HỒ
ĐỘNG
ĐÌNH
(phần 2).
LẦU
NHẠC
DƯƠNG
Nguyễn Xuân Quang
Thị trấn Nhạc Dương
(YueYang) nằm ở phía đông bắc tỉnh Hồ Nam với hồ Động
Đình ở phía tây và sông Dương Tử ở
phía bắc, cách Trường Sa 150 km. Thị trấn Nhạc Dương nằm
ngay bờ hồ. Ngày nay thị trấn Nhạc Dương còn cổng
Zhanyue, thành xưa và con phố cổ Bianhe.
Từ ngàn xưa nơi đây đã là chỗ đến
viếng và vãn cảnh hồ. Vì thế nhiều triều đại Trung
Hoa đã xây dựng những đền đài ngắm cảnh hồ,
làm thơ, uống rượu, gỉải trí, tu dưỡng… Thị trấn Nhạc
Dương nổi tiếng với Lầu Nhạc Dương (岳阳楼
Yuèyánglóu).
Lầu Nhạc Dương là một tháp lầu nổi tiếng suốt
bốn triều đại của Trung Hoa gọi là Tứ Đại Danh Tháp Trung
Quốc.
Vào thời Tam Quốc, tướng Lỗ Túc (Lusu)
nhà Đông Ngô đã dùng Lầu Nhạc Dương
làm nơi duyệt binh. Năm Kiến An thứ 20 (215) Tôn Quyền
và Lưu Bị trang giành đất Kinh Châu. Tướng Lỗ
Túc dẫn quân đóng tại vùng chiến lược Ba
Khâu tại hồ Động Đình luyện tập thủy quân, xây
thành Ba Khâu. Bên hồ Động Đình ông cho
xây một lầu tháp để duyệt thủy quân gọi là
Duyệt Quân lâu. Thời nhà Tần và Nam-Bắc
Triều, Duyệt Quân lâu đổi tên là Ba lăng
thành lâu. Đến thời nhà Đường, Ba lăng thành
lâu được xây lại gọi là Nhạc Dương lầu
(vi.wikipedia).
Lầu này có lối kiến trúc kiểu nhà
Đường. Lầu bị phá hủy nhiều lần nhưng được xây dựng lại
bởi các triều đại về sau. Lầu Nhạc Dương là một kho
tàng về kiến trúc ghi lại các kiểu kiến
trúc qua nhiều triều đại của Trung Hoa. Qua các tranh cổ
các kiến trúc này được lưu trữ lại. Một công
viên tại đây trưng bầy những mô hình Lầu Nhạc
Dương bằng đồng thau qua năm triều đại (Five Dynasty Bronze Towers).
Những mô hình lầu đồng thau này được coi là
lớn vào bậc nhất Trung Hoa,
Lầu Nhạc Dương đời Đường
(ảnh của tác giả).
Lầu Nhạc Dương thời Tống
(ảnh của tác giả).
Lầu Nhạc Dương thời nhà
Nguyên (ảnh của tác giả).
Lầu Nhạc Dương thời nhà
Minh (ảnh của tác giả).
Lầu Nhạc Dương thời nhà
Thanh (ảnh của tác giả).
Tôi ghi lại đây hình ảnh những mô
hình các Lầu Lạc Dương của 5 triều đại Trung Hoa
này để cho thấy các lầu này đều xây theo vũ
trụ quan có hình Tam Thế của Vũ Trụ Tạo Sinh, Vũ Trụ
giáo. Lưu ý vào đời Đường lầu chỉ có hai
tầng, ‘tầng’ nền trên mặt hồ nước coi như là Hạ Thế,
cõi dưới, cõi nước, cõi âm hãy
còn giữ theo chính thống. Trong khi vào các
đời sau lầu đã xây với ba tầng trên mặt đất
nên tầng dưới cùng coi như là hạ thế ở trên
mặt đất không còn chính thống ở dưới nước nữa.
Hình trang trí trên nóc nhà
của lầu vào đời Đừơng, đời Tống có hình con
cá (có lẽ là loài cá anh vũ, một
loại cá chép là loài cá có
thể hóa long, đã thể điệu hóa, thần thoại
hóa chút ít). Thoạt khởi thủy, con người dùng
các loài vật có trong thiên nhiên
làm vật tổ nên rắn nước, cá (chép) biểu
tượng cho nước, cõi nước, hạ thế. Về sau theo dòng văn
minh, con người thần thoại hóa, linh vật hóa các
vật tổ, vật thờ thiên nhiên thành các linh
vật. Rắn, cá chép hóa rồng vì thế mà
tới đời nhà Thanh, hình tượng ở đầu mái lầu
đã có hình rồng.
Tuy nhiên để ý
con rồng ở đây thân và đuôi có
móc sóng cuộn, đầu còn mang hình ảnh đầu
cá, sừng rất nhỏ mang âm tính cho thấy rồng
này là rồng nước. Điểm này ăn khớp với khuôn
mặt âm, nước của Long Vương, vua hồ Động Đình.
Sự biến hóa từ cá đời Đường sang rồng đời Thanh
cho thấy nền văn hóa rồng là nền văn hóa đã
muộn so với nền văn hóa rắn nước, cá chép. Những
nền văn hóa dựa vào các linh vật như văn
hóa Trung Hoa dựa vào Long Li Qui Phượng là những
nền văn hóa muộn.
Ở đây cũng cho thấy nền văn hóa cá
nguyên thủy của dân bản địa tức của Bách Việt
có thể đã bị Trung Hoa hóa thành văn
hóa rồng.
Nền văn hóa Tiên Rồng của chúng ta
là nền văn hóa muộn sau này so với nên văn
hóa Chim Rắn của cổ Việt thấy trên trống đồng của đại tộc
Đông Sơn. Chúng ta nên trở về lấy nền văn hóa
Chim-Rắn làm gốc, còn dùng hai từ Tiên Rồng
chỉ là một cách nói hoa mỹ cho đẹp mà
thôi, nếu không muốn nói là đã chịu
ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa. Các nhà
làm văn hóa Việt Nam hiện nay nên tránh
dùng các hình linh vật Long Ly Qui Phượng trang
trí cho các kiến trúc thờ phượng Việt như
đình chùa miếu, đài tưởng niệm. Nên
dùng các vật tổ của chúng ta là Rắn Nước,
Thuồng Luồng, Nghê, Rùa Ba Ba, chim Cắt. Nên
tránh dùng các hình này vì
thứ nhất là nó diễn tả một nền văn hóa muộn
không phải là của cổ Việt, thứ hai nó lầm lẫn với
văn hóa Trung Hoa, nói tới Long Ly Qui Phượng là
thế giới nghĩ ngay và cho đó là của văn hóa
Trung Hoa, chúng ta khó lòng mà cãi
lại là chúng có nguồn gốc của chúng ta
(dù cho đó có là sự thật của chúng
ta đi nữa). Nếu bắt buộc phải dùng hình rồng biểu tượng
cho Lạc Long Quân thì nên dùng rồng thuộc
ngành Rồng Nước có thân rắn uốn khúc
hình sóng nước như rồng thời nhà Lý hay
rồng có đuôi hình cuộn sóng như thấy ở
trên. Lạc Long Quân của chúng ta thuộc dòng
Rồng Nước, cháu ngoại của Long Vương ở đây. Rồng Thăng
Long là rồng bay lên trời phải dùng hình
rồng nước nhưng có bờm gió mang tính cường điệu.
Cũng nên biết hồ Động Đình là nơi ẩn dật
của các đạo sĩ theo Đạo giáo, là đất của Đạo
giáo nên văn hóa ở đây ảnh hưởng nhiều về
thuyết Vũ Trụ Tạo Sinh, Vũ Trụ giáo (hình đĩa thái
cực được cho là của Đạo giáo). Vì thế các
lầu ở các đời sau cũng thấy có các kiến
trúc của hình quả bầu ở trên nóc (trong kiến
trúc, quả bầu nhìn dưới dạng nhất thể có một
khuôn mặt là đĩa thái cực). Ta đã biết Vũ
Trụ Tạo Sinh, Vũ Trụ giáo dựa trên nguyên lý
lưỡng hợp nòng nọc, âm dương, khởi đầu từ bầu hư vô,
bầu vũ trụ, bầu tạo hóa, bầu tạo sinh, được diễn tả trong kiến
trúc bằng hình quả bầu. Khi thấy một kiến trúc
tín ngưỡng, thờ phượng nào trên nóc
có hình quả bầu thì biết ngay kiến trúc
đó theo hay bị ảnh hưởng bởi Vũ Trụ giáo (xem bài
viết Vũ Trụ giáo). Nhưng trái bầu ở đây đã
thể điệu hóa không còn giữ hình trái
bầu âm dương cho thấy Vũ Trụ giáo ở văn hóa Trung
Hoa đã biến dạng hay tam sao thất bản không còn giữ
được chính thống.
Những điểm biến thái này cho thấy văn hóa
Trung Hoa có thể đã vay mượn Vũ Trụ giáo từ
bên ngoài, ở các nền văn hóa địa phương
mà họ thôn tính, họ đã bị đống hóa,
nói rõ ra là bị Bách Việt hóa
nên không giữ được thuyết Vũ Trụ Tạo Sinh một cách
chính thống.
Như đã nói Hồ Động Đình là chỗ
thần tiên mà bất cứ một văn nhân thi sĩ Trung Hoa
nào cũng mơ ước được đặt chân tới viếng thăm. Lầu Nhạc
Dương là lầu thơ phú, văn chương. Ngày nay ở
đây có một hành lang những bia đá khắc thơ.
Những bia đá ghi lại các bài thơ của các
lãnh tụ Trung Hoa làm tại đây, tiếp đến là
những bài thơ cổ nổi tiếng của các thí bá,
thi hào, thi thánh, thi tiên của Trung Hoa như
Lý Bạch, Đỗ Phủ, Lưu Vũ Tích, Bạch Cư Dị… rồi tới của
các nhà thơ hiện dại vả cuối cùng khắc ghi
các điều nói vể Lầu Nhạc Dương.
Tiêu biểu chỉ xin nêu ra đây một ví
dụ. Đó là bài thơ tuyệt tác Đăng Nhạc
Dương lâu của thi thánh Đỗ Phủ:
Một
phần
bài thơ Đăng Nhạc Dương Lầu của Đỗ Phủ (ảnh của
tác giả).
Sau đây là phần chuyển qua Hán Việt, Việt
ngữ và ghi chú của anh Nhạn Nam Phi Đỗ Ngọc Thành:
《登岳阳楼》杜甫 Đăng Nhạc
Dương Lầu Đỗ Phủ
昔闻洞庭水,今上岳阳楼。 Tích Văn Động Đình
Thủy, Kim thượng Nhạc Dương Lầu.
吴楚东南坼,乾坤日夜浮。 Ngô sở đông nam
tách, Càn khôn nhật dạ phù.
亲朋无一字,老病有孤舟。 Thân bằng vô nhất tự,
Lảo bệnh hữu cô châu.
戎马关山北,凭轩涕泗流。 Nhung Mã quan sơn bắc,
Bằng hiên thế tứ lưu.
Lên Lầu Nhạc Dương : 登岳阳楼
( Đỗ Phủ-杜甫)
昔闻洞庭水,今上岳阳楼。Xưa nghe Động Đình Thủy, nay lên
Lầu Nhạc
Dương.
吴楚东南坼,乾坤日夜浮。Ngô Sở Đông Nam tách,
Càn khôn đêm ngày trôi.
亲朋无一字,老病有孤舟。thân hữu không một chữ, già
bệnh chỉ xuồng côi
戎马关山北,凭轩涕泗流。 Nhung Mã quan san Bắc,
Bên hiên giọt lụy rơi.
Ghi chú:
Bài thơ theo thể “ngũ ngôn tuyệt cú”,
các chữ Lâu-楼, Phù-浮, Châu-舟, Lưu-流 là
vần Chân.
-
昔闻: Tích văn: Xưa nghe
-
洞庭水: Động Đình Thủy: Nước của Động Đình, ý
nói “Động Đình Hồ”.
-
今上: Kim Thượng : nay Lên
-
岳阳楼: Nhạc Dương Lầu.
- 吴楚
: Ngô Sở. nước Ngô và nước Sở.
-
东南坼 : Đông Nam Sách: Đông Nam Tách
(Tách ra, chia, chẽ…).
- 乾坤
: Càn khôn: trời đất.
-
日夜浮 : Nhật dạ Phù: Ngày đêm trôi, ( Thời gian
trôi…)
- 亲朋
:Thân Bằng : Thân quyến và bằng hữu, người
thân và bạn bè.
-
无一字 : Vô Nhất Tự : Không một chữ, (không có
tin tức khi xa nhau/ Biệt vô âm tín).
- 老病
: Lảo Bệnh: già bệnh.
-
有孤舟 : Hữu Cô Châu: có (chỉ) một thuyền cô đơn.
- 戎马
: Nhung Mã : Ngựa Nhung : Loại ngựa cao to và khõe
được nhập vào trung nguyên từ phía
tây-âu của người Nhung-戎, thường là dùng cho
chiến trận, chiến binh và quan, quân.
-
关山北 : Quan San Bắc : Cữa Khẩu quan bắc miền núi.
- 凭轩
: Bằng hiên : bên hiên, bên dưới mái
hiên.
-
涕泗流 : Thế Tứ Lưu : Chảy nước mắt, nước mũi khi khóc, lệ, lụy
rơi….
- Bài thơ nầy tả cảnh và tâm sự khi
lên lầu Nhạc Dương, Đỗ Phủ là quan Văn của đời nhà Đường, nhầm lúc loạn
An-Lộc-San, chiến tranh ly loạn, ngắm nhìn đầm nước Động
Đình mêng mông mà cảm khái cho
thân phận người sống trong thời loạn, không tin tức
của bạn bè, ngựa đi quan Bắc hay thuyền đi Động Đình…chỉ
cô đơn như chiếc xuồng đơn côi giữa dòng nước cuộc
đời; Sở và Ngô là hai nước Đông với Tây
ngày xưa cùng chung biên giới và Động
Đình Hồ rất lớn, lớn đến nỗi tách chia Ngô
và Sở ra làm hai một cách rõ ràng!
- Hiện nay, có hai phiên bản “Đăng Nhạc
Dương Lầu” của Đỗ Phủ được lưu truyền online. Có một bản với câu
“Ngô Sở Đông Nam *Tố-诉” là Sai ! Phải
là “Ngô Sở Đông Nam *sách-坼” ; “sách”
là theo cách đọc của từ Hán Việt, “Sách-坼”
chính là “tách”, Tách, chia, chẻ
đôi…trong bài này nghĩa là nước Hồ Động
Đình tách hai nước Ngô và Sở ra hai
bên rõ ràng. Bài nầy có chữ Nôm
là “凭轩-Bên hiên” mà từ Hán Việt đọc
là “凭轩-Bàng hiên”.
Bài thơ này đã đuợc Mao Trạch Đông
viết lại dưới dạng chữ thảo và được khắc lại trên một bia
đá ở đây:
Bài thơ của Đỗ Phủ
đã đuợc Mao Trạch Đông viết lại dưới dạng chữ thảo
(ảnh của tác giả).
Theo người hướng dẫn
viên thì Mao Trạch Đông đã sửa hai chữ
“lão bệnh” trong bài thơ này. Có giả thuyết
cho rằng lúc viết lại bài thơ này Mao Trạch
Đông đã già, đã yếu, đã lẫn rồi
nên viết sai như thế. Có giả thuyết lại cho rằng ông
cố tình “thay đổi” hai chữ “lão bệnh” ngụ ý cần
phải “thay đổi” vì hối tiếc về những điều mình đã
làm, thấy cảnh xã hội Trung Hoa trước mắt mình
lúc đó chìm ngập trong bạo loạn, trong tang thương
khốn cùng mà mình giờ “lão bệnh”, “cô
đơn như chiếc xuồng đơn côi giữa dòng nước cuộc đời” . Chữ
Hán của tác giả ăn đong, lại còn viết theo chữ
thảo thì chỉ thấy bài thơ trông như là một
bức tranh cỏ non xinh đẹp với “ngọn cỏ gió đùa” (Hồ Biểu
Chánh). Chữ Anh của người hướng dẫn viên cũng chỉ “đong
ăn” (nói theo ngữ pháp Trung Hoa), không diễn tả
hết được ý trong đầu. Về nhà đành cầu cứu anh Đỗ
Ngọc Thành. Theo anh thì bài thơ viết “thảo
của Mao Trạch Đông không có thay đổi gì! hai
chữ “lảo bệnh” chỉ viết tắt và dính liền nhau,
không thay đổi”. Như thế thì quả thật Mao Trạch
Đông vốn là một nhà giáo đã từng
làm hiệu trưởng một trường sư phạm thì khó
mà viết sai (ngoại trừ đã già lẫn). Ông
đã chỉ chọn hai chữ “lão bệnh” duy nhất trong
bài thơ mà viết tắt là cố ý để gởi gấm một
tâm sự gì lúc đã “lão bệnh” (viết lại
một bài thơ tuyệt tác của một thánh thi, có
thể bài thơ này hợp với tâm trạng mình
lúc đó mà lại viết tắt một cách thiếu
tôn kính thì phải là một việc làm
có đầy chủ ý).
Nhạc Dương Lầu sau này vang danh lừng lẫy thêm
nhờ hai ông Đằng Tử Kinh (Teng Zijing) và Phạm Trọng
Yêm (Fan Zhongyan). Đằng Tử Kinh bị vu cáo tham nhũng
nên bị “đầy” ra làm tri phủ Nhạc châu. Ông cho
trùng tu lại lầu Nhạc Dương. Sau đó mời Phạm Trọng
Yêm viết bài Nhạc Dương lâu ký. Bài
viết này đã giúp Lầu Nhạc Dương nổi tiếng như cồn
khắp Trung Hoa. Trong bài viết của Phạm Trọng Yêm
có câu “tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu
thiên hạ chi lạc nhi lạc” (lo trước cái lo của
thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ). Vì
thế ở đây có đền thờ hai vị này.
Lầu Nhạc Dương mới
ngày nay được xây cất lại năm 2007.
Lầu Nhạc Dương hiện nay.
Trong lầu là một bảo tàng viện lưu trữ
các áng thơ văn cổ của các thi nhân, văn sĩ,
học giả viết tại Lầu Nhạc Dương, viết về hồ Động Đình, về Lầu
Nhạc Dương và những giai thoại, lịch sử về Lầu Nhạc Dương.
Không biết bao nhiêu là thơ văn câu
đối. Có một đôi
câu đối ngắn nhất của Lý Bạch mà diễn tả hết được
cảnh hồ Động Đình:
Thủy
thiên
nhất sắc (Nước trời một mầu), Phong nguyệt
vô biên (Gió trăng không bờ).
Đứng trên hiên tầng cao nhất của Lầu Nhạc Dương
nhìn ra thấy hồ mêmh mông, huyền ảo mặc dù
đã xế trưa nắng đã lên nhưng vẫn còn mịt
mù màn khói sương thu. Xa xa đảo Quân Sơn lờ
mờ tô đậm nét hiện dần dần lên với độ nắng lên
cao. Đúng như hai câu thơ của Lý Bạch đã
diễn tả nói ở trên.
Hồ Động Đình
nhìn từ Lầu Nhạc Dương mịt mù trong khói sương
thu. Đảo Quân Sơn theo màu nắng vẽ mỗi lúc một thấy
hiện rõ đậm nét thêm (ảnh của tác giả).
Lầu có phòng ngắm cảnh hồ, phòng uống
rượu, uống trà, phòng ngâm thơ, làm thơ,
phòng giải trí….
Bên cạnh lầu là
quán đình ghi tên Anh ngữ là Three Drunkards
Pavillion (Đình Ba Người Say). Lầu này được xây
vào nằm thứ 48 (1776) đời Càn Long nhà Thanh dựa
theo truyền thuyết tiên ông Lữ Đồng Tân hay Lã
Đồng Tân, một trong Tám Vị Tiên đã say sưa
tại Lầu Nhạc Dương ba lần. Trong đình tôi chỉ thấy tranh
vẽ một vị tiên đang say rượu, không thấy hình ba vị
tiên say.
Thi Tửu Thần Tiên
Lã Đồng Tân đang say (ảnh của tác giả).
Có lẽ là dịch sai chăng? Nhiều khi Anh ngữ
dùng dịch chữ Hán ở Trung Hoa rất… loạn. Nhìn
tên chữ Hán đình có tên là Tam
Túy Lầu (三醉亭) có nghĩa là Lầu Ba (lần) Say. Họ
đã dịch Tam Túy là Three Drunkadrds, Ba Người Say.
Kểm chứng lại với anh Đỗ Ngọc Thành thì
tiên ông 呂洞賓, Lữ Đồng Tân, phiên âm Anh
ngữ là Lu Dong Bin (đọc là Luỷa Túng Pín)
(trong khi tên ông tiên này thấy khắc
trên bảng đá là Ly Dongbin). Lã Đồng
Tân được phong là “Thi Tửu Thần Tiên”.
Trong tranh có bài thơ. Bài thơ
không có đề tựa, anh Đỗ Ngọc Thành đặt tên
là Tiên Bay và chuyển qua Hán Việt, Việt ngữ
và giải thích như sau:
朝游北越暮蒼梧,Triêu Du Bắc Việt Mộ
Thương NGô, / Sáng Du Bắc Việt Chiều
Thương Ngô,
袖里青蛇膽氣粗;Tụ Lí thanh
Xà đảm khí thô; / Rắn xanh trong tay áo mệt
khô;
三醉岳陽人不識,Tam Túy Nhạc Dương
nhân bất thức, / Ba say Nhạc Dương ai mà biết,
朗吟飛過洞庭湖。Lãng Ngâm phi
quá Động Đình Hồ. / Lãng Ngâm bay qua Động
Đình Hồ.
(bài thơ được phiên dịch “Nôm” cố sao cho
sát nghĩa mà vẫn gói gọn trong câu 7 chữ,
nên không đúng luật “Đối” và bằng trắc của
thể thất ngôn tứ tuyệt).
Bài thơ này có một chứng tích của
cổ sử Đại Tộc Việt.”. Vùng Động Đình Hồ ở giữa Hồ
Bắc và Hồ Nam của nước Sở. Câu thơ “sáng du Bắc
Việt chiều Thương Ngô” (朝游北越暮蒼梧, Triêu Du Bắc Việt Mộ
Thương Ngô, Thương Ngô-蒼梧 là một tên gọi
khác của nước Sở, đó là “địa danh” ở phía
Nam của Bắc Việt) cho thấy rõ ràng “Sở” là
“Việt (xem hồ Động Đình Và Truyền Thuyết Việt).
Đình ngày nay được xây lại vào năm
1867. Rõ ràng là có tiên hiện ra ở hồ
Động Đình. Đất hồ Động Đình là đất của Đạo
giáo, của thần tiên. Dĩ nhiên đình này
là nơi say sưa của các tiên ông phái
Lưu Linh.
Ngoài ra còn có Tiên Mai
đình, đền Tưởng Nhớ Phạm Trọng Yêm và Đằng Tử
Kính (như đã nói)…
Một vài điểm khác biệt thấy ở đây cũng cần
nói tới. Những thú biểu ở đây được diễn tả
khác những nơi khác. Ngoài tứ linh Long Ly Qui
Phượng còn thấy những thú biểu không thấy ở những
nơi khác và được diễn tả một cách rất thi vị hơn:
.Lân cho con bú.
Lân
cho
con bú (ảnh của tác giả).
.Hươu chổng mông nhìn trời.
Hươu là thú chủ (host) của linh thú
nghê hay kì (trong cặp kì lân), linh vật biểu
tượng của Kì Dương Vương ngành nọc, dương, Lửa Viêm
Đế, Đế Minh.
Thú biểu hươu (ảnh
của tác giả).
Ở đây còn thấy thêm các thú
biểu ít thấy ở nơi khác như:
.Thỏ
Thỏ chổng mông ngắm trời
mây (ảnh của tác giả).
Thỏ biểu tượng cho mặt trăng, một khuôn mặt của Lạc Long
Quân, ngành nòng âm nước Thần Nông,
Long Vương.
.Voi
Tượng voi có mặt nhiều ở đây mà ít
thấy ở những nơi khác.
Tượng voi trước đền Dương Phi
(ảnh của tác giả).
Voi ngồi ngắm cảnh hồ
trông buồn rười rượi
(ảnh của tác giả).
Điểm này cho thấy ngày xưa ở đây có
voi. Thật vậy, một phần đất của Hồ Nam thời nhà Tần thuộc về
Tượng Quận.
Vãn cảnh xong, chúng tôi trở lại Lầu Nhạc
Dương, tìm một góc lầu cao ngồi uống Ngân Châm trà ngắm hồ
để hồn mình lâng lâng trôi theo dòng
truyền thuyết, theo dòng huyền thoại của Đại Tộc Việt. Phải tới
đây. Ngồi đây để thấy những dầu vết của truyền thuyết
và cổ sử Đại Tộc Việt hãy còn bao nhiêu
là chứng tích hiện hữu ở nơi này. Bách Việt
giờ đang trên bờ tận tuyệt. Nghĩ về quê hương Việt Nam, một
tộc Việt duy nhất còn tồn tại, giờ cũng đang lâm nguy,
có nguy cơ bị diệt vong mà lòng thấy tan
nát…
Hồn thơ trổi dậy dạt dào, lâu lắm rồi không
làm thơ. Nhưng chiều nay, bên hồ Động Đình, cội
nguồn của Đại Tộc Việt, tôi lại thấy say say trong men thơ.
Ghi vội mấy vần thơ, để rồi trên đường về sẽ chuốt lại:
Chiều nay mang đầy hồn huyền
thoại,
Ta xuôi dòng
rêu phong truyền thuyết,
Về thăm Động Đình hồ,
Nơi cội nguồn tộc Việt.
Hồ Động Đình. Động
Đình hồ.
Diễm ảo thu sắc,
Vẽ tranh hồ huyễn hoặc.
Khói sương thu thủy mạc
huyền mơ.
Ven bờ,
Rừng chổi cờ lau sậy,
Theo gió thu phe phẩy
quét sương mờ.
Mặt hồ ẩn hiện,
Mênh mông.
Mênh mông. Mênh mông.
Bao la như biển vũ trụ.
Núi Động Đình,
mây phủ.
Mây gối mây bềnh
bồng.
Như Núi Trụ Trời chống
đỡ hư không.
Nước, đất, trời dựng cảnh
thiên thai,
Nước, đất, trời dựng cảnh bồng
lai.
Văng vẳng nghe bên tai,
Trong gió thu,
Gió Động Đình mẹ
ru con ngủ,
Ru hời, à à ơi,
Ngày xửa ngày
xưa, thời vừa sáng thế,
Kì Dương Vương, Vua
Người Mặt Trời Xích Quỉ,
Xuống thủy cung,
Kết duyên cùng
Thần Long,
Con gái Vua Rồng Động
Đình Quân.
Sinh ra Sùng
Lãm, vương hiệu Lạc Long Quân.
Linh khí âm dương
hòa hợp,
Rồng Lạc Long và Chim
Âu Cơ thành vợ thành chồng.
Cha Nước Biển, Mẹ Lửa Non,
Hôn phối âm dương
thành bầu Trứng Vũ Trụ, càn khôn.
Đẻ ra bọc Trứng Thế Gian,
Sinh ra trăm Lang ngành
mặt trời,
Nòi Mẹ chim, năm mươi
người lên núi,
Dòng Cha rắn, năm mươi
người xuống biển ngàn khơi.
Dựng nên triều
Hùng Vương,
Dòng vua thái
dương rạng ngời.
Tổ tiên Người Mặt Trời
Bách Việt.
Biên cương nước Văn Lang.
Phía Bắc tới hồ Động
Đình,
Tới tận dòng Trường
Giang,
Phia Tây giáp Tứ
Xuyên Ba Thục,
Phía Đông
giáp Nam Hải,
Phía Nam xuống
mãi tận Hồ Tôn Chiêm Thành.
Ôi Bách Việt một
thời hùng anh!
Chiều nay mang đầy hồn huyền
thoại,
Ta xuôi dòng
rêu phong truyền thuyết,
Về thăm Động Đình hồ,
Nơi cội nguồn tộc Việt.
Mà thấy tả tơi trong
lòng,
Mà thấy nước mắt hoen
tròng,
Bách Việt giờ đang tận
tuyệt.
Việt Nam giờ, nguy cơ diệt
vong.
Việt Nam ơi! Hỡi Việt Nam ơi!
Hỡi dòng giống Việt Mặt
Trời,
Dòng giống hào
hùng oanh liệt,
Hãy bảo tồn truyền
thống Việt,
Hãy vùng
lên giữ vững giang sơn,
Đời đời bất diệt,
Cùng mặt trời,
Muôn năm còn
mãi rạng ngời.
Biết chắc rằng bài thơ
này không thể nào được khắc để lưu lại tại
đây, tôi thả những câu thơ làm tại đây
xuống hồ Động Đình.
(Hết phần tổng quát, đón xem tiếp bài
viết hồ Động Đình Và Truyền Thuyết Việt ở số tới).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
.Các tài liệu quảng bá du lịch của Trung
Quốc và các sách du lịch.
.vi.wikipedia.