Việt
Nam
Văn
Hiến
Năm Thứ 4888 www.vietnamvanhien.net
Đạo
Trường Ngâm
X.Y.Thái Dịch Lý Đông A Sơ Lược Tiểu Sử X.Y. Thái
Dịch Lý
Ðông A X.Y. Thái Dịch Lý Ðông
A tên thật
là Nguyễn
Hữu Thanh,
sinh năm
1920, tuổi Canh
Thân, mệnh
Mộc, tại
huyện Kim Bảng
tỉnh Hà Năm 1942, Ông
đến thư viện Liễu Châu (Trung Hoa) để kiểm lại các sách viết về triết học, lịch sử, xả hội, khoa học Tây Phương và Ðông Phương,
nghiên cứu
địa lý
Trung Hoa,
đồng thời
khảo sát
thêm về
lịch sử và văn minh Việt. Tại đây, Ông bắt đầu viết các sách
thuộc bộ
“Ðại Việt Duy Dân Ðại
Cương Thảo
Án Quốc
Sách Toàn
Pho”, tức
là các
sách thuộc
chủ thuyết
Duy Dân
Nhân Chủ.
Sách Ông
viết rất
nhiều (khoảng
30 bộ) nhưng phần lớn không được phổ biến vì nhiều lý do, và
một số bị thất lạc. Sách của Ông
dùng nhiều
từ ngữ Hán Việt,
ý tưởng rất
xúc tích,
cách trình
bày với
dạng thức
đặc biệt.
Lý Ðông A khai triển văn hóa và truyền thống dân tộc kết hợp với các suy tư về sự kết cấu xã
hội nhân
loại và
xã hội
tự tính
để lập thuyết. Một cách giản lược, lấy người làm trục, căn bản triết lý của chủ nghĩa Duy Dân có ba bình diện là ba thành phần biện chứng đưa đến một quan điểm thống nhất, đại đồng, chân xác về người: -
Vũ trụ: duy nhiên, vô
nguyên. -
Nhân loại: duy nhân, nhất nguyên. -
Dân tộc: duy dân, đa nguyên tương đối. Vũ trụ
là một
lãnh vực
thuần túy
khách quan...trong đó con
người là
sinh vật
đặt thù
luôn luôn
có nổ
lực vượt
trên vận
động tự nhiên để thành lập xã hội nguyên thủy là xã
hội tự tính, từ đó con người
mới xứng
danh là
người. Ý niệm xã hội là ý niệm
căn bản của mọi quan điểm về người.
Ngày 1 tháng 1 năm
1943, X.Y. Thái Dịch Lý Ðông A sáng
lập và
là Thư
Ký Trưởng
Việt Duy
Dân Ðảng
để đấu tranh chống Pháp và
chống Cộng.
Vì thời
cơ chưa đến với người Quốc Gia chân chính, nên
sau trận
Nga My (1945) và
Hòa Bình
(1946) đấu kháng
với Cộng
Sản, Ông
tuyên bố
giải tán
Ðảng và
biệt tích,
lúc ấy
Ông 26 tuổi.
Sau năm
1946, người ta
không còn
ghi nhận
những hoạt
động nào
của Ông,
ngoài những
lời đồn đãi là
Ông đã
bị Cộng Sản thủ tiêu như đã thủ tiêu lãnh
tụ của các đảng phái cách
mạng thời
đó. Tuy
nhiên các
cơ quan tình báo
Pháp và
ngay cả Cộng Sản Việt
Nhà
cách mạng
Lý Ðông
A đã quyết
tâm đi
làm cách
mạng cứu
nước giữ
nòi bằng
cả trái
tim đầy máu nóng, một lòng yêu
nước thương
nòi nồng
nàn. Các
tác phẩm
của Ông
ngoài phần
văn chương
trác tuyệt
và tâm
huyết ngút
trời đối
với Quốc
Gia Dân
Tộc, còn
là một
hệ tư tưởng tuyệt vời cao sâu thực tiển, nhân ái, viễn kiến chính trị suốt dọc, làm nền tảng cho cuộc cách mạng phục hoạt sắp tới cho dân tộc Việt và là
một cuộc
cách mạng
khuôn mẫu
cho nhân
loại sau
này. Các
tác phẩm
của Ông
đã được
xuất bản
: Ðạo Trường Ngâm, Huyết Hoa, Chu Tri Lục, Duy Nhân Cương Thường, Thiết Giáo, Việt Sử Thông Luận, và một số tài liệu.
Tóm lại, lãnh
tụ X.Y. Thái
Dịch Lý
Ðông A được
kể là
một trong
số ít
triết gia
Việt Gió Đáy
thuộc Duy
Dân Học
Xã, xuất
bản thứ nhất tại Sài Gòn,
Việt Mục Lục
THAY LỜI TỰA MUSES Nhà văn
nghệ phải
phát thệ
cái yêu
thương; yêu
thương là
huyết tính
của loài
người. Nhà văn nghệ
phải thể
nghiệm được
yêu thương
trong sinh
mệnh lịch
sử, hiện
tại và
tương lai
trong loài
người, trong
sống thật,
sống máu
và sống
đấu tranh
của loài
người. Nhà văn nghệ phải ca tụng những cuộc đắc thắng vô ngã. Thế cho nên nhà
văn nghệ
phải là
của dân
chúng, phải
trở về bình dân,
phải là
phần tử bình dân,
còn phải
là người
tin thờ bình
dân, đấy
là toàn
thể cái
hiện thân
của yêu
thương, hy
vọng, tin thờ
lý tưởng
đang tranh
đấu phải
"mắt mù",
"mặt cúi".
Nhà văn
nghệ không
làm "mõ
chợ" được,
văn nghệ
không thể
làm tiếng
"chó sủa"
được (Shelley), đồng
thời không
thể làm
đồ đùa
cho giai
cấp độc quyền (Tolstoi), cũng không thể làm "đồ chơi của bọn tục". "Nó
là tiếng
đau khổ thực ảm đạm và nghiêm nghị" (Chu Xuyên Bạch Thôn).
Bỏ loài
người ra,
văn nghệ
không có
giá trị
gì hết,
nhưng bỏ
đa số loài người ra với bỏ lòng yêu thương vô ngã
ra, văn nghệ không thể có một giá trị thích đáng. Nhà văn học phải là một "giáo sĩ tiên tri và dùi
mài" (Fichte).
"Phải thổi tiếng kèn đánh
thức lên"
(Shelley). "Phải
làm sao
cho loài
người tự
hiểu mình,
tự tin mình
và càng
khát mơ
chân lý"
( Cái lương
tâm và
việc đánh
thức chỉ
có thể
bằng yêu
thương đang
đau khổ trong vật lộn.
Muốn được thế,
văn nghệ
phải vô
ngã mà
không còn
chấp trước
nữa. Văn nghệ còn là hình
thể của lý tưởng, cho nên văn nghệ tự thân cũng phải lành, đẹp và thực.
Lành và
thực không
hỗ giải được cho có một tiêu chuẩn đúng đắn, chỉ có đẹp biểu hiện được rõ ràng
giá trị
nhất. Cho nên văn nghệ là hình
tượng, cảm
tưởng và
tượng trưng. Đẹp phải biểu
hiện độc
lập và
thuần túy
trên hình
thể và
mầu sắc,
đẹp phải
trình bày
cái độc
đặc của nội dung, "chỉ có thực chất sinh ra hình thức" (G the). Văn thể phải là sự tỏ lộ của nội tâm người cầm bút ( Văn nghệ
là hoa
của đạo lý, huyết
hoa. Văn
nghệ phải
là sống. Hãy mở cửa sổ ra cho ta hít hơi thở của không khí anh hùng (Romain
Rolland). Phải phá
tan màn tối
ra cho ánh sáng,
hơi thoảng
chiếu vào
phát nhiệt
cho loài
người khỏi
tăm tối,
cho hạt giống của hoa quý từ dưới thối ra, mục nát, bùn lầy, hôi tanh, đượm hơi sương mai và không
khí sáng
mà nở
lên trái
quả tươi
màụ Nếu loài người duy vật thật, tất không có văn nghệ, chỉ có khoa học của vật chất luật tắc. Nếu loài người duy tâm thật, tất không có văn nghệ, chỉ có tông
giáo qua thần
thức. Văn nghệ là chủ của thời đại mới dẫn dắt loài người bằng phương pháp ý thức
của tự loài ngườị Văn nghệ không phải là thượng tầng kiến trúc, chỉ là dưỡng sinh nền tảng của mọi người. Cho nên Lễ Nhạc chính trị là phương thức chính trị của Nho duy sinh. Lễ Nhạc phải phát xuất tự nơi dân chúng
và sống
thật mới
được. Lễ Nhạc (một trong văn nghệ) phải chính trị hóa, hơn nữa là giáo
dục hóa. "Một văn nghệ nào, nếu không lấy đạo đức hóa lý
tưởng và
thực dụng
làm mục
tiêu chỉ
là một
thứ sống
bất lương
và bệnh
thái". Nhưng mà văn nghệ không thể ở bọn quan liêu, chính
khách và
nhàn tản
theo đòi được. Văn
nghệ phải
để cho yêu thương của lý tưởng có tranh đấu chủ trì, văn nghệ là của dân chúng
mới được.
X.Y. Thái Dịch Lý Đông A 4823 tuổi Việt (1944) (trích
trong Huyết
Hoa) Đạo Trường
Ngâm Một vòng không đáy,
đáy sinh
người. Ngoảnh lại trông đi mấy việt khơi Thường vậy vô danh văng vẳng. Mà nay hữu
thực bời
bời. Tiết gin thiên
cổ tìdnh
khôn dãi, Óc tính trăm năm, gan dễ phơi. Khép mở hồng hoang vần chuyển mãi, Duy nhiên khoày động ba nghìn trời. Ba
nghìn trời
một khoáy
thấy đâu, Ðám bụi
trần ai luống đục ngầu. Sách Hóa trắng tinh không một chữ, Gậy thần đốt trúc có hai đầu. Sông Thao nước cuốn bên bồi lở, Núi Tản
mây vần,
độ bể dâu. Ðông Tây một nhẽ, xuyên kim cổ, Vũ trụ huyền hoàng,
mối Lạc Âu. Mối Lạc Âu gỡ trải bao giờ, Bơn cát ngàn tre gió phất phơ Trúc lụa
đã dày
phen tri loạn. Son xanh còn chiếu dạ được thua. Cương thường chắp nối hai kiếp lại. Văn vũ trì trương một nguyện xưa.
Hỗn độn đã nhiều công mang mớ, Chờn thây cho mưa nắng hững hờ! Nắng mưa tâm sự ở trên đời, Tao hóa như không, lọ có trời! Ðồng Trung Hoa đến mang làm cột, Máy Pháp lan sang để chem. người. Ðạo nghĩa
gớm cho quân lợm khẩu. Nhân quyèn khiếp cả lũ xanh ngươi! Nghẫm xem muôn vật đều dắc ý. Rẽ rạch Hồng Bàng tính cổ thời. Tính cổ thời ngày một đi đi, Trách ai
cảt cử gọi Hoa Di. Cỏ
xanh kia lấy bạo thay bạo. Gạch tía này sướng
chi khổ chi? Sự tích thôi đều hươu quạ. Sinh linh thế ấy phân ly. Xuân Thu ướm
hỏi bởi vì vị. Hay bởi Xuân Thu bởi vị vì. Bởi chút vị vì tìm lẽ đời, Ba
sinh còn
hồn mộng
đôi nơi, Giang sơn dựng thuở ai tác bể. Quan lũ gây từ kẻ trụ trời, Tác giả
vô danh
là gốc
đạo. Noãn bào trăm họ ấy giềng ngưòi. Ðáy dòng nước băng băng chảy mãi. Chớp bể mưa nguồn nào có
ngơi! Chớp bể mưa nguồn kéo khắp miền. Xá chi tắm
gội, xá
truân chuyên. Bút nghiên, đèn sách
đều sai lạc, Kim cổ, Ðông Tây
cũng hão
huyền. Vì biết lửa hưong tìm chấp nối, Là hay vàng
đá dể
trao truyền,
Văn minh nghĩ kỹ còn nhiều việc. Ðem cả muôn
loài lên
Duy Nhiên. 4822 T.V. (1943) Huyết Hoa Hồn bạch trĩ bâng khuâng tìm
nước cũ, Tìm cội
dài, ngậm
ngắn núi
Viêm Phương. Tìm nắng mưa bầu đoàn loài
một tổ, Ðậu cành Hồn tài tử vơi đầy ngụ oan khổ, Khúc đoạn
trường nên
tuyệt cổ
văn chương. Một tấm son chủt trinh này gột rửa, Chót đèo
bồng tình
cố quốc tha hương. Hồn cô nghiệt ngoài
khơi trong
bến Ngự. Dầu tái sinh hứ hạnh dạ còn vương. Cán Long Tuyền mài sương hàn Ðỗ Vũ. Tấm lòng người vong quốc chết đau thương Mà quốc chi sĩ huyết chi hoa. Trời bó mãi, đất bó mãi
không tha. Năm năm mây bạc, đầu bạc chẳng già. Quả tim
đúc lại,
nhủ cho ngàn biển. Vô tình vẫn mãi, hữu tình không tha! Hận lòng như gió thổi, thổi đời thuở. Sự nước non dài, dài
cả một ta. 4822 T.V. (1943)
Thiên Tài
Hoa Sao Viêm Phương chọn chốn giáng tinh thần Trong muôn hoa lấy một ở hồng trần. Chợt bóng mát chân
sim ta tìm gặp. Ðầu dây leo bình
dị đoá
siêu quần. Ðóa siêu
quần ta gọi thiên tài hoa. Nếp tinh quang in năm cánh kỷ hà. Sắc đỏ trời Hương không thơm vì ẩn tích Ngân
Hà. Tận Ngân Hà huyền diệu chất thiên tài. Gió mưa
hồn cố quốc tít non
đoài. Ðoá hoa huyểt người ta bừng thức giấc, Sao Viêm Phương chói lọi mọc trên đài. 4824 T.V. (1945) Vạn Niên
Thư Việc muôn năm trước lắm ngưòi đương, Việc muôn năm sau nhiều kẻ nối. Non sông không
thiếu khách
trì trương,
Vận mệnh phần tay
ai giềng
mối. Ngày ngày tháng tháng
đi dòi
dõi, Tốn ích trong cơ mối thế thường Lao lực trần ai thương lặn lội, Con thoi nhật nguyệt nắng đòi sương. Bởi chút thiên sinh liệu dưỡng phương Lòng tằm,
ruột lúa
nhường nông
nổi. Tự
thuở tương
tri những vấn
vương, Nguyện đem hương lửa ràng công
tội. Khúc hát
non Côn làn
suối dội. Bài thơ mây trắng gió am trường, Sáu năm cung kiếm tinh nửa gối, Kẻ trước người sau đều đoạn trường. Bởi chút tinh hồn của cố hương. Cỏ
gai mù
mịt đi tìm tõi Vạch đường tinh vệ bể Uổng Dương Viếng núi Thu Tinh trời vòi vọi. Con thuyền lon Lã thách
chìm nổi, Tắc kiếm thần Rùa dẹp nhiễu nhương. Ngồi lại đem thi thánh chắp thành nối, Ði ra lên ngựa mở hoàng vương. Tấm lòng để chúc muôn năm trường, Sự nghiệp làm dây
các vận
hội. Năm trăm năm nữa gíó Nam Dương. Chớ bảo ta trong hàng trăm tuổi. 4823 T.V. (1944)
Bạch Vân
Đàn Họa Mây lành hiện về cát xây
ngai Ðiền phá
ai người
dễ biêt
ai? Ðủng đỉnh
Thái Nguyên
ngay trước
mắt. Dập dìu Ba Thục chính mang tai. Thần cơ dẫn dắt đường tam hiểm. Y bát trao truyền vận thất khai. Ngày đến
Tiểu Văn
Lang sẽ thấy. Ngẩng nhìn sao Tất sang phai phai. 4824 T.V.
Hồn Cố
Quốc Hồn ngược sóng ba sinh. Hồn về núi Thu Tinh. Chợ Cao Ðang đồng vọng, Cố
quốc biết
bao tình! 4823 T.V.
Nam
Thi Tháo Những nguồn thơ bất tuyệt như thiên cổ, Bằng mồ hôi, máu
lện chảy
đời đòi. Cả
nòi gióng
trên tiến
hành lao khổ, Vần Nam Thi lên mỗi dịp bời bời. Cuộc chiến đấu đem hồng hoang mang mở. Ðám trần ai hồn sáng tác
Bằng muôn miệng, muôn lòng buông
sáng nở Vần Nam Thi lên mỗi giọng nồng nàn. Tự giác lại sống còn đã
đến độ. Sóng đáy thàng hùng
vĩ sủi ngạt ngào. Cả nòi giống trên độ trình rầm rộ. Vần Nam Thi lên mỗi điệu dạt dào. Gió nồm đem nắng Viêm hòa
rực rỡ, Gậy tre lau trở lại huyèn hoàng, Sợi nâu lam mối Hồng Bàng tết gỡ, Vần 4822 T.V.
Nhàn Ngâm Kinh luân chút nợ chửa yên tuyền. Nên liệu ba sinh phải báo nguyền, Thiết huyết thiên thu nhiều lao đảo. Bạch vân tể tướng mới thần tiên. Như không gặp gỡ ngày Ngô
Thát. Thì đã
du nhàn
chốn phố
viên. Một chiếc hồ lô mươi hoàng quyển. Tiêu dao
mây nội
hạc chân
huyền. 4822 T.V.
Thiên Cổ
Thông Khối tình yêu thiên
cổ dòng
kim cương. Ngày thai
sinh nhưng
chọn chốn
quê hương. Hèm núi Trắng sông Xanh của nòi Việt, Cỏ
hoa còn
gìn giữ
mặc tang thương. Mà muôn thuở như mỗi ngày thêm sáng. Ðược một người đáng mến đáng chìu thương, Vết Tiên Rồng ai khắc qua mưa nắng? Ðể tâm tư lo lắng mối cương thường. Hồn lịch sử sóng trong dây nguyện ước. Vẫn chu
lưu ồn tại xá phong sương! Bừng tĩnh ngộ bằng đồ thư
đất nước. Kín uyên
nguyên sầu
thẳm đáy
cửu trường. Tất cả bởi cháu con
bền bỉ mãi. Nền kế khai đạo thống dãi Viêm Phương Dẫu thiên cổ nhân duyên nhiều cảnh thái. Khối tình yêu khôn
nói hết
tơ vương. 4822 T.V.
Tự Hào Chàng thiếu niên chí
thành, hành
chữ vương Sinh ra đời gặp lúc đại nhiễu nhương. Dân muôn
nhà trầm
luân trong
nước lửa. Chàng thiếu
niên gầm
thét động
bi thương. Phấn hùng tâm gọt mài tìm
lẽ sống. Ðặt tấm
thân dày
dạn giữa
gió sương; Ngày công
thành hẹn
trước như
cứu chúa. Cầm trong tay vận mệnh và kỷ cương. Chàng thiếu niên gốc cháu con Hồng
Lạc Máu nóng
sôi, hồn
nóng lửa
Viêm Phương. Năm nghìn năm trong mạch sống chan chứa. Hoa thiên tài bừng nở nức Ðông Dương. Lòng trong trắng như vầng trời cao sáng. Ðức uy
nghi nên
cách khác
ai thường. Tình yêu thương những ngày thiên
mệnh sớm Vì giông
nòi trút
lại chẳng
tơ vương. Vết phấn đấu như rồng bay tuyệt cắng Tài lược thao cái thế có ai đương; Lưỡi gươm thề quyết mở đường Vạn Thắng Gồm một nhà trăm giống Việt Kinh Dương. Chàng thiếu
niên rượu
thần thơ
lại thánh. Nét tâm đan mở miệng có văn chương, Bước Duy Dân dòng
Xuân Thu tha
thiết. Uống Năm hồ, ngâm trăm thuở cương thường. Trang bất tử bước chân hùng
khảng khái. Vê hồn
nhiên linh
nhạc nẩy
cung thương. Thường than câu “Thiên hạ thùy nhân khấp” Thoắt xem mình đầu tóc đã
pha sương. Gánh tài
tình tự
hẹn thời
mưa gió. Dẹp cuồng lan xấy đắp cõi kim cương, Thân lui
về tiêu
dao không
ngày tháng. Muôn nghìn đời tài tử nhất danh trương! Chàng thiếu niên tự hào thân
lầng lậng, Ðáng cháu con
Hồng Lạc
mặt dương
dương Cũng doanh hoàn đua chen với kim cổ, Hỏi xem đời mấy kẻ dám tương đương? Chàng thét rượu, mở tờ buông bút sử, Tự
hào mình,
mình hát
lại mình
thương, Rằng nghìn trước, nghìn
sau, nghìn
năm nữa, Có ai
cùng Thái
Dịch hú
hồn thương? 4822 T.V. Thánh Đồng
Ngâm Trứng rồng nở ra rồng. Hạt thông mọc cội thông. Nối dòng và mở dõi Bởi con cháu
Lạc Hồng. Tre già măng lại mọc Ðông hết tất sang Xuân. Nóng lạnh
tình như
dục. Bao nhiêu nỗi xa gần. Tạo hóa như không cả. Nên chăng bởi tự người Thánh hiền sao vắng vẻ Trong mong lũ trẻ tươi! Nước suôi đi đi mãi, Trời quay đến đến đâu! Mỗi thoáng đời thêm mới, Thương thay lứa bạc đầu! Trúc lụa ngày thêm
cũ Son xanh mỗi giũa thêm, Hưng vong đem gột rửa; Vàng đá
cũng ngao
mềm. Lòng người xưa ta biết, Tái sinh
còn hận
dài. Vì không chi
chi hết, Cát bụi
phải dùi
mài. Ðoái lại tuy không kịp, Trông theo
đuổi vẫn
còn. Phím đàn tuy nhỡ dịp, Ðiệu tri âm
chưa mòn. Lúa tơ trong bùn lội, Cát vẩn lọc nên vàng, Có đem thân chìm
nổi Mới biết ánh vinh quang. Sống chết bao nhiêu ngả. Chung quy một lẽ đời. Ðầu tóc xanh óng ả, Rằng tóc răng, lưng vời. Giung giẻ trong vui sướng, Chi chành với gió mây, Trắng răng nào đã
tưởng Cuộc ú tim sau này! Lăn lóc trường trác táng, Khổ lạc chất bao chồng. Muốn ngơ ngơ ngãng ngãng. Tìm phương
thuốc hoàn
đồng. Ấy
chết đi còn sống, Mỗi sống mỗi phôi pha Mà hắt hiu một đống Làm bè với cỏ hoa! Ai đem giày nát
mãi? Ai đem vần vò ai? Nắng mưa dạn rầu dãi, Một tấm lòng thoát
thai. Còn người trong trời đất, Còn bao giờ hết sầu! Chiếc dây cùng muôn
vật Cởi thắt tự dâu đâu. Thăm dò nơi nguyệt quật, Cầm nắm lấy thiên căn. Giày cũ đi đi mất, Còn đây
vết trục
trần. Giọt nước xuyên lỗ mỗ Dây ràng kín góc
gai, Nước non hồn Ðỗ Vũ, Giằng lối vấn vít hoài. Vạch lối muốn năm trước. Tìm đường muôn năm sau, Thái Bình làm Sách
Ước Xây đắp
cỏi thần
châu. Chở oán chi vũ trụ. Cũng đùng trách người ta, Tấm băng ngà bóng
rũ, Dòng suối
cuộn cành
hoa. Ngày tháng như thoi lẩy, Cương thường nặng ngàn cân. Chỉ xin đem chút mẩy Báo đáp
cùng ba
xuân. Công tội,
Xuân Thu hiểu. Long Hoa mấy vận lành? Áo vải đời nhương nhiễu, Thủy hỏa luyện nên mình. Ðầu xanh học làm Thánh, Ðược cả học làm Vương Vì muôn
sinh chấp
mánh. Cho toại chí mười phương. Thánh Vương
như học được. Nguyện bạc đầu đọc kinh, Chỉ vì chưng thao lược Không ngoài
trong tự
mình. Giàu sang như dép rách. Non Côn có
suối rừng Ðất trời ai cởi ách, Hơn Thánh Vương ngàn từng. Chỉ những người tác giả. Làm thầy cho mọi đời! Áo cơm là đạo cả Kinh doanh đủ hộ người. Khói mây kín mù
mịt Như Không, như sáu Như. Anh hùng đâu mất hết; Như thiếu, như có dư! Ðẻ ra ai đã biết? Hun đúc trong trường trần, Chỉ những người cô nghiệt Hiểu được thức kinh luân. Cha mẹ công huân
dưỡng. Non sông phí
tưới vung, Máu chảy
đức vô
lượng. Xin thề vì kiền khôn. 4822 T.V.
Xuân Thu Ngữ Khi bán than
ẩn, khi đan sọt ra, Ðược nghĩa
được nhân,
phải thời
phải thế. Biểu trừ gian một lá thuở về nhà. Lòng riêng
đau nghìn
cổ cõi
Ðông Á. Thuở còn trời, còn đất còn ta. Gánh cương
thường nhắc
lên vai
ai để. Ðể đời đời nghĩ, nghĩ lại xót xa Rằng mỗi đời sao chẳng mỗi thánh nhân
ra. Bóng trăng soi tịch mịch Nước suối reo, Cây thông
hò. “ Tri ngã
giả kỳ duy Xuân Thu hồ” “Tội ngã giả kỳ duy
Xuân Thu hồ”. 4823 T.V.
Tơ Đồng Mai không trên núi. Quế không trên non, Ðào không
trên nương. Phong trần lặn lội xót hoa hường, Tìm người
đồng tình
dạ vấn vương. Buồn theo
gió đông
gửi bốn phương. Lân ẩn trong nội, Phượng ẩn trong ngàn, Rồng ẩn trong ao. Lều gianh cỏ rậm vùi anh hào. Tìm người
đồng chí
dạ khát
khao. Trong theo
cánh buồn
hỏi mây
sao! Cầm không có sắt. Uyên không có ương, Cưu không có thư. Thu dài Xuân ngắn hận nắng mưa. Tìm người đồng tâm dạ tương tư, Ngóng theo
tăm bóng
nhắn tin tờ. 4822 T.V.
Ruộng và
Nương Nắng bay lúa đỏ mấy miền. Lần xem bờ cõi Lạc điền những đâu? Hai tay
cuốc bẫm
cày sâu, Một bồ thóc gióng
ngả màu
giang san. Bóng dâu min mít đồi ngàn, Gió đèo
Ngũ Lĩnh,
mây qua Chà
Bà. Con tầm chấp nối bao là, Nên dư đồ đó giữ nếp nhà áo
khăn, Nắng mưa tắm trải bao lần, Trăng thu
Lương Thủy,
hoa xuân
Kiếm Hồ, Lưng trời con nhạn lơ thơ, Tấc sinh cây cỏ còn chờ nước non. 4823 T.V.
Dương Tử
Giang Âm Mây Năm Núi, gió
Năm Hồ, Nghìn xưa
bến Sở, sông Ngô
thế nào? Mây bay gió cuốn ra sao, Non kia, nước ấy thấp cao những gì? Mệnh ngày suy chửa hết suy, Biết đâu Cai Hạ mà vì
Mịch La? Gió mưa ta cũng một nhà, Mây quang
gió tạnh
đã là
nghìn xưa. Cây non thức dậy hay chưa, Tấm lòng Dương Tử đợi đưa tin hồng. 4823 T.V.
Chính Khí
Việt Một ngày lạnh nước nguời không
tri kỷ. Ta vỗ án
hét thành
chúng ta
chính khí. Ðông thê thê như gió thổi u hồn, Thấu buốt tận lòng ngưòi trong cốt tủy. Lòng sống chết buồn vui bừng nổi dậy, Thoát lăm le như dục người chọn lấy, Năm nghìn năm, làm máu bén
dạt dào. Sóng lớp
lớp rượu
ba tuần thuở ấy. Tiếng vang vang như thần kêu quỷ hét. Trời ngập ngập như quân khiêu
tướng thét, Gọi quá khứ vị lai những u hồn Muôn nghìn
đời linh
thiêng không
sống chết. Muôn nghìn
đời linh
thiêng không
sống chết. Nước Mê Linh trăng thu còn vằng vặc, Sông Bạch
Ðằng sóng
vỗ thuyền
cắc cắc. Non Chi Lăng gió cuốn rừng cung đao, Ðồng Ðống
Ða xưong
người phơi
man mác. Buổi Sát Thát chàm vai thề đầu mất, Ngày Bình Ngô nổi cờ không khuất tất, Khi Cần Vương nhổ mặt lũ
gian hùng, Lúc Cứu Quốc vòng bôn lao uất uất. Thà làm ma nước Ðầu chẳng còn quyết không đương cắt tóc, Lửa đốt mình không
phụ nợ
non sông Dây thắt
cổ cho tròn trung xã tắc. Dây thắt
cổ cho tròn trung xã tắc. Muôn nghìn
đời linh
thiêng không
sống chết. Những trung hồn xưa, nay, mai oanh liệt Mở nguồn sống xưa, nay, mai nước nòi, Muôn nghìn
đời dạt dào chính
khí Việt. Chính khí Việt suốt đất trời bàng bạc, Chính khí
Việt trong
máu người
Hồng Lạc. Gió thê thê quất dậy hồn phục hưng Gươm Vạn Thắng cứu nước nòi giết giặc. Chính khí Việt là hồn gươm Vạn Thắng, Sắt tôi với máu đào hun lửa nóng, Và Ðại Việt muôn năm! Cả toàn dân Vượt đau nhục lên sống còn hùng tráng. Liễu Châu 4821
T.V
Xuân Tráng
Sĩ Tráng sĩ hãy ngâm
câu: “
Túy ngọa
sa trường
quân mạc
tiếu Cổ lai
chinh chiến
kỳ nhân
hồi”. Cũng bởi vì: Lòng quyết tử tiến lên đường gió bụi, Hai bàn tay thề phục lại sơn hà. Thái Bình Dương lấp lánh san bằng
sầu nhục
tủi, Lấy máu đào rửa sạch máu yêu ma. Thế cho nên: Tráng sĩ hãy cùng
ta tay cầm tay, Thu Năm Hồ dốc lại một hô say Ðem Xuân đầu với rượi hòng pháo nổ Hãy vui
cho đỡ buồn xa đất tổ. Rồi ngày mai, từ ngày mai. Lý tưởng Việt như trời Xuân sáng tỏ, Chép sử Việt ánh dương phơi máu đỏ Tráng sĩ cầm thanh gươm của ông cha, Phấn hồn xưa giết giặc đòi lại nhà. Tráng sĩ hãy lên: Những xâm lược, bóc lột hại sinh linh. Những buôn dân bán
nước cầu
tư vinh. Hãy giết sạch chớ gờm tay
sợ ác. Cho trong trắng nòi
con Hồng cháu
Lạc. Rồi ngày kia: Một ngày kia Thắng Nghĩa ca Sẽ vang lừng đây đó quốc gia. Và lúc đó: Tráng sĩ sẽ lại cùng ta Ta cầm tay
cùng hát
câu Sát Thát
Bình Ngô
của ông
cha từ thuở nọ. “
Ðoạt sáo
Chương Dương
độ Cầm hồ Hàm Tử Quan” Súng nổ ran Phảo nổ ran Cùng hân
hoan. Liễu Châu 4821
T.V
Lưỡi
Gươm
Việt Thép Van Lang
lò Viêm hồng nung đúc. Búa Lô
Truy rèn giữa bể dâu từng. Góp ba
núi, năm sông dày tẩm dục. Sấm sét
nhoàng chớp nhoáng giữa gươm cung. Thuở Vạn Kiếp
tiên trao khét oanh liệt, Ngày Lục
NIên đã hiện thét quang vinh, Rửa lấy máu
gột màu bằng xương thịt, Chém
muông Hồ, thú Hán nức uy linh. Như Bình Trọng
nhơn nhơn giữ một mực. Tựa Lê Lai ngặt
ngặt xung chín lần, Rửa lấy khí
gọt mài bằng trung trực, Sờn gai người,
chém đảo sóng ba quân. Ví binh
phù ngư long bay xào xạc. Bằng phiến minh tuyết
lửa thổi chập chành Rửa ấy óc gọt
mài bằng sáng tác, Nổi phong trần cuốn
quét khắp đan thanh. Thép Văn Lang
toàn tinh thần tái luyện, Thép Văn Lang
sắc lên nhường bay biến, Lưỡi gươm Việt lại
là gươm Duy Dân Thế hệ mới mở văn
minh hùng kiện. Lưỡi gươm Việt Vương
đấu gồm Thánh Chiến. Lưỡi bảo kiếm, kiếm
khí và tuệ kiếm. Quy Long trận vung
lên áp cổ kim, Vào
hình sắc ra không huyền ảo biến Hỡi con nhà
Lạc Âu nước Trăm Việt, Hãy
đúng dậy vung gươm khoa nửa triệt. Nổi mây
mù sấm sét gió mưa ran, Cả vũ trụ hét
lên ca kỳ tuyệt. Quy Long trận, Kỳ tuyệt ca. Lý tường Việt Lưỡi gươm Việt phơi
phơi hồn ông cha. Tráng sĩ Việt
đường đường chí đạp ba. Kỳ tuyệt ca, Quy Long trận. Ðứng
núi Tu Di, cắm giuồng Nam Bắc. Chém
sắt Côn Ngô, thu đồ Hà Lạc, Cắt
búi Kim Chiêm, bắt tiêm y thát. Cùng
một lưỡi gươm vẫy nên Vạn Thắng, Cũng một lưỡi
gươm trỏ đến Thái Bình, Muôn
muôn năm còn mãi mãi chân hình, Vóc
tình thân thiết diện, quỷ thần kinh. 4822
T.V
Hứng Ngâm Sao được tráng sĩ vài nghìn
muôn, Cùng ta
dong ruỗi khắp
doanh hoàn. Lập lại non sông xưa Bách Việt. Dựng nên thế giới mới DUY DÂN Chèo sang một bến cực lạc. Vớt lấy năm bể trầm luân. Làm tròn
giấc mộng
tiền sinh
ấy. Trở lại non sâu nhập Niết Bàn 4822
T.V
Xuân Thu Ngâm Lùn lụt khi lá rụng Ngùn ngụt lúc mầm phô, Nắng mưa trong thiên hạ Tâm sự ngày xuân
thu. Tâm sự bí mật của muôn đời 4822
T.V
Hoài Cảm Hồng Bàng truyện cũ có bao điều. Tái thế
duyên xưa
những bấy
nhiêu. Ba chén rươi tham ngày tháng
ít. Một xoang tình ẩn cổ kim
nhiều. Chín mươi huấn cáo quỷ thần khóc Mười vạn quy mô thù địch xiêu Tin tức Ðộng Ðình
ai mối lái? Muốn nơi vết tổ dạm người yêu. 4823
T.V
Quốc Sỉ Nhấp chén rượu mài gươm giận chém đá. Tấc cô thần nghịch tử có ai chia? Buổi Âu phong Á vũ vẫn còn mê. Chưa thức giấc cùng ta tuyết quốc sỉ? Vuông nhiễu
đỏ chờ chờ hoen nét rỉ. Thẹn những phường tranh chấp mượn tay ai. Gương Minh vào Thanh đến, đến Tây lai. Ngai vàng nặng để ê chề non nước. Thẹn những kẻ quyền gian cướp xã tắc, Bêu sống thửa, thác nhục chốn tha hương, Dâng sổ đồ quỳ gối chốn biên cương, Tiếng sét đánh hoảng hồn quân biếm chúa. Thẹn những kẻ sinh ra con lợn chó. Thân ăn nằm còn nghĩ đến ông cha. Gác cửu trùng đau thảm chẩt muôn nhà, Ðem dân
nước phó
cho làng
sóng cả. Thẹn những đứa cân đai mang xóng xả. Chí đội
trời đạp
đất đã
bù nhìn. Chạy trước hưu, gớm lũ chó săn nền! Chi trách được mụ Cù tâm dạ Hán! Thẹn những kẻ miếu đình ngồi tướng tán. Chén thanh trà, bôi
hoàng tửu
đỉnh chung, Mặt diện tường sao biết chuyện ô
long! Con thuyền đổ sóng bèo
ai giữ lái? Thẹn những bác y ô chi lải
nhải, Mãi sân Trình, cửa Khổng, mãi Ba Lê! Mộng hầu quan tứ xứ lạc đường quê. Quê nước
ở trong hồn người tự chủ. Thẹn đất nước dưới chân giày
uế sú. Người Lâm Thao, Bến Ngự luống tâm cơ. Mà bướm
hồn, xuân
nửa não
lòng thơ. Ðể đàn nhạn Cô Tô đài
thoi thóp! Thẹn dân nước trong sống còn ngoi ngóp. Cũng vua quan, phẩm sắc, cũng giàu sang, Miếng thịt sôi luồn lọt mà đỉnh đang, Luống để thẹn nghìn năm người da ngựa. Thẹn những phường thất phu xanh đỏ khố, Cúng vênh
vang ra phết bậc thầy cô. Ðoái chăng ai Sát
Thát lại
Bình Ngô, Quân hồn để sượng sùng gươm
Vạn Thắng. Thẹn những bậc yếm khăn chi lẵng đẵng, Chẳng xem người mũi chỉ dục chinh nhân. Cũng theo
đòi những
vãi Hậu
Ðình Ngâm, Ðể bứt rứt ánh trăng trầm cửa Hảt. Nghĩ đến sự nước nòi lòng
tan nát. Có ai
còn nhớ
chữ trượng
phu chăng? Núi Lam Sơn còn sống lại Thánh Vương Ðể mở lại nước non nòi Ðại Việt. 4824
T.V
(1945)
Vong
Quốc
Nô Thương ngọn
cỏ xanh xanh, Thương bờ tre
xanh ngắt. Bờ tre lấn
mặt thành, Ngọn cỏ lan
nền đất. Bán
đất đi làm tôi. Bán
trời để đậy thuế, Sống
không cửa không nhà. Vong quốc
nô là thế. Rước voi về
giày mồ, Nhận ma
làm tổ vãi, Sống
không cửa không lò, Vong quốc
nô đầy ải. Kìa ai
lẩn suối rừng. Vì
đâu lời hát trẻ Há
dám xuống Thú Dương, Ði
tìm bát cơm tẻ. 4821T.V
(1942)
Chim Mồi Hỡi chim mồi trong lồng Tịch mịch có thương không? Tháng tháng ăn mấy đấu, Ngày ngày
giả mấy công? Ví thung thăng ngoài nội, Ðâu phản
bội đồng
tông. Gáy hót đau hoa lá, Xun xoe chạnh cánh lòng, Ðem thân ngưòi bú
mớm Làm gương
lắm kể trông. 4821T.V.
(1942)
Thi Hồn Mấy năm trời lênh đênh không
bờ bến . Ta đem thân ký thác
ngoài cố
hương, Bầu nhiệt tình trong bãi tuyết hoang đưòng, Vết chinh đồ bao nhiêu người sai lạc! Những lối cũ, người xưa đã khai thác. Trong vô vời tỏ rõ dấu trăm năm. Ðường quay về gió đáy tự xa xăm. Thổi dồn dập máu sống còn Vạn Thắng. Ðem muôn cõi chập chờn những ánh nắng, Thúc đọng
lại nhào
lọc qua hồn
Viêm. Trí thiên tài chưa định của Rồng Tiên, Nở
thơm ngát đài
hoa lý
tưởng Việt. 4822 T.V. (1943)
Thi Nhiệt Ta đã về đứng bên bờ Pắc Nậm, Mặc heo may quần quít hồn cố hương, Thấm hàng cây lấp ló những ven tường. Hoà làn
khói mơ
màng bao
nhớ ước. Cách dòng nước ta là người mất nước, Nước non ta, ai ngăn trở ta về? Thấy người quê không
được tỏ tình quê, Rõ trước
mắt mà
tìm đâu
cho thấy? Hãy hét lớn hai bàn tay nắm lấy, Hãy khua tan quân địch của Rồng Tiên Hãy làm cho giống Việt lại đoàn viên, Quê nước ở trong đáy dòng sống máu! Quê nước ở trong đáy dòng sống máu! 4822 T.V. (1943)
Chiến Sĩ
Tư Chợt thức mình một gối. Xào xạc lá sương mai, Lạnh lùng con
quẹt rối, Nao lòng nhớ những ai Những thanh niên Lạc Hồng, Lăn mình chốn tang bòng, Từ
bỏ nơi yên ấm, Gian khổ vì non sông. Ngày kia
khói ải
bay, Giũ áo ra đi ngay, Từng bao thừa sống chết, Son sắt dạ khôn lay. Vào ra hang hùm beo, Bạt thiệp chốn hiểm nghèo, Ðói rét thân gầy rạc, Lẩn lút mệnh cheo leo. Các anh cúi đầu nghĩ, Cứu vớt đời đau thương; Quên mất ngừng mắt lệ, Từng mây bạc vấn vương... Các anh nắm tay
quyết, Tiêu diệt quân địch thù Ôn ấp bầu tâm huyết, Quên phắt chốn phòng thu. Các anh tung gót bước, Ðâu không là chiến trường, Không quên đằng sau trước, Người sợ, người kính thương. Tất cả có DUY DÂN Tất cả bởi nhân quần. Chúng ta vì lý
tưởng, Con đường sáng vô ngần. Những người bạn thiên cổ, Yêu nhau chịu đựng nhau, Ðồng chí là nghĩa đó, Phú quý
mà chi đâu. Cùng tôi ngậm ngùi
than, Hãy tìm trong gian nan Một nền triết học mới, An
ủi tấc bàng hoàng. Trầm mạc trong rừng rậm, Còn tinh thần tre lau, Ánh vinh quang lẫm lẫm, Trong mình phải tìm đâu, Nghĩa DUY DÂN phấn
đấu, Máu giống nòi nung nấu, Thiên cổ anh em ta, Chút vị
vì mắc
mấu. Cách biệt
đầy nhớ nhung. Phong quang ít lúc
chung, Ðàn chim từng ríu rít, Cất cánh đã bay tung. Một ngày mai chiến sĩ, Một văn minh hùng vĩ Một triết học đẩy nên. Nghĩa DUY DÂN đồng
chí. 4822 T.V. (1943)
Lục Niên
Thành Thành Lục Niên gai
liếc kiếm
rùa thần, Bóng ngàn
u thiên nhận
dấu kinh
luân. Qua lặn suối, lên ghềnh gian khổ ấy, Ngày Lam Lương
rạng thấy
bóng quân
thần. Muôn muôn binh ngàn ngàn tướng oai hùng. Non sông xưa pha máu đỏ bao trùng. Một tấc báu trong
hang rừng tịch
mịch. Quyết hơn thua trên vũ trụ khôn cùng. Ðợt phong
trần gọt
giũa mãi
khôn mòn. Buổi yên hà nửa gối ngẫm vuông tròn, Quất roi ngựa tung
hoành trong
thiên hạ. Ðể quay về chốn cũ dạ nhưng còn . Nhà Lục
Niên trai
giới tấc
tinh thần. Trong bốn phương mưa nắng dấu kinh luân Nơi thăm thẳm mười lăm năm rạng rỡ, Nếp Phong Châu y bát
thuở thông
thần. 4823 T.V. (1944)
Thăng Long Điếu Ðất cũ Thăng Long nếp sắc son, Nomn sông gìn giữ lấy vuông tròn, Hưng vong thách để cho trời đất. Chủt dạ Thăng Long cũ vẫn còn. Lang sói đi về thuở Ðại La, Anh hùng chểt ruột khói quan hà. Trên trốc bàn tay cầm vận mệnh, Sơn xuyên thu lại cả trong tờ. Thua được đành hay số nước non. Anh hùng nát ruột trí lo toan. Can qua khôn lấy thiên hạ rửa, Cao thấp khen chê miệng chẳng mòn. Ðế Thích cao tay
chấp nối
xe, Thương đòi lo tính thấp le
te, Dù thêm học lấy trang Mai, Quất, Tài chỉ
huy xem vẫn cập kè. Mấy cột thông già
gió vi
veo, Ðầu nguồn
ngọn nước
đỏ tí
teo. Ðá vàng
gan dãi
cùng cây
cỏ. Nghẫm chuyện đần khôn nghĩ chán phèo. Lỗ
lãi trần
ai giũ áo đi, Bàn tiên, cán búa
mãi tiêu
mi, Thiên thai
chốn ấy lâu ngày
tháng. Thành bại ngoài tai xá kể chi! 4823T.V
Xuân Cảm Trời Tý chút xuân phong khéo hững hờ, Kiếm cũ lọt tang thương còn sắc, Mình nay chem thời thế vẫn trơ! Ỳ òm nhỉ! Phuờng khôn đế bá, Nhen nhóc thay! Ðàn
dại bất bơ, Ờ ỡm xuân phong thêm nhái hận, Ði đi lại lại khéo lơ ngơ. 4825 T.V.(1946)
Hận Mế
Châu Ðứa Trọng Thủy tham gì sắc Mế Châu, Vì linh quang thần nỏ chút nhiệm mầu, Vì Cổ Loa thành cao hào lại rộng, Vì non sông
gấm vóc
nòi Viêm
Âu. Biết thân em duyên đó nợ nần đâu? Dấu đoạn trường đem rắc lối giặc Tàu? Gan bách chiến nổi sầu cha cô tức. Giá băng ngời em hối để thằng Ngâu. Máu oan
em đọng lại ngọc trân châu. Khối oan em thề rửa máu thằng Ngâu, Sóng oan
em thề tát bầu bể ác. Hồn oan em chẳng bỏ cõi Viêm Âu. Ấy
năm năm nòi Hán
mấy hạ cầu, Ðường Quế Lâm, Nam Hải ngất mây sầu, Hôn Việt
Thường còn
hú nuối
Mế Châu. 4822 T.V. (1943)
Hận Mế
Hê Cát Ðồ Bàn còn
hận dài
Sạ Ðẩu, Sông Hoàng
Giang ngậm
cười mãi
Mế Hê. Chàng vì chưng chí Khu Lân thì
dẫu. Thiếp vì chưng tình phu phụ nào hề. Nực cười thay cuộc đấu tranh ảo não, Của những người một tổ mà hai quê, Hận dài thay đường đời ai phên giậu? Giống Việt Thường đất cũ ai đòi về? Thiếp cỏi Bắc hồn mài sương giang khẩu. Giải lụa đào nguyện bắc giống ô thê, Chàng phương Nguyện dêm đêm nhòm
thấu cõi
thầm nê. Thiếp nghĩ thảm bao nhiêu đời xương máu. Chí anh hùng hay chinh
chiến đam
mê, Chàng rằng
muối muôn
năm thù
nghịch khẩu. Vì ông cha nèm rủa cháu con thề. Nòi giống Hán nên
non sông phụ
mẫu, Từ
muôn xưa
giày xéo
bao ê chề, Vết sỉ nhục Giao Châu đầy đẫm máu, Cỏ cây cùng ai oán dục hồn quê. 4823 T.V. (1944)
Ðường Vua
Ðinh Ðưòng vua Ðinh tre già măng lại mọc, Máu sống còn nòi
Việt tiếp
muôn xưa, Hồn Vạn Thắng tràn lan tờ gấm vóc, Mỗi cung còn ghi mỗi nắng và mưa. Ðường vua Ðinh người nay nhưng lối cũ, Nếp cựu hoài phẫn nộ mạch tân sinh, Thành Tràng An
rập rình
cơn khói
lửa, Mỗi phong trào sắp sửa mỗi trùng rinh. Ðường vua Ðinh người rày mà
nếp trước, Hội Thái Bình mang mở cuộc rồng mây, Cờ
Bông Lau dập
dìu dầy
non nước, Ánh huy hoàng sáng
rực khắp
Ðông Tây. Ðường vua Ðinh đã bước, Nghiệp vua Ðinh còn
đây. Hang luồn, giốc Sỏi, mấy ghềnh mây, Giặc Tống, quân Hầu nép móng
vây. Sông Hoàng
Long dạt dào
sóng vỗ, Ðộng Hoa Lư rầm rập bào bay; Phục lại nghìn năm giờ phút ấy. Ðường vua
Ðinh cũ
lại là
đây. 4823 T.V. (1944)
Vết Bô
Cô Người anh hùng cứu quốc đứng lên hô, Quyết đem thân sống chết với quân Ngô. Tiếng Cần Vương vừa hầm hè bến Mộ. Sóng ba
quan đã
cuồn cuộn
non Bô. Ðây non Bô sừng sững bên Huyền Hà, Biết bao vàng với máu đất đem pha, Bao sĩ tử hồn oan ngậm cây cỏ, Vì quân
Ngô giày
xéo nước
non nhà. Lòng phẫn
hận một đêm sấm sét hô. Trong ngoài kênh dàn
dụa máu
quân Ngô. Oai Tuyên Ðức bạt theo hồn Trương Phụ. Ðầy thành mà sụp đổ dưới non Bô, Thành đây
xây sừng
sững bến
Huyền Hà. Sắc dòng thu lẫn sắc luá mùa
pha. Công Nguyễn, Ðặng giống nòi ai biết cả. Bà A Ðào
thành ấy
ruộng riêng
nhà. Bà A Ðào
muôn năm
công vẫn
còn, Máu Trưng
Vương gái
Việt hồn
sắt son. Kiếm nương tử, mưu anh thư
nào khác, Giết quân thù lặn lội vì nước non. 4823 T.V.(1944)
Ðịch Lộng
Dư Âm Lòng hang không
lồng lộng
gíó trúc đầy, Nhịp hưng vong nghìn xưa không vẳng nữa. Tiếng sáo cao, cao vút trên
từng mây, Nàng tiên
xa, xa tít tận ngàn tây. Mà giăng
trôi nước
cuốn tháng
ngày chầy. Hận hưng vong trào lên từng thế thứ. Tai không nghe, nghe thấu tới từng mây. Mắt không trông, trông
suốt đến
ngàn tây. Hồn tái sinh, Bằng ngẫm nghĩ, Sống cả nghìn năm những phút này. 4822 T.V.
Túy Tường
Có nàng
tiên nào
cùng ta
tri âm. Cùng ta
chuốc chén
cùng ta
ngâm? Cùng ta chắp cánh lên cao vút, Xa đời muôn dặm bụi âm thầm. Nhớ chốn Ðộng Ðình
sóng gíó
trường, Nhớ trên Cung Quảng khúc nghê
thuờng, Nhớ thuở Văn Lang lầu kén rể, Nhớ chàng giai tế Thúy Vân
Hương. Men đưa hào hứng bút tài
hoa. Miệng đọc như châu mặt gấm sa, Nàng tiên
chẳng thấy,
thấy gió
thổi. Ngoài hiên
ngọn trúc
uốn la đà. 4825 T.V.
Xuân Thu Hoa quốc miếu tụng Chi Hồng Bàng chín vạn mở Kinh Dương, Bọc trứng ngày trăm
con chia núi
bể. Giống Tiên Rồng văn hóa cực Viêm Phương, Nước Ðại Việt xuân thu hùng vạn thế. Ðại Việt chi ký, Xuân Thu chi hương. Ðinh Tiên Hoàng khi Cờ Lau Vạn Thắng, Trần Hưng Ðạo khi Vạn Kiếp di cơ, Lê Văn
Hưu khi chép thành
sử thặng. Hàn Nguyễn Thuyên khi đọc tế ngư tờ.
Ðại Việt
chi ký,
Xuân Thu chi hoa. Lê Thái Tổ khi bình Ngô
đại cáo, Còn non sông anh khí vẫn bàng bàng Lê Hồng Ðức khi vườn quỳnh chính giáo, Còn muôn
năm nắng
hóa vẫn
chang chang.
Ðại Việt
chi ký,
Xuân Thu chi quang. Nguyễn Quang Trung khi bình Thanh thệ chúng, Nguyễn Văn Thành khi chén rượu điếu tang, Phan Sào Còn là
hồn Ðại
Việt sống
vô cương.
Ðại Việt
chi ký,
Xuân Thu chi dương. Chi Hồng Bàng chín vạn mở Kinh Dương, Bọc trứng ngày trăm
con chia núi
bể. Giống Tiên Rồng văn hóa cực Viêm Phương, Nước Ðại Việt xuân thu hùng vạn thế. 4822 T.V.
Ðại Việt
Âm tấu nhạc Ðại Việt vinh quang nhất thế giới, Như con em Tổ Tông công đức mãi lưu dành; Kìa những ngày Nông
phục, Phiên
bình, Lại những thuở cầm Hồ, đoạt sáo. Nhạc Bình Ngô ca Quỳnh Uyển rập rình, Vàng chảy,
bạc sinh,
gió tơ,
mưa lúa. Cờ
Vạn Thắng,
công Thái
Bình, Hội rồng mây, cơ hiền thánh. Cực vũ công , văn trị cảnh vinh quang. Há một
ngày nên
được nghiệp
vương hoàng? Bao gan nát óc
lầy, đan
thanh hàng
huyết lệ. Thưỏ Hồng Bàng rẽ nước rạch hoang, Vận nhiễu nhương nằm gai nếm mật. Thái Tổ nhân như trời đất, Thánh Tông
trị đọ đời vàng. Dám khoe khoang công giá huy hoàng, Trước xã miếu hãy ưng đường Tông Tổ. Vạn ngôn thư, Thất trảm sớ, Chúc Hưng Ðạo, Sử
Lê Hưu, Khóc quỷ thần oanh liệt khí
sung tiêu, Lòng sáng thư ấy bao nhiêu lao khổ. Cành Ma Việt người thà. Nhẽ tam thế hy sinh là quốc phổ. Như con em nên gắng gỏi rạng non sông, Vinh quang muôn thuở Tiên Rồng. 4824 T.V.
Kinh Đô
Hành Từ cổng trời đến cửa trời, Chập-trùng nột giải núi trời cao cao, Năm năm nước ngược chấy vào, Ba
ba đinh giáp cũng bao bên mình, Sóng cồn nhớ núi Thu-Tinh, Chín đầm
nhớ tới Ðộng Ðình
đấy đâu. Lạc Hồng ấy cõi Tiên Châu Muôn năm
vạn vật thương dau còn rành. Văn Lang xây lại đô thành, Ánh sông Ngân xoáy
mấy vành
pha lê. Chợ Trời đi lại gần kề, Nước non chung
đúc của
quê nhà
trời Ấy nơi hiểm yếu đời đời, Mà trong tai mắt đợi người nước non. Bể
Trăm con giống Việt một hòn máu
tươi. 4824 T.V.
Tiên Long Châu
Hành Non Kỳ, nước Nhuế, mấy thu trường, Ði lại tìm noi dấu cố hương. Ðỉnh dốc Bòng Bong nhiều
ái ố, Lưng đèo Cắc Cớ lằm tang thương. Kinh luân vận mệnh là văn vũ, Doanh dưỡng thiên dân
ấy Thánh
Vương, Máy hoá muôn xưa nhà Hồng Lạc, Thực hư ai biết khách cương thường? Máy thiêng
thủ quốc
vẫn còn
chân. Hồng Lạc muôn xưa dấu đỉnh phân. Mình ngự ngôi thần làm đế cực, Nước non Lạc Nhuế cơ hiển thánh. Con cháu Rồng Tiên buổi chấn xuân Ðại địa từ xưa không huyệt táng, Ðan thanh
một điểm
tại thông
thần. Rồng Tiên vốn có chủ trương nhà, Lục Lục, Hồng Hồng chẳng phải xa, Núi Tản, sông Thao guồng đất đạp, Xuân Kỳ, Thu Nhuế trạm thời thoa, Cơ
thiêng núi
Ngự tầng
non Ngọc; Trẫm triệu đùn xây
cửa động
hoa. Nam Bắc không ngừng xoay Tý Ngọ, Ngàn năm
ta lại biết là ta. Bác ngư
lạc lối nhập đào nguyên, Hốt hoảng trông vời một cảnh tiên. Ấy
phủ Ðộng
Ðình ngày
đản noãn, Hay gò Bồng Ðảo lúc chiêu duyên? Ba sinh nợ cũ tình cố đế. Một tấc oan hồn dạ Ðỗ Quyên. Nhắn có Long chương, phiền tý chút, Lên xem
nước Thủy
của Huyền
Thiên. Cổ
kim chơi xóa tựa do cờ, Non nước còn ta đến tận giờ! Buổi đóng Phong Châu, hôm Lãng
Bạc, khi quân Lam Thủy, lúc Hoa Lư. Vận thần thụy ứng ngày chân
mệnh Khi chính thâm tàng
chốn hóa
cơ. Nguyệt quật, thiên căn ai biết được? Văn minh ta chẳng thiếu đồ thư. Guồng máy lung
linh độ chuyển vần. Non xanh nước biếc có kinh luân. Truyền danh đã hẳn là linh dị, Ứng thụy rồi ra mới tác dân. Hư
thực anh
hùng trông
rõ thực, Giả chân, hào kiệt biết rành chân. Xưa nay bất trắc, cơ khôn nói, Ðể hỏi đời ai bất thế nhân? Hình hài
thấp thoáng
bóng tinh
anh. Dâu bể
tìm ai
trúc sử
xanh? Ðụn thóc, cây tiền , kho giáo dưỡng Gậy thần, sách ước, vốn kinh doanh, Sồng Hằng, nước Hán đêu quy lại, Ðảo Úc tầng A cũng phục quanh, Ruộng đất muôn xưa nhà Bách
Việt, Hồng Bàng còn để mối tân canh. Chuông vàng đại báo dậy rèn đồng, Dớp máu oan oan chửa nhạt hồng. Ngán núi Kinh Thiên bao nắng hạ, Thương dòng nước ngược mấy mưa đông, Hai tư giáo hóa
giềng cương
kỷ; Mưòi tám Hồng Bàng mối tổ tông, Tháp cuốn Chà Bà,
mây Ngũ
Lĩnh, Qua sông ta lại trở sang sông. Bước chân cao thấp mãi không
cằn, Chỉ vị đan thanh chủt nhọc nhằn, Trở lại hồng hoang khơi nguyệt quật; Dò vào cửu cực nằm thiên căn. Cương thường không ngoại guồng thân mệnh, Giáo đường gồm trong trục vũ văn, Giữ được Xuân Thu tròn
vẹn mãi, Còn nhờ
tri kỷ, tấc băn khoăn. Ðất đỏ, trời xanh, giữa một ta, Chunh quanh vẫn của nước non nhà, Theo đường tiên mở đem chiêng xuống; Vạch lối rồng xây, lấy ngọc ra. Tim óc xoay vần được tuế nguyệt, Ðấy ai
suốt hết
thần cơ nhỉ? Tảng đá đầu ghềnh chốc nở hoa! Vận hội ngàn năm dễ mấy lần, Quét thanh lang sói mở canh tân, Anh hùng dậy khắp vùng lau lách, Tuấn nghệ ra đầy chốn giáp lân. Ðại cáo lại ban lời Bách Việt, Quỳnh ca luôn tấu khúc DUY
DÂN. Trời Nhắc để lên đài
sống Vạn
Xuân. Một lối vô danh há dễ bàn! Ðem nguồn cảm hứng nói non ngàn Cơ
trong vật
lý, nên
thần dụng, Ðạo ở nhân
tình, chớ
dị đoan. Một nếp DUY
DÂN cầm chính
trị, Trăm con Hồng Lạc hết gian nan. Tiên Long Châu
ấy nơi hùng thắng, Ðể lại năm sau chốn ẩn nhàn. 4822 T.V.
Bạch Sơn
Hành Bồng hồ trong chốn thiên thai nhà, Cảnh cảnh, tình tình
dễ nói
ra Hồn cũ giấc hương quan khi đã, Mình nay cơn thế sự đương là... Ba
ngàn năm
lại xuân
đào lý, Một tấc thiêng bằng sáng cỏ hoa, Trời đất còn mưa mưa, nắng nắng. Sông Xanh
núi Trắng
vẫn dành
ta. Phất trần toan cỡi gíó hiu
hiu. Ngoảnh lại Nội bái tọa muôn quân tấp nấp. Giòng phong
quanh quẩn
tá dập
dìu. Ðào hoa
cửa động
cơ hành
chỉ. Bích ngọc
đầu non nghĩa
khứ lưu. Biết chiếm một đồ thơ nhập hải. Trăm dân cùng thiên
mưu quỷ mưu. Doanh Châu mới biết là chủ nhân, Núi Tản
sông Thao
rút nhỏ
gần. Biệt nước non đi, thiên cổ hận, Về
giang sơn
lại vạn niên xuân, Thài lài ngấn cũ rồng bay vết, Danh trúc nền nayViệt hiện thân. Hồng lạc tính linh ta bất tử, Ngoảnh trông kiếp trước dạ tần ngần. Hoàng Long bán
củi chợ Tràng An, Hồng Lạc tên ta gọi Tản Ngàn. Ðạo ở thiên căn kình độc lập. Cơ
trong nguyệt
quật đỗng
chu hoàn. Nhất nguyên tóm lại ngôi hoàng
cực, Vô hạn
trùm ra
khoảng thế
gian. Xuất nhập cứ theo
đường thượng
kính, Nghìn năm
ta ký
chốn thanh
nhàn. 4823 T.V.
Nga My Hành Quá quan hôm sớm cũng là vửa, Ngoảnh lại Nga My ngẫm mộng thừa. Lặn lội dễ đâu cơn trời bể, Y quý có chốn tạnh mù mưa. Nhân duyên vốn đã ba nghìn trước, Ðồ kính còn từ một vạn xưa, Phá hết trần ai canh giáp lụy Nhàn trong thăm thẳm thủ say sưa, Chia phôi đã rắp buổi đề huề, Thanh sằc không từng cánh gián
khuê; Xích điểu đem tin hồng nộng nguyệt, Huyền đàn dõi vết bóng hương thề. . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . Lửa hương trong đất nước giờ giây; Hồng Lạc xuân thu người lại đây, Hèm nhân quốc hồn y bát cũ, Sấm trao thần khí vận cơ nay. Kỷ
hà sử
vạch ngày
lau trúc, Phả ký truyền trao tích gió
mây. Một cõi Tiểu Văn Lang, Thao, Tản Ðồ thần rộn rã việc chi hay. Loa thành đài
chói lọi
linh quang, Quan lũ
từ đây
mới sửa
sang, Một khoáy đã yên
ngôi tử
cực. Ba
sao liền
nối sợi
ô giang, Hoàn nguyên tứ hướng về nam hộ Thống nhất tam tài ở Việt Làng Tiến thoái cứ theo
đường ngọc
trục Cơ trong chỉ hoạch khéo thần tàng. Nhập quan khi xuất thấy văn minh. Tiểu Ðại Phong Châu đúc dạng hình, Núi Trắng đọng tinh thần cố quốc, Sông Hồng
tràn huyết
mạch dương
sinh. Rùa Rồng gọt giũa hoa thuần túy, Gậy sách tiêu dao nhẽ trị bình, Ai biết rằng ta, ta dễ biết, Tò tin hiểu
xiết mới
tài tình. 4824 T.V.
Nga My Nguyệt Nguyệt giãi Nga My nguyệt
ý dài Nguyệt tình thiên cổ nguyệt vì ai? Nguyệt đưa chiến sĩ lên non Thục, Nguyệt dẫn anh hùng đến suối Thau, Nguyệt dõi ba sinh hồn cố quốc, Nguyệt treo tái thế niệm tương lai Nga My đêm tỏ soi vầng nguyệt, Nguyệt với ta chung
một cảm hoài. 4824 T.V.
Nguyên Tử
Đạn O horror; O horror; O horror; Một chiến tranh ác sát tám
trùng dương, Suốt nhân gian quằn quại dưới đau thương, Cuộc giáp đấu thư
hùng tranh
khí họa, Trang hoà bình quyết liệt gíá
vô đương. Một sáng kiến phi thường thép nở hoa, Ðảo Phù Tang
áp phục
giải can qua, Ngày thắng trận như kinh hoàng vũ trụ, Sức dã man tàn hiệu đã bùng
ra. Một văn minh tiếc hận tự ngàn thu , Cỏi Sa Ba đường hạnh phúc mịt mù, Những kỹ nghệ hùng hồn thôi chớ nữa; Nhân gian
còn phấp
phỏng giữa
khi khu. Một trách nhiệm ghê hồn trước kỷ nguyên, Ðòi nhân luân chinh phục được đương nhiên, Dẫu cao ngất oai hùng qua trí
dũng. Thiếu hòa bình chiến thắng cũng nguy điên. Một phán đoán sau cùng đến chửa chăng? Từ
muôn xưa
gió bụi
đã trối
trăng; Phải giác ngộ bằng hởi ôi! Ðảo lộn. Trong tái sinh, hò hẹn chốn siêu đăng. Một siêu đăng hiện địa trổ ngành hoa, Phải đem nền Nhân Chủ đắp xây ra. Phải đã thắng, bằng thắng qua, thắng trận. Phải nhân gian bốn bể lẫn một nhà. 4824 T.V.
Ðồi Nga
My Ðồi Nga My, mối hận chĩu bề bề. Ðồi Nga My, tin ngục bổng Ðông về, Ðồi Nga My, vàng thau đà thử thách, Ðồi Nga My, làm trọn DUY
DÂN thề. Hởi tráng sĩ DUY DÂN đầy
khổ ải; Hãy trao giồi thể nghiệm những đau thương, Ðông thê thê tuốt gươm mài khẳng khái, Hận du du đúc ngọc trí phong sương. Lịch sử Việt đã tới giờ quyết liệt. Hãy kín trong trì định đáy muôn xưa; Những năng tử thấm tàng nuôi
cảnh tiết, Ðể đợi giờ tối hậu đột giông mưa. Ðồi Nga My sẽ chút hận bề bề, Ðồi Nga My tin ngục sẽ Xuân về. Ðồi Nga
My vàng thau
còn thử
thách. Ðồi Nga
My làm trọn
DUY DÂN thề. 4824 T.V.
Khai Bút Lô hoa trình VẠN THẮNG, Trúc biểu kiến THÁI BÌNH. Nay mừng Lạc vận tái sinh, Hỏi bốn bể ai kinh luân chăng tá! Những gắn bó chi chi sắt đá, Khối u tình nhường đã vơi vơi; Tản Viên Sơn nghê hiện chi thời Ðỉnh Nhĩ
Thủy tinh
phi chi tế. Gặp tân niên lại nguyên niên
là thế, Chấm hết câu hưng phế cựu văn chương
Vạn Xuân thử hội cương thường. Xuân 4825 T.V.
Ðà Giang Ngày Ðà Giang mưa nắng xóm Chiên Ðào Hoa mai trên ghềnh đá nở giờ nào! Ðông đã hết, xuân mong tin chờ đợi, Vẳng tai nghe hồn mộng sự Nam Giao. Sự
Nam Giao văng
vẳng phía
non ngoài Khúc đoạn trường chẳng kém lối kinh đài; Gió phất bóng quân
nhung nhường
động tĩnh Dòng sông Ðen nước chảy tận u hoài. Tận u hoài dăm dắp tiếng thề xưa, Dội ngàn trùng muôn
sóng gọi
hò đưa; Khảm thôi Thục, lên Ba Vi chốn cũ, Chuyển giang sơn hình thể lại cho vừa. 4825 T.V.
Nguồn: http://daotruongngam.blogspot.com Trang mạng Việt Nam
Văn Hiến
Trang Đạo Trường Ngâm www.vietnamvanhien.net Email: thuky@vietnamvanhien.net Trang
mạng Việt Nam Văn Hiến là nơi bảo tồn di sản văn hóa của
Việt tộc. Thắp sáng niềm tin Diên Hồng và nếp sống
Văn Hiến hầu phục hồi nền "An Lạc
& Tự Chủ" ngàn đời cuả Việt tộc.
|