộc chiến đấu đem hồng hoang mang mở.

Ðám trần ai hồn sáng tác chan chan.

Bằng muôn miệng, muôn lòng buông sáng nở

Vần Nam Thi lên mỗi giọng nồng nàn.

 

Tự giác lại sống còn đã đến độ.

Sóng đáy thàng hùng sủi ngạt ngào.

Cả nòi giống trên độ trình rầm rộ.

Vần Nam Thi lên mỗi điệu dạt dào.

 

Gió nồm đem nắng Viêm hòa rực rỡ,

Gậy tre lau trở lại huyèn hoàng,

Sợi nâu lam mối Hồng Bàng tết gỡ,

Vần Nam Thi lên mỗi phố sang sang.

 

4822 T.V.


Nhàn Ngâm

 

Kinh luân chút nợ chửa yên tuyền.

Nên liệu ba sinh phải báo nguyền,

Thiết huyết thiên thu nhiều lao đảo.

Bạch vân tể tướng mới thần tiên.

Như không gặp gỡ ngày Ngô Thát.

Thì đã du nhàn chốn phố viên.

Một chiếc hồ mươi hoàng quyển.

Tiêu dao mây nội hạc chân huyền.

 

4822 T.V.


Thiên Cổ Thông

 

Khối tình yêu thiên cổ dòng kim cương.

Ngày thai sinh nhưng chọn chốn quê hương.

Hèm núi Trắng sông Xanh của nòi Việt,

Cỏ hoa còn gìn giữ mặc tang thương.

 

muôn thuở như mỗi ngày thêm sáng.

Ðược một người đáng mến đáng chìu thương,

Vết Tiên Rồng ai khắc qua mưa nắng?

Ðể tâm lo lắng mối cương thường.

 

Hồn lịch sử sóng trong dây nguyện ước.

Vẫn chu lưu ồn tại phong sương!

Bừng tĩnh ngộ bằng đồ thư đất nước.

Kín uyên nguyên sầu thẳm đáy cửu trường.

 

Tất cả bởi cháu con bền bỉ mãi.

Nền kế khai đạo thống dãi Viêm Phương

Dẫu thiên cổ nhân duyên nhiều cảnh thái.

Khối tình yêu khôn nói hết vương.

 

4822 T.V.


Tự Hào

 

Chàng thiếu niên chí thành, hành chữ vương

Sinh ra đời gặp lúc đại nhiễu nhương.

Dân muôn nhà trầm luân trong nước lửa.

Chàng thiếu niên gầm thét động bi thương.

 

Phấn hùng tâm gọt mài tìm lẽ sống.

Ðặt  tấm thân dày dạn giữa gió sương;

Ngày công thành hẹn trước như cứu chúa.

Cầm trong tay vận mệnh kỷ cương.

 

Chàng thiếu niên gốc cháu con Hồng Lạc

Máu nóng sôi, hồn nóng lửa Viêm Phương.

Năm nghìn năm trong mạch sống chan chứa.

Hoa thiên tài bừng nở nức Ðông Dương.

Lòng trong trắng như vầng trời cao sáng.

Ðức uy nghi nên cách khác ai thường.

Tình yêu thương những ngày thiên mệnh sớm

giông nòi trút lại chẳng vương.

 

Vết phấn đấu như rồng bay tuyệt cắng

Tài lược thao cái thế ai đương;

Lưỡi gươm thề quyết mở đường Vạn Thắng

Gồm một nhà trăm giống Việt Kinh Dương.

Chàng thiếu niên rượu thần thơ lại thánh.

Nét tâm đan mở miệng văn chương,

Bước Duy Dân dòng Xuân Thu tha thiết.

Uống Năm hồ, ngâm trăm thuở cương thường.

 

Trang bất tử bước chân hùng khảng khái.

hồn nhiên linh nhạc nẩy cung thương.

Thường than câuThiên hạ thùy nhân khấp

Thoắt xem mình đầu tóc đã pha sương.

 

Gánh tài tình tự hẹn thời mưa gió.

 Dẹp cuồng lan xấy đắp cõi kim cương,

Thân lui về tiêu dao không ngày tháng.

Muôn nghìn đời tài tử nhất danh trương!

 

Chàng thiếu niên tự hào thân lầng lậng,

Ðáng cháu con Hồng Lạc mặt dương dương

Cũng doanh hoàn đua chen với kim cổ,

Hỏi xem đời mấy kẻ dám tương đương?

 

Chàng thét rượu, mở tờ buông bút sử,

Tự hào mình, mình hát lại mình thương,

Rằng nghìn trước, nghìn sau, nghìn năm nữa,

ai cùng Thái Dịch hồn thương?

 

4822 T.V.

Thánh Đồng Ngâm

 

Trứng rồng nở ra rồng.

Hạt thông mọc cội thông.

Nối dòng mở dõi

Bởi con cháu Lạc Hồng.

 

Tre già măng lại mọc

Ðông hết tất sang Xuân.

Nóng lạnh tình như dục.

Bao nhiêu nỗi xa gần.

 

Tạo hóa như không cả.

Nên chăng bởi tự người

Thánh hiền sao vắng vẻ

Trong mong trẻ tươi!

Nước suôi đi đi mãi,

Trời quay đến đến đâu!

Mỗi thoáng đời thêm mới,

Thương thay lứa bạc đầu!

 

Trúc lụa ngày thêm

Son xanh mỗi giũa thêm,

Hưng vong đem gột rửa;

Vàng đá cũng ngao mềm.

Lòng người xưa ta biết,

Tái sinh còn hận dài.

không chi chi hết,

Cát bụi phải dùi mài.

 

Ðoái lại tuy không kịp,

Trông theo đuổi vẫn còn.

Phím đàn tuy nhỡ dịp,

Ðiệu tri âm chưa mòn.

 

Lúa trong bùn lội,

Cát vẩn lọc nên vàng,

đem thân chìm nổi

Mới biết ánh vinh quang.

 

Sống chết bao nhiêu ngả.

Chung quy một lẽ đời.

Ðầu tóc xanh óng ả,

Rằng tóc răng, lưng vời.

 

Giung giẻ trong vui sướng,

Chi chành với gió mây,

Trắng răng nào đã tưởng

Cuộc ú tim sau này!

 

Lăn lóc trường trác táng,

Khổ lạc chất bao chồng.

Muốn ngơ ngơ ngãng ngãng.

Tìm phương thuốc hoàn đồng.

 

Ấy chết đi còn  sống,

Mỗi sống mỗi phôi pha

hắt hiu một đống

Làm với cỏ hoa!

 

Ai đem giày nát mãi?

Ai đem vần ai?

Nắng mưa dạn rầu dãi,

Một tấm lòng thoát thai.

 

Còn người trong trời đất,

Còn bao giờ hết sầu!

Chiếc dây cùng muôn vật

Cởi thắt tự dâu đâu.

 

Thăm nơi nguyệt quật,

Cầm nắm lấy thiên căn.

Giày đi đi mất,

Còn đây vết trục trần.

 

Giọt nước xuyên lỗ mỗ

Dây ràng kín góc gai,

Nước non hồn Ðỗ ,

Giằng lối vấn vít hoài.

 

Vạch lối muốn năm trước.

Tìm đường muôn năm sau,

Thái Bình làm Sách Ước

Xây đắp cỏi thần châu.

 

Chở oán chi trụ.

Cũng đùng trách người ta,

Tấm băng ngà bóng ,

Dòng suối cuộn cành hoa.

 

Ngày tháng như thoi lẩy,

Cương thường nặng ngàn cân.

Chỉ xin đem chút mẩy

Báo đáp cùng ba xuân.

 

Công tội, Xuân Thu hiểu.

Long Hoa mấy vận lành?

Áo vải đời nhương nhiễu,

Thủy hỏa luyện nên mình.

 

Ðầu xanh học làm Thánh,

Ðược cả học làm Vương

muôn sinh chấp mánh.

Cho toại chí mười phương.

 

Thánh Vương như học được.

Nguyện bạc đầu đọc kinh,

Chỉ chưng thao lược

Không ngoài trong tự mình.

 

Giàu sang như dép rách.

Non Côn suối rừng

Ðất trời ai cởi ách,

Hơn Thánh Vương ngàn từng.

 

Chỉ những người tác giả.

Làm thầy cho mọi đời!

Áo cơm đạo cả

Kinh doanh đủ hộ người.

 

Khói mây kín mịt

Như Không, như sáu Như.

Anh hùng đâu mất hết;

Như thiếu, như !

 

Ðẻ ra ai đã biết?

Hun đúc trong trường trần,

Chỉ những người nghiệt

Hiểu được thức kinh luân.

 

Cha mẹ công huân dưỡng.

Non sông phí tưới vung,

Máu chảy đức lượng.

Xin thề kiền khôn.

 

4822 T.V.


Xuân Thu Ngữ

 

Khi bán than ẩn, khi đan sọt ra,

Ðược nghĩa được nhân, phải thời phải thế.

Biểu trừ gian một thuở về nhà.

Lòng riêng đau nghìn cổ cõi Ðông Á.

Thuở còn trời, còn đất còn ta.

Gánh cương thường nhắc lên vai ai để.

Ðể đời đời nghĩ, nghĩ lại xót xa

Rằng mỗi đời sao chẳng mỗi thánh nhân ra.

 

Bóng trăng soi tịch mịch

Nước suối reo,

Cây thông .

 

Tri ngã giả kỳ duy Xuân Thu hồ

Tội ngã giả kỳ  duy Xuân Thu hồ”.

 

4823 T.V.


Đồng

 

Mai không trên núi.

Quế không trên non,

Ðào không trên nương.

 

Phong trần lặn lội xót hoa hường,

Tìm người đồng tình dạ vấn vương.

Buồn theo gió đông gửi bốn phương.

 

Lân ẩn trong nội,

Phượng ẩn trong ngàn,

Rồng ẩn trong ao.

 

Lều gianh cỏ rậm vùi anh hào.

Tìm người đồng chí dạ khát khao.

Trong theo cánh buồn hỏi mây sao!

 

Cầm không sắt.

Uyên không ương,

Cưu không thư.

 

Thu dài Xuân ngắn hận nắng mưa.

Tìm người đồng tâm dạ tương ,

Ngóng theo tăm bóng nhắn tin tờ.

 

4822 T.V.


Ruộng Nương

 

Nắng bay lúa đỏ mấy miền.

Lần xem bờ cõi Lạc điền những đâu?

Hai tay cuốc bẫm cày sâu,

Một bồ thóc gióng ngả màu giang san.

Bóng dâu min mít đồi ngàn,

Gió đèo Ngũ Lĩnh, mây qua Chà .

Con tầm chấp nối bao ,

Nên đồ đó giữ nếp nhà áo khăn,

Nắng mưa tắm trải bao lần,

Trăng thu Lương Thủy, hoa xuân Kiếm Hồ,

Lưng trời con nhạn thơ,

Tấc sinh cây cỏ còn chờ nước non.

 

4823 T.V.


Dương Tử Giang Âm

 

Mây Năm Núi, gió Năm Hồ,

Nghìn xưa bến Sở, sông Ngô thế nào?

Mây bay gió cuốn ra sao,

Non kia, nước ấy thấp cao những ?

Mệnh ngày suy chửa hết suy,

Biết đâu Cai Hạ Mịch La?

Gió mưa ta cũng một nhà,

Mây quang gió tạnh đã nghìn xưa.

Cây non thức dậy hay chưa,

Tấm lòng Dương Tử đợi đưa tin hồng.

 

4823 T.V.

 

Chính Khí Việt

 

Một ngày lạnh nước nguời không tri kỷ.

Ta vỗ án hét thành chúng ta chính khí.

Ðông thê thê như gió thổi u hồn,

Thấu buốt tận lòng ngưòi trong cốt tủy.

 

Lòng sống chết buồn vui bừng nổi dậy,

Thoát lăm le như dục người chọn lấy,

Năm nghìn năm, làm máu bén dạt dào.

Sóng lớp lớp rượu ba tuần thuở ấy.

 

Tiếng vang vang như thần kêu quỷ hét.

Trời ngập ngập như quân khiêu tướng thét,

Gọi quá khứ vị lai những u hồn

Muôn nghìn đời linh thiêng không sống chết.

 

Muôn nghìn đời linh thiêng không sống chết.

 

Nước Linh trăng thu còn vằng vặc,

Sông Bạch Ðằng sóng vỗ thuyền cắc cắc.

Non Chi Lăng gió cuốn rừng cung đao,

Ðồng Ðống Ða xưong người phơi man mác.

 

Buổi Sát Thát chàm vai thề đầu mất,

Ngày Bình Ngô nổi cờ không khuất tất,

Khi Cần Vương nhổ mặt gian hùng,

Lúc Cứu Quốc vòng bôn lao uất uất.

 

Thà làm ma nước Nam không vua Bắc,

Ðầu chẳng còn quyết không đương cắt tóc,

Lửa đốt mình không phụ nợ non sông

Dây thắt cổ cho tròn trung tắc.

 

Dây thắt cổ cho tròn trung tắc.

 

Muôn nghìn đời linh thiêng không sống chết.

Những trung hồn xưa, nay, mai oanh liệt

Mở nguồn sống xưa, nay, mai nước nòi,

Muôn nghìn đời dạt dào chính khí Việt.

 

Chính khí Việt suốt đất trời bàng bạc,

Chính khí Việt trong máu người Hồng Lạc.

Gió thê thê quất dậy hồn phục hưng

Gươm Vạn Thắng cứu nước nòi giết giặc.

 

Chính khí Việt hồn gươm Vạn Thắng,

Sắt tôi với máu đào hun lửa nóng,

Ðại Việt muôn năm! Cả toàn dân

Vượt đau nhục lên sống còn hùng tráng.

 

Liễu Châu 4821 T.V



Xuân Tráng

 

Tráng hãy ngâm câu:

 

Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu

Cổ lai chinh chiến kỳ nhân hồi”.

 

Cũng bởi :

Lòng quyết tử tiến lên đường gió bụi,

Hai bàn tay thề phục lại sơn .

Thái Bình Dương lấp lánh san bằng sầu nhục tủi,

Lấy máu đào rửa sạch máu yêu ma.

 

Thế cho nên:

 

Tráng hãy cùng ta tay cầm tay,

Thu Năm Hồ dốc lại một   say

Ðem Xuân đầu với rượi hòng pháo nổ

Hãy vui cho đỡ buồn xa đất tổ.

 

Rồi ngày mai, từ ngày mai.

 

tưởng Việt như trời Xuân sáng tỏ,

Chép sử Việt ánh dương phơi máu đỏ

Tráng cầm thanh gươm của ông cha,

Phấn hồn xưa giết giặc đòi lại nhà.

Tráng hãy lên:

 

 

Những xâm lược, bóc lột hại sinh linh.

Những buôn dân bán nước cầu vinh.

Hãy giết sạch chớ gờm tay sợ ác.

Cho trong trắng nòi con Hồng cháu Lạc.

 

Rồi ngày kia:

 

Một ngày kia Thắng Nghĩa ca

Sẽ vang lừng đây đó quốc gia.

 

lúc đó:

 

Tráng sẽ lại cùng ta

Ta cầm tay cùng hát câu

Sát Thát Bình Ngô của ông cha từ thuở nọ.

 

Ðoạt sáo Chương Dương độ

Cầm hồ Hàm Tử Quan

 

Súng nổ ran

Phảo nổ ran

Cùng hân hoan.

 

Liễu Châu 4821 T.V


Lưỡi Gươm Việt

 

Thép Van Lang lò Viêm hồng nung đúc.

Búa Lô Truy rèn giữa bể dâu từng.

Góp ba núi, năm sông dày tẩm dục.

Sấm sét nhoàng chớp nhoáng giữa gươm cung.

 

Thuở Vạn Kiếp tiên trao khét oanh liệt,

Ngày Lục NIên đã hiện thét quang vinh,

Rửa lấy máu gột màu bằng xương thịt,

Chém muông Hồ, thú Hán nức uy linh.

 

Như Bình Trọng nhơn nhơn giữ một mực.

Tựa Lê Lai ngặt ngặt xung chín lần,

Rửa lấy khí gọt mài bằng trung trực,

Sờn gai người, chém đảo sóng ba quân.

Ví binh phù ngư long bay xào xạc.

Bằng phiến minh tuyết lửa thổi chập chành

Rửa ấy óc gọt mài bằng sáng tác,

Nổi phong trần cuốn quét khắp đan thanh.

 

Thép Văn Lang toàn tinh thần tái luyện,

Thép Văn Lang sắc lên nhường bay biến,

Lưỡi gươm Việt lại là gươm Duy Dân

Thế hệ mới mở văn minh hùng kiện.

Lưỡi gươm Việt Vương đấu gồm Thánh Chiến.

Lưỡi bảo kiếm, kiếm khí và tuệ kiếm.

Quy Long trận vung lên áp cổ kim,

Vào hình sắc ra không huyền ảo biến

 

Hỡi con nhà Lạc Âu nước Trăm Việt,

Hãy đúng dậy vung gươm khoa nửa triệt.

Nổi mây mù sấm sét gió mưa ran,

Cả vũ trụ hét lên ca kỳ tuyệt.

 

Quy Long trận,

Kỳ tuyệt ca.

 

Lý tường Việt chan chan ánh sáng loà,

Lưỡi gươm Việt phơi phơi hồn ông cha.

Tráng sĩ Việt đường đường chí đạp ba.

 

Kỳ tuyệt ca,

Quy Long trận.

 

Ðứng núi Tu Di, cắm giuồng Nam Bắc.

Chém sắt Côn Ngô, thu đồ Hà Lạc,

Cắt búi Kim Chiêm, bắt tiêm y thát.

Cùng một lưỡi gươm vẫy nên Vạn Thắng,

Cũng một lưỡi gươm trỏ đến Thái Bình,

Muôn muôn năm còn mãi mãi chân hình,

Vóc tình thân thiết diện, quỷ thần kinh.

 

 4822 T.V


Hứng Ngâm

 

Sao được tráng vài  nghìn muôn,

Cùng ta dong ruỗi khắp doanh hoàn.

Lập lại non sông xưa Bách Việt.

Dựng nên thế giới mới DUY DÂN

Chèo sang một bến cực lạc.

Vớt lấy năm bể trầm luân.

Làm tròn giấc mộng tiền sinh ấy.

Trở lại non sâu nhập Niết Bàn

 

 4822 T.V


Xuân Thu Ngâm

 

Lùn lụt khi rụng

Ngùn ngụt lúc mầm phô,

Nắng mưa trong thiên hạ

Tâm sự ngày xuân thu.

 

Tâm sự mật của muôn đời

 

 4822 T.V


Hoài Cảm

 

Hồng Bàng truyện bao điều.

Tái thế duyên xưa những bấy nhiêu.

Ba chén rươi tham ngày tháng ít.

Một xoang tình ẩn cổ kim nhiều.

Chín mươi huấn cáo quỷ thần khóc

Mười vạn quy thù địch xiêu

Tin tức Ðộng Ðình ai mối lái?

Muốn nơi vết tổ dạm người yêu.

 

 4823 T.V


Quốc Sỉ

 

Nhấp chén rượu mài gươm giận chém đá.

Tấc thần nghịch tử ai chia?

Buổi Âu phong Á vẫn còn .

Chưa thức giấc cùng ta tuyết quốc sỉ?

 

Vuông nhiễu đỏ chờ chờ hoen nét rỉ.

Thẹn những phường tranh chấp mượn tay ai.

Gương Minh vào Thanh đến, đến Tây lai.

Ngai vàng nặng để ê chề non nước.

 

Thẹn những kẻ quyền gian cướp tắc,

Bêu sống thửa, thác nhục chốn tha hương,

Dâng sổ đồ quỳ gối chốn biên cương,

Tiếng sét đánh hoảng hồn quân biếm chúa.

 

Thẹn những kẻ sinh ra con lợn chó.

 Thân ăn nằm còn nghĩ đến ông cha.

 Gác cửu trùng đau thảm chẩt muôn nhà,

Ðem dân nước phó cho làng sóng cả.

 

Thẹn những đứa cân đai mang xóng xả.

Chí đội trời đạp đất đã nhìn.

Chạy trước hưu, gớm chó săn nền!

Chi trách được mụ tâm dạ Hán!

Thẹn những kẻ miếu đình ngồi tướng tán.

Chén thanh trà, bôi hoàng tửu đỉnh chung,

Mặt diện tường sao biết chuyện ô long!

Con thuyền đổ sóng bèo ai giữ lái?

 

Thẹn những bác y ô chi lải nhải,

Mãi sân Trình, cửa Khổng, mãi Ba !

Mộng hầu quan tứ xứ lạc đường quê.

Quê nướctrong hồn người tự chủ.

 

Thẹn đất nước dưới chân giày uế .

Người Lâm Thao, Bến Ngự luống tâm .

bướm hồn, xuân nửa não lòng thơ.

Ðể đàn nhạn đài thoi thóp!

 

Thẹn dân nước trong sống còn ngoi ngóp.

Cũng vua quan, phẩm sắc, cũng giàu sang,

Miếng thịt sôi luồn lọt đỉnh đang,

Luống để thẹn nghìn năm người da ngựa.

 

Thẹn những phường thất phu xanh đỏ khố,

Cúng vênh vang ra phết bậc thầy .

Ðoái chăng ai Sát Thát lại Bình Ngô,

Quân hồn để sượng sùng  gươm Vạn Thắng.

 

Thẹn những bậc yếm khăn chi lẵng đẵng,

Chẳng xem người mũi chỉ dục chinh nhân.

Cũng theo đòi những vãi Hậu Ðình Ngâm,

Ðể bứt rứt ánh trăng trầm cửa Hảt.

 

Nghĩ đến sự nước nòi lòng tan nát.

ai còn nhớ chữ trượng phu chăng?

Núi Lam Sơn còn sống lại Thánh Vương

Ðể mở lại nước non nòi Ðại Việt.

 

 4824 T.V (1945)


Vong Quốc Nô

 

Thương ngọn cỏ xanh xanh,

Thương bờ tre xanh ngắt.

Bờ tre lấn mặt thành,

Ngọn cỏ lan nền đất.

 

Bán đất đi làm tôi.

Bán trời để đậy thuế,

Sống không cửa không nhà.

Vong quốc nô là thế.

 

Rước voi về giày mồ,

Nhận ma làm tổ vãi,

Sống không cửa không lò,

Vong quốc nô đầy ải.

 

Kìa ai lẩn suối rừng.

Vì đâu lời hát trẻ

Há dám xuống Thú Dương,

Ði tìm bát cơm tẻ.

 

 4821T.V (1942)


Chim Mồi

 

Hỡi chim mồi trong lồng

Tịch mịch thương không?

Tháng tháng ăn mấy đấu,

Ngày ngày giả mấy công?

thung thăng ngoài nội,

Ðâu phản bội đồng tông.

Gáy hót đau hoa ,

Xun xoe chạnh cánh lòng,

Ðem thân ngưòi mớm

Làm gương lắm kể trông.

 

 4821T.V. (1942)


Thi Hồn

 

 

Mấy năm trời lênh đênh không bờ bến .

Ta đem thân thác ngoài cố hương,

Bầu nhiệt tình trong bãi tuyết hoang đưòng,

Vết chinh đồ bao nhiêu người sai lạc!

 

Những lối , người xưa đã khai thác.

Trong vời tỏ dấu trăm năm.

Ðường quay về gió đáy tự xa xăm.

Thổi dồn dập máu sống còn Vạn Thắng.

 

Ðem muôn cõi chập chờn những ánh nắng,

Thúc đọng lại nhào lọc qua hồn Viêm.

Trí thiên tài chưa định của Rồng Tiên,

Nở thơm ngát đài hoa tưởng Việt.

 

 4822 T.V. (1943)


Thi Nhiệt

 

Ta đã về đứng bên bờ Pắc Nậm,

Mặc heo may quần quít hồn cố hương,

Thấm hàng cây lấp những ven tường.

Hoà làn khói màng bao nhớ ước.

 

Cách dòng nước ta người mất nước,

Nước non ta, ai ngăn trở ta về?

Thấy người quê không được tỏ tình quê,

trước mắt tìm đâu cho thấy?

 

Hãy hét lớn hai bàn tay nắm lấy,

Hãy khua tan quân địch của Rồng Tiên

Hãy làm cho giống Việt lại đoàn viên,

Quê nướctrong đáy dòng sống máu!

 

 

Quê nướctrong đáy dòng sống máu!

 

 4822 T.V. (1943)


Chiến

 

Chợt thức mình một gối.

Xào xạc sương mai,

Lạnh lùng con quẹt rối,

Nao lòng nhớ những ai

 

Những thanh niên Lạc Hồng,

Lăn mình chốn tang bòng,

Từ bỏ nơi yên ấm,

Gian khổ non sông.

 

Ngày kia khói ải bay,

Giũ áo ra đi ngay,

Từng bao thừa sống chết,

Son sắt dạ khôn lay.

 

Vào ra hang hùm beo,

Bạt thiệp chốn hiểm nghèo,

Ðói rét thân gầy rạc,

Lẩn lút mệnh cheo leo.

 

Các anh cúi đầu nghĩ,

Cứu vớt đời đau thương;

Quên mất ngừng mắt lệ,

Từng mây bạc vấn vương...

Các anh nắm tay quyết,

Tiêu diệt quân địch thù

Ôn ấp bầu tâm huyết,

Quên phắt chốn phòng thu.

 

Các anh tung gót bước,

Ðâu không chiến trường,

Không quên đằng sau trước,

Người sợ, người kính thương.

 

Tất cả DUY DÂN

Tất cả bởi nhân quần.

Chúng ta tưởng,

Con đường sáng ngần.

 

Những người bạn thiên cổ,

Yêu nhau chịu đựng nhau,

Ðồng chí nghĩa đó,

Phú quý chi đâu.

 

Cùng tôi ngậm ngùi than,

Hãy tìm trong gian nan

Một nền triết học mới,

An ủi tấc bàng hoàng.

 

Trầm mạc trong rừng rậm,

Còn tinh thần tre lau,

Ánh vinh quang lẫm lẫm,

Trong mình phải tìm đâu,

Nghĩa DUY DÂN phấn đấu,

Máu giống nòi nung nấu,

Thiên cổ anh em ta,

Chút vị mắc mấu.

 

Cách biệt đầy nhớ nhung.

Phong quang ít lúc chung,

Ðàn chim từng ríu rít,

Cất cánh đã bay tung.

 

Một ngày mai chiến ,

Một văn minh hùng

Một triết học đẩy nên.

Nghĩa DUY DÂN đồng chí.

 

 

 4822 T.V. (1943)


Lục Niên Thành

 

Thành Lục Niên  gai liếc kiếm rùa thần,

Bóng ngàn u thiên nhận dấu kinh luân.

Qua lặn suối, lên ghềnh gian khổ ấy,

Ngày Lam Lương rạng thấy bóng quân thần.

 

Muôn muôn binh ngàn ngàn tướng oai hùng.

Non sông xưa pha máu đỏ bao trùng.

Một tấc báu trong hang rừng tịch mịch.

Quyết hơn thua trên trụ khôn cùng.

 

Ðợt phong trần gọt giũa mãi khôn mòn.

Buổi yên nửa gối ngẫm vuông tròn,

Quất roi ngựa tung hoành trong thiên hạ.

Ðể quay về chốn dạ nhưng còn .

 

Nhà Lục Niên trai giới tấc tinh thần.

Trong bốn phương mưa nắng dấu kinh luân

Nơi thăm thẳm mười lăm năm rạng rỡ,

Nếp Phong Châu y bát thuở thông thần.

 

 4823 T.V. (1944)


Thăng Long Điếu

 

Ðất Thăng Long nếp sắc son,

Nomn sông gìn giữ lấy vuông tròn,

Hưng vong thách để cho trời đất.

Chủt dạ Thăng Long vẫn còn.

 

Lang sói đi về thuở Ðại La,

Anh hùng chểt ruột khói quan .

Trên trốc bàn tay cầm vận mệnh,

Sơn xuyên thu lại cả trong tờ.

 

Thua được đành hay số nước non.

Anh hùng nát ruột trí lo toan.

Can qua khôn lấy thiên hạ rửa,

Cao thấp khen chê miệng chẳng mòn.

Ðế Thích cao tay chấp nối xe,

Thương đòi lo tính thấp le te,

thêm học lấy trang Mai, Quất,

Tài chỉ huy xem vẫn cập .

 

Mấy cột thông già gió vi veo,

Ðầu nguồn ngọn nước đỏ teo.

Ðá vàng gan dãi cùng cây cỏ.

Nghẫm chuyện đần khôn nghĩ chán phèo.

Lỗ lãi trần ai giũ áo đi,

Bàn tiên, cán búa mãi tiêu mi,

Thiên thai chốn ấy lâu ngày tháng.

Thành bại ngoài tai kể chi!

 

 4823T.V


Xuân Cảm

 

Trời Nam lẻ tẻ bóng vàng đưa,

chút xuân phong khéo hững hờ,

Kiếm lọt tang thương còn sắc,

Mình nay chem thời thế vẫn trơ!

òm nhỉ! Phuờng khôn đế ,

Nhen nhóc thay! Ðàn dại bất ,

ỡm xuân phong thêm nhái hận,

Ði đi lại lại khéo ngơ.

 

 4825 T.V.(1946)


Hận Mế Châu

 

Ðứa Trọng Thủy tham sắc Mế Châu,

linh quang thần nỏ chút nhiệm mầu,

Cổ Loa thành cao hào lại rộng,

non sông gấm vóc nòi Viêm Âu.

 

Biết thân em duyên đó nợ nần đâu?

Dấu đoạn trường đem rắc lối giặc Tàu?

Gan bách chiến nổi sầu cha tức.

Giá băng ngời em hối để thằng Ngâu.

 

Máu oan em đọng lại ngọc trân châu.

Khối oan em thề rửa máu thằng Ngâu,

Sóng oan em thề tát bầu bể ác.

Hồn oan em chẳng bỏ cõi Viêm Âu.

 

Ấy năm năm nòi Hán mấy hạ cầu,

Ðường Quế Lâm, Nam Hải ngất mây sầu,

Hôn Việt Thường còn nuối Mế Châu.

 

 4822 T.V. (1943)


Hận Mế

 

Cát Ðồ Bàn còn hận dài Sạ Ðẩu,

Sông Hoàng Giang ngậm cười mãi Mế .

Chàng chưng chí Khu Lân thì dẫu.

Thiếp chưng tình phu phụ nào hề.

 

Nực cười thay cuộc đấu tranh ảo não,

Của những người một tổ hai quê,

Hận dài thay đường đời ai phên giậu?

Giống Việt Thường đất ai đòi về?

 

Thiếp cỏi Bắc hồn mài sương giang khẩu.

Giải lụa đào nguyện bắc giống ô thê,

Chàng  phương Nam thập thè chuôi Nam Ðẩu,

Nguyện dêm đêm nhòm thấu cõi thầm .

 

Thiếp nghĩ thảm bao nhiêu đời xương máu.

Chí anh hùng hay chinh chiến đam ,

Chàng  rằng muối muôn năm thù nghịch khẩu.

ông cha nèm rủa cháu con thề.

 

Nòi giống Hán nên non sông phụ mẫu,

Từ muôn xưa giày xéo bao ê chề,

Vết sỉ nhục Giao Châu đầy đẫm máu,

Cỏ cây cùng ai oán dục hồn quê.

 

 4823 T.V. (1944)


Ðường Vua Ðinh

 

Ðưòng vua Ðinh tre già măng lại mọc,

Máu sống còn nòi Việt tiếp muôn xưa,

Hồn Vạn Thắng tràn lan tờ gấm vóc,

Mỗi cung còn ghi mỗi nắng mưa.

 

Ðường vua Ðinh người nay nhưng lối ,

Nếp cựu hoài phẫn nộ mạch tân sinh,

Thành Tràng An rập rình cơn khói lửa,

Mỗi phong trào sắp sửa mỗi trùng rinh.

 

Ðường vua Ðinh người rày nếp trước,

Hội Thái Bình mang mở cuộc rồng mây,

Cờ Bông Lau dập dìu dầy non nước,

Ánh huy hoàng sáng rực khắp Ðông Tây.

 

Ðường vua Ðinh đã bước,

Nghiệp vua Ðinh còn đây.

 

Hang luồn, giốc Sỏi, mấy ghềnh mây,

Giặc Tống, quân Hầu nép móng vây.

Sông Hoàng Long dạt dào sóng vỗ,

Ðộng Hoa rầm rập bào bay;

Phục lại nghìn năm giờ phút ấy.

Ðường vua Ðinh lại đây.

 

 4823 T.V. (1944)


Vết

 

Người anh hùng cứu quốc đứng lên ,

Quyết đem thân sống chết với quân Ngô.

Tiếng Cần Vương vừa hầm bến Mộ.

Sóng ba quan đã cuồn cuộn non .

 

Ðây non sừng sững bên Huyền ,

Biết bao vàng với máu đất đem pha,

Bao tử hồn oan ngậm cây cỏ,

quân Ngô giày xéo nước non nhà.

 

Lòng phẫn hận một đêm sấm sét .

Trong ngoài kênh dàn dụa máu quân Ngô.

Oai Tuyên Ðức bạt theo hồn Trương Phụ.

Ðầy thành sụp đổ dưới non ,

 

Thành đây xây sừng sững bến Huyền .

Sắc dòng thu lẫn sắc luá mùa pha.

Công Nguyễn, Ðặng giống nòi ai biết cả.

A Ðào thành ấy ruộng riêng nhà.

 

A Ðào muôn năm công vẫn còn,

Máu Trưng Vương gái Việt hồn sắt son.

Kiếm nương tử, mưu anh thư nào khác,

Giết quân thù lặn lội nước non.

 

 4823 T.V.(1944)



Ðịch Lộng Âm

 

Lòng hang không lồng lộng gíó trúc đầy,

Nhịp hưng vong nghìn xưa không vẳng nữa.

Tiếng sáo cao, cao vút trên từng mây,

Nàng tiên xa, xa tít tận ngàn tây.

giăng trôi nước cuốn tháng ngày chầy.

Hận hưng vong trào lên từng thế thứ.

Tai không nghe, nghe thấu tới từng mây.

Mắt không trông, trông suốt đến ngàn tây.

Hồn tái sinh,

Bằng ngẫm nghĩ,

Sống cả nghìn năm những phút này.

 

 4822 T.V. (1943)


Túy Tường

 

nàng tiên nào cùng ta tri âm.

Cùng ta chuốc chén cùng ta ngâm?

Cùng ta chắp cánh lên cao vút,

Xa đời muôn dặm bụi âm thầm.

 

Nhớ chốn Ðộng Ðình sóng gíó trường,

Nhớ trên Cung Quảng khúc nghê thuờng,

Nhớ thuở Văn Lang lầu kén rể,

Nhớ chàng giai tế Thúy Vân Hương.

 

Men đưa hào hứng bút tài hoa.

Miệng đọc như châu mặt gấm sa,

Nàng tiên chẳng thấy, thấy gió thổi.

Ngoài hiên ngọn trúc uốn la đà.

 

 4825 T.V. (1946)


Xuân Thu Hoa

 

quốc miếu tụng

 

Chi Hồng Bàng chín vạn mở Kinh Dương,

Bọc trứng ngày trăm con chia núi bể.

Giống Tiên Rồng văn hóa cực Viêm Phương,

Nước Ðại Việt xuân thu hùng vạn thế.

 

Ðại Việt chi ,

Xuân Thu chi hương.

 

Ðinh Tiên Hoàng khi Cờ Lau Vạn Thắng,

Trần Hưng Ðạo khi Vạn Kiếp di ,

Văn Hưu khi chép thành sử thặng.

Hàn Nguyễn Thuyên khi đọc tế ngư tờ.

 

                   Ðại Việt chi ,

                   Xuân Thu chi hoa.

 

Thái Tổ khi bình Ngô đại cáo,

Còn non sông anh khí vẫn bàng bàng

Hồng Ðức khi vườn quỳnh chính giáo,

Còn muôn năm nắng hóa vẫn chang chang.

 

                   Ðại Việt chi ,

                   Xuân Thu chi quang.

 

Nguyễn Quang Trung khi bình Thanh thệ chúng,

Nguyễn Văn Thành khi chén rượu điếu tang,

Phan Sào Nam khi viết pho vơng quốc,

Còn hồn Ðại Việt sống cương.

 

          Ðại Việt chi ,

                   Xuân Thu chi dương.

 

Chi Hồng Bàng chín vạn mở Kinh Dương,

Bọc trứng ngày trăm con chia núi bể.

Giống Tiên Rồng văn hóa cực Viêm Phương,

Nước Ðại Việt xuân thu hùng vạn thế.

 

 4822 T.V. (1943)


Ðại Việt Âm

 

tấu nhạc

 

Ðại Việt vinh quang nhất thế giới,

Như con em Tổ Tông công đức mãi lưu dành;

Kìa những ngày Nông phục, Phiên bình,

Lại những thuở cầm Hồ, đoạt sáo.

Nhạc Bình Ngô ca Quỳnh Uyển rập rình,

Vàng chảy, bạc sinh, gió , mưa lúa.

 

Cờ Vạn Thắng, công Thái Bình,

Hội rồng mây, hiền thánh.

 

Cực công , văn trị cảnh vinh quang.

một ngày nên được nghiệp vương hoàng?

Bao gan nát óc lầy, đan thanh hàng huyết lệ.

Thưỏ Hồng Bàng rẽ nước rạch hoang,

Vận nhiễu nhương nằm gai nếm mật.

 

Thái Tổ nhân như trời đất,

Thánh Tông trị đọ đời vàng.

 

Dám khoe khoang công giá huy hoàng,

Trước miếu hãy ưng đường Tông Tổ.

 

Vạn ngôn thư,

Thất trảm sớ,

Chúc Hưng Ðạo,

Sử Hưu,

 

Khóc quỷ thần oanh liệt khí sung tiêu,

Lòng sáng thư ấy bao nhiêu lao khổ.

 

Cành Nam chim đỗ,

Ma Việt người thà.

 

Nhẽ tam thế hy sinh quốc phổ.

Như con em nên gắng gỏi rạng non sông,

Vinh quang muôn thuở Tiên Rồng.

 

 4824 T.V. (1945)



Kinh Đô Hành

 

Từ cổng trời đến cửa trời,

Chập-trùng nột giải núi trời cao cao,

Năm năm nước ngược chấy vào,

Ba ba đinh giáp cũng bao bên mình,

Sóng cồn nhớ núi Thu-Tinh,

Chín đầm nhớ tới Ðộng Ðình đấy đâu.

Lạc Hồng ấy cõi Tiên Châu

Muôn năm vạn vật thương dau còn rành.

Văn Lang xây lại đô thành,

Ánh sông Ngân xoáy mấy vành pha .

Chợ Trời đi lại gần kề,

Nước non chung đúc của quê nhà trời

Ấy nơi hiểm yếu đời đời,

trong tai mắt đợi người nước non.

 Bể Nam trời đất vuông tròn.

Trăm con giống Việt một hòn máu tươi.

 

 4824 T.V. (1945)


Tiên Long Châu Hành

 

Non Kỳ, nước Nhuế, mấy thu trường,

Ði lại tìm noi dấu cố hương.

Ðỉnh dốc Bòng Bong nhiều ái ố,

Lưng đèo Cắc Cớ lằm tang thương.

Kinh luân vận mệnh văn ,

Doanh dưỡng thiên dân ấy Thánh Vương,

Máy hoá muôn xưa nhà Hồng Lạc,

Thực ai biết khách cương thường?

 

Máy thiêng thủ quốc vẫn còn chân.

Hồng Lạc muôn xưa dấu đỉnh phân.

Mình ngự ngôi thần làm đế cực,

Tay vẫn chuôi Ðẩu bả thiên luân

Nước non Lạc Nhuế hiển thánh.

Con cháu Rồng Tiên buổi chấn xuân

Ðại địa từ xưa không huyệt táng,

Ðan thanh một điểm tại thông thần.

 

Rồng Tiên vốn chủ trương nhà,

Lục Lục, Hồng Hồng chẳng phải xa,

Núi Tản, sông Thao guồng đất đạp,

Xuân Kỳ, Thu Nhuế trạm thời thoa,

thiêng núi Ngự tầng non Ngọc;

Trẫm triệu đùn xây cửa động hoa.

Nam Bắc không ngừng xoay Ngọ,

Ngàn năm ta lại biết ta.

 

Bác ngư lạc lối nhập đào nguyên,

Hốt hoảng trông vời một cảnh tiên.

Ấy phủ Ðộng Ðình ngày đản noãn,

Hay Bồng Ðảo lúc chiêu duyên?

Ba sinh nợ tình cố đế.

Một tấc oan hồn dạ Ðỗ Quyên.

Nhắn Long chương, phiền chút,

Lên xem nước Thủy của Huyền Thiên.

 

Cổ kim chơi xóa tựa do cờ,

Non nước còn ta đến tận giờ!

Buổi đóng Phong Châu, hôm Lãng Bạc,

khi quân Lam Thủy, lúc Hoa .

Vận thần thụy ứng ngày chân mệnh

Khi chính thâm tàng chốn hóa .

Nguyệt quật, thiên căn ai biết được?

Văn minh ta chẳng thiếu đồ thư.

 

Guồng máy lung linh độ chuyển vần.

Non xanh nước biếc kinh luân.

Truyền danh đã hẳn linh dị,

Ứng thụy rồi ra mới tác dân.

thực anh hùng trông thực,

Giả chân, hào kiệt biết rành chân.

Xưa nay bất trắc, khôn nói,

Ðể hỏi đời ai bất thế nhân?

 

Hình hài thấp thoáng bóng tinh anh.

Dâu bể tìm ai trúc sử xanh?

Ðụn thóc, cây tiền , kho giáo dưỡng

Gậy thần, sách ước, vốn kinh doanh,

Sồng Hằng, nước Hán đêu quy lại,

Ðảo Úc tầng A cũng phục quanh,

Ruộng đất muôn xưa nhà Bách Việt,

Hồng Bàng còn để mối tân canh.

 

Chuông vàng đại báo dậy rèn đồng,

Dớp máu oan oan chửa nhạt hồng.

Ngán núi Kinh Thiên bao nắng hạ,

Thương dòng nước ngược mấy mưa đông,

Hai giáo hóa giềng cương kỷ;

Mưòi tám Hồng Bàng mối tổ tông,

Tháp cuốn Chà , mây Ngũ Lĩnh,

Qua sông ta lại trở sang sông.

 

Bước chân cao thấp mãi không cằn,

Chỉ vị đan thanh chủt nhọc nhằn,

Trở lại hồng hoang khơi nguyệt quật;

vào cửu cực nằm thiên căn.

Cương thường không ngoại guồng thân mệnh,

Giáo đường gồm trong trục văn,

Giữ được Xuân Thu tròn vẹn mãi,

Còn nhờ tri kỷ, tấc băn khoăn.

Ðất đỏ, trời xanh, giữa một ta,

Chunh quanh vẫn của nước non nhà,

Theo đường tiên mở đem chiêng xuống;

Vạch lối rồng xây, lấy ngọc ra.

Tim óc xoay vần được tuế nguyệt,

Tay chân tạo tác nổi sơn ,

Ðấy ai suốt hết thần nhỉ?

Tảng đá đầu ghềnh chốc nở hoa!

 

Vận hội ngàn năm dễ mấy lần,

Quét thanh lang sói mở canh tân,

Anh hùng dậy khắp vùng lau lách,

Tuấn nghệ ra đầy chốn giáp lân.

Ðại cáo lại ban lời Bách Việt,

Quỳnh ca luôn tấu khúc DUY DÂN.

Trời Nam chung bọc Rồng Tiên cả.

Nhắc để lên đài sống Vạn Xuân.

 

Một lối danh dễ bàn!

Ðem nguồn cảm hứng nói non ngàn

trong vật , nên thần dụng,

Ðạonhân tình, chớ dị đoan.

Một nếp DUY DÂN cầm chính trị,

Trăm con Hồng Lạc hết gian nan.

Tiên Long Châu ấy nơi hùng thắng,

Ðể lại năm sau chốn ẩn nhàn.

 

 4822 T.V. (1943)


Bạch Sơn Hành

 

Bồng hồ trong chốn thiên thai nhà,

Cảnh cảnh, tình tình dễ nói ra

Hồn giấc hương quan khi đã,

Mình  nay cơn thế sự đương ...

Ba ngàn năm lại xuân đào ,

Một tấc thiêng bằng sáng cỏ hoa,

Trời đất còn mưa mưa, nắng nắng.

Sông Xanh núi Trắng vẫn dành ta.

 

Phất trần toan cỡi gíó hiu hiu.

Ngoảnh lại Nam Ðàn sấm Ngưu.

Nội bái tọa muôn quân tấp nấp.

Giòng phong quanh quẩn dập dìu.

Ðào hoa cửa động hành chỉ.

Bích ngọc đầu non nghĩa khứ lưu.

Biết chiếm một đồ thơ nhập hải.

Trăm dân cùng thiên mưu quỷ mưu.

 

Doanh Châu mới biết chủ nhân,

Núi Tản sông Thao rút nhỏ gần.

Biệt nước non đi, thiên cổ hận,

Về giang sơn lại vạn niên xuân,

Thài lài ngấn rồng bay vết,

Danh trúc nền nayViệt hiện thân.

Hồng lạc tính linh ta bất tử,

Ngoảnh trông kiếp trước dạ tần ngần.

 

Hoàng Long bán củi chợ Tràng An,

Hồng Lạc tên ta gọi Tản Ngàn.

Ðạothiên căn kình độc lập.

trong nguyệt quật đỗng chu hoàn.

Nhất nguyên tóm lại ngôi hoàng cực,

hạn trùm ra khoảng thế gian.

Xuất nhập cứ theo đường thượng kính,

Nghìn năm ta chốn thanh nhàn.

 

 4823 T.V. (1944)


Nga My Hành

 

Quá quan hôm sớm cũng vửa,

Ngoảnh lại Nga My ngẫm mộng thừa.

Lặn lội dễ đâu cơn trời bể,

Y quý chốn tạnh mưa.

Nhân duyên vốn đã ba nghìn trước,

Ðồ kính còn từ một vạn xưa,

Phá hết trần ai canh giáp lụy

Nhàn trong thăm thẳm thủ say sưa,

 

Chia phôi đã rắp buổi đề huề,

Thanh sằc không từng cánh gián khuê;

Xích điểu đem tin hồng nộng nguyệt,

Huyền đàn dõi vết bóng hương thề.

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

 

Lửa hương trong đất nước giờ giây;

Hồng Lạc xuân thu người lại đây,

 

Hèm nhân quốc hồn y bát ,

Sấm trao thần khí vận nay.

Kỷ sử vạch ngày lau trúc,

Phả truyền trao tích gió mây.

Một cõi Tiểu Văn Lang, Thao, Tản

Ðồ thần rộn việc chi hay.

 

Loa thành đài chói lọi linh quang,

Quan từ đây mới sửa sang,

Một khoáy đã yên ngôi tử cực.

Ba sao liền nối sợi ô giang,

Hoàn nguyên tứ hướng về nam hộ

Thống nhất tam tàiViệt Làng

Tiến thoái cứ theo đường ngọc trục

trong chỉ hoạch khéo thần tàng.

 

Nhập quan khi xuất thấy văn minh.

Tiểu Ðại Phong Châu đúc dạng hình,

Núi Trắng đọng tinh thần cố quốc,

Sông Hồng tràn huyết mạch dương sinh.

Rùa Rồng gọt giũa hoa thuần túy,

Gậy sách tiêu dao nhẽ trị bình,

Ai biết rằng ta, ta dễ biết,

tin hiểu xiết mới tài tình.

 

 4824 T.V. (1945)


Nga My Nguyệt

 

Nguyệt giãi Nga My nguyệt ý dài

Nguyệt tình thiên cổ nguyệt ai?

Nguyệt đưa chiến lên non Thục,

Nguyệt dẫn anh hùng đến suối Thau,

Nguyệt dõi ba sinh hồn cố quốc,

Nguyệt treo tái thế niệm tương lai

Nga My đêm tỏ soi vầng nguyệt,

Nguyệt với ta chung một cảm hoài.

 

 4824 T.V. (1945)


Nguyên Tử Đạn

 

O horror; O horror; O horror;

 

Một chiến tranh ác sát tám trùng dương,

Suốt nhân gian quằn quại dưới đau thương,

Cuộc giáp đấu thư hùng tranh khí họa,

Trang hoà bình quyết liệt gíá đương.

 

Một sáng kiến phi thường thép nở hoa,

Ðảo Phù Tang áp phục giải can qua,

Ngày thắng trận như kinh hoàng trụ,

Sức man tàn hiệu đã bùng ra.

 

Một văn minh tiếc hận tự ngàn thu ,

Cỏi Sa Ba đường hạnh phúc mịt ,

Những kỹ nghệ hùng hồn thôi chớ nữa;

Nhân gian còn phấp phỏng giữa khi khu.

 

Một trách nhiệm ghê hồn trước kỷ nguyên,

Ðòi nhân luân chinh phục được đương nhiên,

Dẫu cao ngất oai hùng qua trí dũng.

Thiếu hòa bình chiến thắng cũng nguy điên.

 

Một phán đoán sau cùng đến chửa chăng?

Từ muôn xưa gió bụi đã trối trăng;

Phải giác ngộ bằng hởi ôi! Ðảo lộn.

Trong tái sinh, hẹn chốn siêu đăng.

 

Một siêu đăng hiện địa trổ ngành hoa,

Phải đem nền Nhân Chủ đắp xây ra.

Phải đã thắng, bằng thắng qua, thắng trận.

Phải nhân gian bốn bể lẫn một nhà.

 

 4824 T.V. (1945)


Ðồi Nga My

 

Ðồi Nga My, mối hận chĩu bề bề.

Ðồi Nga My, tin ngục bổng Ðông về,

Ðồi Nga My, vàng thau đà thử thách,

Ðồi Nga My, làm trọn DUY DÂN thề.

 

Hởi tráng DUY DÂN đầy khổ ải;

Hãy trao giồi thể nghiệm những đau thương,

Ðông thê thê tuốt gươm mài khẳng khái,

Hận du du đúc ngọc trí phong sương.

 

Lịch sử Việt đã tới giờ quyết liệt.

Hãy kín trong trì định đáy muôn xưa;

Những năng tử thấm tàng nuôi cảnh tiết,

Ðể đợi giờ tối hậu đột giông mưa.

 

Ðồi Nga My sẽ chút hận bề bề,

Ðồi Nga My tin ngục sẽ Xuân về.

Ðồi Nga My vàng thau còn thử thách.

Ðồi Nga My làm trọn DUY DÂN thề.

 

 4824 T.V. (1945)


Khai Bút

 

hoa trình VẠN THẮNG,

Trúc biểu kiến THÁI BÌNH.

Nay mừng Lạc vận tái sinh,

Hỏi bốn bể ai kinh luân chăng !

Những gắn chi chi sắt đá,

Khối u tình nhường đã vơi vơi;

Tản Viên Sơn nghê hiện chi thời

Ðỉnh Nhĩ Thủy tinh phi chi tế.

Gặp tân niên lại nguyên niên thế,

Chấm hết câu hưng phế cựu văn chương

          Vạn Xuân thử hội cương thường.

 

 Xuân 4825 T.V. (1946)


Ðà Giang

 

Ngày Ðà Giang mưa nắng xóm Chiên Ðào

Hoa mai trên ghềnh đá nở giờ nào!

Ðông đã hết, xuân mong tin chờ đợi,

Vẳng tai nghe hồn mộng sự Nam Giao.

 

Sự Nam Giao văng vẳng phía non ngoài

Khúc đoạn trường chẳng kém lối kinh đài;

Gió phất bóng quân nhung nhường động tĩnh

Dòng sông Ðen nước chảy tận u hoài.

 

Tận u hoài dăm dắp tiếng thề xưa,

Dội ngàn trùng muôn sóng gọi đưa;

Khảm thôi Thục, lên Ba Vi chốn ,

Chuyển giang sơn hình thể lại cho vừa.

 

 4825 T.V.(1946)


Nguồn: http://daotruongngam.blogspot.com




Trang mạng Việt Nam Văn Hiến
Trang Đạo Trường Ngâm
www.vietnamvanhien.net
Email: thuky@vietnamvanhien.net

Trang mạng Việt Nam Văn Hiến là nơi bảo tồn di sản văn hóa của Việt tộc. Thắp sáng niềm tin Diên Hồng và nếp sống Văn Hiến hầu phục hồi nền "An Lạc & Tự Chủ" ngàn đời cuả Việt tộc.


Trở Lại Trang Mặt