Việt
Nam
Văn
Hiến
Năm Thứ 4889 www.vietnamvanhien.net Dòng Sông Văn Hóa Kim Bằng Khai Từ Hình như có người đã nói văn hóa là cái còn lại sau khi tất cả các thứ khác đã quên đi. Trí nhớ tôi rất kém. Cái quên đi thì rất nhiều, cái còn lại rất ít. Chữ nghĩa trả thày. Ðịnh lý, định đề toán học tan thành sương khói. Cái còn lại trong tâm hồn tôi có chăng chỉ là một vài kỷ niệm thời thơ ấu. Một kỷ niệm vẫn in sâu trong trí óc là một bài tập đọc ngày còn là học sinh lớp nhất trường tiểu học Nguyễn Du- Hà Nội. Trường Nguyễn Du là một ngôi trường nhỏ ở phố Hàng Vôi, vì thế cũng còn gọi là trường Hàng Vôi. Năm đó tôi mới 12 tuổi. Ông giáo lớp nhất năm đó là thày Nguyễn Văn Tý. Gần cuối năm học, thày cho chúng tôi thi Ðệ Nhị Lục Cá Nguyệt. Trong tất cả các môn học tôi thích nhất môn Tập Ðọc. Có lẽ vì hồi nhỏ tôi có giọng khá tốt và truyền cảm. Mỗi khi đọc tôi để hết tâm hồn vào bài tập đọc. Ngày ấy tôi rất mê những bài thơ hùng tráng của thi sĩ Ðằng Phương và những vần thơ trong sáng tươi mát của Trần Trung Phương, cũng như những bài thơ chan chứa tình cảm và màu sắc của Ðoàn Văn Cừ. Tôi thích nhất bài Anh hùng vô danh của Ðằng Phương. Mấy chục năm qua, tới nay vẫn còn văng vẳng bên tai những vần thơ lẫm liệt hùng tráng : Họ là những anh hùng không tên tuổi Sống âm thầm trong bóng tối mênh mông Không bao giờ được hưởng ánh quang vinh Nhưng can đảm và tận tình giúp nước Họ là kẻ tự nghìn muôn thuở trước Ðã phá rừng xẻ núi lấp đầm sâu Và làm cho những đất cát hoang vu Biến thành một giải sơn hà gấm vóc ................... Tuy tên họ không ghi trong sử sách Tuy bảng vàng bia đá chẳng đề tên Tuy mồ hoang xiêu lạc dưới trời quên Không ai đến khấn nguyền dâng lễ vật Nhưng máu họ đã len vào mạch đất Thịt cùng xương trộn lẫn với non sông Và anh hồn chung với tấm tình chung Ðã hòa hợp thành linh hồn nước Việt Ngồi dưới lớp, tôi nhấp nhỏm chờ đợi đến phiên mình. Trong lòng ước ao làm sao tới lượt tôi thày cho đúng bài Anh hùng vô danh để mình cao giọng đọc sang sảng cho cả lớp nghe thì khoái biết mấy. Tới lượt tôi, tôi từ từ lên trước bàn thày giáo. Thày Tý đưa tôi cuốn tập đọc và chỉ cho tôi một bài văn xuôi. Tôi xìu xuống như quả bóng bị xì hơi. Ðọc văn xuôi đâu có đã bằng đọc thơ ! Cầm lấy cuốn tập đọc tôi nhìn xuống và chán ngắt. Bài mà thày chỉ định cho tôi đọc là một đoạn trích trong cuốn Ngục Trung Thư của cụ Phan Bội Châu, bắt đầu bằng câu : Năm ấy tôi 17 tuổi ... Nhưng vừa cất tiếng đọc, tôi bị cuốn hút vào những gì cụ Phan viết. Dần dần tôi như muốn uống từng câu cụ viết, nuốt từng lời cụ viết. Máu nóng bừng bừng lên mặt. Tôi sôi nổi, uất ức, phẫn khích, đau xót với những gì cụ viết về những hành động dã man tàn ác của người Pháp đối với người mình. Tôi vừa đọc vừa khóc, xúc động xen lẫn phẫn khích, nước mắt chảy giàn dụa đầy mặt. Có những lúc nấc lên rồi lại đọc tiếp. Khi đọc hết bài, tôi ngửng đầu lên, tay chùi má. Tôi nhìn xuống lớp. Lạ lùng thay tôi thấy cả chục người bạn học cũng đang khóc như tôi. Ðấy là lần đầu tiên trong đời tôi đã khóc trước mặt người khác mà không hề che dấu. Ðứa trẻ ngày đó sau đã lớn lên, lăn lộn vào đời. Suốt mấy chục năm lăn lộn trong cuộc đời, chỉ ao ước hiểu được tại sao mình đã khóc. Ðến khi tóc trên đầu đã bạc mới hiểu được mình khóc vì đã rung động trước Tấm Lòng cao cả chan chứa Tình Người của những người đi trước. Những người đi trước đó có thể là cụ Phan Bội Châu, là thi sĩ Ðằng Phương, hay cũng có thể là những người vô danh đã ngã xuống trộn xương thịt cùng non sông để hòa hợp thành linh hồn nước Việt. Nay thì mọi chuyện đều đã quên đi. Cái còn lại trong tâm hồn tôi có lẽ chỉ là dư âm những Tấm Lòng đó. Có một lúc tôi liên tưởng tới văn hóa và có ý nghĩ chính những Tấm Lòng đó đã tạo nên văn hóa. Văn hóa là gì nhỉ ? Tôi cũng không biết nữa. Tôi chỉ cảm nhận thấy văn hóa thật sống động, thật gần gũi. Nó ở ngay trong tâm hồn mỗi người. Nó ở ngay trong cuộc sống thường ngày của mỗi người. Nó ở ngay trong mọi biến động lịch sử của dân tộc. Tôi mường tượng thấy văn hóa giống như một dòng sông. Kim Bằng, Adelaide ngày
25-7-2000 Dòng sông văn-hóa Văn-hóa đối với con người cũng giống như nước đối với loài cá hoặc không khí đối với loài chim. Con chim chẳng nhìn thấy không khí, con cá chẳng nhìn thấy dòng nước nếu nước vẫn trong suốt. Nó chỉ nhìn thấy dòng nước khi nước đục ngầu. Cái mà con cá nhìn thấy vị tất đã là nước, nó có thể chỉ là bùn đất rong rêu bị dòng nước cuốn theo. Văn-hóa tạo nên sức sống của một dân-tộc. Không có văn-hóa thì dân-tộc sẽ tàn lụn dần. Nhưng trong cuộc sống thường ngày có mấy ai cảm nhận được sự hiện hữu của văn-hóa ? Dường như văn-hóa cũng trong suốt như không khí và nước, khiến nó có đó mà ta không dễ gì nhìn thấy được. Nếu một ngày nào không còn nước và không khí thì con cá sẽ ngáp ngáp ngạc nhiên tự hỏi tại sao mình vẫn quẫy đuôi đập vây mà không thể bơi; con chim trên trời rơi xuống đất không sao cất cánh lên nổi há mỏ kêu chíp chíp ngạc nhiên không hiểu tại sao mình vẫn vỗ cánh mà không thể bay. Khi không còn văn-hóa con người cũng sẽ ngáp ngáp như con cá mắc cạn và tự hỏi tại sao cuộc sống đầy những chuyện kỳ dị nghịch lý và không thể hiểu nổi. Thời đại chúng ta đã chứng kiến không biết bao nhiêu điều nghịch lý đưa đến những thảm trạng não nề trong gia-đình cũng như ngoài xã-hội. Những thảm trạng đó khiến cho những người hằng ưu tư về vận mệnh dân tộc cảm nhận thấy dường như có một cái gì sai lầm ghê gớm đang phủ ngập quê hương. Cái gì đó bàng bạc như những đám mây trời, ở đâu cũng có, mà nhìn mãi vẫn không sao hình dung nổi nó là cái gì. Nó là đạo đức suy đồi chăng ? chính trị mù quáng chăng ? kinh-tế lụn bại chăng ? giáo dục ngu dân chăng ? Tất cả những yếu tố đó họp lại vẫn chưa đủ cho ta nhìn thấy căn nguyên cội nguồn của những thảm trạng đã và đang xảy ra trên đất nước. Dường như những nguyên nhân đưa đến những thảm trạng đó đã thấm sâu vào tận xương tủy mỗi người dân, nó chi phối hết cuộc sống của mọi người, mà lại vô hình vô ảnh. Ðiều thê thảm hơn nữa là dường như ít ai còn dám nghĩ tới chuyện khơi nó ra, vì e rằng sự thật khi lộ nguyên hình sẽ quá chua xót khiến không ai còn đủ can đảm ngước mắt nhìn lên. Nỗi đau âm ỉ đó đã đưa tới cơn khủng hoảng niềm tin chưa từng có trong dòng lịch sử dân tộc. Cơn khủng hoảng niềm tin đó chính là văn-hóa chăng ? Cái gì đã chia cắt con người ? cái gì đã khiến con người thù hận tàn sát lẫn nhau ? Cái đó có thể gọi là văn-hóa chăng ? Cái tinh túy trong con người chính là lương tâm. Lương tâm là biết đau nỗi đau của đồng loại, là biết uất ức tủi hờn khi đồng loại bị chà đạp áp bức, là biết phẫn nộ trước cường quyền bạo ngược, là biết sỉ nhục khi con người bị ép phải uốn lưỡi khom lưng sống cuộc đời chó má, là biết vùng dậy tìm lại những giá trị con người. Chính lương tâm con người đã tạo thành văn-hóa. Nó có thể trong suốt khiến ít ai nhìn thấy nhưng nó sẽ là sợi dây êm ái nối kết mọi người, khơi lại sức sống cuồn cuộn và nguồn sinh lực của một dân tộc. Viết về lương tâm con người và viết về văn-hóa là một điều rất khó, cũng giống như vẽ một dòng nước tinh khiết hoặc một làn không khí trong lành. Làm sao để lột tả hết được cái tinh khiết trong suốt của không khí và nước khi cái tinh khiết trong suốt tự nó vốn lại là cái không ai nhìn thấy được ? Thôi thì đành vẽ những bùn đất rong rêu lẫn lộn trong dòng nước với ước mong người đọc cảm nhận được cái tinh khiết qua hình ảnh tương phản của những bùn đất rong rêu. Dòng sông văn-hóa vẫn còn đó hay đã mất ? Tôi cũng không biết nữa ! Ðiều tôi cảm nhận được là dường như ít ai còn quan tâm đến sự hiện hữu của nó. Có ai còn
băn khoăn thao thức muốn tìm lại dòng sông
văn-hóa như một nỗ lực tìm lại nguồn sinh lực của
dân tộc mình, chứ không phải chỉ vì
còn lưu luyến vang bóng một thời đã qua hay tiếc
nuối vẻ đẹp của chiếc lư đồng mắt cua mà nay chắc hẳn đã
cầm bằng theo gió đưa đi ? Giọt nước mắt một người cha Ðôi khi ta tự hỏi có thực ta biết rõ ta muốn gì hay không? "Muốn là được" đâu phải chuyện dễ? Trong muôn ngàn người mới có một người đạt được đúng điều mình ước muốn, nhưng liệu khi đã đạt được đúng điều mình ước muốn rồi có khỏi ngỡ ngàng tự hỏi : có thực mình đã ước muốn như vậy hay không? Tôi đã nhìn thấy giọt nước mắt một người cha lăn xuống má nhăn nheo khi ước mơ lớn nhất trong đời ông đã thành tựu. Nỗi đau ấy quặn trong lòng ông, đau quá mà không thể thổ lộ cùng ai, nên nỗi đau ngấm ngầm cấu xé ruột gan, và chỉ có thể biểu lộ bằng những giọt nước mắt tuôn rơi lã chã. Vào dịp Tết Nguyên Ðán năm 1971, tôi có hân hạnh gặp ông H., một nhà mô phạm nổi tiếng đã từng một thời nắm giữ những chức vụ quan trọng trong ngành giáo dục. Bọn tôi năm bảy gã du học sinh xa nhà, họp nhau tổ chức ăn tết tha hương ở một tiểu bang ít phù hoa của Mỹ. Ông H. ghé qua thăm trên đường trở về nước, ở lại ăn tết cùng chúng tôi, sau một chuyến đi thăm con trai ở Pháp. Buổi họp mặt khởi đầu vui như tết. Chuyện trò nổ như pháo ran. Bạn tôi đua nhau kể chuyện vui. Ông H. là người lịch duyệt từng trải góp phần kể những mẩu chuyện lạ trên đường đời khiến mọi người đều thích thú. Rượu vào lời ra, men rượu nồng ấm bốc lên trong không khí ngày tết làm mọi người hứng khởi, niềm vui dường như miên man bất tận. Hai ba anh bạn lấy đàn guitar ra dạo và đua nhau hát nghêu ngao. Ðột nhiên tôi thấy một anh bạn đứng dậy bỏ vào phòng riêng, rồi một người nữa, một người nữa. Trong phòng khách chỉ còn lại ba người là ông H., anh D. và tôi. Anh D. đang dạo đàn bỗng nhiên dùng cả năm ngón tay khua loạn lên. Một dây đàn đứt phựt. Anh không còn gảy đàn nữa mà lấy lòng bàn tay đập xuống mặt đàn và nước mắt rơi thành dòng. Anh khóc. Tại sao anh khóc? Tôi nhìn những giọt nước mắt lăn trên má anh và hiểu ngay chuyện gì đã xảy ra. Niềm vui ngày tết theo men rượu bốc lên tụ lại biến thành nỗi nhớ nhung người thân nơi quê nhà. Bạn tôi mỗi người đều có một cô vợ trẻ và một đứa con thơ. Tâm sự những du học sinh vào ngày tết tha hương đâu có gì khó hiểu ! Nỗi nhớ nhung vợ con cuồn cuộn trong lòng bật lên thành tiếng khóc. Chẳng cần suy đoán tôi cũng biết rõ mấy người bạn kia đang nằm úp mặt xuống giường khóc một mình lặng lẽ. Anh D. đập đàn mỏi tay, cũng buông đàn xuống mặt bàn và chạy vội vào phòng riêng. Còn lại trong phòng khách có hai người là ông H. và tôi, và câu chuyện khởi đầu. Ông H. đã lớn tuổi, có lẽ trạc sáu mươi. Ðôi mắt ông hiền hòa, giọng nói khoan thai từ tốn, tính tình điềm đạm. Nhìn đôi mắt ông tôi thấy hình ảnh của một người cha nhân từ rộng lượng. Ông vẫn tươi cười và trò chuyện vui vẻ cùng tôi. Dưới mắt ông, bạn tôi chỉ là mấy gã trai mới lớn, chưa từng trải cuộc đời. Cứ để cho họ khóc đi, khóc hết nước mắt rồi tỉnh dậy và sẽ hiểu đời hơn. Cuộc đời đâu phải chỉ dệt bằng nhung gấm. Sau men rượu nồng thường là những giọt nước mắt. Ðời là vậy đó. Nhưng ô kìa, tại sao ông cũng khóc ? Ðột nhiên tâm sự dấu kín trong lòng trào ra theo nước mắt không kìm hãm nổi. Ông khóc nức nở như một đứa trẻ thơ. Và ông bắt đầu nói huyên thuyên, kể hết chuyện gia đình ông. Ông là một nhà giáo đã thành danh, gia đình khá giả. Ðã một thời ông nắm giữ những chức vụ quan trọng trong ngành giáo dục. Ông có một người con trai, có lẽ trạc gần bốn mươi. Tôi có thể thấy được lòng ông thương con vô bờ bến như thế nào. Cả cuộc đời ông, ông hăng say làm việc chỉ với một nỗi ước mong lớn nhất là gây dựng tương lai cho con. Ông kể lại thời con còn thơ ấu ông đã chăm sóc con ra sao, đưa con đi học trường tư như thế nào, cố vun đắp để sau này con được thành công trên đường đời để cha mẹ cũng được nở mày nở mặt. Nhờ giữ chức vụ quan trọng trong ngành giáo dục, lại sẵn gia đình sung túc, việc gửi con đi du học ngoại quốc không có gì khó khăn. Con trai ông đã đậu đạt vẻ vang và kiếm được việc làm vững chắc ở Pháp. Một hôm ông nhận được tin con ông đã lập gia đình. Ông sững sờ, nhưng cũng đành chấp nhận. Lẽ ra nó phải xin phép bố mẹ, hoặc ít ra cũng phải hỏi ý kiến gia đình trước khi quyết định chứ! Nhưng thôi, có lẽ nay mình đã già rồi, đầu óc còn nặng tư tưởng phong kiến lạc hậu. Tụi trẻ có tư tưởng tân tiến chắc không chịu được những lễ nghi cổ hủ. Ông cũng là một người theo tân học, nên không đến nỗi quá khắt khe với con. Dù sao lòng cha thương con, ông vẫn muốn biết mặt con dâu, để có thể yên bụng là con mình gặp được người phối ngẫu đàng hoàng tử tế. Ông làm một chuyến du ngoạn đi tây để thăm con. Sang tới Pháp ông gặp mặt con trong một căn nhà khang trang lộng lẫy. Cha con trò chuyện được ít câu thì con dâu ông về. Con dâu ông là một cô gái Pháp mắt xanh tóc nâu đẹp như thơ và trẻ măng, giọng nói líu lo thánh thót như chim hót. Cũng có ăn học đàng hoàng chứ không phải là con nhà vô giáo dục. Thôi thế cũng được! Ông đi vào bếp nấu nước sôi pha cà-phê cho mình, cho con và cho dâu. Ông H. bưng ly cà phê ra tới gần cửa phòng khách thì khựng lại vì chợt nghe cô con dâu đang hỏi chồng : - Cái ông già nhà quê hồi nãy là ai vậy? Ông sững sờ không thể tưởng tượng nổi. Thì ra con mình chưa nói cho vợ nó hay là ông bố già lặn lội đường xa từ quê nhà sang thăm con. Một vài phút im lặng trôi qua, những phút giây dài bằng thế kỷ. Có lẽ con ông còn phải suy nghĩ. Sau cùng ông nghe con ông chậm rãi trả lời: - Ông ấy là ông lão bộc trong nhà. Mẹ anh gửi ông ấy sang thăm và mang quà cáp cho vợ chồng mình ! Ly cà phê nóng chút nữa vuột khỏi tay. Một cái gì đau nhói, giống như một lưỡi dao đâm suốt tim ông. Trời đất quay cuồng sụp đổ. Ôi, cái ước mơ lớn nhất trong đời là nuôi nấng , vun đắp, gầy dựng cho con được ăn học đàng hoàng, đỗ đạt vẻ vang, công danh sự nghiệp vững chắc; có phải cái ước mơ đó ông đã hoàn thành đúng như ông đã mong ước hay không? Thế nhưng bây giờ nhìn lại sao lòng ông đau xót như vậy ? Có thực mình đã mong ước những gì suốt đời mình đã cố công theo đuổi hay không ? Chỉ có nỗi nghẹn ngào và những dòng nước mắt mới là câu trả lời xác đáng nhất. Bây giờ thì con mình ngượng ngùng không dám nói cho vợ nó hay ai thực sự là cha nó nữa. Lẽ ra tôi không được phép kể lại chuyện này. Ông H. nếu đọc được những dòng này chắc hẳn sẽ tức giận lắm. Ông đâu muốn người ngoài biết chuyện riêng trong gia đình ông. Sao tôi lại lợi dụng cái may mắn được nghe chuyện ông khi ông quá say rượu trót thổ lộ trong lúc lòng đau như cắt. Tôi phải xin lỗi ông rất nhiều. Nhưng sở dĩ tôi kể chuyện ông ra, vì tôi liên tưởng tới chuyện cả dân tộc mình. Có lẽ ông H. không ngờ rằng tâm sự ông chẳng phải là tâm sự của riêng ông, nỗi đau trong lòng ông có lẽ cũng là nỗi đau của cả dân tộc. Trong dòng lịch sử của dân tộc mình,
không biết bao nhiêu người đã cúc cung tận
tụy hy sinh cả đời mình để theo đuổi những lý-tưởng tưởng
chừng như cao đẹp lắm, mơ ước hoàn thành những
hoài-bão tưởng như lớn lao lắm, dốc tâm xây
dựng những sự-nghiệp tưởng như vĩ đại lắm, đến lúc công
thành danh toại bỗng bàng hoàng nhận thấy những
cái mình bấy lâu theo đuổi chỉ giống như bọt nước,
ngẫm lại tất cả những lý tưởng cao đẹp, hoài bão
lớn lao, sự nghiệp vĩ đại đó rút cục chỉ là một
con số không to tướng. Cái thực sự còn lại
có chăng chỉ là một nỗi đau đứt ruột. Nói tới "nỗi đau đứt ruột " khiến người viết chợt liên tưởng tới tác phẩm Ðoạn trường tân thanh của Nguyễn Du, vì Ðoạn Trường Tân Thanh dịch nôm na ra có nghĩa là " Tiếng kêu đứt ruột " . Khi thi sĩ Tố Như đặt tên cho tác phẩm của mình là " Tiếng kêu đứt ruột" thì ta hiểu ngay rằng tác giả có một tâm sự u ẩn ai oán, muốn nói lên mà thật khó nói và đành phải gửi gấm tâm sự đau thương của mình trong tác phẩm để lại cho hậu thế. Thi sĩ Tố Như để hết tâm huyết gửi gấm trọn vẹn tâm sự mình vào cuốn Ðoạn Trường Tân Thanh , nhưng vẫn e rằng ít ai hiểu nổi điều ông muốn nói. Vì thế có lần ông đã than một câu thật thấm thía : Bất tri tam bách dư niên hậu Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như ? Không biết ba trăm năm sau còn ai khóc Tố Như nữa hay không ? Người khóc Tố Như là người hiểu được tâm sự ông, hiểu được " nỗi đau đứt ruột " mà ông định nói. Cuốn Ðoạn Trường Tân Thanh đã được quá nhiều nhà phê bình văn học phân tích mổ xẻ và đưa vào chương trình giáo dục cấp Trung học. Hầu hết các nhà phê bình văn học cho tới nay dường như đều đồng ý rằng tâm sự Tố Như là tâm sự của một kẻ cựu thần triều Lê, nỗi đau của ông là nỗi đau của một kẻ còn luyến tiếc một triều đại huy hoàng đã qua trong lúc đất nước đã đổi chủ. Kiến thức của người viết rất nông cạn nên không dám lạm bàn về những ý kiến nêu trên, nhất là khi những ý kiến đó đã trở thành khuôn mẫu và hầu như đã được chấp nhận như một chân lý không có gì cần phải bàn cãi nữa. Dẫu sao người viết vẫn có một nỗi ấm ức trong lòng. " Nỗi đau đứt ruột " của Nguyễn Du nếu chỉ là tâm sự " hoài Lê" thì quá giản dị, chưa kịp nói ra cả bàn dân thiên hạ đều biết hết, đâu có u ẩn ai oán đến nỗi thi sĩ phải than lên rằng không biết ba trăm năm sau liệu có ai hiểu nổi ta không ? Người viết chợt liên tưởng tới tập thơ Hoa Ðịa Ngục, một tác phẩm nói lên Nỗi đau đứt ruột của cả dân tộc Việt Nam trong thời cận đại và hiện đại. Nguyễn Du gửi lại cho hậu thế một tiếng kêu đau thương ai oán, tác giả Hoa Ðịa Ngục cũng gửi lại cho hậu thế một tiếng kêu đau thương ai oán - có gì giống nhau giữa những tâm sự đó không ? Nếu tâm sự Tố Như chỉ là tâm sự của một kẻ còn nặng lòng " hoài Lê " thì phải chăng tâm sự của tác giả tập thơ Hoa Ðịa Ngục cũng giản dị chỉ là tâm sự của một kẻ còn nặng lòng " hoài Nguyễn " ? Mà nếu " hoài Nguyễn" thì là " hoài " Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Vĩnh Thụy hay Nguyễn Ánh ? Người viết không dám nêu câu hỏi này lên vì e rằng người đọc sẽ cười ra nước mắt. Vì thế người viết đành phải trật đường rầy vượt ra ngoài mọi khuôn khổ có sẵn với ước mong hiểu được tâm sự người xưa. Ðọc Ðoạn Trường Tân Thanh ta thấy nao nao cả lòng. Vừa thương cảm, vừa phẫn nộ, vừa ai oán, vừa bứt rứt, vừa đau đớn xót xa, vừa uất ức buồn tủi. Ðó là tâm sự của nàng Kiều, của Từ Hải, của Nguyễn Du hay của chính ta ? Hay phải chăng đó là nỗi đau chung của cả một dân tộc ? Nỗi đau đó quả nhiên thật thấm thía, thật đoạn trường, thật đứt ruột. Nguyễn Du đã dùng ngọn bút tài hoa để vẽ lại khá trung thực bối cảnh một xã hội đảo điên đầy những điều nghịch lý : người hiền lương thì phải chịu bao nhiêu nỗi ê chề đắng cay, kẻ đểu cáng bất nhân thì luôn luôn đại thắng lợi, ngồi chễm chệ trên đầu trên cổ người dân. Nàng Kiều là một cô gái tài sắc vẹn toàn, con nhà gia giáo. Ước mơ lớn nhất trong đời cô chỉ là ước mơ lấy được một người chồng thực lòng thương mình để cùng nhau xây dựng một mái ấm gia đình. Ước mơ đó quá bình dị, đơn sơ và có gì đâu là tội lỗi ? Thế sao cô phải dứt bỏ tình yêu, bán mình chuộc cha, và rồi nhụy rữa hoa tàn trong chốn lầu xanh ? Tại sao và tại sao vậy ? Tại sao những kẻ hiền lương như cô không được sống yên bình ? Tại sao những quân chó má lại luôn luôn đắc thời đắc thế ? Thằng bán tơ vu oan giá họa thì trút được tội lỗi lên đầu người khác, Mã Giám Sinh gạt người thì được nếm mùi hoa trinh nữ, gã Sở Khanh đểu cáng thì được cả tiền lẫn tình, mụ Tú Bà môi thâm thì nhét bạc đầy hầu bao, ông quan đại thần Hà Tôn Hiến tráo trở bất nhân thì được vinh hoa phú quý. Phải chăng đó là trật tự xã hội ? Phải chăng đó là chân lý muôn đời không thay đổi ? Ðó là nỗi đau thương của cô Kiều hay nỗi đau thương của Nguyễn Du ? Hay đó cũng là nỗi đau thương của tác giả cuốn Hoa Ðịa Ngục và có lẽ cũng là nỗi đau thương của tất cả chúng ta ? Vài trăm năm sau khi Nguyễn Du viết cuốn Ðoạn Trường Tân Thanh thì xã hội vẫn đầy dẫy những điều nghịch lý. Những điều nghịch lý quá nhiều nên không giấy bút nào ghi đủ. Người viết chỉ xin kể lại một mẩu chuyện nho nhỏ đã được chứng kiến tận mắt vào khoảng năm 1980. Ngày đó người viết tìm đường vượt biên, không may bị bắt lại và giam tại Long Phú thuộc tỉnh Sóc Trăng. Mỗi ngày tù nhân bị lùa đi lao động vét đường mương sình thối. Buổi chiều hôm đó sau khi lao động xong, đoàn tù còn đang ngồi nghỉ chung quanh một quán nước bên đường trong lúc mấy gã công an dẫn tù đi lao động đang ngồi nhâm nhi ly rượu đế. Từ xa tiếng một người đàn bà kêu the thé thất thanh cầu cứu. Bà ta đang còng lưng kéo một chiếc xe bò chở xác người chết. Trên xe chồng chất mười lăm mười sáu xác thanh niên, thiếu nữ. Xe chuyển mình chậm chạp trên con đường đất gồ ghề. Vài người dân chạy lại phụ một tay đẩy chiếc xe bò tới bệnh xá gần đó. Khi chiếc xe bò đã ngừng trước bệnh xá, người đàn bà đó đứng thở hổn hển, vừa thở vừa phân bua. Theo những gì bà ta kể lại thì những thanh niên thiếu nữ này đi trên một con thuyền vượt biên bị công an rượt bắt. Công an ra lệnh ngừng lại nhưng con thuyền không chịu ngừng nên họ bắn xối xả vào con thuyền vượt biên. Con thuyền vượt biên chứa cả trăm người, không rõ số phận những người khác ra sao, chỉ thấy trước mắt mười lăm mười sáu xác thanh niên thiếu nữ nằm chồng chất xếp lớp lên nhau . Tới nay đã 18 năm qua, hồi tưởng lại cảnh tượng hãi hùng đó, người viết còn nhớ cảm giác đau quặn trong ruột. Thanh niên là rường cột của đất nước. Nhìn những thanh niên thiếu nữ còn trong tuổi thanh xuân rực rỡ ngã xuống như lá rụng mùa thu,người viết xót xa tự hỏi: Tại sao và tại sao vậy ? Tại sao khi đoàn quân " giải phóng " tiến vào miền Nam mang lại " Ðộc Lập" , " Tự Do" , " Hạnh Phúc" , " Thống Nhất" , " Hòa Bình" , " Công Bằng" , " Bác Ái" , " Thịnh Vượng" , " Phú Cường" , " Tiến Bộ" , " Văn Minh" ... cho toàn dân rồi thì cả triệu người dân trong nước liều chết tìm đường thoát đi ? Tại sao và tại sao vậy ? Vì đâu nửa triệu người chết chìm uất ức trong lòng biển cả trên con đường vượt biên ? Bất tri tam bách dư niên hậu Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như ? Không biết ba trăm năm sau có còn ai khóc cho nửa triệu người chết chìm uất ức trong lòng biển cả không nhỉ ? Dường như nỗi đau đứt ruột của thi sĩ Tố Như vẫn còn
nguyên đó. Nó vẫn là nỗi đau chung của cả
dân tộc mình. Khi những điều nghịch lý xảy ra tràn lan ngoài xã hội thì ta tự hỏi : Lỗi tại ai ? Lỗi ở Trời chăng ? Lỗi ở người chăng ? Lỗi ở Ta hay lỗi ở Người Khác ? Tìm được thủ phạm đã gây ra bao nhiêu nỗi đớn đau cho nhân loại thật không phải là chuyện dễ. Tôi thuộc vào thế hệ mà tư tưởng Khổng Mạnh còn rơi rớt chút chút trong dân gian. Thuở nhỏ thường nghe thế hệ cha anh chúng tôi giảng dạy về đạo làm người. Ðạo làm người, theo quan niệm Khổng Tử, đi từ dễ tới khó, từ nhỏ tới lớn. Trước hết phải Tu Thân. Lớn lên phải Tề Gia. Tề Gia rồi thì Trị Quốc và Bình Thiên Hạ. Tu Thân thì nên học theo ông Trình Tử. Trình Tử để hai cái lọ bên cạnh chỗ ngồi. Mỗi khi nghĩ hoặc làm được một điều Thiện thì bỏ một hột đậu trắng vào lọ. Mỗi khi nghĩ hoặc làm một điều Ác thì bỏ một hột đậu đen vào cái lọ kia. Lúc đầu đậu đen nhiều, đậu trắng ít. Sau đậu trắng nhiều đậu đen ít. Dần dần tâm tính ông trở nên toàn thiện. Tu thân hàm ý qui lỗi về mình. Muôn đàng lỗi tại ta, mọi chuyện xấu xa tồi tệ xảy ra trong xã hội đều là lỗi tại ta. Cứ đấm ngực qui hết tội lỗi của nhân loại về mình là xong cả. Tại vì ta tham sân si nên đời ta mới khổ. Tại vì ta tham sân si nên nhân loại mới chém giết nhau như ngóe. Muốn cho xã hội loài người tốt đẹp thì ta phải sửa mình. Diệt hết tham sân si đi thì đời ta sẽ hết khổ. Chìa má ra cho thiên hạ tát thì ta sẽ rửa sạch được tội lỗi. Bỏ thật nhiều đậu trắng vào lọ thì ta sẽ thành Thánh Hiền. Lớn lên chứng kiến những gì thực sự xảy ra trong xã hội loài người người viết cảm thấy hoài nghi về những lời dạy dỗ của tiền nhân. Giá thử mình đủ kiên nhẫn để bỏ từng hạt đậu trắng vào lọ cho đến khi lọ đầy ắp, thì cũng không ngăn được vó ngựa Mông Cổ của Thành Cát Tư Hãn đi đến đâu cỏ không mọc được, nhà đốt tan hoang, đàn ông bị chém nát thây, đàn bà con gái bị hãm hiếp tơi bời hoa lá. Xã hội loài người luôn luôn có những chuyện tréo ngoe. Ăn hiền ở lành thì chỉ thành những người nô lệ tốt. Ðểu cáng bất nhân mới dễ thành lãnh tụ anh minh cưỡi trên đầu trên cổ muôn dân. Ðấm ngực thì ngực đau mà chẳng giải quyết được gì. Ðếm đậu trắng đậu đen thì biến thành ông già lẩn thẩn. Có lẽ cũng cùng một ý nghĩ đó nên từ vài thập niên qua nhân loại rất ít người còn ham đấm ngực. Ở đâu cũng đầy dẫy những tư tưởng mới, tư tưởng cách mạng. Tư tưởng mới muôn màu muôn vẻ, nhưng tựu chung cũng không ngoài ý niệm chỉ tay. Lỗi không phải ở Ta, lỗi ở Người Khác. Chính Nó là thủ phạm. Giết Nó đi, bỏ tù cho Nó mục xương đi là ta đã cải tạo xong xã hội, là xã hội loài người sẽ biến thành Thiên Ðường Hạ Giới. Nhưng Nó là ai vậy nhỉ ? Ta có hai bàn tay, mỗi bàn tay có năm ngón. Ðôi khi ta không biết nên dùng ngón nào để chỉ Nó. Nó có mặt ở khắp nơi , nhiều quá, nhiều quá. Dùng hết mười ngón tay cũng chưa chỉ hết. Vào dịp giáng sinh năm 1975 một biến cố buồn thảm đã khắc sâu vào tâm tư người viết là vụ tự tử của anh Nguyễn Hưng Gia trong trại cải tạo Long Khánh. Bên hông trại cải tạo là một con đường đất đỏ ngăn cách trại bằng một hàng rào kẽm gai. Anh em tù cải tạo thường đứng bên trong hàng rào kẽm gai nhìn ra ngoài mong ngóng những người đi qua. Những nông dân ở kế cận thảng hoặc có việc phải ra đồng đi ngang trại qua con đường đất đỏ đó thường cúi mặt bước vội vã. Họ biết rõ ở hai đầu trại có vọng gác của bộ đội Cộng Sản. Những cặp mắt cú vọ của lũ bộ đội trên vọng gác theo dõi từng bước chân họ đi, từng động tác họ làm, và sẵn sàng nổ súng vô tội vạ nếu họ có hành động gì khả nghi. Ấy thế mà vẫn có những người táo gan bạo phổi dám qua mắt lũ bộ đội. Họ chính là thân nhân tù cải tạo. Những bà vợ thương chồng ăn mặc quần áo lam lũ giả dạng nông dân rảo bước trên con đường đất đỏ và liệng thư vào cho thân nhân trong trại cải tạo. Vợ anh Nguyễn Hưng Gia đã làm chuyện đó. Không may lá thư lọt vào tay lũ bộ đội. Ngày hôm sau tất cả trại bị kêu ra ngồi ở hội trường. Tên chính ủy lên lớp cho cả trại với tất cả sự phẫn nộ hằn học. Lên lớp có nghĩa là chửi bới , thóa mạ, xỉ nhục thậm từ. Ðó là đường lối giáo dục ưu việt của xã hội chủ nghĩa. Hắn bắt anh Nguyễn Hưng Gia phải lên đứng trước micro cầm xấp thư dầy cộm đọc lớn cho cả trại cùng nghe. Anh Nguyễn Hưng Gia nghẹn ngào vừa nuốt nước mắt tủi nhục vừa đọc. Lá thư chỉ toàn viết chuyện riêng tư trong gia đình. Người vợ kể hết những chuyện đau đớn xảy ra sau khi chồng bị bắt đi cải tạo. Gia đình bị lâm vào cơn khủng hoảng lớn lao khi người chồng bị bắt đi tù. Tiền bạc cạn hết, việc làm không có. Người vợ như điên loạn lên vì thường xuyên bị công an theo dõi, kêu lên hạch sách tra vấn. Thêm vào nữa bà mẹ chồng già lẫn dường như không hề hay biết những đổi thay lớn lao ngoài xã hội, chỉ thấy trong nhà thiếu thốn, hai đứa cháu nội nheo nhóc, cô con dâu hư đốn mang đồ đạc trong nhà bán dần hết lấy tiền mua gạo cho con, thậm chí cái bàn thờ gia tiên cũng đem bán nốt. Thật là quá quắt lắm ! Bà cụ nổi điên mắng chửi cô con dâu thậm tệ. Người vợ hòa nước mắt viết thư cho chồng kể hết nỗi niềm cay đắng. Anh Nguyễn Hưng Gia vừa đọc thư vợ vừa nức nở khóc nghẹn ngào. Anh em tù cải tạo ngồi nghe mà như có những mũi dao đâm thấu tim phổi. Cảm thương cho anh Nguyễn Hưng Gia đã bị nhục hình. Ðọc lá thư riêng tư của vợ mình trước mặt cả ngàn người có khác gì một cô gái bị lột trần truồng trói giữa chợ cho cả chợ tới cùng dòm ngó ! Ðêm đó cả trại cùng thao thức không ngủ được. Sáng hôm sau cả trại bàng hoàng khi hay tin anh Nguyễn Hưng Gia đã treo cổ tự tử chết. Anh để lại một lá thư ngắn viết cho vợ. Anh xin lỗi vợ vì đã không thể tiếp tục sống. Anh nhắn vợ cố sống mà nuôi bé Sơn, bé Thủy thay anh. Tôi tò mò tới tận căn nhà bếp nơi anh treo cổ tự tử. Ðứng trước sợi dây điện vẫn còn treo toòng teng từ trên xà nhà, tôi rưng rưng muốn khóc. Anh Nguyễn Hưng Gia, anh có lỗi gì? Phong kiến, địa chủ chăng ? Tư bản bóc lột chăng ? Không, không phải! Chính tên chính ủy đã vạch rõ cái tội tầy trời của anh: anh đã không giáo dục vợ, để cho vợ viết lá thư đầy nước mắt đó. Ðang lúc toàn dân nô nức hồ hởi phấn khởi ăn mừng Ðại Thắng Mùa Xuân mà vợ anh dám kể lể hoàn cảnh khốn quẫn tuyệt vọng thì có khác gì chửi cha cấp lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam rằng họ là những thằng khốn kiếp đang reo rắc đau thương cho cả dân tộc. Cái tội đó quá lớn, không thể nào tha thứ nổi. Sau khi cả trại ngậm ngùi đưa tiễn người đã khuất ra nằm yên bên bờ suối rồi, hôm sau viên chính ủy lại tập hợp cả trại để tiếp tục lên lớp. Hắn thóa mạ anh Nguyễn Hưng Gia với những lời lẽ mỗi lúc một thô lỗ tục tằn hơn. Anh là một tên tội phạm cực kỳ ngoan cố, đã được Ðảng giáo dục mà vẫn ù lì không chịu hối lỗi, lại dám cả gan trốn cải tạo ! Ai cho hắn cái quyền chết như vậy ? Sau năm 1975 dân tộc tôi đã phân hóa cùng cực. Một hố sâu thăm thẳm đã ngăn cách dân tộc tôi thành hai khối người : một bên đại diện là tên chính ủy, bên kia là những người dân thấp cổ bé miệng mà tiêu biểu là anh Nguyễn Hưng Gia. Giữa hai khối người đó, ai là kẻ có lỗi? Qui hết tội lỗi về mình thì thành kẻ đấm ngực. Càng đấm thì ngực càng đau. Chỉ tay là hơn cả! Chỉ tay là trút hết tội lỗi cho người khác. Trút hết tội lỗi cho người khác rồi thì trong lòng sẽ sạch hết ưu phiền. Cứ tìm cho ra những tên đại ác đã gây ra mọi khổ đau cho loài người và băm vằm nát mặt chúng ra là ta sẽ biến thành anh hùng liệt sĩ. Nhưng ai là kẻ đại ác? Ðế quốc xâm lược chăng? Tư bản bóc lột chăng ? Ðịa chủ gian ác chăng? Phong kiến hủ lậu chăng? Người Cộng Sản chỉ tay vào tên đế quốc Mỹ và quả quyết nó đích danh là thủ phạm. Nhưng khi Mỹ rút đi rồi họ bỗng hụt cẳng. Ô hay sao Mỹ lại rút đi hết ? Mỹ rút đi hết thì lấy đâu ra đô la cho họ xài ? Họ đâu có chỉ tay lên án những đồng đô la thơm phưng phức ? Người Cộng Sản chỉ tay lên án bọn Tư Bản bóc lột . Chúng nó chính là những tên đại ác. Nhưng khi đã đánh tư sản sạch sành sanh rồi, khi những tên Tư Bản bóc lột đó chỉ còn chiếc quần xà lỏn và bị đầy ra vùng kinh tế mới hết rồi thì họ lúng túng không biết có nên tiếp tục lên án những kẻ bóc lột nữa hay không. Họ đánh tư sản chỉ là vì chúng nó độc quyền bóc lột, chứ họ có lên án bóc lột đâu ! Bóc lột sướng lắm chứ ! Bỗng dưng họ có cả hàng chục tấn vàng ăn cả đời không hết, nếu không nhờ bóc lột làm sao được như vậy? Nhưng điều xót xa buồn tủi nhất là khi đế quốc không còn nữa, tư bản bóc lột, địa chủ gian ác không còn nữa, người dân Nam Bắc ngỡ ngàng nhìn nhau và chợt thấy ngón tay mình đang chỉ đúng vào mặt kẻ đối diện. Kẻ đối diện đó là ai vậy ? Kẻ đối diện Nguyễn Hưng Gia là tên chính ủy, kẻ đối diện tên chính ủy là Nguyễn Hưng Gia. Ô hay , sao họ cũng chỉ là những người dân như mình ? Té ra ngón tay ta đã bị những tên phù thủy điều động để chỉ vào những người dân khốn khổ như nhau. Ta đã bị sai khiến để thù hận nhau, tàn sát nhau,đầy đọa nhau, chỉ để cho tổng thống Nixon được hể hả nâng ly chúc mừng chủ tịch Mao Trạch Ðông và Lê Ðức Thọ được ôm hôn Kissinger để tỏ tình hữu nghị thắm thiết. Nỗi đau lớn nhất trong thời đại chúng ta dường như chính là cả một dân tộc đã biến thành công cụ cho người sai khiến. Người dân đã mất hết tinh thần tự chủ và biến thành lưỡi dao trong tay những tên đồ tể. Ta nên oán hận lưỡi dao hay nên oán hận những tên đồ tể ? Từ Ðoạn Trường Tân Thanh tới Ðoạn Tuyệt Khi Việt Nam bắt đầu tiếp xúc với thế giới Tây phương thì những tư tưởng mới ùa vào như thác lũ làm đảo lộn hết nếp suy nghĩ của mọi người dân trong nước. Muốn hiểu rõ những tư tưởng mới đã ảnh hưởng sâu xa và mạnh mẽ đến cách suy nghĩ của người dân như thế nào không gì hay bằng so sánh hai cuốn Ðoạn Trường Tân Thanh và Ðoạn Tuyệt. Khi viết Ðoạn Trường Tân Thanh có lẽ Nguyễn Du không kể một mẩu chuyện về cuộc đời ly kỳ éo le của một cô gái ở bên Tầu xa lắc xa lơ vào cái thời nhà Minh đã lùi quá xa vào dĩ vãng với ý định mua vui cho độc giả. Ông chỉ mượn chuyện cô Kiều để nói lên những suy tư của mình. Cô Kiều chính là tiêu biểu cho phụ nữ Việt Nam, xã hội Việt Nam và dân tộc Việt Nam với quá nhiều nghịch cảnh, quá nhiều nan đề cần giải quyết mà chưa ai nghĩ được cách giải quyết thỏa đáng. Khi viết cuốn Ðoạn Tuyệt có lẽ nhà văn Nhất Linh cũng cùng một ý nghĩ như Nguyễn Du. Cô Loan không phải chỉ là một nhân vật trong tiểu thuyết. Nhất Linh muốn mượn cô Loan để vẽ lại bức tranh xã hội Việt Nam. Cô Loan và cô Kiều là một, cũng là tiêu biểu cho phụ nữ Việt Nam, xã hội Việt Nam và dân tộc Việt Nam. Ðiểm khác nhau chỉ là cách nhìn cuộc đời của hai thế hệ. Trước khi tiếp xúc với thế giới Tây Phương, truyện Kiều được phổ biến rộng rãi trong dân gian. Cô Kiều dường như được xem như tiêu biểu cho người phụ nữ Việt Nam, đầy lòng nhân ái, giàu đức hy sinh, nhẫn nhục, cam chịu mọi nghịch cảnh. Ðọc Ðoạn Trường Tân Thanh ta cảm thương cho thân phận nàng Kiều, và cũng cảm thương cho dân tộc Việt Nam. Tại sao xã hội đầy những điều nghịch lý ? Dường như có một cái gì sai lầm ghê gớm đã xảy ra trong xã hội. Thi sĩ Tố Như dường như đã cảm nhận thấy rõ rệt sự hiện hữu của điều sai lầm đó nhưng ông không thể, hoặc không muốn chỉ tay lên án một ai. Khi luồng gió tân học tràn tới, lớp người trẻ lớn lên được dịp mở mắt nhìn ra ngoài. Kinh đô ánh sáng Paris rực rỡ muôn màu muôn vẻ. Nhìn lại đồng quê Việt Nam chỉ thấy toàn bùn lầy nước đọng. Người dân quê hoặc đôi mắt toét nhèm như Lý Toét, hoặc cái bụng ỏng như Xã Xệ. Gái Việt Nam răng đen kìn kịt, mất hết vẻ duyên dáng mỹ miều. Phụ nữ Việt Nam nếu không phải là bà mẹ chồng cay nghiệt như bà Phán Lợi thì cũng là bà Hai cổ hủ chỉ tính chuyện ép duyên con gái. Xã hội Việt Nam chỉ toàn là hủ tục, mê tín dị đoan. Tất cả những điều xấu xa đó là lỗi tại ai ? Ðích danh thủ phạm là cái Cũ. Cái gì Cũ là xấu xa, cái gì Mới là tốt đẹp. Cả một thế hệ dường như vui mừng vì đã tìm thấy con đường sáng. Cả một thế hệ đều tâm niệm theo Mới đến cùng. May mắn thay cho những ai đã được sống trong một thời đại mà cái Xấu và cái Tốt được phân biệt rõ ràng như trắng với đen. Muốn trở thành con người tốt dễ lắm : chỉ cần đoạn tuyệt với cái cũ và theo mới tới cùng. Thuở nhỏ người viết rất say mê văn chương Tự Lực Văn Ðoàn . Tới nay người viết vẫn còn giữ nguyên vẹn cảm tình nồng hậu đối với những tác phẩm của Khái Hưng, Thạch Lam và Ðỗ Tốn. Tuy nhiên khi lớn lên va chạm với cuộc đời, suy nghĩ có phần chín chắn hơn, trong đầu người viết nhen nhúm những mối hoài nghi và những câu hỏi thật khó giải đáp. Con đường sáng mà Hoàng Ðạo vẽ ra thật rực rỡ lúc ban đầu kết cục chỉ dẫn đến cái chết tức tưởi của Khái Hưng và chính ông. Cái chết tối tăm của những người đã vạch con đường sáng cho cả dân tộc là một điều vô cùng nghịch lý. Càng nghịch lý hơn nữa khi những kẻ gây ra cái chết đó chẳng liên quan gì tới nền văn hóa cũ đã có tự ngàn xưa. Khoảng năm 1984, người viết có dịp trò chuyện cùng một thanh niên mới lớn thuộc một gia đình tị nạn Cộng Sản. Lúc đó anh ta là sinh viên năm thứ nhất Ðại Học Adelaide. Khi thi tú tài anh ta không chịu chọn môn Việt văn mặc dầu rất giỏi và rất thích. Lý do rất giản dị : Anh ta cho rằng cuốn Ðoạn Tuyệt đã nhào nặn đầu óc cả một thế hệ vào một khuôn khổ cứng ngắc. Nghĩ khác đi một chút là bị xã hội lên án là cổ hủ, là bênh vực cái Cũ chống lại cái Mới. Anh ta rụt rè hỏi tôi nghĩ gì về cô Loan . Cô Loan, theo ý anh ta, chỉ học được cái vỏ của nền văn minh Tây phương. Cô Loan thua cô Kiều xa lắm. Khi gia đình gặp tai biến, cô Kiều xả thân tìm cách gỡ thế bí cho cả gia đình. Bán mình chuộc cha chẳng phải là một giải pháp hay, nhưng ít ra đọc Ðoạn Trường Tân Thanh ta thương cảm cho người phụ nữ Á Ðông xưa kia đầy lòng hy sinh và tinh thần trách nhiệm. Cô Loan trái lại chẳng hề nhìn thấy thế bí của gia đình khi cha cô qua đời, chẳng hề nghĩ rằng mình có trách nhiệm phải giải quyết khó khăn chung cho cả gia đình khi bà mẹ mang nợ bà Phán Lợi. Cái học mà cô hấp thu được không giúp gì cho gia đình cô, cũng không giúp gì cho bản thân cô. Gia đình cô tan nát, bản thân cô tan nát. Lỗi vị tất đã ở thế hệ cha anh. Cha mẹ cô đã cho cô đi học cái Mới chẳng phải là vì đã mong cái Mới sẽ giúp cô tìm được lối thoát cho bản thân cô và gia đình cô đó sao ? Ðâu có thể trách là cha mẹ cô khăng khăng ôm lấy cái Cũ ? Lỗi lầm là cô đã học được nửa vời, hoặc chẳng học được gì, mà cứ tưởng rằng mình ghê gớm lắm. Cuộc nói chuyện hơn một tiếng đồng hồ đã để lại trong lòng người viết một nỗi bâng khuâng khó tả. Thế nào là Cũ ? Thế nào là Mới ? Có chắc gì cái Mới tất nhiên phải tốt hơn cái Cũ hay không ? Cũ và Mới phải chăng chỉ là hai trạng thái được so sánh theo dòng thời gian ? Vào thập niên 30 thì tư tưởng của Nhất Linh là tư tưởng hoàn toàn mới lạ, nhưng tới thập niên 90 thì cũng những tư tưởng đó chẳng còn gì là mới nữa. Hơn 100 năm trước đây cuốn Tư Bản Luận của Karl Marx đã gây chấn động cả thế giới vì chứa đựng những tư tưởng cực kỳ táo bạo, cực kỳ mới mẻ, cực kỳ cách mạng. Nay cũng cuốn Tư Bản Luận đó may ra còn vài nhà khảo cổ ghé mắt đọc qua. Cho rằng Mới tất nhiên phải tốt đẹp hơn Cũ có thể chỉ là một định kiến. Mới chẳng qua chỉ là có sau cái đã có. Phải chăng hễ cái gì sinh sau tất nhiên phải tiến bộ hay ho hơn cái gì sinh trước ? Ðôi khi nghe trẻ thơ lý luận thật tức cười, ngộ nghĩnh mà ngẫm nghĩ có khi còn xác đáng hơn lý luận của người lớn. Một ông bố nhà kia có hai người con trai. Một hôm đứa lớn mắng đứa nhỏ : Mày ngu như con bò ! Ðứa bé cãi lại : - Anh nói sai rồi ! Bố thường nói : Kẻ sinh sau thường khôn hơn người sinh trước, vì thế nhân loại mới có tiến bộ ! Anh sinh trước em, Anh ngu hơn em ! Ðứa lớn tức nghẹn họng mà không trả lời được. Nghĩ mãi, nó mới tìm được lời để phản pháo : - Mày nói thế thì hóa ra bố ngu hơn mày hay sao ? Bố cũng sinh trước mày đó ! Nếu bố ngu hơn mày tại sao bố lại dạy mày ? Các thày các cô ở trường cũng sinh trước mày, tại sao họ cũng dạy mày ? Mày khôn thế sao không ở nhà quách, đi học làm gì ? Ðứa bé ngẩn người ra một lúc rồi mới thẫn thờ nói : - Ừ nhỉ ! Tại sao mình lại phải đi học những người ngu hơn mình Tư tưởng gói ghém trong cuốn Ðoạn Tuyệt có thể coi như tư tưởng nổi loạn. Thế hệ trẻ vào thập niên 30 lớn lên nhìn thấy những xấu xa trong xã hội và qui trách hết mọi lỗi lầm về thế hệ cha anh. Họ không nhìn thấy rằng những vấn đề mà cha anh họ gặp phải cũng là những vấn đề mà họ sẽ gặp phải. Ðó là những vấn đề muôn thuở của loài người. Rút cục họ đã rơi vào vòng lẩn quẩn mà không biết tìm lối thoát. Xưa có một gia đình tiều phu thật nghèo. Ông tiều có một người cha già và một đứa con thơ. Gia đình nghèo quá không đủ ăn. Một hôm ông tiều phu nói với con : Hôm nay con dẫn ông nội vào rừng sâu giả bộ kiếm củi cành rồi lừa lúc ông nội vô ý con lẻn về nhà bỏ mặc ông nội trong rừng. Nhà mình nghèo quá, bố không đủ sức nuôi cả ba miệng ăn. Bớt được một miệng ăn may ra mình mới sống nổi ! Chiều hôm đó người tiều phu lại thấy đứa con dẫn ông nội về nhà như thường lệ. Người cha giận dữ hỏi con tại sao không làm như lời dặn. Ðứa con khóc và thưa rằng : Tại con quá thương cha ! Ông tiều phu ngạc nhiên gặng hỏi tại sao đứa con thương cha mà lại làm trái ý cha . Ðứa con nói : Con nghĩ tới mai sau lúc cha sẽ già. Gia đình mình có lẽ vẫn nghèo như hiện nay. Có lẽ con cũng sẽ có một người con trai. Có thể vào một lúc nào đó con cũng thấy gánh gia đình quá nặng và không đủ sức kiếm ăn cho ba miệng ăn. Khi đó con sẽ nhớ tới chuyện bố sai con đưa ông nội bỏ vào rừng sâu cho chó sói ăn thịt. Liệu con có nên bắt chước làm theo những gì bố đã sai con làm hay không ? Hôm nay con không thể bỏ mặc ông nội trong rừng sâu vì con quá thương cha. Con không muốn sau này phải sai con của con dẫn bố vào rừng sâu bỏ mặc cho chó sói ăn thịt. Ðứa bé trong mẩu chuyện nói trên đã nhìn thấy mối tương quan giữa cha mẹ và con cái trước sau vẫn là một. Vấn đề được đặt ra vẫn y nguyên như vậy. Ðiểm khác nhau chỉ là trôi theo dòng thời gian con người đã thay đổi thế đứng : đứa bé trước là con, sau là cha mẹ; ông tiều trước là cột trụ trong gia đình, sau là gánh nặng trĩu trên vai thế hệ nối tiếp. Ông tiều phu chỉ nhìn thấy một mảnh đời ông đang sống. Ðứa nhỏ con ông nhìn thấy suốt cả cuộc đời. Nó thấy Dĩ Vãng, Hiện Tại và Tương lai nối liền với nhau làm một. Ðiều gì nó làm hôm nay sẽ là khuôn mẫu hướng dẫn những gì nó sẽ làm mai sau. Nó thấy không thể cầm dao cắt cuộc sống ra từng mảnh. Không có Dĩ Vãng thì cũng không có Tương Lai. Ông tiều phu cho rằng sai con bỏ ông nội vào rừng sâu là Ðúng. Ông nghĩ điều đó là đúng vì điều đó giúp ông trút được một gánh nặng trĩu trên vai. Nhưng liệu ông có còn nghĩ điều đó là Ðúng nữa hay không nếu kẻ bị bỏ vào rừng sâu cho chó sói ăn thịt lại chính là ông ? Ðứa nhỏ con ông thấy rằng nó không thể làm một việc mà hôm nay được cho là Ðúng nhưng mai sau nó cảm nhận rõ rệt là Sai. Tôi liên tưởng tới người phụ nữ Việt Nam. Những mâu thuẫn giữa mẹ chồng nàng dâu có lẽ cũng không khác với những mâu thuẫn giữa cha mẹ và con cái bao nhiêu. Khi qui trách hết lỗi lầm về cha mẹ thì cũng đừng quên rằng hôm nay mình là con nhưng mai sau mình sẽ là cha mẹ. Cô Loan và bà Phán Lợi có thể chỉ là hai giai đoạn trong cuộc đời của một phụ nữ. Thế hệ thập niên 30 tưởng chừng như khám
phá được một điều thật mới lạ : đó là những
mâu thuẫn giữa cha mẹ và con cái. Thực ra những
mâu thuẫn đó vẫn luôn luôn có ở mọi nơi
và trong mọi thời đại. Trong cuộc sống loài người mỗi gia
đình đều luôn luôn gặp những khó khăn từ
bên ngoài ép tới. Sự khác biệt sâu xa
nhất là thay vì đâu lưng lại hợp sức cùng
đối phó, ta lại chĩa những mũi dáo sáng quắc
vào nhau,trách móc nhau, đổ lỗi cho nhau và
quên phắt đi những vấn đề chính yếu cần giải quyết. Trong cuốn L’ homme, cet inconnu, bác sĩ Alexis Carrel cho rằng có hai động cơ thúc đẩy con người hành động mãnh liệt nhất : Một là Yêu Thương, hai là Thù Hận. Yêu thương hay Thù hận ? Nếu ta nêu câu hỏi đó với một nhà tu hành, một nhà luân lý. một nhà giáo hoặc ngay cả một nông dân chất phác thì có lẽ họ sẽ nhìn ta bằng cặp mắt thương hại. Phải là một đầu óc u mê tối tăm lắm mới có thể đặt một câu hỏi ngớ ngẩn như vậy. Dĩ nhiên rằng ta phải Yêu Thương tất cả loài người. Thế nhưng không phải ai cũng nghĩ như vậy . Karl Marx cho rằng tôn giáo là thuốc phiện ru ngủ loài người. Tôn giáo dạy loài người phải yêu thương nhau. Yêu thương nhau là phải nhường nhịn nhau, hy sinh cho nhau, chấp nhận mọi thua thiệt về phần mình để người khác được an vui hạnh phúc. Yêu thương là cúi đầu chấp nhận khổ đau để người khác sống trên đầu trên cổ mình. Yêu thương là chấp nhận thân phận nô lệ mà không dám đứng lên phản kháng. Cô Kiều vì yêu thương cha mà thân tàn ma dại. Bần cố nông vì thương yêu địa chủ mà suốt đời làm kiếp trâu cày. Công nhân vì thương yêu chủ xí nghiệp mà đổ mồ hôi cho chủ bóc lột. Người nghèo vì thương yêu người giàu mà suốt đời nghèo xác nghèo xơ. Ngẫm lại thương yêu đâu có ích gì đâu ? Thương yêu là vị tha, vị tha thì chỉ có thua thiệt và mất mát. Muốn cho xã hội tiến bộ thì phải khơi sâu lòng thù hận cho kẻ bị áp bức vùng lên. Xã hội loài người vốn đầy mâu thuẫn. Chính mâu thuẫn sinh tiến hóa. Muốn cho xã hội tiến hóa thì phải khơi cho mâu thuẫn lớn lên, tạo một hố sâu thăm thẳm ngăn cách người giàu với người nghèo, làm cho kẻ bị áp bức căm hờn người áp bức, cho thợ oán hận chủ, bần cố nông oán hận địa chủ, lao động oán hận tư bản, nghèo oán hận giàu, con cái oán hận bố mẹ, vợ oán hận chồng, vv và vv. Tư tưởng nhân ái bàng bạc trong truyện Kiều là tư tưởng " Cực kỳ phản động" . Tư tưởng Mới của nhóm Tự Lực Văn Ðoàn cũng chỉ là những tư tưởng cải cách ngập ngừng của giai cấp trí thức tiểu tư sản. Lẩn quẩn trong những mâu thuẫn nhỏ nhen vụn vặt trong gia đình thì còn khuya xã hội mới tiến bộ. Muốn tiến bộ thì phải làm Cách Mạng. Cách Mạng là lật đổ hết cái Cũ, là khơi lòng thù hận đến cao độ để con người dũng mãnh bước vào cuộc chiến đấu không khoan nhượng một mất một còn giữa Ta và Người Khác. Ta phải thắng. Kẻ Khác phải bị đè bẹp dí dưới chân ta. Muốn vậy phải tạo ra một lớp Con Người Mới Xã Hội Chủ Nghĩa thật dứt khoát, thật dũng mãnh, thật cách mạng. Con người Mới đó được mô tả thật linh động qua nhân vật Paven trong tác phẩm vĩ đại Thép đã tôi thế đấy. Sau cuộc Cách Mạng Tháng Mười ở Nga, cuốn Thép đã tôi thế đấy trở nên cuốn sách gối đầu giường của mọi thanh niên Cộng Sản. Cuộc cách mạng mùa thu ở Việt Nam cóp nhặt mẫu mực ở Nga và nhân con số anh hùng Paven lên trăm nghìn lần đến nỗi đi đâu cũng gặp Paven, ra ngõ là gặp anh hùng Paven đi nghễu nghện. Hình dáng, ngôn ngữ, tư tưởng, hành động của những anh hùng Paven ra sao thì cứ nhìn ra xã hội là thấy rõ. Mở cuốn Thép đã tôi thế đấy ra ngay ở những trang đầu đã thấy anh chàng Paven sủa ra những câu chửi tục tĩu thô lỗ nhất thế giới. Hình ảnh đó ngày nay đầy dẫy trong xã hội Việt Nam. Sau năm 1975, nhà văn Phan Xuân Ðài đi một vòng ra thăm Hà Nội, đất ngàn năm văn vật thuở xưa. Tác giả hãi hùng thấy các cô gái Hà Nội ngày nay mở miệng ra là văng cả chục tiếng đéo. Ðéo đã trở thành gia vị đậm đà thay cho miếng trầu làm đầu câu chuyện ngày xưa. Cũng may nhà văn Phan Xuân Ðài chưa khảo sát ngôn ngữ của nam giới. Nếu ông dại dột tìm hiểu sâu hơn chút nữa thì có lẽ đã sững sờ sửng sốt, vì các nam anh hùng Paven mở miệng ra là văng Cái Máu L. tùm lum đỏ loét. Về tác phong và hành động của những anh hùng Paven thì phải nghe chính những người đã sống lâu năm dưới chế độ Cộng Sản nói mới thấm thía. Một trí thức nổi danh ở miền Bắc đã kể lại một mẩu chuyện có thực xảy ra trên đất Bắc. Ông con trai một gia đình nọ một hôm soát trong túi thấy mất một số tiền nhỏ. Ông ta nổi điên lên. Trong nhà chỉ có một ông bố già. Chính Nó lấy chứ không còn ai nữa. Ông con lôi bố ra hạch hỏi. Ông bố nói không lấy cắp của con. Ông con bắt ông bố quỳ xuống thề thốt nặng lời. Một trí thức nổi danh khác cũng ở miền Bắc kể một mẩu chuyện thực còn thấm thía hơn nhiều. Một cô giáo cho một đứa học trò vừa lười vừa dở một điểm xấu. Giờ chơi, thằng bé thủ một con dao bén vào lớp uy hiếp cô giáo đứng lên bục cởi truồng ra cho nó coi cái hĩm. Tư tưởng con người quả thực đã tiến hóa từng bước một. Xưa kia nước ta chịu ảnh hưởng nặng nề của Nho giáo. Từ nhỏ con trẻ đã được dạy dỗ để luôn luôn nhớ tới công cha, nghĩa mẹ, ơn thày. Ngày nay tư tưởng Nho giáo được coi là tư tưởng hủ lậu, cần phải đả phá và thay thế bằng tư tưởng cách mạng. Cha mẹ, thày giáo , cô giáo là tượng trưng cho cường quyền áp bức. Con cái và học trò là tiêu biểu cho những kẻ bị áp bức. Ðứa trẻ dám đứng lên chống lại cô giáo là có tinh thần cách mạng. Nó biết dùng con dao bén uy hiếp cô giáo là biết dùng bạo lực cách mạng. Cái hĩm là vật tư hữu của cô giáo. Ðứa trẻ dám coi vật tư hữu là của chung chính là đã giác ngộ chủ nghĩa Cộng Sản đến nơi đến chốn. Nó không phải là anh hùng Paven thì còn ai nữa ? Sau năm 1975 phong trào phấn đấu để trở nên anh hùng Paven sôi nổi rầm rộ khắp miền Nam và lan vào cả các trại cải tạo. Năm 1977 người viết đang bị giữ ở trại cải tạo Bù Gia Mập thuộc tỉnh Phước Long. Một trong những người được nổi danh là anh hùng Paven tiên tiến nhất là Nguyễn Xuân Th. Th. nổi tiếng lừng lẫy là một anh hùng lao động, một mẫu người điển hình cho con người mới xã hội chủ nghĩa. Hăng hái chém tre đẵn gỗ trên ngàn, cúc cung tận tụy phục vụ bộ đội, trên thì bợ đỡ ôm đít bộ đội và thổi ống đu đủ, dưới thì quát tháo hò hét đốc thúc tù phải nỗ lực thi đua. Ðội trên đạp dưới : đó là lý tưởng cao đẹp của những anh hùng Paven. Nhưng nếu chỉ lao động tóe hào quang thì ai mà chẳng làm được ? Bợ đít bộ đội cũng chẳng có gì khó khăn. Muốn làm anh hùng thì phải vận dụng đầu óc nghĩ ra những việc làm kinh thiên động địa khiến mọi người táng đởm kinh hồn. Bất độc bất anh hùng ! Có vậy mới xứng danh là anh hùng Paven ! Th. đã nghĩ được việc làm kinh thiên động địa đó . Th. thuyết phục được hai bạn tù khác là anh Trương Hồng Yên và Trần Văn Trung cùng mưu toan trốn trại. Lúc đầu có lẽ hai anh Yên và Trung cũng đã hoài nghi dè dặt. Tác phong bợ đít bộ đội của Th. quá lộ liễu, làm sao mà tin hắn được ! Nhưng Th. chỉ cần uốn lưỡi một vòng là xong cả . Ôm đít bộ đội, quát tháo hò hét đốc thúc tù lao động chết bỏ : đó chỉ là đóng kịch để che mắt lũ bộ đội tinh quái. Có qua mắt được lũ bộ đội tinh quái thì mới mong trốn trại thành công ! Lý luận lô-gích quá, xuôi tai quá ! Hai anh Yên và Trung tin ở Th. như tin cẩn một người anh em ruột thịt. Ba người cùng nhau chuẩn bị thật chu đáo, lén chôn giấu thức ăn khô ngoài bìa rừng mỗi khi được ra ngoài lao động. Tới ngày D. họ khởi hành vào lúc trời đã tối. Vừa ra khỏi trại thì hai anh Yên và Trung bị bộ đội Cộng Sản bắt lại. Có người đã mật báo, nên bộ đội Cộng Sản biết trước được ngày giờ khởi hành và địa điểm chôn giấu thức ăn khô. Họ chờ sẵn ở đó và bắt được hai người trốn trại quá dễ dàng. Khi hai anh Yên và Trung bị bắt thì kẻng báo động khua dồn dập. Cả trại bị lùa ra tập hợp điểm danh trong bóng tối. Ngoài hai anh Yên và Trung ra , còn có một người thứ ba vắng mặt là Nguyễn Xuân Th. Anh em hồi hộp và mong rằng Th. trốn thoát. Ðiểm danh xong, cả trại được lệnh tan hàng về lán. Chỉ năm phút sau một người cởi trần mặc quần đùi trắng chạy từ phía con suối ngăn cách khu tù ở với khu bộ đội bước vào lán. Người đó là Nguyễn Xuân Th. Cả chục đôi mắt nhìn Th. đăm đăm. Trốn trại mà cởi trần và mặc quần đùi trắng thì lạ thực ! Th. lúng túng thốt lên một câu lãng xẹc : - Tính làm một cuộc dế mèn phiêu lưu ký mà không xong ! Anh Bùi Thọ Roan ghé tai người viết nói nhỏ : Thằng Giu Ða ! Ít lâu sau anh L. có kể cho người viết nghe một mẩu chuyện liên can tới Nguyễn Xuân Th. Anh L. thọt một chân nên được giao cho công việc thổi cơm nấu nước để khỏi phải ra ngoài lao động. Bếp nằm bên bờ suối. Một hôm trong lúc cả
trại đi lao động ngoài rừng, anh từ nhà bếp đi lên
lán lấy gạo thổi cơm. Ðang lúc lui cui trong
lán thì nghe hai người trò chuyện bên kia
tấm vách phía ngoài lán. Một người
nói : Anh nhìn qua khe vách và thấy hai người đang ngồi uống trà với nhau. Người vừa nói câu đó là Nguyễn Xuân Th., người kia là Cung. Cả hai đều là " chức sắc" nên mới được ở nhà trong lúc các anh em khác đi lao động. Nếu ta quan sát kỹ những con người điển hình
sống động trong thời đại ngày nay dưới chế độ xã hội chủ
nghĩa thì ta sẽ tìm thấy một vài điểm chung nhất
giữa những anh hùng Paven. Họ là những con người rất
có " nhiệt tình cách mạng" - ta phải công
nhận như vậy nếu ta dùng ngôn ngữ của thời đại. Còn
nếu ta diễn tả ý nghĩ mình một cách bộc trực
bình dị như con nhà dân giả thì ta phải
nói họ đầy nhiệt tình làm ưng khuyển hoặc
chó săn. Mỗi giai đoạn lịch sử có một tác phẩm văn chương mang dấu vết của thời đại. Truyện Kiều, cuốn Ðoạn Tuyệt và cuốn Thép Ðã Tôi Thế Ðấy là ba tác phẩm đã ảnh hưởng sâu đậm đến nếp suy nghĩ trong xã hội qua ba giai đoạn lịch sử khác nhau. Nghĩ tới nàng Kiều ta vừa thương vừa giận. Nghĩ tới
cô Loan ta không biết nên giận hay nên thương.
Nghĩ tới những anh hùng Paven ta chỉ thấy một cảm giác
lộn mửa muốn ói. Con chim trước khi chết tiếng hót đau thương, con người lúc lâm chung lời nói chứa đựng nhiều khôn ngoan sáng suốt, cổ nhân thường nói vậy. Ðức Trần Hưng Ðạo là một anh hùng được toàn dân ngưỡng mộ. Khi ngài sắp mất , vua Trần Anh Tông ngự giá tới thăm, nhân thấy ngài bệnh nặng, mới hỏi rằng : " Thượng phụ một mai khuất núi, phỏng có quân Bắc lại sang thì làm thế nào ?" Hưng Ðạo Vương kể lại thuật dùng đoản binh thắng tràng binh của Triệu Võ Vương, Ðinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn, Lý Thường Kiệt và tướng sĩ nhà Trần. Sau đó ngài đưa ra nhận xét : - ...Còn như khi nào quân giặc kéo đến ầm ầm, như gió như lửa, thế ấy lại dễ chống. Nếu nó dùng cách dần dà, như tầm ăn lá, thong thả mà không ham của dân, không cần lấy mau việc, thế ấy mới khó trị..." Người viết tự xét hiểu biết về binh thư chiến lược rất nông cạn hẹp hòi nên không dám lạm bàn về thuật dùng binh. Nhưng ngẫm cho kỹ lời Ðức Trần Hưng Ðạo mang những ý nghĩa vượt ra ngoài lãnh vực quân sự. " ...Quân giặc kéo đến ầm ầm như gió như lửa" có thể hiểu là kẻ ngoại địch dùng xe tăng, đại pháo, phi cơ, hỏa tiễn tấn công ào ạt như vũ bão. " Kẻ địch dùng cách dần dà, như tầm ăn lá, thong thả mà không ham của dân, không cần lấy mau việc" có thể hiểu là kẻ địch dùng văn hóa , chính trị, kinh tế thâm nhập thật nhẹ nhàng không đổ máu mà từ từ làm biến đổi cách suy nghĩ của người dân trong nước, khiến họ dần dần nghĩ những điều kẻ địch muốn họ nghĩ, tự nguyện làm những điều kẻ địch muốn họ làm mà không hề hay biết. Vũ lực là sức mạnh tàn khốc nhưng thường chỉ có tác dụng nhất thời. Văn hóa tư tưởng có tác dụng nhu hòa nhưng lại thật sâu đậm và thường kéo dài nhiều thế kỷ. Lời di huấn của Ðức Trần Hưng Ðạo có thể cũng là lời cảnh cáo về hiểm họa của một cuộc xâm thực bằng văn hóa khiến dân tộc bị bật hết gốc rễ, đầu óc trở thành nô lệ mà không hề hay biết. Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử chống ngoại xâm. Khi quân Tầu từ phương Bắc tràn xuống thì lòng người tụ lại, muôn người như một, đồng lòng đứng lên chống trả. Nhưng khi những tư tưởng từ phương xa được đưa vào xã hội Việt Nam thì sao ? Nhìn lại dòng lịch sử ta thấy Việt Nam là cửa ngõ cho rất nhiều luồng tư tưởng từ bốn phương ùa tới. Xưa kia đạo Khổng, đạo Lão, đạo Phật tràn vào Việt Nam một cách thật êm thấm nhẹ nhàng. Trong vòng một hai thế kỷ gần đây tư tưởng Tây Phương ùa tới. Gần hơn nữa là tư tưởng Cộng Sản của Karl Marx, Engel, Lenin, Mao Trạch Ðông... Cuộc xâm thực của các tư tưởng ngoại lai đặt nên những vấn đề vô cùng phức tạp và nhức nhối : nên mở rộng cửa đón nhận tất cả mọi luồng tư tưởng dị biệt hay nên bế quan tỏa cảng để ngăn chặn mọi cuộc xâm thực bằng văn hóa ? Khi Nguyễn Trường Tộ điều trần về những điều mắt thấy tai nghe ở hải ngoại thì vua quan triều Nguyễn sững sờ với một sự thực khó tin nhưng khó lòng phủ nhận : người Âu Tây không hẳn lúc nào cũng là lũ Bạch quỷ xấu xa tệ hại. Dường như họ cũng có những điều hay mà ta cần học hỏi bắt chước. Thái độ bế quan tỏa cảng từ đó được coi như một thái độ cố chấp thiển cận của bọn hủ nho. Muốn cho nước mạnh dân giàu phải mở thật rộng cửa tiếp nhận những tư tưởng tiến bộ của Âu Tây. Thế hệ trẻ lớn lên nhìn thế hệ cha anh bằng cặp mắt khinh thị. Sao các cụ lẩm cẩm, lẩn thẩn quá đỗi. Mở miệng ra là " Tử viết : ..." , nói một câu là trích dẫn Tứ Thư Ngũ Kinh. Chán quá đi thôi ! Sao chẳng chịu mở mắt ra mà đọc sách của Voltaire, Jean Jacques Rousseau, Montesquieu, Locke, Jean Paul Sartre, vv và vv... Nhưng rồi làn sóng Cộng Sản ùa vào như thác lũ, cuốn sạch các tư tưởng gia Âu Tây đó ra sông ra biển hết. Voltaire, Montesquieu, vv... là một lũ trí thức tiểu tư sản bạc nhược lỗi thời cần phải vứt bỏ hết. Con người mới xã hội chủ nghĩa phải gột sạch hết mọi tư tưởng phản động của lũ trí thức tiểu tư sản đó. Trên thế gian này chỉ có lời nói của tổ sư Karl Marx, Engel là khuôn vàng thước ngọc. Ngẫm lại thì ông Khổng Tử là người Tầu, ông Voltaire là người Tây, ông Karl Marx là người Ðức, ông Lenin là người Nga, ông Locke là người Anh, ông Adam Smith là người Tô Cách Lan, không một ông nào là người Việt. Ðợt sóng thứ nhất đã nhào nặn những con người mở miệng ra là " Tử viết :..." . Ðợt sóng thứ hai đã uốn nắn những con người suy nghĩ theo những gì ông Montesquieu đã nghĩ. Ðợt sóng thứ ba đã rèn đúc con người thành những robot làm những gì tổ sư Karl Marx muốn họ làm, và đợt sóng thứ tư dường như chỉ còn tư tưởng của ông thần Ðô La ngự trị. Dường như đã có một cái gì sai lầm ghê gớm xảy ra trong xã hội mà ta không định nghĩa nổi. Tìm ra được điều sai lầm đó thật không phải dễ. Diễn tả được điều sai lầm đó lại càng khó hơn nữa. Dường như cứ mỗi lần ta học được tư tưởng của một vĩ nhân thì lâu dần ta lại thành nô lệ cho tư tưởng đó. Rút cục ta không còn biết rằng tư tưởng đó đã hướng dẫn soi đường cho ta hay đã biến thành xiềng xích trói cột ta. Ta cố vùng vẫy mong dứt bỏ được mọi xiềng xích, nhưng càng vùng vẫy càng bị xiết chặt hơn. Ðến khi ta tìm được một tư tưởng mới của một vĩ nhân khác đủ sức phá vỡ tư tưởng của vĩ nhân cũ thì ta thấy vui mừng như vừa được giải thoát. Thế rồi lâu dần tư tưởng của vĩ nhân mới lại biến thành xiềng xích và cái vòng lẩn quẩn lại tái diễn. Dường như ta đã sống với quá nhiều ảo giác. Ðó là cái ảo giác của những cô gái mới lớn đi lấy chồng, tưởng thoát khỏi sự kiềm chế khắt khe của bố mẹ để rồi lại rơi vào sự kiềm chế khắt khe hơn của bố mẹ chồng hoặc của chính ông chồng. Ðó cũng là cái ảo giác của những anh thanh niên mê say làm cách mạng, đứng lên đạp đổ xiềng xích gông cùm của bố mẹ, coi bố mẹ là xiềng xích gông cùm, để rồi lại nhắm mắt cúi đầu phục tùng mệnh lệnh Ðảng. Sự khác biệt giữa thế hệ nọ và thế hệ kia dường như chỉ là mỗi thế hệ đã dùng một sợi xích sắt khác nhau. Thoát ra khỏi một định kiến để rồi lại rơi vào một ảo giác. Lâu dần ảo giác lại biến thành định kiến. Ta cứ tưởng ta được giải thoát, nhưng ngẫm lại cái mà ta có được chỉ là những sợi xích sắt khổng lồ. Xã hội phân hóa đến tột cùng, nhân tâm ly tán, không ai còn tin ai, không ai còn nghe ai. Thế hệ trẻ lớn lên không còn tin ở thế hệ cha anh, tạo ra một cơn khủng hoảng niềm tin chưa từng có trong dòng lịch sử. Một người Nhật đã đưa ra một nhận xét làm ta kinh hoàng sửng sốt : Người Việt các anh giống như những hạt ngọc, người Nhật chúng tôi giống như những cục đất. Hạt ngọc tuy lóng lánh sáng ngời nhưng không kết dính với nhau được. Cục đất tuy tầm thường nhưng dễ kết dính với nhau hơn. Lời nhận xét của người Nhật nói trên nghe thật nhức nhối khó chịu. Ðó là một lời khen hay một lời chê ? Ta nên tự hào hay nên buồn tủi ? Cụ Phan Bội Châu sau bao năm bôn ba hải ngoại học hỏi những cái hay của người trở về Việt Nam suy ngẫm lại và thốt ra một lời thực đáng suy ngẫm : Phật ở nhà không cầu, đi cầu Thích Ca ngoài đường. Trong túi mình có bảo châu mà ngửa tay xin người từng hạt gạo, thế chẳng là một sự hết sức kỳ quái hay sao ? Dường như ta đã đánh mất một cái gì vô cùng quí báu mà ông cha ta đã bao đời vun đắp mới gây dựng nên được. Cái ta đã đánh mất đó, trên bình diện cá nhân, có lẽ chính là tinh thần tự chủ. Trên bình diện quốc gia, cái ta đã đánh mất đó có lẽ chính là văn hóa. Văn hóa là gì nếu không phải là chất keo kết hợp lòng người ? Khi chất keo đó đã mất thì lòng người sẽ ly tán và dân tộc sẽ mất luôn nguồn sinh lực. Văn hóa chính là khả năng đãi lọc của một dân tộc. Khi đánh mất khả năng đãi lọc đó ta sẽ vội vàng hấp thu không đắn đo cân nhắc mọi điều ta tưởng là hay là tốt. Giống như con trâu bị xỏ mũi lâu ngày, dần dần ta cúi đầu cam chịu mọi nghịch cảnh, dửng dưng thờ ơ với mọi điều nghịch lý xảy ra trong xã hội và tiếp tục nhai cỏ ngày này qua tháng khác, nhai đi nhai lại. Ðôi khi ta chợt nhớ tới lời di huấn của Ðức Trần
Hưng Ðạo mà giật mình. Sợi xích sắt và sợi tơ
hồng Sống đến khi mái tóc trên đầu đã bạc, ngẫm lại tôi thấy dường như chỉ có một vấn đề đã thực sự làm tôi suy nghĩ miên man trong nhiều năm dài: đó là mối dây kết nối con người với trời đất và mối dây kết nối người với người. Mối dây đó là sợi xích sắt khổng lồ trói buộc ta hay là sợi tơ hồng êm ái nối kết ta ? Người là nguyên nhân mọi khổ đau của ta hay người là nguồn hạnh phúc cho ta ? Ta nên yêu thương hay nên thù hận con người? Mối dây kết nối con người vô cùng phức tạp, thiên hình vạn trạng, thiên biến vạn hóa. Nó chi phối mọi ý nghĩ và hành động của ta, nhưng trong cuộc sống thường ngày dường như ít ai để tâm suy ngẫm. Giữa người với người phải chăng luôn luôn có những ràng buộc nào đó. Một duyên, hai nợ, ba tình. Mối ràng buộc đó là duyên, là nợ hay là tình ? Khởi đầu ta hãy thử suy ngẫm lại về mối tương quan giữa cha mẹ và con cái. Có nuôi con mới biết lòng cha mẹ. Khi nhìn lại suốt mấy chục năm đã sống, cố nhớ lại những phút giây mình cảm thấy hạnh phúc chan hòa, vui sướng tuyệt đỉnh nhất , tôi thấy hiển hiện lên rõ rệt nhất vẫn là những giây phút đầu tiên mình cảm thấy có được một đứa con. Ðó là phút giây đứa con út vừa ra khỏi bụng mẹ, cô đỡ trao cho tôi bồng trên tay, đứa trẻ lần đầu tiên mở mắt chào đời trên tay bố. Tôi thấy vui sướng miên man và nghĩ rằng mình là người hạnh phúc nhất trần gian. Ðó là phút giây khi còn ở trại tị nạn Galang nghe tin vợ vừa sinh đứa con đầu lòng, tôi vừa chạy vừa la hét như điên trên con đường dẫn tới phòng định cư, làm náo động cả trại. Tôi là người sung sướng nhất trần gian ! Không một ai trên cõi đời này có thể sung sướng hơn tôi ! Không một hạnh phúc phù du nào có thể lớn hơn hạnh phúc được làm bố ! Cho tới nay hai đứa con vẫn là nguồn hạnh phúc vô biên trong cuộc đời tôi. Ðó là nguồn sống, niềm vui miên man và ý nghĩa cuộc sống của riêng tôi. Ấy đấy, nhưng khi có người đến nói với tôi rằng : ở xứ Úc này sinh một đứa con là nghèo 5 năm, tôi như bị một gáo nước lạnh tạt vô mặt. Thế rồi một người khác đến nói nhỏ với tôi : Vợ là nợ con là oan gia ! Tôi sững sờ muốn gân cổ cãi, mà nói không được. Nói ra thì đụng chạm quá nhiều. Tôi muốn tin rằng tôi chỉ là một con người bình thường như ức triệu người khác, những tình cảm thiêng liêng huyền diệu giữa cha mẹ và con cái mà tôi cảm nhận được cũng là những tình cảm thiêng liêng huyền diệu mà tất cả mọi người đều sẵn có. Nhưng thực tế dường như không đúng như vậy. Tình phụ tử, mẫu tử dẫu có thật, nhưng mối oan gia dường như cũng không phải là hiếm. Niềm vui ban đầu qua đi thì tới những nỗi nhọc nhằn kế tiếp. Một người bạn tới than thở rằng hai vợ chồng hùng hục làm việc như điên, overtime cày tối đa, chân tay rã rời, xương sống oằn oại, ho rũ rượi đến tức ngực, bắp thịt vai đau buốt, tiền kiếm được không ít vậy mà sao tan biến đi đâu cả. Tính lại sổ chi tiêu trong gia đình thì hãi hùng vì thấy phần lớn đã bị mấy cái tàu há mồm nuốt hết. Anh ta so sánh mình với một cặp vợ chồng bạn cùng lứa tuổi và chợt thấy mình quá dại. Cặp vợ chồng kia nay đã có một cuộc sống nhẹ tâng. Lấy nhau, họ ký ngay một khế ước ba khoan. Một khoan : khoan có con chờ tới khi cả hai vợ chồng đã đỗ đạt thành danh kiếm được việc làm vững chắc. Hai khoan : có được việc làm vững chắc rồi thì dành dụm tiền mỗi năm chu du thiên hạ, du dương hưởng tuần trăng mật kéo dài, nắm tay nhau vui hưởng hạnh phúc của một cặp vợ chồng son cho đến khi thật chán chê mê mỏi. Ba khoan : Khi đã chán chê mê mỏi rồi cũng vẫn khoan có con, chờ đến khi mình dành dụm đủ tiền trả dứt nợ mua nhà mua xe và có một số vốn đủ sức sống lúc tuổi già mà không phải vào nhà dưỡng lão. Thật là một cuộc sống ấm êm nhung lụa ! Ôi, thấy người lại ngẫm đến ta và mới biết rằng mình dại. Nhưng cái dại đâu phải chỉ có vậy ! Ðứa con lớn lên, bắt đầu trở tính ngang bướng. Nó cãi lại bố mẹ, coi bố mẹ là lỗi thời hủ lậu. Cái gì mà : Công cha như núi Thái Sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra ? Công cha, nghĩa mẹ, ơn thày chính là những sợi xích sắt trói buộc tuổi trẻ, kìm hãm không cho tuổi trẻ phát triển và tự do hành động. Tuổi trẻ lớn lên không hề nhìn thấy mình đã là một gánh nặng trĩu trên vai bố mẹ. Nó chỉ nhìn thấy bố mẹ đang và sẽ là cái gông nặng trĩu trên vai mình. Tại sao các cụ lại cấm mình đi chơi thâu đêm suốt sáng ? Tại sao các cụ lại dám " có ý kiến" vào việc chọn lựa lứa đôi ? Cái tình phụ tử, mẫu tử nhạt nhòa như sương khói tan biến đi đâu hết, chỉ thấy công cha nghĩa mẹ ơn thày giống như núi Thái Sơn đè nặng trĩu hai vai. Tuổi trẻ muốn vùng lên, hất trái núi Thái Sơn đó xuống biển để có thể tự do sống cuộc đời mình. Mối dây kết nối cha mẹ và con cái thực là kỳ dị. Có khi nó giống như sợi tơ hồng êm ái thật dễ thương. Có khi nó giống như sợi dây thòng lọng xiết cổ ta làm ta nghẹt thở. Khó ai có thể đồng ý với ai rằng nó thực sự là cái gì. Giữa cha mẹ và con cái đã như vậy, giữa vợ chồng hay các cặp tình nhân có gì khác không ? Bước vào cuộc đời là bước sang một giai đoạn khác, giai đoạn tìm người phối ngẫu. Chữ tình là cái chi chi Mà cho mặt sắt đen xì cũng thương ? Không ai cắt nghĩa được tình yêu thực sự là gì và khởi đầu ra sao. Phải chăng nó chỉ là một áng mây trôi lơ lửng trên vòm trời, một ngọn gió hiu hiu thổi đến lòng mình vào một buổi chiều nắng nhạt ? Hay nó là một nụ cười chúm chím bỗng làm không gian rực sáng hơn nghìn ngọn pháo bông cùng vọt lên trời một lúc vào ngày hội lớn nhất trong năm ? Tình yêu nam nữ có thể biến một tai nạn thảm khốc xảy ra cho nghìn người trên con tàu Titanic thành một thiên tình sử diễm lệ tuyệt vời nhất trần gian. Chẳng một ai bận tâm rỏ một giọt nước mắt khóc cho những người xấu số. Ánh mắt vui tươi, nụ cười rạng rỡ trên mắt trên môi cặp tài tử trẻ măng làm cõi lòng người xem nở ra từng khúc ruột. Ðấy mới thực là hạnh phúc thiên đường ! Ta phải như họ. Ta chính là họ. Ta chính là Roméo và Juliet. Tương quan giữa một nam một nữ là tương quan tuyệt vời nhất, đẹp đẽ nhất trần gian ! Là sợi dây tình ái ngọt ngào, là yêu thương êm đềm miên man bất tuyệt, là niềm vui chan hòa, là vô vàn hạnh phúc. Cho đến một hôm chợt nghe một người khác thở than: Gái có chồng như gông đeo cổ Trai có vợ như rợ buộc chân Lấy nhau làm gì để mà đeo gông vào cổ, lấy rợ buộc chân ! Thoạt tiên thì mình nghĩ người bạn tới than thở chỉ là để kể lại một câu chuyện cũ rích. Lại cô Loan và bà Phán Lợi, lại cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy, lại những hủ tục đã có tự ngàn xưa. Thế nhưng thực tế đâu có giản dị như vậy ? Nghe rõ đầu đuôi câu chuyện ta ngỡ ngàng tự hỏi : đâu là sự thật ? Cái thời cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy dẫu chưa qua hẳn nhưng đã không còn ở cao điểm nữa. Con cái đã vùng lên . Bố mẹ sợ chết khiếp và trên thực tế chẳng còn uy lực gì để bắt con ngoan ngoãn nghe lời mình. Cái thảm họa xảy ra cho rất nhiều gia đình ở thập niên 90 khác rất xa với những gì xảy ra ở thập niên 30. Nam nữ lớn lên đã giành lại được quyền tự quyết và tự chọn lựa người phối ngẫu. Họ lấy nhau vì yêu nhau ra rít chứ không phải vì cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy. Thế sao chuyện đổ vỡ lại xảy ra quá nhiều, nhiều gấp bội so với những thời xa xưa ? Chỉ một vài năm sau khi lấy nhau thôi cả vợ lẫn chồng đều thấy rằng mình đã lầm. Nàng tiên hiền hậu khi xưa nay sao giống như bà chằng. Chàng tuổi trẻ hào hoa phong nhã ngày nào của mối tình đầu đẹp như thơ nay lộ nguyên hình là một gã vũ phu đầu óc đặc sệt tư tưởng chồng chúa vợ tôi. Thế mà bảo phải yêu nhau đến khi đầu bạc răng long thì có họa là điên ! Nhưng mối dây kết nối người với người không chỉ giới hạn trong khung cửa hẹp gia đình. Nhìn ra ngoài xã hội ta thấy tương quan giữa con người và xã hội cũng rắc rối không kém. Mối tương quan đó được kết tinh thành những gì cao quí nhất. Người ta gọi nó là Lý Tưởng, là Tình Yêu Ðất Nước Ðồng Bào, tình yêu Tổ Quốc, vv và vv... Khi nghĩ đến Ðất Nước Ðồng Bào ta cảm thấy như được trầm mình trong một dòng suối mát rượi. Không đất nước nào đẹp bằng quê hương ta. Không dân tộc nào hiền hòa anh dũng, cần cù siêng năng, thông minh, dễ thương dễ mến bằng dân tộc ta. Ta hãnh diện là người Việt Nam. Ta yêu mến đất nước ta, dân tộc ta, và cảm thấy có nghĩa vụ trách nhiệm phải góp phần vào việc xây dựng bảo vệ đất nước. Ôi, mối dây kết nối con người và xã hội đẹp đẽ xiết bao ! Nợ nước chưa đền thì không xứng đáng mặt làm trai ! Và ta hăng hái lên đường tòng quân cầm súng chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc Ðồng Bào. Nhưng thời cuộc đổi thay, đất bỗng lộn lên trời. Mọi tư tưởng của con người bỗng nhiên đảo lộn. Cái gì xấu xa tệ hại nhất bỗng nhiên được để lên bàn thờ cho mọi người xì sụp lạy. Cái gì ta vẫn cho là tốt đẹp nhất bỗng bị nhận xuống bùn đen. Bỗng nhiên có phong trào Trốn lính là yêu nước. Lòng yêu nước và ý thức trách nhiệm bỗng trở thành tội lỗi xấu xa. Tổ quốc Việt Nam đột nhiên biến thành Tổ Quốc Xã Hội Chủ Nghĩa. Yêu đồng bào mà chưa yêu ông đồ tể Stalin là còn nặng tư tưởng phong kiến lạc hậu cực kỳ phản động, đáng đem bắn bỏ hết. Lòng yêu nước, nếu không phải là yêu Tổ Quốc Xã Hội Chủ Nghĩa thì đồng nghĩa với phản quốc. Suốt bốn ngàn năm lịch sử, bao nhiêu anh hùng liệt sĩ phút chốc biến thành bọn phản quốc hết. Nợ nước bỗng nhiên biến thành Nghĩa Vụ Quốc Tế. Người dân bị đẩy sang Căm Pu Chia xâm chiếm nước người, giết và bị người giết, chết tức tưởi trong lò nướng thịt người. Họ chết không nhắm mắt vì trước khi chết còn nhìn thấy những tia mắt oán hận căm gan trong ánh mắt người dân Miên nhìn kẻ xâm lược. Ðấy là lòng Yêu Nước ...Xã Hội Chủ Nghĩa! Lòng yêu nước của cha ông ta trước đây nhiều hay ít ta không đo đếm được, nhưng Nợ Nước Xã Hội Chủ Nghĩa ngày nay thì có thể đo đếm bằng tiền bạc hẳn hoi. Nó là 10 tỉ Rúp nợ Liên Xô và món nợ Trung Quốc, Ðông Âu mà Nhà Nước dấu kín như mèo dấu cứt. Món nợ đó được trả bằng xác chết cả triệu người dân Nam Bắc, nửa triệu người chết chìm trong lòng biển cả. Nó được trả bằng tài nguyên đất nước bị gom góp đưa sang Thành Trì Cách Mạng Vô Sản, bằng lao nô, bằng vv... Bây giờ ngẫm lại ta không biết nên cười hay nên khóc, không biết có nên tiếp tục " Yêu Nước " nữa hay không ? Mối dây kết nối Ta và Ðất Nước Ðồng Bào không biết thực sự là Duyên, là Nợ hay là Tình ? Hay nó chỉ là sợi xích sắt khổng lồ mà ta muốn chặt đứt ? Tôi không muốn vội vã đưa ra một kết luận nào khi viết bài này. Kết luận rồi sẽ sinh ra cãi nhau. Cãi nhau rồi sẽ đánh nhau. Ðánh nhau rồi sẽ giết nhau. Dân tộc tôi
đã cãi nhau, đánh nhau, giết nhau suốt mấy chục
năm rồi. Nguyên nhân của những cuộc cãi nhau,
đánh nhau, giết nhau đó chỉ là vì
không ai có thể đồng ý với ai rằng mối dây
kết nối người với người thực sự là gì. Sợi xích
sắt hay sợi tơ hồng ? Hướng nội hay hướng ngoại? Khi hai nền văn hóa giao lưu ta có dịp đối chiếu và so sánh. Hậu quả của việc đối chiếu và so sánh là tư tưởng ta có thể thay đổi, cách nhìn cuộc đời của ta có thể thay đổi thật sâu xa. Sự thay đổi đó tốt hay xấu ? Nếu khi đối chiếu và so sánh ta nhìn thấy tất cả những gì của ta đều là xấu xa tệ hại, tất cả những gì của người khác đều là tốt đẹp hay ho thì ta sẽ có khuynh hướng chạy theo cái Mới, vứt bỏ cái Cũ. Ta sẽ cho rằng văn hóa của ta là hủ bại thối nát, văn hóa của người là tiến bộ văn minh. Ngược lại nếu ta cho rằng tất cả những gì của ta đều là tốt đẹp, tất cả những gì của người khác đều là tệ hại xấu xa thì ta sẽ có khuynh hướng giữ gìn bảo tồn những gì ta đã có. xua đuổi ngăn chặn mọi ảnh hưởng của văn hóa ngoại lai. Cả hai cách nhìn cuộc đời như vậy đều có thể dẫn tới những hậu quả vô cùng tai hại: hoặc là bế quan tỏa cảng khư khư ôm lấy những Ðịnh Kiến, hoặc là chóa mắt mù quáng chạy theo những Ảo Giác hão huyền. Cuộc tranh chấp Cũ Mới vào thập niên 30 ở Việt Nam là một thí dụ điển hình về những tác hại sâu xa của Ðịnh Kiến và Ảo Giác. Trước hết ta thử suy ngẫm xem những gì thực sự là của ta và những gì thực sự là của người khác. Khi nghĩ tới văn hóa dân tộc không ít người đã nghĩ ngay tới Tam Giáo Cửu Lưu. Nói tới văn hóa dân tộc họ nghĩ ngay tới Khổng Giáo, Phật Giáo và Lão Giáo, đó là chưa kể tới một lô một lốc những kiện tướng trong hàng Bách Gia Chư Tử. Có bao giờ ta đặt câu hỏi xem ông Khổng Tử là ai, Ðức Phật Thích Ca là ai, ông Lão Tử là ai không nhỉ ? Ông Khổng Tử và Lão Tử là người Tàu, đức Phật Thích Ca là người Ấn Ðộ, ba vị đó có vị nào là người Việt Nam đâu mà ta vội nghĩ Khổng học, Phật Học, Lão Học là nền tảng của văn hóa Việt Nam ? Vậy thì Khổng Giáo, Phật Giáo, Lão Giáo là của người hay của ta ? Cho rằng văn hóa Việt Nam chỉ là Tam Giáo Cửu Lưu đã là một điều sai lầm mà cho rằng người Việt Nam chỉ biết khư khư ôm lấy cái gì của mình, coi mình là cái rốn của vũ trụ, thiếu hẳn tinh thần cởi mở bao dung lại cũng là một định kiến tai hại, quá xa sự thật. Khi mở rộng vòng tay đón nhận mọi tư tưởng của Khổng học, Phật học, Lão học ùa vào Việt Nam như thác lũ, phải chăng tổ tiên ta đã chấp nê thiển cận chỉ biết khư khư ôm lấy những gì của người Việt Nam, do người Việt Nam và vì người Việt Nam, ngoài ra hễ thấy cái gì của người khác thì xua đuổi như xua đuổi tà ma? Ông cha ta đã hướng ngoại hay hướng nội? Ông cha ta đã có tinh thần cởi mở bao dung phóng khoáng hay có tinh thần thủ cựu vùi đầu xuống cát? Khi nghĩ tới văn hóa Tây phương không ít người cũng có những Ảo Giác thật tai hại. Họ nhìn thấy người Việt Nam đầy định kiến, cố chấp khư khư bảo thủ ôm lấy cái Cũ đã có tự ngàn xưa, bế quan tỏa cảng, thiển cận hẹp hòi. Họ ngước mắt nhìn lên thấy người Tây phương thật khôn ngoan sáng suốt nhìn xa trông rộng, biết đề cao những giá trị văn hóa sáng ngời rực rỡ như Tự Do, Công Bằng, Bác Ái, như Quyền Tự Quyết, Quyền Sống, Quyền Làm Người, vv và vv...Trên tất cả mọi điều là tinh thần cởi mở bao dung mà họ nghĩ đó là sự khác biệt sâu xa nhất giữa văn hóa Tây phương và văn hóa Ðông phương. Thực vậy chăng ? Phải chăng tinh thần cởi mở bao dung và những giá trị văn hóa như Tự Do, Bình Ðẳng, Công Bằng , Bác Ái,vv... là sở hữu riêng của người Tây phương và chỉ người Tây phương mới có ? Người đã phá vỡ cái nhìn lệch lạc méo mó đó bằng một nhát búa nặng nề nhất có lẽ là nhà bác học Trung Hoa Phương Lệ Chi. Khi cứ bị nghe hoài rằng Tự Do là lý tưởng của người Mỹ, vì chỉ có người Mỹ mới có bức tượng nữ thần Tự Do, nhà bác học Phương Lệ Chi đã không dấu được sự bực tức khi đưa ra nhận định rằng Tự Do không phải là độc quyền của người Mỹ. Tự Do là khát vọng chung của tất cả loài người từ khi tạo thiên lập địa. Tự Do không phải là sở hữu của riêng ai. Khi tìm hiểu kỹ nguồn gốc bức tượng nữ thần Tự Do ta ngỡ ngàng vì tác giả pho tượng nổi danh đó là Frederic A. Bartholdi, một người Pháp chứ không phải là người Mỹ. Người Mỹ mà cho rằng Tự Do là sở hữu riêng của họ đã là một sự nhận vơ bá láp rồi, mà người Pháp cho rằng lý tưởng Tự Do là do họ khai sinh cũng là một điều ngớ ngẩn. Nhiều lắm thì ta chỉ có thể nói người Pháp đã nặn lên mẫu bức tượng nữ thần Tự Do, chi tiền đúc pho tượng đó làm quà tặng người Mỹ và người Mỹ đã chi tiền đúc cái bệ pho tượng lớn lao đó. Ta không thể vì sự hiện hữu của bức tượng nữ thần Tự Do mà vội vã kết luận rằng lý tưởng Tự Do là sở hữu riêng của người Mỹ hoặc người Pháp được. Nói tới ý niệm Bình đẳng ta lại giật mình thêm một lần nữa. Không ít người Tây phương nhìn vào xã hội Ðông phương với cái nhìn dè bỉu. Họ tin rằng xã hội Ðông phương là một xã hội bất bình đẳng thâm căn cố đế. Ðó là một xã hội đặc sệt tư tưởng trọng nam khinh nữ, nhất nam viết hữu thập nữ viết vô. Ðâu là Sự Thực? Ta chỉ thấy nước Mỹ là nước đề cao tư tưởng nam nữ bình quyền nhất thiên hạ, cho tới nay loay hoay mãi vẫn chưa bầu được một nguyên thủ quốc gia là phụ nữ. Khi nghĩ tới Hai Bà Trưng đã là nguyên thủ quốc gia Việt Nam cách đây hai ngàn năm, ta bâng khuâng không biết rằng khi lên án tổ tiên ta là đặc sệt tư tưởng bất bình đẳng trọng nam khinh nữ có đúng hay không, và ngưỡng vọng lý tưởng nam nữ bình quyền của người Tây phương thì phải chờ bao nhiêu năm nữa mới thấy nước Mỹ có một nguyên thủ quốc gia là phụ nữ ? Nghĩ tới Quyền Làm Người là nghĩ đến Tinh Thần Tự Chủ và Bất Khuất, không chịu cam tâm cúi đầu làm nô lệ kẻ khác. Phải chăng ta phải chờ người Pháp tới dạy cho ta một bài học ta mới có được lòng yêu nước và tinh thần tự chủ ? Bản tuyên ngôn nhân quyền là kết tinh ước vọng lớn lao của nhân loại, không ai phủ nhận điều đó. Bản tuyên ngôn đó cô đọng những tinh hoa của nhân loại để nói lên khát vọng sâu xa của tất cả loài người, điều đó cũng không ai phủ nhận. Nhưng nói rằng trước khi có bản tuyên ngôn nhân quyền chưa ai nghĩ tới Quyền Sống, Quyền Tự Quyết, Quyền Mưu Cầu Hạnh Phúc thì có lẽ là một kết luận quá khiên cưỡng. Khi Hai Bà Trưng nổi dậy chống lại sự tham tàn áp bức của Tô Ðịnh, hẳn là hai bà cũng đã có ý nghĩ rằng mình có quyền tự quyết, quyền sống, quyền làm người. Nếu không thế Hai Bà đã buông xuôi hai tay cúi đầu chấp nhận thân phận làm nô lệ. Khi Lý Thường Kiệt cầm quân đánh Tống và viết lên những câu thơ bất hủ Nam quốc sơn hà nam đế cư Tiệt nhiên định phận tại thiên thư Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư. Hẳn là Ông cũng đã tin rằng mỗi dân tộc có quyền tự quyết và mưu cầu hạnh phúc cho dân tộc mình. Nếu không tin như vậy thì Ông đã bó tay về với triều đình, cam phận cho thiên tử Trung Hoa mặc tình chém giết đầy đọa. Tóm lại một câu ta cứ thử suy ngẫm xem những giá trị văn hóa mà người Tây phương thường đề cao như Tự Do, Bình Ðẳng, Công Bằng, Bác Ái, vv... có thực sự là sở hữu riêng của người Tây phương hay không ? Những giá trị văn hóa đó là của người hay của ta ? Ngẫm cho cùng câu hỏi của người hay của ta, của tôi hay của bà chỉ là một câu hỏi cắc cớ. Cái của bà thì để tôi xài, cái của tôi thì để bà xài, vậy biết ai thực sự nắm quyền sở hữu ? Sự tranh cãi của anh của tôi để giành quyền sở hữu văn hóa có thể dẫn đến những hậu quả vô cùng tai hại thảm khốc. Cho rằng tất cả những gì của ta đều tốt đẹp, tất cả những gì của người khác đều xấu xa sẽ dẫn tới Ðịnh Kiến và lòng cao ngạo ngất trời xanh. Mặc cảm tự tôn có thể bị những tay thuật sĩ khích động để ta ngồi trên đống sọ người cao ngất mà vênh váo tin rằng ta đang ngồi trên đỉnh cao trí tuệ loài người. Ngược lại cho rằng tất cả những gì của ta đều là xấu xa hủ bại, tất cả những gì của người khác đều là tiến bộ văn minh sẽ dẫn tới Ảo Giác và mặc cảm tự ti cũng tai hại không kém. Ảo giác đó sẽ làm ta chóa mắt và bị dẫn dụ để quỳ xuống khấu đầu xì sụp lạy những thần tượng ngoại bang và cam phận suốt đời làm nô lệ. Một sử gia Nhật Bản đã đưa ra một nhận xét làm ta bàng hoàng cả người. Thời Minh Trị Thiên Hoàng nước Nhật tiến vọt lên hàng cường quốc. Sự tiến bộ mau chóng đó một phần nhờ người Nhật mở rộng cửa đón nhận và học hỏi khoa học kỹ thuật Tây phương, phần khác nhờ người Nhật tự vạch cho mình một con đường rõ rệt. Con đường đó cô đọng trong câu : Wakon Yỏsai ( Tinh Thần Nhật Bản, học thuật Tây phương ) Cái mà người Nhật gọi là Tinh Thần Nhật Bản đó, trớ trêu thay, chỉ có một phần nhỏ bắt nguồn từ Thần Ðạo. Phần lớn hơn chính là Tâm Học của Vương Dương Minh. Nhưng Vương Dương Minh là ai vậy ? Ông ta là một nho sĩ đời Minh bên Tàu ! Sử gia Nhật Bản nói trên đã phán một câu làm ta bàng hoàng sửng sốt : Nước Trung Hoa có Vương Dương Minh mà lụn bại. Nước Nhật không có Vương Dương Minh, chỉ thấm nhuần tư tưởng của Vương Dương Minh mà trở nên hùng cường. Văn hóa dường như không chia biên giới, không có màu da, không có tuổi tác, không có Ðông không có Tây, không có Trẻ không có Già, không có Cũ không có Mới, không có Xưa không có Nay, không có Ta không có Người Khác. Văn hóa không hình không ảnh, giống như một làn sương khói mỏng manh, không một ai có thể khư khư ôm lấy giữ làm của riêng. Khi ta cố vẽ nó, chụp hình nó, đóng đinh treo trên tường giữ lấy làm của riêng thì cái mà ta có chỉ là một bức tranh văn hóa chứ không phải là văn hóa. Văn hóa chỉ là khả năng đãi lọc những tinh hoa của nhân loại. Nếu một dân tộc đãi lọc được những tinh hoa thì dân tộc đó có văn hóa. Nếu một dân tộc chỉ đãi lọc được rác rưởi thì dân tộc đó chỉ có cái giả hình văn hóa. Vì thế câu hỏi Hướng nội hay hướng ngoại ? là một câu hỏi phù phiếm và vô ích. Những cuộc đấu tranh một mất một còn giữa Ta và Người Khác, giữa Ðông và Tây, giữa Cũ và Mới, giữa Trẻ và Già, giữa Xưa và Nay, giữa Tư Bản và Vô Sản, giữa Duy Tâm và Duy Vật ngẫm cho cùng chỉ xảy ra khi con người bị xúi giục để hành động theo chỉ thị và ý muốn của những kẻ muốn nắm đầu xỏ mũi thiên hạ với tham vọng muôn năm trường trị nhất thống giang hồ. Những cuộc đấu tranh đó xảy ra khi con người mất hết sáng suốt, mất hết tinh thần tự chủ, mất hết khí phách, cam phận cúi đầu làm nô lệ, sẵn sàng để cho người khác nắm đầu xỏ mũi lôi đi. Những cuộc đấu tranh đó xảy ra khi con người ngước mắt nhìn lên thấy thí nghiệm con chó-tiếng chuông và miếng thịt của Pavlov tuyệt vời quá, tin chắc rằng đã khám phá được thuật nắm đầu xỏ mũi tất cả loài người. Nước rãi của con chó vẫn chảy khi nghe tiếng chuông và nhìn miếng thịt, nhưng con người dường như đã biến thành nước rãi của con chó. Ðấy là cái tác hại lớn lao khi ta Làm văn hóa mà lầm như lời cảnh cáo của Lão Tử. Ngẫm cho cùng thì con người đâu có khác gì nhau? Da trắng, da đen, da đỏ, da vàng, chắc gì ai đã hơn ai ? Giàu nghèo sang tiện chắc gì ai đã là người lương thiện ? Ðông Tây Nam Bắc biết nơi nào là thiên đường hạ giới? Trẻ Già Cũ Mới biết ai là khôn ai là dại? Nhưng có một điều ta biết rất rõ, mọi người biết rất rõ. Văn hóa là đãi lọc những tinh hoa của nhân loại. Nếu cái tinh hoa đó thực sự là tinh hoa thì dù của Tàu, của Ta, của Tây, của Mỹ cũng vẫn là tinh hoa. Khi nó là cặn bã thì dù nó là của da đỏ, da đen, da vàng, da trắng nó vẫn là cặn bã. Trải qua một cuộc sống quá nhiều đổi thay, đảo điên điên đảo, suy ngẫm lại tôi thấy mình không còn tin ở kim chỉ nam của chiếc địa bàn nữa. Tôi chẳng còn tin rằng hướng về Ðông hay hướng về Tây thì sẽ thấy thiên đường cực lạc. Tôi cũng chẳng còn thao thức băn khoăn xem mình nên hướng nội hay hướng ngoại, về nguồn hay lên đường tìm tân thế giới nữa. Chính khi đó tôi bỗng nhớ lời Phật dạy: Phật tại tâm. Ði khắp thiên hạ để tìm Phật thì may lắm chỉ được chiêm ngưỡng những pho tượng Phật to nhất thế giới. Nhưng tượng Phật đâu phải là Phật ? Ngẫm lại Xấu hay Tốt, Thiện hay Ác chỉ nảy sinh từ tác động hỗ tương giữa người và người. Xấu hay Tốt tùy thuộc vào cách cư xử lẫn nhau giữa người và người. Xấu Tốt Thiện Ác không hề chia biên giới, không phân biệt màu da, tuổi tác, địa vị xã hội. Không có Ðông, không có Tây, không có Trẻ không có Già, không có Cũ không có Mới, không có Xưa không có Nay. Khi nghĩ được điều đó thì lòng tôi cảm thấy thật nhẹ nhõm thanh thản và biết rất rõ hướng đi của mình. Hướng đi đó nằm trong một chữ Thoát. Thoát ra khỏi mọi Chấp Nê Ðịnh Kiến. Thoát ra khỏi mọi Ảo Giác Cuồng Vọng. Ðiều quan trọng hơn hết là thoát ra khỏi bàn tay dơ bẩn của các thuật sĩ muốn nắm đầu xỏ mũi lôi đi. Thoát khỏi Ðịnh Kiến và Ảo Giác rồi thì thấy tâm hồn mình trở về tâm hồn một người dân bình dị chất phác. Ðâu cần đọc thiên kinh vạn quyển mới hiểu được thế nào là Xấu Tốt ? Xấu hay Tốt nằm ngay trong tâm ta. Lắng tâm xuống là Xấu Tốt sẽ hiển hiện lên rõ mồn một. Áp bức, Bóc Lột, Ðộc Ác, Gian Trá, Ðểu Cáng, Xảo Quyệt, Lừa Lọc, Lường Gạt là Xấu. Ðộc Tài, Ðộc Ðoán muốn mọi người quỳ dưới chân làm nô lệ cho mình là Xấu. Xưa tôi đã nghĩ như vậy, nay tôi vẫn nghĩ như vậy. Trải qua bao nhiêu biến động trong xã hội tôi vẫn chỉ là tôi, không hề biến thành người khác. Tôi chẳng hề thắc mắc xem mình nghĩ như vậy có Ðúng hay không. Thế giới quanh tôi có quá nhiều thuật sĩ. Những thuật sĩ đó luôn luôn tìm mọi cách để nhào nặn ý nghĩ mọi người ngõ hầu nắm đầu xỏ mũi thiên hạ. Thủ thuật nắm đầu xỏ mũi thiên hạ có thiên hình vạn trạng. Nó có thể là rừng mơ của Tào Tháo. Nó có thể là Cái Roi và Củ Cà Rốt. Nó có thể là Bạo Lực Cách Mạng và Thiên Ðường Cộng Sản. Nó có thể là đồng Ðô La thơm phưng phức hay trại cải tạo tối tăm. Hình thái thay đổi nhưng dã tâm của những thuật sĩ không có gì thay đổi. Dã tâm đó trước sau như một vẫn chỉ là Lường Gạt và Nắm Ðầu Xỏ Mũi thiên hạ. Ngẫm lại điều cần thiết hơn cả vẫn là tinh thần tự chủ.
Có tinh thần tự chủ ta mới đủ sáng suốt để khỏi bị dẫn dụ
làm công cụ cho người sai khiến. Ðiều đau đớn nhất
trên đời dường như chính là khi tỉnh mộng chợt thấy
mình suốt đời bị lường gạt để cúc cung tận tụy làm
thân trâu ngựa. Ông già Thượng bên
đống tro tàn Năm 1978 tôi đang bị giam ở trại cải tạo Bù Loi. Một buổi tối mót đi cầu một mình đi ra cầu tiêu sau trại. Ngay gần dãy cầu tiêu trước đây có một căn nhà lá của một ông già Thượng. Vài ngày trước đó không hiểu vì sao căn nhà bị cháy rụi. Từ trong cầu tiêu nhìn ra trong bóng tối chạng vạng của một đêm không trăng không sao tôi bỗng thấy có một vật gì di động ở nơi căn nhà Thượng cũ. Nhìn kỹ tôi bỗng lạnh xương sống. Dường như có một người nào đó đang ngồi lắc lư ôm đầu trên đống tro tàn. Bóng người hay bóng ma ? Trở về trại, đem chuyện đó kể cho anh em trong trại nghe, thì có người nói cho biết đó là ông già Thượng chủ căn nhà lá đó. Bộ đội Cộng Sản cướp hết rẫy của ông ta và đốt căn nhà ông đang ở cháy rụi để ông không còn trở về được nữa. Tối tối ông vẫn trở về căn nhà cũ ngồi trên đống tro lạnh khóc một mình. Trời hỡi trời ! Có phải chính những người Việt Nam máu đỏ da vàng cùng chủng tộc với tôi đã cướp hết công lao suốt đời của ông ta, đốt rụi căn nhà ông ở hay không ? Vậy thì có gì để tự hào là người Việt Nam ? Tôi thấy trong lòng đau xót tủi nhục không sao tả xiết . Hôm sau chúng tôi được lệnh đi ra rẫy lao động. Lúc đó lúa ngoài rẫy đã chín. Chúng tôi được lệnh đi gặt lúa. Không biết ai đã trồng lúa ở những rẫy đó. Ðược lệnh đi gặt lúa thì xách liềm mà đi chứ không suy nghĩ gì hết. Ra tới rẫy rồi mới nghe anh em bàn tán xôn xao. Người Thượng quanh đó đang kéo nhau lên " ủy ban nhân dân" biểu tình để đòi rẫy. Rẫy của họ đã bao đời làm lụng nay bị bộ đội Cộng Sản cướp sạch. Lòng tôi nặng trĩu ưu tư. Chiều về tôi mỏi mệt bước chậm chạp và bị rớt lại sau chót cuối hàng. Vừa đi vừa cúi đầu suy nghĩ. Chợt một tiếng động sau lưng làm tôi giật mình đứng lại, ngoái cổ về phía sau. Ðằng sau lưng tôi, bên con đường mòn băng qua rẫy là một căn nhà lá của người Thượng. Tôi nhìn rõ ràng mấy tên bộ đội Cộng Sản đang giật cho căn nhà sập xuống. Anh em tù cải tạo đi trước đã bỏ khá xa nên tôi bắt buộc phải rảo bước không thể đứng lại. Nhưng mới bước đi được một quãng ngoảnh lại tôi nhìn thấy rõ những tên bộ đội Cộng Sản đang châm lửa đốt nhà. Lửa cháy bừng bừng, chẳng mấy chốc cả căn nhà lá biến thành một khối đỏ rực. Cả trại hôm đó chỉ có một mình tôi được chứng kiến cảnh tượng đó. Lòng tôi đau xót như bị dao đâm. Tất cả những gì mà nhiều người đề cao là lý tưởng " bình đẳng" và " công bình xã hội" bỗng trở thành những vết thương lở loét. Giữa tôi và những người Thượng chủ những căn nhà lá bị đốt đó không có gì khác nhau. Chúng tôi cùng là người như nhau. Lấy quyền gì mà một người có thể cướp công lao của người khác ? Hãy nhìn cho thật kỹ: những người Thượng đó sống ra sao ? Ðàn ông, đàn bà, ông già, con nít đều cởi trần và quấn một mảnh khố nhỏ. Những người chỉ còn một mảnh khố để che thân thì không thể kết án họ là tư bản bóc lột. Họ không nuôi tá điền thì không thể kết án họ là địa chủ gian ác. Họ giãi nắng dầm mưa làm việc quần quật thì không thể kết án họ là lười biếng và trốn tránh lao động. Vậy thì lấy quyền gì mà đốt nhà cướp rẫy của họ ? Lần đầu tiên trong đời tôi kinh tởm những người cùng dòng máu Việt Nam và ý thức được rõ rệt rằng không phải cứ cùng là máu đỏ da vàng như nhau mà ta tự nhiên bắt buộc phải thương nhau. Tàn ác bất nhân như vậy thương sao được mà thương ? Ngọn lửa bốc lên từ căn
nhà người Thượng đó vẫn cháy rừng rực trong tim
tôi, cho đến giờ này vẫn chưa bao giờ tắt. Nó cho
tôi nhìn rõ cái tâm địa thật của những
lãnh tụ Cộng Sản. Họ chỉ có một tham vọng y hệt như tham
vọng của Thành Cát Tư Hãn: tham vọng chinh phục
và bắt kẻ bị chinh phục quỳ xuống làm nô lệ.
Chí Phèo và
Bá Kiến
Chí Phèo và Bá Kiến là hai nhân vật chính trong truyện ngắn Chí Phèo của nhà văn Nam Cao ( In lần thứ nhất với cái tên Ðôi lứa xứng đôi, nhà xuất bản Ðời Mới, Hà Nội, 1941). Nam Cao tên thật là Trần Hữu Trí, sinh năm 1915. Ông là một nhà văn tả thực nổi danh thời tiền chiến. Chí Phèo là truyện ngắn hay nhất của Nam Cao. Khoảng năm 1947-1948 ông bị Cộng Sản dụ dỗ gia nhập đảng Cộng Sản. Ông chết năm 1951. Cái chết của ông là một thiệt thòi lớn lao cho nền văn học Việt Nam ; nhưng đối với cá nhân ông biết đâu đó chẳng là một điều may. Vì mất sớm, ông chưa phải chịu cái nhục bẻ cong ngòi bút để theo mệnh lệnh của cường quyền, do đó ông vẫn giữ nguyên được cảm tình nồng hậu của người đọc. Chí Phèo là một đứa con hoang, khi sinh ra bị mẹ bỏ ở một lò gạch đổ nát. Một người đàn bà mù nhận về nuôi, để rồi lại đem bán cho một bác phó cối không con. Khi bác phó cối chết thì hắn bơ vơ, đi làm đầy tớ hết nhà này tới nhà khác. Năm hai mươi tuổi hắn đi cày ruộng cho cụ Bá Kiến. Cụ Bá Kiến có ba vợ. Bà vợ ba còn trẻ cứ hay bắt Chí Phèo bóp chân, xoa bụng, đấm lưng. Cụ Bá Kiến nổi ghen, vu cho Chí Phèo tội ăn trộm. Thế là Chí Phèo bị đi tù. Tám năm sau, hắn trở về làng. Cái đầu trọc lốc, ngực chạm trổ hình một ông tướng cầm chùy, có rồng phượng quấn quít. Hắn uống rượu say khướt rồi xách cái vỏ chai tới cổng nhà Bá Kiến, gọi tên tục ra mà chửi. Con trai Bá Kiến là Lý Cường trở về, tát cho Chí Phèo một cái. Chí Phèo liền đập cái chai vào cột cổng, lấy mảnh chai cào vào mặt, máu ra loe loét. Hắn lăn lộn dưới đất, và la làng như bị người ta cắt họng : - ỐI làng nước ôi ! Cứu tôi với... Bố con thằng Kiến nó đâm chết tôi. Cả làng xúm lại xem màn kịch nằm vạ. Cụ Bá Kiến về. Thoáng nhìn qua đã hiểu ngay cớ sự. Cụ đuổi hết dân làng đi. Cụ tới xốc nách Chí Phèo vào nhà, ngọt ngào vỗ về và nhận là có họ với Chí Phèo. Cụ Bá Kiến khôn róc đời. Thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ hai sợ kẻ cố cùng liều thân. Chí Phèo không anh hùng, nhưng nó là cái thằng liều lĩnh. Cụ Bá Kiến nhận ra rằng : đè nén con em đến nỗi nó không chịu được phải bỏ làng ra đi là dại. Mười thằng đã ra đi thì chín thằng trở về với cái vẻ hung đồ, cái tính ương ngạnh học được từ phương xa. Một người khôn ngoan thì chỉ bóp tới nửa chừng. Thế là từ đó cụ Bá Kiến không những không vu vạ gì cho Chí Phèo, mà lại còn giết gà mua rượu cho hắn uống, cho tiền hắn mua rượu. Rồi cụ Bá Kiến lại nghĩ được cách để sử dụng cái tài lấy mảnh chai cào mặt ăn vạ và cái tài đâm thuê chém mướn của Chí Phèo. Cụ sai Chí Phèo đi đòi nợ. Ðòi đám nào được đám đó. Nhưng rồi chỉ vì không lấy được Thị Nở, một người đàn bà xấu xí dở hơi, Chí Phèo bỗng nổi điên. Trong cơn say rượu, hắn xách dao tới nhà Bá Kiến, đâm chết Bá Kiến rồi tự sát. May cho Nam Cao là ông đã chết sớm. Vì ông chết sớm nên ông không trở nên một nhà văn hiện thực xã hội chủ nghĩa và Chí Phèo không bị biến thành một anh hùng giai cấp. Nam Cao đã mô tả xã hội với một ngòi bút khá trung thực. Sở dĩ tôi cho rằng ngòi bút Nam Cao khá trung thực là căn cứ vào cái tên lúc đầu ông đặt cho truyện ngắn ông viết cũng như đoạn kết. Cái tên ban đầu ông đặt cho truyện ngắn này là Ðôi lứa xứng đôi . Cái con người Chí Phèo và Bá Kiến thật là xứng đôi. Hai người ở hai hoàn cảnh hoàn toàn trái ngược nhau mà sao ta thấy cứ y như hai người tuy hai mà một : hoàn cảnh, địa vị tuy có khác nhau, nhưng tâm địa thì giống hệt nhau. Ở đoạn cuối Nam Cao kết rất tự nhiên : Cả làng Vũ Ðại nhao nhao lên. Họ bàn tán rất nhiều về vụ án đáng ngờ ấy. Có nhiều kẻ mừng thầm. Không thiếu kẻ mừng ra mặt. Có người nói xa xôi : " Trời có mắt đấy, anh em ạ !" . Trời có mắt đấy, anh em ạ ! Trời có mắt nên cả Bá Kiến lẫn Chí Phèo đều chết, và dân làng Vũ Ðại mừng ra mặt. Nếu trời không có mắt thì Nam Cao đã phải phấn đấu để trở thành một nhà văn hiện thực xã hội chủ nghĩa, và Chí Phèo đã trở nên một vị anh hùng vung con dao lấp lánh ánh sáng của ý thức giai cấp. Trong Tổng Tập Văn Học Việt Nam do nhà xuất bản khoa học xã hội và nhà xuất bản văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh hợp tác xuất bản năm 1984, Hội Ðồng Biên Tập đã đưa ra nhận định như sau : Chí Phèo đã đâm chết Bá Kiến rồi tự sát. Một cuộc nổi loạn liều lĩnh và bế tắc dĩ nhiên phải kết thúc như vậy. Nhưng lưỡi dao Chí Phèo vung lên như bắt đầu thấy lấp lánh ánh sáng của ý thức giai cấp của người dân cày, và đồng thời lóe lên cái ánh chớp báo trước một cơn giông tố dữ dội sẽ quét sạch chế độ thực dân, cường hào, địa chủ trên đất nước ta. Cơn giông tố đó quả thực vô cùng dữ dội. Con dao lấp lánh ánh sáng của ý thức giai cấp đã lóe lên, và xã hội Việt Nam đã chứng kiến cảnh những anh hùng Chí Phèo đâm thuê chém mướn thắng thế chễm chệ ngồi vào ngôi vị của Bá Kiến. Cái hay của Nam Cao là ông đã nhìn thấy rõ tâm địa của Chí Phèo và Bá Kiến vốn chỉ là một. Khi thất thế thì Bá Kiến là Chí Phèo, khi đắc thế thì Chí Phèo là Bá Kiến. Ðại đa số người dân bình thường vốn không phải là Bá Kiến, cũng chẳng phải là Chí Phèo. Cuộc đấu tranh một mất một còn giữa Bá Kiến và Chí Phèo chỉ là một cuộc đấu tranh giữa những kẻ cùng một tâm địa độc ác như nhau, một tham vọng độc ác như nhau, không liên quan gì tới quảng đại quần chúng. Ðoạn kết trong truyện ngắn của Nam Cao ( không thiếu
kẻ mừng ra mặt : Trời có mắt đấy, anh em ạ ! ) nói
lên khát vọng của người dân là được
nhìn thấy cả Bá Kiến lẫn Chí Phèo
cùng biến mất khỏi thế gian này. Chỉ có như vậy
thì người dân bình thường mới tìm lại được
an vui hạnh phúc. Con trâu và bậc ngu thánh Tác hại của những trại cải tạo khổng lồ mọc lên như nấm khắp nơi trong nước thật không nhỏ. Nó khiến nhiều người phát điên lên. Chịu không nổi tình trạng điên loạn của chính mình thì chỉ còn một cách tìm con đường giải thoát là tự tử. Một người tự tử dẫu có tìm được con đường giải thoát cho chính mình, thì để lại cho nghìn người sống sót những ấn tượng chua xót đau đớn chẳng bao giờ quên nổi. Vòng dây điện treo cổ anh Nguyễn Hưng Gia vẫn còn là nỗi ám ảnh mãi mãi trong tâm khảm những người được chứng kiến. Người viết cũng không thoát khỏi nỗi ám ảnh triền miên đó, vì thế ra khỏi trại cải tạo rồi mà thần kinh vẫn dao động ghê gớm. Tự mình hiểu rõ vẫn nửa điên nửa tỉnh, sống chập chờn trong cơn mê loạn. Năm 1980, sau khi ra khỏi trại cải tạo, người viết được một người bạn giới thiệu tới bệnh viện Nguyễn Văn Học để gặp một bác sĩ chuyên khoa thần kinh. Trong lúc ngồi ở phòng đợi, người viết tình cờ gặp được một người đàn bà cũng là một bệnh nhân đang chờ vào khám bệnh. Người đàn bà đó là một người điên vì thời cuộc hay một bậc đại trí ? Nghe những gì bà ta nói, người viết ngẩn ngơ tự hỏi : phải chăng đây chính là Quan Thế Âm Bồ Tát hiện thân xuống trần để chỉ cho cả mấy chục triệu người dân trong nước rằng chính họ mới là những người điên mà cứ tưởng rằng mình tỉnh táo ? Trong căn phòng vắng lặng giữa hơn 50 bệnh nhân ngồi như khúc gỗ, bà ta cao giọng nói huyên thuyên. Thoạt nghe thấy chói tai khó chịu ghê gớm, giống như bị chọc vào màng nhĩ. Những điều bà ta nói con cà con kê con dê con ngỗng, lòng thòng như một khúc ruột dư, không đầu không đuôi, lộn tùng phèo, nát như tương , chẳng ra đâu vào đâu cả. Muốn hét lên bảo bà ta im đi mà không được. Ai cấm cản nổi một người điên đang xổ hết cái điên ra giữa thanh thiên bạch nhật ? Vì thế những điều bà ta nói cứ lùng bùng trong màng nhĩ, không muốn nghe cũng cứ bị nghe. Bà ta nói cái gì vậy ? Cái gì mà có Lao Ðộng là vinh quang ở đây ? Bộ hết chuyện rồi sao mà mơ ước làm quản giáo ? Ðang vinh quang sao lại đột nhiên nhảy sang con trâu hùng hục kéo cày ? Ðang hùng hục kéo cày bỗng lộn tùng phèo thành bậc ngu thánh ? Thật cứ giống y hệt như con rồng lộn ! Người viết hầu như nổi điên lên, muốn nhảy tới bóp họng người đàn bà điên đó và hét lên : Im đi ! Im đi ! Ðừng nói nữa ! Một mình bà điên là đủ, đừng bắt người khác phải điên theo ! Nhưng vì chỗ ngồi quá xa, người viết không làm được chuyện đó nên đành chỉ còn một cách là bịt tai lại. Bịt tai lại rồi thì nghe lùng bùng trong màng nhĩ chỉ còn hai kẻ đại địch đang uýnh nhau dữ dội là con trâu và bậc ngu thánh. Hết con trâu lại ngu thánh, hết ngu thánh lại con trâu. Con trâu và ngu thánh quyện lấy nhau thành một khối cứng ngắc, gỡ ra không nổi. Bỗng nhiên từ trong tiềm thức người viết chợt lóe lên một tia sáng. Sao người đàn bà điên này giống mình thế ! Ðầu óc cũng điên loạn quay cuồng như nhau cả ! Những ý nghĩ hỗn độn cứ nhảy múa quay cuồng trong óc, không chịu ngồi yên. Tại sao vậy ? Bà ta thực sự định nói điều gì ? Lắng nghe thì chợt hiểu điều người đàn bà điên đó định nói mà diễn tả không được rõ ràng . Dường như điều bà ta định nói rất giản dị minh bạch : con trâu và bậc ngu thánh vốn là một. Chỉ giản dị có vậy thôi ! Té ra mình đều là những người điên như nhau. Ðiên quá nên một sự thật quá giản dị như vậy mà nghĩ mãi không ra. Ôi, trong thế giới điên loạn ngày nay, biết ai điên ai tỉnh ? Hồi tưởng lại những ngày còn nằm trong trại cải tạo, lần lần hình ảnh những con trâu và bậc ngu thánh hiện lên rõ mồn một. Những nhân vật có thật và sống động hiện ngay trước mắt, nhìn thật kỹ mà cũng không phân biệt nổi đó là những bậc đại trí hay những kẻ chí ngu. Vào năm 1975, người viết đang ở trong trại cải tạo Long Khánh. Lúc đó mới đầu mùa cải tạo, nhưng đã có lắm chuyện thật lôi thôi. Lòng mình thì xót như xoa muối mà thấy chung quanh nhiều kẻ hồ hởi phấn khởi phát ghét. Ðã quá hạn học tập 10 ngày mà vẫn chẳng thấy ngày về, nên người nọ ngó người kia lẩn thẩn hỏi nhau : Bao giờ mình trở về ? Anh Lê V.T., một giảng viên đại học khoa học Saigon hăng hái giảng giải cho bạn bè một chân lý rất khoa học khách quan : Cách Mạng chỉ muốn mình hiểu rõ là mình đã sai lầm lớn. Cái lỗi lớn nhất của mình là đã chơi với thằng tướng cướp. Bao giờ mình hiểu lỗi và từ bỏ ý định chơi với thằng tướng cướp đi, thì sẽ thành con người tốt xã hội chủ nghĩa, khi đó sẽ được về. Người viết nghe mà thấy ngậm ngùi. Tin vào lời ông giảng viên khoa học đó là tin rằng con người có thể suốt đời ngủ chỉ nhắm một mắt. Nghĩ vậy nhưng chẳng dám hé răng hỏi ông ta rằng ông đã từng ở nhà thương Chợ Quán bao lâu. Sau đó thì đến một ông thày trăm ngày. Ông ta nổi tiếng là một nhà tiên tri, nhìn suốt quá khứ vị lai. Ông nằm trên võng mắc giữa hai cây bã đậu đu đưa, đệ tử bu quanh đông như ruồi. Ông ta quả quyết rằng đúng 100 ngày thì tất cả mọi người sẽ được về. Lời tiên tri chắc nịch. Cái truyền thống cao quý của dân tộc mình là vốn tin vào cái mu rùa nhẵn nhụi hơn là tin vào những định luật khoa học khách quan, nên số người tin theo ông thày trăm ngày nhiều hơn học trò ông giảng viên khoa học gấp bội. Có một nhóm đệ tử cuồng nhiệt của ông thày trăm ngày họp nhau lại đánh cá. Một anh đề nghị đánh cá như sau : nếu đúng 100 ngày mà được về thì người thắng sẽ được đi Ramuncho. Người viết vốn chưa từng biết Ramuncho là gì, hỏi mãi mới hay đó là nhà hàng cơm tây ngon và sang nhất Saigon. Người thua cá sẽ phải chi tiền, dĩ nhiên như vậy. Ðiều khó khăn là hỏi 10 người đánh cá thì vừa đúng cả 10 đều tin tưởng tuyệt đối vào lời nhà tiên tri rằng đúng 100 ngày thì tất cả sẽ được về. Ai cũng cá như vậy thì bói đâu ra một người thua cuộc ? Sau cùng họ cũng tìm ra giải pháp là đúng 100 ngày, tất cả sẽ cùng nhau đi ăn nhà hàng Ramuncho, phần ai nấy trả. Anh N. kéo người viết ra một góc sân và bảo : những thằng ấy nó chưa đọc cuốn Quần đảo ngục tù. Nếu tụi nó đã đọc qua cuốn Quần đảo ngục tù thì đã biết 100 ngày dài bao nhiêu. Người viết tò mò muốn biết thêm về nhà tiên tri sáng suốt. Một trong những đệ tử ruột của ông thày trăm ngày tới năn nỉ xin ông ta nói cho ít điều về quá khứ vị lai. Ông nhìn anh ta và tặc lưỡi nói : có nhân có quả hết ! Kiếp trước bố anh uống rượu say lỡ giết một người nên kiếp này anh phải đi tù. Anh ta đau quá, chạy khắp trại thanh minh : bố tôi không phải là kẻ giết người ! Thanh minh thì mặc thanh minh. Nhà tiên tri đã nói thì phải đúng bóc sự thật ! Không tin cứ chờ đúng 100 ngày sẽ rõ. Chờ hết 100 ngày rồi thì trong trại chiêng trống nổi lên đinh tai nhức óc. Hàng trăm người không ai bảo ai mà hùa nhau đi gỡ tôn, rồi cắt, rồi đục, rồi lấy búa nện rầm rầm, đóng thành va li tôn, thùng đựng nước, chậu rửa mặt, nồi nấu cơm, hộp đựng nữ trang trạm trổ tinh vi khắc rồng khắc phượng... Tiếng búa đập tôn inh ỏi, khiến anh N. có lần ghé tai người viết nói nhỏ : Một lũ điên đang đi tìm chân lý xem thế nào là học tập tốt ! Người viết lặng thinh trả lời không được, nhưng cái cảm giác mình đang sống trong nhà thương Chợ Quán thì quá rõ rệt. Sau đó đến đợt thi đua dựng hàng rào kẽm gai quanh trại. Chỉ tiêu nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Kẻ thù là bọn phản động. Không biết bọn phản động là ai và đang ở đâu, nhưng muốn trấn áp bọn phản động thì phải nỗ lực lao động xã hội chủ nghĩa bằng cách dựng thật nhiều hàng rào dây kẽm gai để nhốt " tụi nó" ở trong. Có ở trong trại cải tạo mới thấy ngày tháng dài là chừng nào. Có ở lâu trong tù mới thấm thía hiểu được cái gì quý nhất và cái quý nhất dài bao nhiêu cm . Ngẫm lại thì học tập tốt chỉ là làm sao nhồi nhét được vào đầu cái ý niệm " Nô Lệ là Vinh Quang" , " sống kiếp trâu cày" là " thánh thiện" . Tóm lại, hiểu rõ " con trâu" và bậc " ngu thánh" vốn chỉ là một, đó là " tiến bộ" . Xét cho cùng đâu cứ phải ở trong trại cải tạo mới hiểu được chân lý đó. Thoát ra khỏi trại cải tạo chỉ là thoát ra khỏi nhà tù nhỏ để lại lọt vào nhà tù lớn. Ở đâu trong xã hội Việt Nam ngày nay thì cái chân lý muôn đời không thay đổi vẫn chỉ là : ai bảo làm thân trâu ngựa là khổ ? không, làm thân trâu ngựa thánh thiện lắm chứ ! Con trâu suốt đời hùng hục kéo cày quần quật, nó không bao giờ tự hỏi thế nào là áp bức bóc lột mà còn vênh váo rằng bị xỏ mũi chính là " trung với Ðảng" , kéo cày chính là thánh thiện vinh quang. Cái ngu của các bậc ngu thánh là đã bị huyễn hoặc dẫn dụ để hăm hở nỗ lực làm " người nô lệ tốt" mà quên đi rằng kẻ kia chỉ muốn nhồi nhét vào đầu óc mình tinh thần nô lệ để mình cam tâm cúi đầu trọn đời làm nô lệ. Dưới mắt những kẻ cầm quyền thì tinh thần nô lệ của lũ người bị trị rất " tốt" và rất cần thiết để kẻ thống trị có thể an tâm ngồi ngất ngưởng trên đỉnh cao quyền lực mà vui hưởng rượu nồng dê béo.
Ðổng Trác và Tào Tháo
Ðọc truyện Tam Quốc có hai kẻ nổi danh đại gian hùng là Ðổng Trác và Tào Tháo. Gian hùng là kẻ giả danh làm việc đại nghĩa, nhưng cái vỏ đại nghĩa đó chỉ được dùng để che đậy những hành vi độc ác bỉ ổi. Ðọc truyện xưa, quan sát những gì xảy ra trong thời cận đại và hiện đại, suy ngẫm kỹ ta mới thấy những thủ thuật của những kẻ gian hùng vẫn luôn luôn được sử dụng để lừa dối lường gạt đồng bào. Một trong những thuật của Ðổng Trác là giả danh đi đánh giặc lập công. Ðổng Trác loan tin kinh đô có giặc và mang đại quân đi dẹp giặc. Hắn mang quân ra khỏi kinh đô, ra lệnh cho quân sĩ bao vây dân chúng, đốt nhà cướp của, hãm hiếp đàn bà, chặt đầu mười vạn người dân, treo thủ cấp ở đầu ngựa. Kéo đại quân về với mười vạn thủ cấp và rêu rao khắp kinh thành là quân ta đã chém được mười vạn tên giặc. Sau đó mở tiệc liên hoan ăn mừng Ðại Thắng Mùa Xuân. Thuật giả danh " đánh giặc lập công" của Ðổng Trác khiến ta liên tưởng tới việc Cộng Sản Việt Nam xua quân đánh miền Nam, điển hình là vụ Tết Mậu Thân. Muốn " nêu cao cờ đại nghĩa" Cộng Sản Việt Nam đã gọi cả nhân dân miền Nam là " ngụy" . " Ngụy" nghĩa là giặc. Ðánh giặc là đại nghĩa. Giết giặc là lập công. Trong vụ Tết Mậu Thân, Cộng Sản Việt Nam đã thẳng tay tàn sát dân lành, chôn sống tập thể không biết bao nhiêu người dân vô tội, và kéo quân về ăn mừng đại thắng. Bao nhiêu đầu dân là bấy nhiêu đầu giặc. Giết giặc hay giết dân ? Chỉ có những nhân chứng được chứng kiến sự kiện xảy ra tại chỗ và đủ can trường khí phách như chị Nhã Ca mới dám thuật lại trung thực những gì đã thực sự xảy ra ở Huế trong tác phẩm " Giải khăn sô cho Huế" . Chỉ những ai đã nhìn thấy sự thật mới thấm thía hiểu được những thủ đoạn lường gạt tinh vi của những kẻ gian hùng. Người ngoại cuộc vẫn vô số kẻ u mê tin rằng " giết giặc lập công" là việc làm chính đáng để nêu cao cờ đại nghĩa. Nhưng những thủ thuật lường gạt của Ðổng Trác còn quá thô sơ. Kẻ đại gian hùng chính là Tào Tháo. Tào Tháo nhìn thấy rõ rằng những hành vi độc ác bất nhân lộ liễu của Ðổng Trác đã khiến lòng người oán hận thâm gan. Ðứng lên kêu gọi mọi người hợp sức diệt cho được kẻ đại ác Ðổng Trác thì lòng người sẽ tụ lại. Và Tào Tháo đã làm như vậy. Hành động mưu sát Ðổng Trác của Tào Tháo, dù không thành, cũng khiến cho vô số người khâm phục và tin rằng Tào Tháo chính là một vị anh hùng dốc lòng vì dân vì nước. Trong số những người hâm mộ Tào Tháo có Trần Cung. Khi Tào Tháo mưu sát Ðổng Trác không thành lên ngựa chạy trốn, dọc đường bị binh sĩ của Trần Cung bắt giữ, Trần Cung nghĩ Tào Tháo là người có đảm lược và thực lòng vì dân diệt kẻ đại ác, nên vứt bỏ quan chức triều đình, nguyện cầm gươm theo phò tá Tào Tháo cùng dựng cờ đại nghĩa. Dọc đường trốn chạy, Tào Tháo và Trần Cung ghé thăm Lã Bá Xa. Lã Bá Xa là bạn của bố Tào Tháo. Lã Bá Xa tiếp đón nồng hậu, sắp đặt chỗ nghỉ chân cho hai người qua đêm. Sáng hôm sau Lã Bá Xa đi mua rượu về thết đãi. Ở nhà Tào Tháo và Trần Cung nghe tiếng gia nhân mài dao giết lợn tưởng có ý định giết mình, cầm gươm vào giết sạch cả gia đình Lã Bá Xa. Ðến khi vào bếp nhìn thấy con lợn bị trói hiểu được là giết lầm người cả hai vội vã bỏ đi. Nửa đường gặp Lã Bá Xa mua rượu trở về. Tào Tháo lừa khi bất ý giết luôn Lã Bá Xa để bịt miệng. Trần Cung bất nhẫn hỏi tại sao lại làm như vậy. Tào Tháo lạnh lùng đáp : " Thà ta phụ người còn hơn để người phụ ta !" Ðêm hôm đó Trần Cung nằm thao thức suy nghĩ. Tưởng rằng nó là kẻ đại anh hùng vì dân vì nước, ai dè tâm địa nó còn độc ác bất nhân hơn Ðổng Trác gấp bội. Biết vậy, nhưng phải làm sao đây ? Giết nó đi để trừ hậu hoạn cho dân chăng ? Lòng dạ độc ác bất nhân của Tào Tháo chỉ riêng Trần Cung biết rõ. Khi đó cả bàn dân thiên hạ đều lầm tưởng Tào Tháo là vị đại anh hùng. Giết Tào Tháo đi thì chỉ khiến cho toàn dân oán ghét. Trần Cung ngậm ngùi lên ngựa bỏ đi. Ðọc truyện xưa, ta liên tưởng tới những kẻ đại gian hùng trong thời cận đại. Mao Trạch Ðông, Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp đều tỏ lòng ngưỡng mộ Tào Tháo và có những ý nghĩ, lời nói, hành động phù hợp với những gì Tào Tháo đã nói, đã làm. Võ Nguyên Giáp có lần đã nói : " Thà giết lầm 100 người còn hơn tha lầm một người" . Trong cuốn " Từ thực dân
đến Cộng Sản" học giả Hoàng Văn Chí kể lại chuyện Hồ
Chí Minh bán đứng cụ Phan Bội Châu cho mật
thám Pháp. Hồ Chí Minh bán cụ Phan cho Pháp lấy 10 vạn đồng ( hồi ấy một con trâu trị giá 5 đồng ). Vừa có tiền để chiêu mộ lâu la, vừa trừ khử được một đối thủ đáng gờm nhất, thật là nhất cử lưỡng tiện. Thủ đoạn và tâm địa của những kẻ gian hùng xét ra rất giống nhau. Cái đại họa xảy ra cho dân tộc Việt không phải chỉ là vô số người trong quảng đại quần chúng đã mù tịt không hay biết gì về thủ đoạn của những kẻ gian hùng, mà còn là không ít người biết rất rõ những thủ đoạn đó, nhưng trong thâm tâm lại vô cùng ngưỡng mộ và coi những thủ đoạn lường gạt đê tiện đó chính là những cẩm nang thần kỳ, là mặt trời soi sáng con đường dẫn tới thắng lợi cuối cùng. Thế thiên hành đạo tặc Ðọc sách người xưa có một điều tôi không hiểu nổi là tại sao Khổng Tử lại đến thăm Lão Tử. Hai ông già đó gặp nhau nói rầm rì những gì ? Tại sao chẳng để lại cho hậu thế biết sau " Hội nghị thượng đỉnh" đó hai ông đã ký một nghị quyết nhất trí ra sao? Tư tưởng của hai ông ngẫm cho kỹ giống như nước với lửa, trống đánh xuôi kèn thổi ngược. Khổng Tử đưa ra thuyết Thiên Mệnh. Thiên Mệnh ngụ ý ông Trời là đấng phán xét tối cao chí công vô tư thưởng lành phạt dữ. Trời có con là Thiên Tử. Trời cưng con quá đỗi, nên ban cho con quyền năng tối thượng để có thể thay trời trị vì thiên hạ. Mệnh Trời về ai thì tất cả thiên hạ phải châu đầu quỳ lạy người đó. Cưỡng lại mệnh trời thì họa sẽ giáng xuống, ở tù mọt gông. Lão Tử có cái nhìn đối nghịch. Nhìn những tai họa thảm khốc xảy ra liên miên cho loài người và những nỗi bất công tràn lan ngoài xã hội, Lão Tử căm giận Lão Trời Già, qui hết tội lỗi về Thằng Trời. Tư tưởng của Lão Tử là tư tưởng nổi loạn, tư tưởng cách mạng. Ta không ngạc nhiên khi thấy đệ tử của Lão Tử thường có tư tưởng nghịch thiên chống phá lại trật tự xã hội hiện hữu nhằm lật đổ sự thống trị của những ông Con Trời. Khương Tử Nha và Trương Lương là hai đệ tử của Lão Gia. Khương Tử Nha chỉ là một lão nhà quê đi câu cá ở sông Vị Thủy, rách như sơ mướp. Tại sao không chịu yên phận điền " form" ăn tiền trợ cấp an sinh xã hội để hưởng chút bổng lộc tí teo của triều đình mà dám đứng lên giúp Văn Vương làm loạn ? Trương Lương chỉ là một thằng nhỏ có tài nhặt dép cho Hoàng Thạch Công, sao không yên phận làm gã tiểu đồng mà dám bày mưu tính kế cho Lưu Bang lật đổ ngai vàng của Tần Thủy Hoàng Ðế ? Cái đại họa mà Khổng Tử và Lão Tử đã để lại cho nhân loại là tư tưởng đối nghịch của hai ông đã làm cho thiên hạ nát bét như tương Tàu. Người dân bị giằng co giữa hai tư tưởng đối nghịch, không biết nghe ai, không biết tin ai. Theo những ông Con Trời chăng ? Theo những gã đứng lên giết Con Trời chăng ? Quỳ xuống tạ ơn Trời hay đứng lên giết Lão Tặc Thiên ? Ðó là một câu hỏi nhói buốt như mũi dao đâm thấu tim phổi Ðiều khiến tôi vô cùng ngạc nhiên là ngẫm cho kỹ tư tưởng đối nghịch của Khổng Tử và Lão Tử lại bắt nguồn từ cùng một nguồn gốc. Cái nguồn gốc đó là ý nghĩ Ông Trời hoặc Lão Tặc Thiên chính là kẻ đã gây ra họa phúc cho loài người, nắm hết quyền thưởng phạt trong tay, muốn bắt ai thì bắt, muốn giết ai thì giết, cho củ khoai mì thì được ăn củ khoai mì, cho ngôi Thiên Tử thì được uống rượu whisky và ngủ với ba ngàn phi tần cung nữ. Ðiểm khác nhau chỉ là một bên Khổng Tử tin rằng sự thưởng phạt của ông Trời là chí công vô tư, bên kia Lão Tử cho rằng sự thưởng phạt đó hoàn toàn bất công. Tác thiện phùng thiện,tác ác phùng ác. Họa phúc đáo đầu chung hữu báo, chỉ tranh lai tảo dữ lai trì. ( Làm Thiện gặp Thiện, làm Ác gặp Ác. Họa Phúc sau cùng đều có quả báo, chỉ khác nhau là đến sớm hay đến muộn mà thôi ) Ðấy là đại ý tư tưởng của Khổng Tử. Lão Tử trái lại chỉ thấy những bất công tràn lan ngoài xã hội. Con vua thì lại làm vua, Con sãi ở chùa lại quét lá đa . Sao xã hội loài người lại phi lý bất công như vậy được ? Sự đời như cái lá đa, Ðen như mõm chó, chém cha sự đời ! Cái ý nghĩ xã hội đầy dẫy chuyện bất công đó đã kích thích những anh hùng hảo hán Lương Sơn Bạc đứng lên dựng cờ khởi nghĩa " Thế Thiên hành đạo" . Thuở nhỏ đọc truyện Thủy Hử tôi say mê khoan khoái và mơ ước một ngày kia lớn lên được như Võ Tòng hai tay đấm chết con hổ ở Cảnh Dương Cương hay được như Lâm Xung đấm vỡ mặt Cao Nha Nội. Ðã quá, hả hê quá ! Tôi tin rằng Võ Tòng có thực, Lâm Xung có thực. Những bậc anh hùng hảo hán đó chắc bây giờ vẫn còn sống, có khi không còn ở bên Tàu nữa mà đã di dân sang làm người Việt. Sự thật dường như chẳng có gì vui. Lớn lên đọc kỹ chính sử mới ngỡ ngàng hiểu rõ rằng Thi Nại Am đã " vẽ" nên những anh hùng hảo hán Võ Tòng, Lâm Xung, Sử Tiến hào khí ngất trời. Tiếc thay Võ Tòng, Lâm Xung, Sử Tiến chỉ có trong trí tưởng tượng của Thi Nại Am. Nhân vật duy nhất có thực trong truyện Thủy Hử chỉ là Tống Giang, một gã biện lại đánh bạc thua biển thủ công quỹ trốn vào rừng làm giặc. Ngẫm lại những ông Con Trời và những anh hùng hảo hán Lương Sơn Bạc có một điểm giống nhau y hệt: cùng một ý định Thay Trời Hành Ðạo. Cùng muốn nắm hết quyền sinh sát trong tay, bắt ai thì bắt, giết ai thì giết, cho ai được ăn miếng khoai mì thì được ăn miếng khoai mì, bắt ai đi cải tạo thì đi cải tạo mút mùa. Ðiểm khác nhau duy nhất giữa những ông Con Trời và những hảo hán Lương Sơn Bạc chỉ là : Ai sẽ là người Thay Trời Hành Ðạo? Ai sẽ là kẻ " Thế Thiên Hành Ðạo Tặc"? Sau khi "Cách Mạng Thành Công" ở Miền Nam Việt Nam rồi, một anh lính ngụy gặp một anh bộ đội Cộng Sản. Anh lính ngụy băn khoăn hỏi anh bộ đội : - Trước đây tôi đi giầy, anh đi dép râu. Bây giờ cách mạng thành công rồi ai sẽ đi giầy, ai sẽ đi dép râu ? Trong bụng anh ta mong mỏi câu trả lời sẽ là: Cả hai chúng ta sẽ bình đẳng như nhau, hoặc cùng đi giầy, hoặc cùng đi dép râu. Ðánh nhau quá lâu rồi, kẻ sứt tai, người gãy gọng. Bây giờ muốn HÒA với nhau thì mọi người phải Bình Ðẳng như nhau. Có như vậy mới GIẢI được nỗi ấm ức trong lòng rằng sao thế gian này cứ thằng nào nói phét nhất, to tiếng hô hào Bình Ðẳng nhất thì được quyền cưỡi trên đầu trên cổ người khác. Anh lính ngụy thầm nghĩ: Cứ theo lẽ công bằng và tiến hóa thì cả hai sẽ phải cùng đi giầy cả. Như thế là trước kia tôi đúng anh sai. Nhưng nếu cả hai cùng đi dép râu thì cũng đành vậy. Như thế là trước kia tôi sai anh đúng. Kẻ thua trận nhận phần sai về mình cũng là lô-gích lắm ! Anh bộ đội Cộng Sản nhìn anh lính ngụy cười tủm tỉm, trong bụng đã có sẵn câu trả lời rất đúng biện chứng pháp : - Sao mày ngu thế ! Có vậy mà cũng hỏi ! Cứ theo lẽ công bằng thì tao sẽ đi giầy, uống rượu whisky, ăn thịt bò bảy món. Mày sẽ đi dép râu, ăn khoai mì chạy chỉ và lao động tóe hào quang ! Nhưng đột nhiên gã khựng lại thấy có điều bất ổn. Cho nó đi dép râu trong lúc mình đi giầy rồi nó lại nhìn thấy xã hội đầy những điều bất công nghịch lý, nó lại thắc mắc tại sao Cách Mạng được quyền uống rượu whisky say túy lúy, ăn thịt dê béo nướng thơm phưng phức, ôm trong tay cả chục cô gái đẹp trong lúc nó hùng hục chém tre đẵn gỗ trên ngàn, dựng nhà tù cao ngất để tự nhốt mình trong đó. Dạy cho nó gân cổ hát "Vùng lên hỡi các nô lệ ở thế gian !" rồi cũng có lúc nó biến đau thương thành sức mạnh vùng lên thật thì bỏ mẹ! Cái ông Lão Tử trời đánh thánh đâm đã gieo vào đầu óc con người tư tưởng nổi loạn Thế Thiên Hành Ðạo Tặc. Tư tưởng đó hay quá, chính nhờ tư tưởng đó mà Cách Mạng đã thành công; nhưng tư tưởng đó cũng nguy hiểm quá, nó sẽ là mầm khơi cho con người nổi loạn mai sau. Không được ! Giầy cũng không xong, dép râu cũng không được nốt ! Gã bộ đội quắc mắt nhìn anh lính ngụy nghiêm giọng nói như hét : - Tao sẽ đi giầy, mày sẽ chống nạng hoặc bò lết hai chân hai tay dưới vũng bùn ! Thế mới biết sống thực với lòng mình khó lắm ! Ngẫm cho cùng Bình Ðẳng dường như chỉ
là cái chiêu bài Treo đầu dê
bán thịt chó
Sống thực sự có ý nghĩa gì không ? Cuộc sống loài người phải chăng chỉ là một màn bi hài kịch ? Xã hội loài người xưa cũng vậy nay cũng vậy phải chăng chỉ là một "Tấn tuồng đời" đủ cả hỉ nộ ái ố, được sắp xếp có lớp lang do bàn tay những nhà đạo diễn ? Ta nên làm khán giả, diễn viên hay nhà đạo diễn ? Làm khán giả là đứng ngoài nhìn những diễn biến xảy ra trong xã hội với cặp mắt kẻ bàng quan, dửng dưng thờ ơ với mọi điều nghịch lý xảy ra trong xã hội. Làm diễn viên khó hơn nhiều. Phải tập tành, học thuộc bài bản. Bước ra sân khấu cả nghìn cặp mắt theo dõi. Không thuộc bài bản, nói sai một câu là thiên hạ la ó, ném trứng thối. Lại còn tùy thuộc vai trò mình diễn xuất. Ðóng vai anh hùng hảo hán thì có thể ưỡn ngực vươn vai vuốt chòm râu bạc và cất tiếng cười thật sảng khoái, còn đóng vai thằng tà loọc xum xoe điếu đóm bợ đít thiên hạ thì chính mình cũng biết hành vi cử chỉ của mình khả ố vô cùng. Làm đạo diễn là sướng hơn cả. Ðạo diễn có quyền bắt diễn viên nói những điều mình muốn họ nói, giơ tay múa chân làm những động tác mình muốn họ làm. Muốn cho họ chết thì chỉ cần sai một diễn viên khác đóng vai đao thủ phủ lôi ra pháp trường chém bay đầu là xong cả. Thấy cô đào thương xinh đẹp diễn tuồng mùi mẫn quá thì sau vở kịch kêu vào hậu trường nói nhỏ : đêm nay mình diễn tuồng " mí" nhau cho thật mùi mẫn, em nhé ! Em mà không nghe anh thì mai anh cho em đóng vai cô gái vượt biên bị hải tặc hãm hiếp chặt làm bốn khúc quăng xuống biển ! Ðố cô nào dám chống cự. Làm đạo diễn sướng thật ! Vì thế ai cũng muốn làm đạo diễn. Ngẫm lại tất cả tấn tuồng đời cứ được diễn đi diễn lại không dứt cũng chỉ vì thiên hạ tranh nhau làm đạo diễn. Trải qua bao năm tháng nhìn mãi những cảnh lố lăng đảo điên điên đảo xảy ra ngoài xã hội, chợt có một lúc tôi như bừng tỉnh. Tôi muốn được sống thực chứ không muốn làm khán giả, diễn viên hay nhà đạo diễn. Hồi tưởng lại lời than " Hạnh phúc như bóng mây" của một anh bạn, tôi bâng khuâng tự hỏi : ta có hy vọng gì tìm được hạnh phúc hay không ? Cuộc đời tôi có thể tóm tắt trong một câu : dở thày dở thợ, nửa ngô nửa khoai, bát nháo hầm bà lằng, chẳng ra đâu vào đâu cả. Vắn tắt một câu : thất bại và thất bại. Mở miệng nói ra một câu là ngang như cua bò và bị thiên hạ xúm vào đánh đòn hội chợ, rách tơi tả như sơ mướp. Ấy vậy mà cuối đời nhìn lại tôi thấy trong lòng thật êm ả. Dường như tôi đã thấy những điều thật giản dị nhưng không dễ gì nhìn thấy được : Nếu muốn sống hạnh phúc ta không thể suốt đời cứ đóng kịch với nhau ! Tôi đã thấy những cặp tình nhân khởi đầu cuộc đời với một mối tình đẹp như tranh vẽ, nhưng năm tháng trôi qua tan đi như bọt xà-phòng. Người con gái trong tuổi thanh xuân mơn mởn như đóa hải đường. Ánh mắt dịu dàng như mặt nước hồ thu trong vắt. Tóc thề xõa xuống bềnh bồng như đám mây nhẹ trôi trên vòm trời xanh ngắt. Tà áo thướt tha, dáng đi yểu điệu não nùng. Nụ cười chúm chím như cả mùa xuân vừa thức dậy. Chàng tuổi trẻ si tình bước tới như vị hoàng tử đẹp trai đánh thức nàng công chúa tỉnh dậy sau giấc ngủ ngàn năm. Cuộc tình nào cũng đẹp như một bài thơ trong vắt và khởi đầu như vậy hết. Nhưng để chiếm được trái tim của nàng công chúa thì chàng trai phải đóng kịch. Người đẹp mơ ước gì đây ? Một mẫu người hai tay bắn súng nhanh như chớp chăng ? Vậy ta phải đóng vai John Wayne ! Một mẫu người đầy chất " đàn ông" chăng ? Có lẽ ta phải đóng vai Marlon Brando ! Nếu nàng mơ mộng lãng mạn thích làm thơ, có lẽ ta phải đóng vai James Dean mới hợp. Còn nếu nàng là con người thực tế như Scarlett O'hara thì ta phải bắt chước Clark Gable đóng vai đại úy Rhett Butler cho thật giống. Về phần người con gái cũng vậy. Ðắn đo suy tính không biết nên đóng vai trò nào. Một nàng tiên hiền hậu chăng ? Một bà nội trợ đảm đang xốc vác chăng ? Một người tình du dương lả lướt theo điệu Tango chăng ? Khởi đầu cuộc tình hai kịch sĩ xáp lại với nhau và cùng say mê diễn xuất. Vừa làm diễn viên vừa làm khán giả, thật thú vị tình thâm ! Nhưng vở kịch nào cũng đến hồi chấm dứt. Dù muốn dù không cũng có lúc phải giã từ sân khấu để trở về với cuộc sống thực. Trong mái ấm gia đình mà hai tay rút súng bắn lia lịa như John Wayne thì chén đĩa nào mà chịu nổi ! Sống như chàng Marlon Brando đẹp trai gái đẹp bu quanh, mỗi đêm ngủ với một cô, đào hoa như vậy chỉ để làm tài tử màn bạc Holywood , chứ lấy làm chồng thì chưa hết tuần trăng mật đã sayonara goodbye ! Máu ghen của ta nổi lên chỉ còn nghĩ tới cái kéo con dao cắt phăng một cái cho chừa cái tật. Mơ mộng như James Dean thì ai đi làm kiếm tiền cho ta xài ? Bộ râu con kiến của Clark Gable quyến rũ lắm, nhưng nụ cười đểu quá ! Ngẫm lại mình đâu phải là Scarlett O'hara mà bắt hắn quỳ hôn chân ! Thực tế cuộc đời chẳng giống như chuyện phim chút nào . Ban ngày cả hai vợ chồng đi làm tối tăm mặt mũi thở không ra hơi. Tối về bà vợ nằm vật, ngất ngư con tàu đi. Ông chồng lục cơm nguội, chan chút xì-dầu ngồi ăn một mình. Vừa nhai cơm nguội lổn nhổn vừa tức tối, không biết nàng tiên hiền hậu biến đâu mất, nàng Giáng Tiên cứ trốn trong bức tranh hoài không chịu thò mặt ra. Bà vợ nằm một mình tủi thân khóc lặng lẽ. Chồng ơi là chồng ! Con ơi là con ! Chán ơi là chán ! Nhà ngập lên như đống rác, chén đĩa cao ngất như núi không ai rửa... Bây giờ nghĩ lại mới thấy mình lầm. Cứ mơ ước John Wayne, James Dean, Marlon Brando hoài, bây giờ thằng con trai ngồi dán mắt vào TV xem John Wayne bắn súng, cô con gái mơ mộng ép hình James Dean trong tập thơ, ông chồng chạy lăng quăng đóng vai Marlon Brando với người đẹp thiên hạ... Tôi không ngạc nhiên khi cứ lâu lâu lại được chứng kiến hoặc nghe chuyện chén bay đĩa bay. Tệ hơn nữa thì kéo nhau ra tòa và dứt khoát tuyên bố từ nay Ðoạn Tuyệt với cái Cũ. Ðoạn Tuyệt với cái Cũ rồi làm lại từ đầu, nhất quyết theo Mới. Ít lâu sau tấn tuồng đời lại tái diễn y hệt như vậy. Khổng Tử chia loài người thành ba hạng : hoặc sinh nhi tri ( vừa sinh ra đã biết), hoặc học nhi tri ( học rồi mới biết ), hoặc khốn nhi tri ( gặp cảnh khốn quẫn rồi trắng mắt ra mới biết ). Tôi chắc chắn được xếp vào loại thứ ba. Cái biết của tôi chỉ là cái biết của người tù cải tạo, đau quá, đau thấu xương thấu tủy nên tỉnh người mà biết. Khi một người con trai và một người con gái yêu nhau say đắm, ta bâng khuâng tự hỏi : họ có thực lòng yêu nhau hay không ? Họ yêu con người thực của nhau hay chỉ yêu cái hình bóng mỹ miều hoặc do chính họ tưởng tượng ra, hoặc do người kia khéo đóng kịch ? Giá thử một ngày nào đó người kia mất hết địa vị, danh vọng, tiền bạc, tuổi trẻ, nhan sắc...thì ta sẽ nghĩ sao ? Tôi đã thấy những gia đình tan vỡ khi hoàn cảnh xã hội đột nhiên đổi thay, đất lộn lên trời. Con người bị bắt buộc phải giã từ những vai trò đào thương kép độc để trở về trần trụi làm người chồng ốm o héo hắt sau những năm tù cải tạo, làm người vợ xơ xác mệt mỏi vì gánh nặng trĩu hai vai. Khi cái Thực khác quá xa cái Mộng, con người dễ rơi vào một vùng Khổ Ðau mênh mang như biển cả. Nhưng tôi cũng đã thấy những cặp vợ chồng vươn lên từ Ðau Thương Tuyệt Vọng. Người chồng trở về nhìn người vợ héo hon gày mòn chỉ thấy xót xa thương cảm. Người vợ nhìn người chồng hốc hác xanh xao chỉ thấy rưng rưng muốn khóc. Giọt nước mắt xót xa cũng là giọt nước mắt thương yêu. Ôi, nếu thế giới quanh ta chỉ còn toàn loài lang sói thì ít ra hai người cũng còn có nhau. Họ yêu con người thật của nhau, chứ không yêu vai trò đào thương kép độc. Họ thấy không cần phải đóng kịch với nhau mới tạo được hạnh phúc. Thương nhau thì sống với con người thực của nhau, chia ngọt xẻ bùi cùng nhau, chia xẻ gánh nặng cùng nhau và nhất là đừng đóng vai đạo diễn bắt người kia phải sống theo ý muốn của mình. Hiểu được điều đó thì sống với nhau rất dễ và hạnh phúc chẳng phải là đám mây bay cao ngất trên trời xanh. Thương nhau, hiểu nhau, tôn trọng lẫn nhau sẽ thấy cuộc sống thật giản dị: nếu mình không muốn ai đè nén áp bức thì cũng đừng nghĩ tới chuyện đè nén áp bức người khác. Hạnh phúc thật đơn sơ bình dị và trong tầm tay với. Sở dĩ ta để nó vuột khỏi tầm tay chỉ là vì ta mơ ước theo đuổi những hình bóng hão huyền. Xét cho cùng thì lời hứa ban đầu khi mới thương yêu nhau là gì ? Phải chăng chỉ là lời ước hẹn rằng dù vật đổi sao dời lòng anh lòng em vẫn mãi mãi như thuở ban đầu ? Lời hứa thực giản dị, nhưng giữ được thật khó lắm. Người giữ được lời hứa đó là biết sống thực với lòng mình. Nếu vợ chồng muốn có hạnh phúc không thể cứ đóng kịch với nhau mãi, thì tại sao trong xã hội vẫn luôn luôn có những kẻ muốn đóng kịch ? Kẻ đóng vai Tống Giang, người đóng vai Tào Tháo, kẻ khác đóng vai Hàn Tín lòn trôn giữa chợ. Khi thì nổi hứng đóng vai Người Cùng Khổ, lúc khác lại say mê đóng vai Ngọn Hải Ðăng Mặt Biển. Giá mà họ chỉ đóng vai kịch sĩ thì ta cũng vui lòng mất tiền vào cửa làm khán giả xem họ múa may trên sân khấu; nhưng vì họ còn có tham vọng làm nhà đạo diễn nên đất nước mới tan nát lầm than. Nhà đạo diễn ngồi trên ngai vàng cao ngất chỉ tay xuống bắt toàn dân đóng vai Con người mới xã-hội chủ nghĩa lao động toé hào quang. Nhà đạo diễn muốn dựng nên những vở đại bi hài kịch cười ra nước mắt nên khiến kẻ này cầm súng bắn đùng đùng, người kia lăn ra chết như rạ. Có vậy màn kịch mới lâm ly hấp dẫn. Những chua xót tủi hờn khi trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu đã khiến tôi chán ghét cả ba vai trò Khán giả, Diễn viên và Ðạo diễn. Ðạo diễn chỉ là những kẻ đầy tham vọng bất nhân và những thủ thuật điều động sai khiến người khác làm trò múa rối. Kịch sĩ là những anh hùng rơm trên sân khấu. Khán giả là những con người vô tâm chỉ biết mua vui. Những khổ đau của xã
hội loài người là có thực, nếu ta không cảm
thấy nhói buốt trong tim thì chỉ là vì ta
đã không bao giờ sống thực với trái tim con người.
Ta vẫn chỉ làm khán giả thản nhiên ngồi xem những
kịch sĩ múa may trên sân khấu và trầm trồ
khen nhà đạo diễn xếp đặt vở kịch thật khéo léo
tài tình. Hạnh phúc như bóng mây Bạn tôi có lần tâm sự một câu thật thấm thía: Hạnh phúc như bóng mây. Bóng mây chợt hiện, chợt mất. Nó có đó hay không có đó? Ta nắm được chân lý hay chỉ nắm được ảo ảnh của chân lý? Ta ôm cứng hạnh phúc trong tay sao nó vuột đi đâu mất ? Suốt đời ta ôm ấp một lý tưởng thật cao đẹp, sao có lúc ta bàng hoàng chợt thấy đang ôm khoảng chân không? Dường như đã có một nỗi nghẹn ngào uất ức mà không ai đủ sức diễn tả nổi. Dường như đã có một sai lầm ghê gớm đang phủ ngập quê hương. Dường như đã có một nỗi xót xa đau đớn vô cùng lớn lao chung cho cả dân tộc. Tôi cảm thông được nỗi xót xa đau đớn ấy khi chứng kiến cảnh ba người lính nhảy dù buông súng. Vào buổi sáng ngày 30 tháng tư năm 1975 tôi bước chân ra khỏi nhà đi lang thang trên hè phố như kẻ mất hồn. Tới ngã bảy góc đường Lý Thái Tổ - Phan Thanh Giản tôi dừng chân trước một quán cà phê bình dân và chứng kiến một cảnh tượng không bao giờ quên nổi. Ba người lính nhảy dù ngồi im lìm bất động như ba pho tượng gỗ. Bà chủ quán mang ra mấy bộ quần áo dân sự và khuyên ba anh nên thay ngay đi, rồi tìm đường về quê lánh nạn. Ba anh không đáp một lời,vẫn ngồi im không nhúc nhích. Nỗi thê lương tuyệt vọng thật không một lời nào diễn tả nổi. Cả đời hy sinh tuổi trẻ cầm súng chiến đấu bảo vệ đất nước đồng bào, giờ này thấy tất cả những sự hy sinh của mình dường như hoàn toàn vô nghĩa. Các nhà lãnh đạo đã cao chạy xa bay, các cấp chỉ huy không biết nay ở đâu, các người bạn đồng minh đã cuốn gói về nước hết. Nhìn ba người lính nhảy dù ngồi im lìm ủ rũ tôi thấy xót xa đau đớn và cảm thấy xã hội đang đổ vỡ tan nát không dễ gì hàn gắn lại được. Tôi tiên liệu từ nay lòng người sẽ tận cùng ly tán, sẽ không ai còn có thể tin ai, sẽ không ai còn muốn nghe ai. Khi cuộc chiến chấm dứt thì cũng là lúc xã hội hoàn toàn sụp đổ, mọi lý tưởng cao đẹp tan thành bọt nước, mọi hoài bão ôm ấp suốt đời vỡ nát thành cát bụi. Rồi đây ý thức trách nhiệm và bổn phận chỉ còn mang những ý nghĩa thật mỉa mai, luân lý đạo đức biến thành những lời diễu cợt. Rồi đây đại đa số người dân trong nước sẽ chỉ rút ra một kết luận bi thảm: chính trị là vô luân, cuộc sống là vô nghĩa, chỉ có gian manh thủ đoạn, lường gạt bất nhân, độc ác tàn bạo, đểu cáng xảo quyệt mới mang lại đại thắng lợi và là kim chỉ nam hướng dẫn mọi hoạt động của con người để có thể cưỡi lên đầu lên cổ người khác. Tôi đọc thấy một nỗi nghẹn ngào uất ức khó tả trong ánh mắt ba người lính nhảy dù buông súng. Vang vang đâu đây dường như có những lời lên án thật khắt khe: chiến tranh là tàn khốc, chiến tranh là phi nhân, chiến tranh là tàn phá, chiến tranh là tội lỗi,... Người cầm súng chiến đấu cho đất nước đồng bào dù muốn dù không cũng đã dự phần vào chiến tranh. Vậy ai đã xui họ cầm súng chiến đấu bảo vệ đất nước đồng bào? Phải chăng cầm súng chiến đấu bảo vệ đất nước đồng bào là tội lỗi? Họ cầm súng chiến đấu cho cái gì ? Tự do chăng? Ðộc lập chăng? Tổ quốc chăng? Ðất nước đồng bào chăng? Danh dự trách nhiệm chăng? Bên tai văng vẳng chỉ còn những lời xỉa xói : Buông súng xuống! Ðầu hàng đi! Buông súng là yêu nước! Ðầu hàng là yêu nước! Và họ đã nghẹn ngào buông súng. Tôi còn nhớ như in trong óc cái cảm giác bồi hồi xúc động khi đó. Trong đầu tôi khi đó đã có những ý nghĩ tương phản mâu thuẫn một cách kỳ quặc. Tôi cũng đã bị động viên như họ, nhưng may mắn được biệt phái về dạy học sau hơn 5 năm phục vụ trong quân ngũ. Trong suốt 5 năm đó tôi ở những đơn vị chỉ lo toàn công việc kỹ thuật chuyên môn. Cầm súng thì có cầm súng nhưng chưa hề bắn giết ai. Tôi đã may mắn hay bất hạnh khi được biệt phái về dạy học? Tôi cũng không biết nữa. Tôi chỉ biết trong lòng tôi day dứt đau đớn với một nỗi nghẹn ngào uất ức có lẽ không thua gì mấy người lính nhảy dù nọ. Tôi cảm thấy tôi có lỗi đối với bao vị tiền nhân. Tôi cảm thấy tôi có lỗi đối với đất nước đồng bào. Dường như tôi đã không làm tròn trách nhiệm đối với đất nước đồng bào trong cơn quốc biến. Dường như tôi có lỗi đối với thế hệ cha anh cũng như những thế hệ con cháu mai sau khi vội vã buông súng quá sớm. Vào thập niên 70, những bài hát phản chiến của Trịnh Công Sơn được phổ biến rộng rãi khắp nơi. Lắng nghe những lời Khánh Ly hát ta bâng khuâng tự hỏi: Ðây là tiếng nói của lương tâm con người hay lời quỷ mị? Một ngàn năm đô hộ giặc Tàu, một trăm năm đô hộ giặc Tây, hai mươi năm nội chiến từng ngày, gia tài của mẹ một bọn lai căng, gia tài của mẹ một lũ bội tình... Thấm thía lắm ! Chua xót lắm! Hai mươi năm nội chiến từng ngày: đó là một lời trách móc thật nặng nề. Lỗi tại ai ? Lỗi ở những người đã cầm súng chiến đấu chăng? Cầm súng hay cầm gươm giáo, cầm tầm vông vạt nhọn thì cũng như nhau. Hai bà Trưng cũng đã cầm gươm, Lý Thường Kiệt cũng đã cầm giáo. Nếu ông cha chúng ta không dám cầm gươm cầm giáo đứng lên chiến đấu thì một ngàn năm đô hộ giặc Tàu, một trăm năm đô hộ giặc Tây tới nay vẫn chưa chấm dứt, những anh hùng phản chiến đâu có dịp ca hát nghêu ngao và tưởng mình là những ông thánh? Vậy thì lỗi lầm của dân tộc không phải là ở chỗ đã có những người cầm súng, cầm gươm, cầm giáo chiến đấu. Lỗi lầm của dân tộc là cuộc chiến 20 năm qua đã bị thúc đẩy bởi những động cơ đen tối khiến cho cuộc chiến mang đầy tính cách phi lý. Dường như tính cách phi lý của cuộc chiến 20 năm qua nằm ở hai điểm: một là nội chiến, hai là sự xúi bảy của ngoại bang. Tính cách phi lý của cuộc "nội chiến" là chính những người ngoài mặt lớn tiếng kêu gọi hòa hợp hòa giải, xóa bỏ hận thù lại cũng chính là những người trong tâm sôi máu căm thù, thề phanh thây uống máu đồng bào. Dường như họ đã bị nhồi nhét trong đầu một tư tưởng chỉ đạo cực kỳ lô-gích mà cũng cực kỳ phi lý: Nếu chỉ một bên được quyền giết người, dù là người cùng chung nòi giống, bên kia không được quyền chống cự lại, thì không thể gọi là " nội chiến" được! " Nội chiến" hàm ý anh em đánh lẫn nhau. Nếu một bên cầm mã tấu chém bay đầu bạn bè bên kia, chôn sống thân nhân bên kia, mà bên kia không chống cự lại thì không có đánh nhau. Không có đánh nhau thì không thể gọi là "nội chiến" mà phải gọi là chiến tranh giải phóng. Vậy thì tội lỗi phải đổ hết lên đầu những kẻ dám cầm súng đứng lên chống cự lại. Có chống cự mới sinh ra đánh nhau. Có đánh nhau mới có nội chiến! Ôi, một ngàn năm đô hộ giặc Tàu, một trăm năm đô hộ giặc Tây ngẫm cho cùng cũng chỉ tại có những người dân Việt đầu óc tối tăm đã không thông hiểu cái lô-gích tuyệt vời của những người Cộng Sản! Tính cách phi lý thứ hai của cuộc chiến 20 năm là ở sự xúi bảy của ngoại bang. Kẻ lớn tiếng kêu gọi đừng nghe theo lời xúi bảy của ngoại bang mà chém giết lẫn nhau, hãy Ðoàn Kết, Ðoàn Kết, Ðại Ðoàn Kết trong lập trường Dân Tộc lại cũng chính là những người đã bắt nhịp cho toàn dân hát bài ca Kết Ðoàn. Bài ca Kết Ðoàn nguyên thủy là bài hát của Ðảng Cộng Sản Trung Hoa, từng được Mao Trạch Ðông bắt nhịp cho dân Tàu cùng hát. Bài ca mang tựa đề Kết đoàn tựu thị lực lượng (Ðoàn kết là sức mạnh). Hồ Chí Minh nhái lại bằng bản dịch sang tiếng Việt. Những kẻ gân cổ hát bài hát đó đã không ngờ rằng Ðoàn kết chỉ là Kết đoàn dưới sự chỉ đạo của đảng Cộng Sản Trung Hoa để phanh thây uống máu người Việt. Trở về lập trường dân tộc chỉ là trở về lập trường dân tộc Trung Hoa. Sự xúi bảy của ngoại bang thật khéo léo tài tình và kín đáo khiến cho không ít người bị huyễn hoặc tin theo. Xét cho cùng, cuộc chiến 20 năm ở Việt Nam không thể đơn thuần gọi là một cuộc nội chiến giữa người Việt với người Việt. Khi các cường quốc thuộc hai khối Tự Do và Cộng Sản trực tiếp hoặc gián tiếp nhúng tay vào cuộc chiến thì người dân Việt Nam đã biến thành những con chốt thí trên bàn cờ thế giới, bị sai khiến điều động để bắn giết lẫn nhau. Mỹ đổ vũ khí đạn dược vào Miền Nam thì Liên Xô, Trung Cộng, Ðông Ðức, Tiệp Khắc đổ vũ khí đạn dược vào Miền Bắc. Mỹ đem quân vào Miền Nam thì Trung Cộng mang quân vào Miền Bắc. Văn hóa tư tưởng đã có tác dụng tách một dân tộc thành hai khối đối nghịch. Hai khối đối nghịch đó cùng chống ngoại xâm như nhau, nhưng không cùng chống một kẻ ngoại địch như nhau, vì kẻ ngoại địch của khối này lại là đồng minh của khối kia. Ta không thể phủ nhận rằng cả Miền Nam lẫn Miền Bắc đã bị xô đẩy vào thế bị lệ thuộc ngoại bang. Tuy nhiên khách quan mà nói, Miền Nam ít bị lệ thuộc vào Mỹ như Miền Bắc bị lệ thuộc vào Liên Xô, Trung Cộng. Người dân Miền Nam tha hồ chỉ trích chính sách của Mỹ, thậm chí có thể công khai chửi rủa những nhà lãnh đạo Mỹ mà chẳng hề hấn gì. Người dân Miền Bắc ngậm câm. Mở miệng chửi Mao xếnh xáng, Stalin thì chỉ có nước đi mò tôm. Khi Nguyễn Khánh muốn cho Mỹ mướn cảng Cam Ranh thì dân chúng MIền Nam biểu tình rầm rộ khiến Nguyễn Khánh phải rút lại ý định đó. Khi Trung Cộng đem quân chiếm Hoàng Sa,Trường Sa thì chính quyền Cộng Sản hai tay quỳ dâng. Ðồng bào Miền Bắc gục mặt xuống rỏ nước mắt khóc thầm. Mọi chuyện đã có Ðảng lo, kể cả chuyện bán nước buôn dân. Không ai muốn chiến tranh, cũng không ai muốn nội chiến. Nhưng đổ hết mọi tội lỗi cho chiến tranh và nội chiến có lẽ chỉ là mới nhìn thấy những vết thương ngoài cơ thể, như cái trán u, cái chân cụt, cái tay gãy chẳng hạn. Khi chiến tranh chấm dứt những vết nội thương sâu trong cơ thể vẫn còn nguyên đó. Xã hội bị phân hóa cùng cực, đổ vỡ tan nát. Nhìn lại một ngàn năm đô hộ giặc Tàu ta không thể tìm thấy một thời đại nào mà cả triệu người dân trong nước phải liều chết ra đi. Nhìn lại một trăm năm đô hộ giặc Tây cũng y hệt như vậy. Ô hay, vậy thì "Ðộc Lập", "Tự Do", "Hạnh Phúc" là cái quái gì vậy? Nó là những lý tưởng cao đẹp hay chỉ là những cái quái thai? Có người cho rằng vấn đề lớn nhất hiện nay là lòng thù hận mênh mang đang phủ ngập quê hương. Chúng ta không ngạc nhiên khi thấy sau cuộc nội chiến tàn khốc kéo dài 20 năm có người lại kêu gọi Hòa Hợp Hòa Giải Dân Tộc. Ðạo đức lắm! Nhân ái lắm! Lô-gích lắm! Nhưng tại sao những lời kêu gọi Hòa Hợp Hòa Giải đó giống như tiếng kêu trong sa mạc ? Có ích gì đâu khi gân cổ kêu gọi xóa bỏ hận thù, nếu nguyên nhân gây ra lòng thù hận vẫn còn nguyên đó? Anh Ðinh Quang Anh Thái có thuật lại lời nhà văn Trần Ngọc Tuấn. Trần Ngọc Tuấn là một người bộ đội vượt Trường Sơn đánh Miền Nam. Anh bị thương và vì là con một thiếu tướng Việt Cộng nên được ưu tiên gửi đi tu nghiệp ở Tiệp Khắc. Trần Ngọc Tuấn nói với Ðinh Quang Anh Thái rằng : Các anh có thể oán ghét người Cộng Sản bởi các anh bị xem như thua trận trong cuộc chiến. Nhưng các anh phải tự hào là các anh đã chiến đấu cho một lý tưởng đúng là lý tưởng tự do. Còn chúng tôi mới là những người hận chúng nó, bởi vì chúng tôi là những người đã sinh ra, lớn lên và suốt đời chúng tôi đã bị Ðảng lừa bịp nên chúng tôi mới hận Cộng Sản hơn các anh, chứ chúng tôi không tin là các anh có thể hận Cộng Sản hơn chúng tôi được. Lời của Trần Ngọc Tuấn thật thấm thía và đáng suy ngẫm. Không phải chỉ có những người tù cải tạo và thân nhân những người chết trên biển Ðông mới oán hận Cộng Sản. Con cháu cán bộ Cộng Sản còn oán hận Cộng Sản hơn nữa. Nguyên nhân gây ra lòng Thù Hận là Bạo Lực và Lường Gạt. Hậu quả tàn khốc của Bạo Lực và Lường Gạt đã thấm vào tận xương tủy, tụy tạng và máu huyết quá nhiều người. Nó tàn phá tâm hồn con người, biến con người thành dã thú, người nọ thành kẻ thù không đội trời chung của người kia. Con thù cha, vợ thù chồng, bè bạn thù nhau, đồng bào đồng loại oán nhau căm gan tím ruột. Sống để dạ chết mang theo. Nhưng tại sao Bạo Lực và Lường Gạt đã được đưa vào nước Việt Nam ? Bởi vì Bạo Lực và Lường Gạt chính là sách lược thần kỳ nằm trong cẩm nang mà Lenin đã trao cho Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh vui mừng đến rơi lệ khi nắm được cẩm nang đó. Ông ta biết rằng đó chính là bí quyết để tạo nên sức mạnh. Ðó chính là thủ thuật hữu hiệu nhất để nắm đầu xỏ mũi quần chúng và thâu tóm quyền lực trong tay. Vì lợi ích một năm: cướp của người. Vì lợi ích mười năm: bỏ tù người. Vì lợi ích trăm năm: chôn sống người. Vì lợi ích ngàn năm: biến con người thành dã thú. Viết tới đây tôi cảm thấy tất cả những điều tôi viết có thể tóm tắt trong một câu: một nỗi bùi ngùi chua xót. Sau cả ngàn năm đóng cửa khép kín, người Việt đã túa ra đi học khôn thiên hạ. Một số người đi học khôn thiên hạ tưởng rằng họ đã học được những tinh hoa của nhân loại. Họ tưởng rằng đang theo đuổi những lý tưởng cao đẹp. Họ tưởng rằng đã nắm được bí quyết nắm đầu xỏ mũi thiên hạ và tạo nên sức mạnh thần kỳ. Họ tưởng rằng những thủ thuật nắm đầu xỏ mũi quần chúng đó chính là văn hóa. Không, nó không phải là văn
hóa. Nó chỉ là ảo ảnh của văn hóa.
Nó thực sự chỉ là cái xác con chuột chết
thối tha.
Giấc mơ làm lại từ đầu Khi nhìn lại suốt hơn 60 năm đã sống, nhiều khi tôi bâng khuâng tự hỏi : ai là người đã hướng dẫn tư tưởng và hành động của tôi trong nhiều năm dài ? Ðiều làm tôi ngạc nhiên nhất là những người đã gây những ấn tượng mạnh mẽ nhất trong tâm hồn tôi, đã làm tôi bừng tỉnh và bắt đầu suy nghĩ hành động lại là những người tôi chưa hề quen biết, chưa gặp một lần, chưa trò chuyện một câu, thậm chí chưa biết tên biết mặt. Năm 1975 tôi đang bị giam ở trại cải tạo Long Khánh. Một biến cố đã gây xúc động sâu xa trong lòng những người tù cải tạo là vụ bảy người tù vượt ngục. Trong đêm khuya bảy người tù đó từ một trại cải tạo kế bên băng qua trại chúng tôi, vượt qua suối và trốn thoát. Tới sáng nghe tin ba, bốn người bị bắt lại. Một anh bị bắn tại chỗ. Một anh khác bị nhốt trong conex, cứa cổ tay vào thành conex và cắn lưỡi tự tử. Cuộc vượt ngục của bảy người bạn tù đó đã như một tia sáng lóe lên xé toang bức màn vô minh từ lâu phủ kín cuộc đời tôi. Tôi đã nhận thức được một điều căn bản : không ai có thể giúp mình thoát khỏi địa ngục, ngoại trừ chính mình. Muốn thoát khỏi ngục tù thì phải vượt ra khỏi ngục tù. Ðó là một thử thách lớn lao giữa Sống và Chết. Trước một thử thách chín phần chết một phần sống, điều gì làm ta run sợ ? Cái Chết có thực sự đáng sợ hay không ? Tôi tưởng tượng ra hoàn cảnh mình vượt ngục bị bắt lại, bị giam trong conex. Tôi thấy cái chết của anh bạn tù cứa cổ tay vào thành conex chẳng có gì đáng sợ. Khi cuộc sống chỉ còn là nô lệ nhục nhằn thì cái Chết đâu có gì đáng sợ ? Nhưng nếu tôi không cắn lưỡi tự tử như anh ta thì chuyện gì sẽ xảy ra ? Cùng lắm là bị mang ra trói vào cột và một loạt AK lia vào sọ rồi ngã xuống chết. Cũng chẳng có gì đáng sợ. Chính ý nghĩ cái chết không thực sự đáng sợ đã như một tia lửa ấm áp sưởi ấm tâm hồn tôi và cho tôi một hy vọng lớn lao rằng một ngày kia tôi sẽ có cơ hội làm lại từ đầu. Giấc mơ làm lại từ đầu đã khởi đầu chính là từ vụ vượt ngục của bảy người tù cải tạo đó. Năm 1976 tôi bị đưa về Bù Gia Mập. Ý tưởng vượt ngục đã từ từ hình thành và biến dần thành hành động. Hành động trong cô đơn cùng cực. Tôi không thể tìm được một người bạn đồng hành. Có một anh bạn cùng ăn một mâm, cùng ở một đội, cùng một ý nghĩ vượt thoát nhưng lại không thể cùng đi với nhau là anh Nguyễn Hữu Ân. Anh Ân biết tôi có ý định ra đi, nhưng không muốn cùng đi với tôi vì thấy cơ thể tôi gày gò ốm yếu, quá suy nhược sau năm lần sốt rét ngã nước. Tôi cũng không muốn cùng đi với anh Ân, vì lẽ anh ta còn gánh nặng vợ con. Nếu cùng đi với anh và rủi ro thất bại, tôi biết ăn làm sao nói làm sao với vợ con anh ta ? Chẳng thà một mình ra đi, có gì xảy ra mình làm mình chịu. Một buổi chiều sau một ngày lao động ngoài rẫy đứng trên đỉnh đồi chờ nghe kẻng tập họp về trại, anh Ân đột nhiên hỏi tôi : Nếu mình ra đi thì theo ý anh điều gì đáng sợ nhất ? Tôi trả lời ngay, gần như không cần suy nghĩ, vì câu hỏi này tôi đã tự đặt cho mình quá nhiều lần trong suốt bao nhiêu đêm thao thức suy nghĩ. Tôi chỉ tay về khu rừng phía xa và hỏi anh Ân có nhìn thấy hơi núi bốc lên mù mịt trong lúc trời về chiều hay không. Anh hãy tưởng tượng đêm nay màn đêm rũ xuống, anh ngồi một mình trong rừng sâu, bóng tối đen thui phủ kín mọi nơi, hơi núi bốc lên lạnh buốt. Rồi trí tưởng tượng sẽ làm anh nghĩ tới hổ báo, rắn rết, ma quỉ. Anh có đủ can đảm để ngồi một mình trong đêm tối giữa rừng sâu âm u hay không ? Ðiều đáng sợ nhất theo tôi chính là sự Sợ Hãi. Nếu mình vượt qua được sự Sợ Hãi đó thì không còn gì là đáng sợ nữa. Trước và sau, tôi và anh Ân lần lượt biến ý nghĩ thành hành động. Mỗi người chúng tôi đã ra đi trong cô đơn cùng cực. Tới nay tôi vẫn không biết số phận anh Ân ra sao. Phần tôi sau 21 ngày đêm đi trong rừng, tới bờ sông Bé, tìm cách vượt sông Bé không thành, tôi bị bắt lại. Bị bắt lại nhưng tôi không hề thất vọng hay tuyệt vọng. Trái lại một nỗi vui mừng tràn ngập trong lòng. Tôi đã vượt qua được sự sợ hãi ban đầu. Thử thách chưa chấm dứt. Thử thách chỉ mới khởi đầu. Khi ra khỏi trại cải tạo vào năm 1979 tôi nghĩ ngay tới chuyện vượt biên. Sau nhiều lần thất bại, cuối cùng tôi tới được đảo Kuku năm 1982. Ðặt chân lên vùng đất tự do rồi, giấc mơ làm lại từ đầu bừng bừng trong tâm tưởng. Ta phải bắt đầu lại từ đầu ! Ta phải bắt đầu cuộc đời mới, thực sự mới. Cái gì xấu xa tệ hại vứt đi hết. Phải đoạn tuyệt với quá khứ u buồn, phải vứt bỏ cùm xích ngục tù, phải mơ ước vươn lên sống một cuộc sống thực sự tốt đẹp và đáng sống. Ai đã trải qua một cuộc vượt thoát chín phần chết một phần sống, khi đặt chân lên vùng đất Tự Do mới cảm thấy niềm vui mừng, được hít thở không khí tự do lớn chừng nào. Trong lòng tôi tràn ngập một niềm vui miên man bất tận. Trước hết là niềm vui vứt bỏ được xiềng xích gông cùm. Từ nay đảng Cộng Sản chẳng còn một chút uy lực gì đối với tôi nữa. Tôi muốn nghĩ gì, làm gì, họ chẳng thể ngăn cấm. Nhưng tôi sẽ làm gì khi đặt chân lên vùng đất mới ? Nằm trong trại tị nạn tôi chưa biết cuộc sống mới sẽ ra sao nên không thể hình dung được mình sẽ làm gì. Ðiều có thể làm được và nên làm ngay là vứt bỏ hết cùm xích từ lâu trói buộc con người. Cùm xích của Cộng Sản thì đã vứt bỏ hết lại cho những người Cộng Sản rồi. Nhưng còn những cùm xích nặng nề hơn nữa : đó là những cùm xích tư tưởng chồng chất, dồn nén, ứ đọng trong đầu qua nhiều năm tháng. Phải chăng trong cuộc sống mỗi người thường cảm thấy uất ức tủi hờn chính là vì bị người khác đè nén áp bức, áp đặt tư tưởng của họ vào đầu mình, sai khiến ép buộc mình phải sống và hành động theo ý muốn của họ ? Bây giờ mình được tự do rồi, phải vứt bỏ mọi cùm xích tư tưởng đó. Trước hết là moi hết tư tưởng của Khổng Tử còn sót lại trong đầu, vét sạch hết, nhét vào một cái vỏ chai CocaCola, đậy kín nút lại, và thả xuống biển. Cái gì của Khổng Tử hãy trả hết lại cho Khổng Tử. Ông Khổng Tử ơi, từ nay tôi " đoạn tuyệt" với ông nhé ! Ông đi đường ông, tôi đi đường tôi. Tình nghĩa đôi ta có thế thôi. Sở dĩ tôi đã chọn ông Khổng Tử làm kẻ thù đáng sợ và nguy hiểm nhất có lẽ cũng vì bị ám ảnh bởi câu nói bất hủ của đại văn hào Quách Mạt Nhược : Khâu chi học, nghiết phẩn chi học dã ! - Cái học của Khổng Tử là cái học cứt đái ! Bao nhiêu năm dài, trong tâm tư tôi đã xảy ra một cuộc " nội chiến" âm ỉ. Tôi cứ bị thôi thúc xô đẩy để " đánh nhau với ông Khổng Tử" , với ý nghĩ rằng nếu mình " giết được ông Khổng Tử" , thì sẽ thoát khỏi kềm kẹp của Tập Quán. Truyền Thống hủ lậu và sẽ tìm được một con đường giải thoát rộng thênh thang, sẽ được thực sự hít thở không khí tự do trong lành. Bỗng nhiên một lúc tôi thấy mình đã và đang làm một việc cực kỳ vớ vẩn và vô ích. Ông Khổng Tử chết đã hơn hai ngàn năm rồi, đánh nhau với ông Khổng tử thì ăn cái giải rút gì ? Thử lôi những tư tưởng xấu xa tệ hại nhất của ông Khổng Tử ra mổ xẻ phân tích và vứt bỏ hết vào sọt rác xem sao. Cái tội lỗi của ông Khổng Tử, theo những người chỉ trích ông mạnh mẽ nhất, là đã tạo ra một nếp sống có tôn ti trật tự, có trên có dưới. Dưới thì phải cúi đầu phục tùng nghe mệnh lệnh người trên vô điều kiện. Con phải nghe lời cha, vợ phải nghe theo lời chồng, dân phải nghe theo lời vua. Cái giềng mối Quân Thần- Phụ Tử- Phu Phụ của Khổng Tử có còn là xiềng xích gông cùm nữa hay không ? Có và không. Ông vua cuối cùng của triều Nguyễn chết đã lâu rồi, chẳng cần giết thì ông ta cũng đã chết. Cha tôi chết cũng đã lâu. Cha tôi làm gì nên tội ? Tại sao tôi phải " đánh nhau" với cha tôi ? Tôi hết lòng thương yêu con tôi. Tại sao phải xúi giục con tôi nổi lên chống đối, chửi bới căm hờn bố mẹ ? Tại sao cứ phải khơi lên những cuộc " nội chiến" dai dẳng và phi lý đến mức độ thê thảm từ thế hệ này qua thế hệ khác giữa cha mẹ và con cái, giữa vợ chồng, giữa bạn bè thân thích và giữa những người dân cùng khốn khổ như nhau ? Tại vì đã có những bàn tay nhơ bẩn nhớp nhúa của những kẻ đứng sau lưng xúi giục. Những kẻ đó ngồi ngất ngưởng trên ngai vàng quyền lực muốn xúi giục người nọ căm hờn người kia để rồi cùng biến thành bày ưng khuyển chịu sự sai khiến của bạo chúa. Tại sao ta sôi sục căm hờn khi có chút xíu bất đồng giữa cha mẹ, con cái, vợ chồng, bè bạn nhưng lại cong lưng uốn gối cúi đầu nghe lệnh những bạo chúa ? Ôi, cha mẹ ta, tổ tiên ta, con cái ta, vợ chồng ta, bạn bè ta, đồng bào ta, dù trẻ hay già, dù cao hay thấp, dù lớn hay bé, dù giàu hay nghèo đâu phải là kẻ thù ta ? Cả ông Khổng Tử lẫn ông Socrate cũng không phải là kẻ thù ta. Kẻ thù ta chỉ là những bạo chúa ngồi trên đầu trên cổ ta, xúi giục ta thù hận lẫn nhau để cùng làm thân chó ngựa. Moi sạch tư tưởng Khổng Tử trong óc vứt hết đi rồi lại nhét tư tưởng của Lenin, Quách Mạt Nhược, hoặc bất cứ một vĩ nhân nào khác của nhân loại cho đến khi đầu óc đầy ắp thì rút lại chỉ là làm một việc hoàn toàn vô ích. Cái thực tế phũ phàng hiện ra trước mắt là khi ta lâm vào thế bĩ - như bị giam trong ngục tối chẳng hạn - thì không một vĩ nhân nào đến cứu ta. Chỉ có ta mới có thể tự cứu ta. Ông Khổng Tử chẳng phải là người đã hướng dẫn ý nghĩ và hành động của tôi, nhưng ông cũng chẳng phải là kẻ thù của tôi. Ông chỉ là một người, y hệt như tôi vậy. Karl Marx, Lenin, Stalin, Mao Trạch Ðông, Quách Mạt Nhược, Hồ Chí Minh đã đả phá những tư tưởng như của Khổng Tử và Socrate để chiếm lấy địa vị độc tôn, nhưng không có đức Nhân của Khổng Tử, không có Thành Tâm của Khổng Tử, không có Liêm Sỉ như Khổng Tử. Ðấy là sự khác biệt giữa Khổng Tử và những bạo chúa như Stalin. Nghĩ tới đó tôi như bừng tỉnh và thoát ra khỏi một cơn mê dài. Tư tưởng của những vĩ nhân của nhân loại chỉ thực sự biến thành xiềng xích nếu ta nâng những tư tưởng đó lên thành kinh điển, để cho những tư tưởng đó biến thành xiềng xích. Nếu ta coi những tư tưởng đó như những ý nghĩ bình dị của những con người bình thường đã từng sống qua mọi thử thách trong cuộc đời như ta, thì những tư tưởng đó chẳng còn gì là xiềng xích nữa. Suy nghĩ miên man tôi lần lần hiểu được những nguyên nhân đã gây ra những thảm trạng trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Một cuộc " nội chiến" ray rức, triền miên đã và đang xảy ra không phải chỉ ở ngoài xã hội mà ở ngay trong tâm hồn mỗi người. Nếu được tự do, thực sự tự do, tôi sẽ làm gì ? Tôi có một ước mơ thực lớn lao nhưng cũng thực nhỏ nhoi bình dị là được làm lại từ đầu, được thoát khỏi cuộc " nội chiến" âm ỉ dai dẳng vẫn tiềm ẩn trong tâm hồn mình và được sống trong một xã hội đáng sống, một cuộc đời đáng sống. Xã hội đó,
theo ý nghĩ thô thiển của tôi, là một
xã hội trong đó con người có thể hiểu nhau, tin
nhau và thực lòng thương nhau. Cuộc nội chiến chưa chấm dứt Khi còn chiến tranh, không ít người đã lớn tiếng lên án chiến tranh vì tính cách phi lý của nó. Khi chiến tranh chấm dứt, những người đó tin rằng mọi chuyện phi lý sẽ chấm dứt, mọi vết thương sẽ từ từ hàn gắn, dân tộc sẽ hết đau thương, hết hận thù, sẽ yêu thương nhau thắm thiết, sẽ bắt tay nhau xây dựng lại từ đầu to đẹp bằng năm bằng mười khi trước. Hình như đó chỉ là một ảo tưởng thực lớn lao. Chỉ vài năm sau khi chiến tranh chấm dứt từ trong nước báo Tuổi Trẻ đăng lên một tiếng kêu khắc khoải thống thiết của một người trẻ tuổi. Tôi muốn hỏi tại sao ? Tại sao xã hội đầy những điều nghịch lý ? Tại sao những điều nghịch lý tràn lan ngoài xã hội ? Tiếng kêu giống như một viên sỏi rớt xuống ao. Mặt nước lăn tăn gợn tí, rồi chìm trong im lặng mênh mông. Không một lời đáp ứng. Không một tiếng trả lời. Từ trong ngục tối âm u, tác giả tập thơ Hoa Ðịa Ngục viết lên những vần thơ nhức nhối, nhói buốt, như xé nát tim người : Vì ấu trĩ, thờ ơ, u tối Vì muốn an thân, vì tiếc máu xương Cả nước đã quay về một mối ! - Một mối hận thù, một mối đau thương ! Hạnh phúc, niềm mơ, nhân phẩm, luân thường Ðảng tới là tan nát cả ! Chiến tranh đã xé nát dân tộc ra từng mảnh vụn. Khi chiến tranh chấm dứt, mỗi mảnh vụn đó lại bị xé tơi tả thành trăm ngàn mảnh nhỏ hơn. Người ta đã khích động lòng thù hận để khơi dậy chiến tranh với lời hứa hẹn rằng khi chiến tranh chấm dứt lòng thù hận sẽ tan biến. Nó không tan biến. Nó lớn lên mãi, lan ra khắp nơi, thấm vào máu huyết quá nhiều người, tích tụ lại, u uất. Cũng như lòng thù hận, những điều nghịch lý không tan biến. Nó lớn lên mãi, tỏa ra khắp nơi, tràn lan ngoài xã hội, xé nát xã hội, xé nát gia đình, xé nát văn hóa, xé nát tâm hồn con người. Sau khi chiến tranh chấm dứt nhà văn Phan Xuân Ðài đi một vòng ra thăm Hà Nội và thuật lại một mẩu chuyện nho nhỏ xảy ra trên đường phố. Một bà lão thấy một tráng niên lực lưỡng cầm búa phá ống nước công cộng để lấy nước về nhà xài. Bà lão cất tiếng khuyên can : Ðừng ! Ðừng làm như vậy ! Gã tráng niên quắc mắt giơ cao búa gằn giọng : - Ði đi ! Muốn ăn một búa hả ? Ðối với những kinh tế gia lỗi lạc thì đây là một vấn đề thật nhỏ nhít, chẳng cần đề cập tới. Ðối với những nhà chính trị lỗi lạc thì đây cũng là một vấn đề quá nhỏ nhít chẳng có gì cần bận tâm. Nhưng đối với một nhà văn là người có trái tim biết rung động thì đây quả là một sự đổ vỡ khủng khiếp thê thảm. Lương tâm con người đã biến thành một xa xỉ phẩm. Tinh thần trách nhiệm biến thành cục đờm trong cổ họng, người ta chỉ muốn khạc ra chứ không muốn nuốt vào. Luân lý đạo đức biến thành những lời diễu cợt mỉa mai. Khi cất lên một lời khuyên đạo đức chỉ để lãnh một cái búa thì tiếng nói của lương tâm sẽ tắc nghẹn, u uất trong lòng. Ðấy là lý do ít ai còn muốn nói thẳng những điều mình nghĩ. Ðấy là lý do tại sao nguồn sinh lực của dân tộc suy kiệt dần. Mọi giá trị văn hóa biến thành miếng giẻ rách, hoặc tệ hơn nữa thành những chiêu bài mà công dụng duy nhất còn lại chỉ là để lường gạt người. Một thực trạng phũ phàng ít ai muốn nói tới là tình trạng vô lực mênh mông xảy ra khắp nơi, cho tất cả mọi người. Hãy thử ôn lại chuyện cô giáo bị đứa học trò cầm dao uy hiếp đứng lên bục cởi quần ra cho nó xem cái hĩm. Chuyện đó xảy ra là lỗi tại ai ? trách nhiệm về ai ? Tại cô giáo đã dạy học trò không nghiêm chăng ? Tại cha mẹ đứa bé không dạy con chăng ? Chẳng một ai chịu lãnh trách nhiệm. Tôi có thể hình dung ra cảnh khi nghe câu chuyện đó những nhà lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam đang cụng ly với nhau say túy lúy và cười hô hố lên : thằng bé vậy mà khôn đáo để, mới nứt mắt đã biết hưởng mùi đời. Còn ở hải ngoại ? Cũng một sự thờ ơ dửng dưng như vừa nghe một tin xe cán chó. Không cần phải bỏ thăm, hầu như mọi người đều đồng thuận rằng tất cả chúng ta đều bất lực như nhau. Mọi người đều giơ tay lên trời than một câu : Tôi biết làm sao được ! Ðâu phải lỗi ở tôi ? Không phải chỉ những người dân mới cảm thấy mình bất lực. Sau cuộc chiến Phạm Văn Ðồng than lên rằng : khơi động một cuộc chiến là chuyện dễ, quản trị một đất nước trong hòa bình là chuyện khó hơn nhiều. Lời than đó hàm ý rằng sau khi đảng Cộng Sản đã tạo được một guồng máy đàn áp khổng lồ để đè bẹp dí đối phương trong chiến tranh thì ngỡ ngàng nhận thấy cũng guồng máy đó trở thành vô dụng và hoàn toàn bất lực khi chiến tranh chấm dứt. Tôi có một người bạn tù thân thiết. Trước kia anh ta là một nhà giáo. Một hôm người con anh ta hỏi bố câu này : - Bố nghĩ sao khi các ông bạn của bố quên hết cái nhục những năm nằm trong trại cải tạo, ùn ùn kéo nhau về Việt Nam du hí, khép nép cúi đầu trước mọi cán bộ Cộng Sản, nhanh như chớp đút đô la kẹp vào bao thuốc biếu anh công an để khỏi bị lục lọi hành lý ? Bạn tôi muốn hỏi ý kiến tôi xem nên trả lời con ra sao. Tôi trả lời không nổi nên chỉ có thể đưa ra một ý kiến hết sức vớ vẩn là anh ta nên hỏi ngược lại con anh xem có phải chỉ những người lớn tuổi mới ùn ùn kéo nhau về Việt Nam du hí hay không. Khi bị hỏi ngược lại như vậy, người con sững sờ. Người con bạn tôi thú nhận rằng đã có những người bạn đồng lứa tuổi với anh ta trở về nước du hí, khi trở ra khoe với anh ta rằng : Về Việt Nam chơi gái đã lắm ! Vác một hai ngàn đô về chơi xả láng thì chỉ còn nước đi xe lăn ra phi trường ! May cho bạn tôi. Gia đình anh ta vẫn thuận hòa đầm ấm. Cha con anh ta vẫn có thể đặt vấn đề thực thẳng thắn cởi mở, cùng nhau tìm hiểu và tìm được sự thông cảm.Có lẽ bạn tôi không ngờ được rằng một cuộc " nội chiến" lớn lao có thể đã xảy ra trong gia đình anh. Tôi đã chứng kiến chuyện xảy ra cho nhiều gia đình khác và cuộc " nội chiến" đã xảy ra thật dữ dội, hoặc công khai, hoặc ngấm ngầm Người con nhìn thấy những nghịch cảnh xảy ra trong xã hội. Câu hỏi nảy sinh một cách hết sức tự nhiên trong óc là : lỗi tại ai ? Nếu đối tượng gây ra nghịch cảnh đó thuộc lớp người lớn tuổi, người con sẽ qui hết trách nhiệm về thế hệ cha anh. Một cuộc " nội chiến" bùng lên giữa hai thế hệ. Từ đó người con không còn tin ở bố mẹ, không còn muốn nghe lời bố mẹ. Bố mẹ thuộc thế hệ già. Tất cả bọn già đều giống nhau : cố chấp, hủ lậu, thối nát. Chỉ có những người trẻ mới còn giữ được đầu óc trong trắng lành mạnh. Cuộc " nội chiến" không ngừng lại ở đó. Nó lớn lên mãi và biến thành cuộc chiến giữa " nội thù" và " ngoại nhân" , giữa Truyền Thống và Cách Mạng. " Nội thù" không còn giới hạn là bố mẹ và những người cùng lứa tuổi với bố mẹ nữa. Nó lan ra rất nhanh và bao gồm hầu hết cả dân tộc. Ký ức mở rộng cánh cửa và những kẻ " nội thù" lũ lượt ùn ùn kéo về. Không phải chỉ có bọn vua quan triều Nguyễn hủ lậu thối nát mới là kẻ nội thù. Kẻ " nội thù" bao gồm hầu hết tổ tiên ta. Lê Lợi : địa chủ gian ác. Quang Trung : anh chị, dao búa. Trần Hưng Ðạo : phong kiến. Nguyễn Trãi : trí thức " nghề quỳ" . Cái mà những kẻ nội thù rêu rao là Truyền Thống tốt đẹp của dân tộc biến dần thành những Tập Quán hủ lậu thối tha, là thói quen suy nghĩ một chiều của những đầu óc bé tẻo teo bằng hạt đậu. Thế rồi người trẻ tuổi ngước mắt nhìn ra ngoài và thấy ánh sáng rực rỡ của " Cách Mạng" . Cách Mạng là Ðổi Mới, là Ðộc Lập, Tự Do, Bình Ðẳng, Bác Ái, Tiến Bộ, Văn Minh, vv và vv. Cách Mạng là xóa sạch hết hủ lậu thối nát, xấu xa tệ hại. Cách Mạng là " ngoại nhân" . Bao nhiêu " ngoại nhân" là bấy nhiêu nguồn ánh sáng rực rỡ chói lòa. Ý niệm nảy sinh trong lòng nhiều người giống như một ngọn hải đăng sáng rực : Tất cả những gì thuộc về Truyền Thống, tất cả những gì của tổ tiên ta để lại đều là xấu xa hủ bại, tất cả những gì của người ngoại quốc đều là tiến bộ văn minh. Từ đấy thì trong tâm tưởng những người trẻ tuổi dân tộc đã tách thành hai khối người đối nghịch bất khả tương dung : Một bên là những kẻ chấp nê hủ lậu vẫn bám vào tổ tiên, vào những kẻ " nội thù" . Bên kia là những người sáng suốt quyết tâm đi theo con đường Cách Mạng rực rỡ chói lòa của những " ngoại nhân" . Cuộc chiến giữa những kẻ " nội thù" u mê hủ lậu và những " ngoại nhân" vô cùng sáng suốt cũng không ngừng ở đó. Kẻ " nội thù" hiển nhiên yếu thế rõ rệt. Người chết như Quang Trung, Trần Hưng Ðạo không thể sống dậy. Người sống thì mệt mỏi dần, buông xuôi hai tay, và nghĩ rằng tốt hơn hết là sống theo thời. Cả thiên hạ theo Mới thì ta cũng đành theo Mới vậy. Cuộc chiến giữa Cũ và Mới dường như đã chấm dứt không biết tự lúc nào. Nhưng cuộc " nội chiến" giữa dân tộc thì không hề chấm dứt. Nó chỉ biến thái. Cả dân tộc nay đã đồng thuận với nhau rằng nhất quyết phải theo Mới, theo Mới đến cùng. Oái oăm thay cái Mới chẳng hề có Một. Kẻ '' ngoại nhân" sáng suốt nhiều quá, nhiều quá ! " Ngoại nhân" nào cũng sáng suốt như nhau hoặc hơn nhau. Tới đây thì cuộc " nội chiến" biến thành cuộc chiến giữa những " ngoại nhân" . Mỹ tốt hay Liên Xô tốt ? Liên Xô tốt hay Trung Cộng tốt ? Mao Trạch Ðông tốt hay Ðặng Tiểu Bình tốt ? Stalin tốt hay Gorbachev tốt ? Ông tổng thống tụt quần tốt hay ông tổng thống đi đêm tốt ? Cả dân tộc vẫn tiếp tục cãi nhau, đánh nhau, giết nhau. Lỗi vẫn tại anh. Tại sao anh không nghĩ như tôi, làm như tôi, cùng nhau cúi đầu thờ một chúa ? Lỗi là tại anh vẫn cầm súng chống lại tôi. Buông súng xuống, đầu hàng đi ! Buông súng là yêu nước ! Ðầu hàng là yêu nước ! Nếu trong xã hội chỉ có một mình tôi được quyền cầm súng thì tất cả mọi chuyện sẽ được giải quyết êm đẹp cả. Gã công an khinh khỉnh nhìn anh Việt Kiều về thăm nhà và lớn tiếng mắng mỏ dạy dỗ : Thấy không ? anh đi về Việt Nam du hí tôi đâu bắn anh ? Ðiều tôi muốn chỉ giản dị là : anh đút đô la cho nhanh vào gói thuốc rồi đưa tôi. Nhớ đút nhiều nhiều một chút nhé ! Rồi tôi sẽ cho anh Ðộc Lập Tự Do. Anh sẽ Tự Do tha hồ du hí. Anh sẽ Tự Do tha hồ chơi gái. Có ai cấm cản anh làm những chuyện đó đâu ? Hòa Bình sướng thế đấy ! Ðộc Lập Tự Do tuyệt vời như thế đấy ! Chống cự làm gì cho khổ thân ! Tôi vừa viết những dòng này vừa thấy nghẹn ngào buồn tủi. Nghẹn ngào buồn tủi mà vẫn phải viết. Bạn tôi đã thúc đẩy tôi viết bài này. Tôi đắn đo mãi. Viết ra có lẽ chẳng giải quyết được gì. Bài viết này có lẽ chỉ khơi thêm những cuộc tranh cãi, những cuộc " nội chiến" mới. Tất cả những điều tôi viết trên đây vốn chẳng phải là ý nghĩ của tôi. Tôi đã thoát ra khỏi những ý nghĩ đó lâu rồi. Tôi chỉ ghi nhận lại những ý nghĩ của những người sống cùng thời chung quanh tôi. Hình như có một sai lầm lớn lao đã xảy ra trên đất nước. Hình như chúng ta đã quá tin vào sức mạnh của Lý Trí, của Vũ Lực, của Súng Ống và của Vật Chất. Từ một câu hỏi của người con bạn tôi, tôi đã cố suy nghĩ thật sâu, phân tách thật sắc. kết luận được những gì ? Nếu tôi đoán đúng thì kết luận tự nhiên nảy sinh trong lòng người đọc sẽ là, Chỉ nghĩ quẩn. Ðúng vậy ! Khởi đầu là một câu hỏi thật nhỏ nhít, không đáng để ta quan tâm. Kế tới thành tranh cãi. Tranh cãi biến thành Lý Tưởng, thành Hoài Bão, thành Chủ Nghĩa, thành Lẽ Tất Thắng. Lý Tưởng càng lớn, Hoài Bão càng vĩ đại chừng nào thì tranh cãi càng sôi nổi chừng đó. Cãi nhau rồi đánh nhau. Ðánh nhau rồi giết nhau. May mắn không bị giết thì đi tù. Tù ra thì vượt biên. Vượt biên rồi tiếp tục cãi nhau. Vòng luẩn quẩn khởi đầu từ một câu hỏi của người con hỏi bố và quay về cũng câu hỏi đó của người con hỏi bố. Cuộc "nội chiến" chưa chấm dứt.
Tụ và Tán Sau hơn 20 năm nhìn lại, dân tộc tan tác chia lìa như đàn chim vỡ tổ. Ít gia đình nào không gặp cảnh phân ly. Ít gia tộc nào không bị xé nát thành nhiều mảnh. Bạn bè xưa nay ở nơi đâu ? Người thân cũ nay mỗi người mỗi ngả. Ðiều đau xót hơn nữa là lòng người tận cùng ly tán, không ai còn muốn nghe ai, không ai còn có thể tin ai. Vì đâu nên nỗi? Truy nguyên lại nguồn gốc ta có thể mô tả sơ lược như thế này : dân tộc bị tách đôi vì những món hàng ngoại hóa. Nam và Bắc bất đồng ý kiến với nhau vì mỗi bên cho rằng mình đã chọn đúng món hàng ngoại hóa tốt nhất. Một bên cho rằng : Trăng Trung Quốc tròn hơn trăng của Mỹ Ðồng hồ Liên Xô tốt hơn đồng hồ Thụy Sĩ Bên kia nghĩ ngược lại : Ðồng Ðô La của Mỹ giá trị hơn đồng Rúp của Liên Xô hay đồng Nhân Dân Tệ của Trung Quốc. Nguyên nhân rất vớ vẩn như vậy đã đưa đến hậu quả cãi nhau, đánh nhau, đâm chém nhau, giết nhau triền miên năm này qua năm khác. Có người nghĩ tới chuyện Hòa Hợp Hòa Giải. Muốn hòa giải thì trước hết phải làm cho hai bên cùng buông súng, cùng ngồi lại với nhau, bày hết đồ ngoại hóa ra cho nhau xem, cùng thưởng thức, cùng suy ngẫm. Cho Miền Nam nếm thử gạo Ðại Mễ của Trung Quốc xem ngon thế nào, cho Miền Bắc ăn thử hamburger, hot dog của Mỹ xem bổ béo ra sao. Trao đổi AK47 với M16 xem súng nào giết người ngọt hơn. Nếu có thể đạt tới sự Ðồng Thuận, Nhất Trí rằng đồ ngoại hóa của nước nào tốt nhất thì có lẽ sẽ có thể giải quyết được êm thấm mối bất hòa của dân tộc. Nhưng kêu gọi hai người đang say máu cầm súng bắn nhau không phải là chuyện dễ. Ðằng sau Miền Nam và Miền Bắc còn có những ông khổng lồ vĩ đại. Ông nào cũng cho rằng súng của mình tốt nhất. Ông nào cũng muốn tiếp viện súng cho đệ tử của mình bắn thử. Trong lòng mỗi người dân cả hai miền Nam Bắc có lẽ cùng có một niềm mơ ước như nhau: ước gì cả hai ông khổng lồ vĩ đại đều buông tha mình ra, đừng xía vào chuyện nội bộ của dân tộc nhỏ bé này. Nếu các ông khổng lồ vĩ đại thôi can thiệp vào chuyện nội bộ, có lẽ cả dân tộc sẽ cùng ôm lấy nhau, hôn nhau thắm thiết, mọi bất đồng sẽ được hóa giải thật dễ dàng. Người dân Miền Bắc sẽ có thể mang biếu người Miền Nam những bao gạo đại mễ Trung Quốc chua loét mùi cứt mèo, người dân Miền Nam có thể mang những lon đồ hộp của mấy anh lính Mỹ chưa ăn hết ra tặng lại. Thế là cả dân tộc sẽ hỉ hả hòa cả làng. May mắn thay ước mơ tưởng chừng không thể nào thành tựu nổi đó đã biến thành sự thực.Tổng Thống Nixon dẫn đoàn tùy tùng đông đảo sang Bắc Kinh nhâm nhi ly rượu ngâm chuột bao tử, nếm món óc khỉ và dâng lời chúc thọ lên chủ tịch Mao Trạch Ðông. Thôi thế từ nay tôi sẽ rút hết quân khỏi Việt Nam, sẽ cắt hết viện trợ cho Miền Nam, sẽ không còn can thiệp đến chuyện nội bộ của dân tộc Việt Nam, sẽ để mặc cho dân tộc Việt Nam tự quyết định lấy số phận mình. Viễn ảnh hòa bình thật quá sức tươi sáng tốt đẹp ngoài sức tưởng tượng của mọi người. Mỹ đã rút quân thực. Mỹ đã cắt viện trợ thực. Mỹ đã thôi can thiệp vào chuyện nội bộ của dân tộc Việt Nam thực. Ðó là những sự thực không ai có thể chối cãi. Dân tộc Việt Nam đã có cơ hội ngàn năm một thuở để có thể hàn gắn vết thương đau, nối lại tình đồng bào ruột thịt. Bây giờ thì không ai còn có thể đổ lỗi cho ngoại bang đã xúi giục ép buộc hai miền Nam Bắc cầm súng bắn nhau nữa. Chỉ còn lại Mình với Ta. Tại sao Mình với Ta không thể Hòa Hợp Hòa Giải với nhau? Mình hãy buông súng xuống, Ta sẽ ôm Mình vào lòng, Ta sẽ hôn lên má lên môi Mình, Ta thề sẽ yêu thương Mình trọn đời. Vợ chồng có hòa hợp thì gia đình mới vui vẻ đầm ấm, bắt tay nhau xây dựng lại từ đầu. Ðất nước sẽ phú cường hùng mạnh, dân tộc Việt Nam sẽ làm bá chủ hết vùng Ðông Nam Á, người Việt sẽ lấy lại được niềm tự hào rằng mình là con cháu của loài khỉ đột, là cái nôi của loài người, là đỉnh cao trí tuệ loài người, là vv và vv... Buông súng xuống đi em! Buông súng là yêu nước! Ðầu hàng là yêu nước! Buông súng là Hòa Hợp Hòa Giải Dân Tộc! Câu hỏi tréo ngoe là: tại sao muốn hòa hợp hòa giải mà cả hai bên không cùng buông súng? Tại sao chỉ kêu gọi Miền Nam buông súng? Nếu cho rằng Miền Nam nhận viện trợ của Mỹ là lệ thuộc ngoại bang, nô lệ ngoại bang thì tại sao Miền Bắc cũng nhận viện trợ của Liên Xô và Trung Cộng? Khi Mỹ đã dứt khoát rút khỏi Việt Nam rồi tại sao Miền Bắc vẫn tiếp tục nhận vũ khí đạn dược của Liên Xô, Trung Cộng? Người Mỹ rút khỏi Việt Nam đã tạo ra một cơ hội ngàn năm một thuở cho người Việt hai miền Nam Bắc có thể tự giải quyết vấn đề nội bộ với nhau trong tình ruột thịt nghĩa đồng bào mà không có áp lực hoặc sự cưỡng chế của ngoại bang. Ðó là cơ hội hãn hữu để dân tộc có thể thực sự hòa hợp hòa giải nếu cả hai miền Nam Bắc đều thực tâm muốn như vậy. Nhưng cơ hội giải quyết mối bất hòa Nam Bắc đã được nhìn dưới một góc cạnh khác hẳn. Khi Mỹ dứt khoát ngưng viện trợ cho Miền Nam, Liên Xô và Trung Cộng ngược lại dồn dập trang bị vũ khí cho MIền Bắc ngập họng. Sức mạnh của hai bên đã chênh lệch hẳn. Miền Bắc nhìn thấy đó là một cơ hội hãn hữu để nuốt chửng Miền Nam. Miệng không ngớt hô hào Hòa Hợp Hòa Giải , trong bụng mưu tính dốc toàn lực, dùng bạo lực để thôn tính, xâm chiếm Miền Nam. Tính cách lừa đảo lường gạt của chủ trương Hòa Hợp Hòa Giải đã hiện ra lộ liễu trần truồng nhớp nhúa. Sau khi Cộng Sản Việt Nam đã xâm chiếm và thôn tính trọn Miền Nam rồi, hàng triệu đồng bào không chịu nổi ách thống trị hà khắc tàn bạo của người Cộng Sản đã liều chết ra đi. Nay lại có người lớn tiếng kêu gọi Hòa Hợp Hòa Giải. Lập luận mới mẻ của chủ trương này là Hòa Hợp Hòa Giải Dân Tộc, nghĩa là hòa hợp hòa giải giữa những kẻ bị thua và những kẻ bị lừa. Nói khác đi đây là sự hòa hợp hòa giải giữa người dân hai miền Nam Bắc trước đây, hoặc giữa đồng bào quốc nội và hải ngoại, chứ không phải hòa hợp với chính quyền Cộng Sản. Thoạt nghe có vẻ hữu lý. Ngẫm kỹ thấy lãng nhách. Cuộc chiến đã ngưng hẳn. Người hải ngoại có ai còn cầm súng đâu mà chủ chiến ? Những người Việt duy nhất hiện nay còn cầm súng chỉ là bộ đội và công an Cộng Sản. Không thấy những người kêu gọi Hòa Hợp Hòa Giải Dân Tộc kêu gọi bộ đội, công an Cộng Sản buông súng, chỉ thấy họ lớn tiếng thóa mạ Khổng Tử, Truyền Thống Dân Tộc và vua Quang Trung. Khổng Tử chết đã lâu rồi, 18 vua Hùng Vương chết đã lâu rồi, vua Quang Trung chết đã lâu rồi; đánh nhau với Khổng Tử, Hùng Vương và Quang Trung dễ ợt. Tha hồ mạ lị cái học Khổng Khâu là cái học cứt đái - như Quách Mạt Nhược đã làm - Tha hồ chửi vua Quang Trung là côn đồ dao búa. Người đã chết không thể sống dậy để đối đáp nửa lời. Ðiều lãng xẹc là: đánh nhau với người xưa liệu có làm cho đồng bào hải ngoại và quốc nội hòa với nhau hơn không? Lòng người tận cùng ly tán, đó là một sự thực hiển nhiên. Hận thù chồng chất, đó cũng là điều khó thể chối cãi. Nếu Hòa Hợp Hòa Giải là nỗ lực hóa giải hận thù thì đó là một chủ trương chính đáng. Ít ai nghĩ Hận Thù là điều Tốt cho dân tộc, ngoại trừ những người Cộng Sản. Chủ trương Ðấu Tranh Giai Cấp của Cộng Sản là chủ trương khai thác Hận Thù. Nhưng làm sao để có thể hóa giải Hận Thù? Nếu không có áp bức, bóc lột, bạo lực, gian trá, lường gạt, chôn sống người, san bằng nghĩa địa, cướp của đốt nhà, hãm hiếp đàn bà, đày ải tra tấn hành hạ người trong các trại tập trung thì làm sao có lòng Thù Hận? Lòng Thù Hận nảy sinh một cách hết sức tự nhiên cũng như Tin Yêu và Tình Thương vậy. Trước những cảnh áp bức bất công, trước những hành động dã man tàn ác, trước những sự lừa đảo lường gạt trắng trợn, con người nảy sinh lòng bất bình, căm phẫn và oán hận những kẻ đã gây ra những tội ác đó. Hận Thù những cái đáng Hận Thù là một tình cảm rất tự nhiên của con người. Tin yêu cũng vậy. Ta chỉ tin những gì thực sự đáng tin. Ta không thể tin những kẻ suốt đời lường gạt. Ta chỉ yêu những gì thực sự đáng yêu. Ta không thể yêu những kẻ táng tận lương tâm độc ác hơn quỷ dữ. Sở dĩ trước đây đã có những người dân Nam Bắc oán hận nhau chỉ vì cả hai bên đã bị cuốn vào guồng máy biến thành công cụ cho những kẻ nắm quyền sai khiến, khiến hai bên cùng cầm súng, cùng phải bắn giết nhau, cùng gây ra những mối hận thù cho nhau. Khi cuộc chiến chấm dứt, người dân cả hai miền Nam Bắc đều tỉnh ngộ. Hận Thù nhau giữa những người dân là lầm lẫn, là nhằm sai đối tượng. Kẻ đáng hận thù là những quỷ vương đã tạo ra guồng máy nghiền nát xã hội, nghiền nát con người, đã sai khiến ép buộc người dân nọ bắn giết người dân kia. Giờ đây người dân Miền Bắc không còn lý do gì để hận thù người dân Miền Nam, đồng bào quốc nội không còn lý do gì để hận thù đồng bào hải ngoại. Những người Miền Nam đã từng một thời cầm súng chiến đấu nay đã chết dần chết mòn hoặc suy kiệt cả tinh thần lẫn thể xác trong các trại tập trung, gia đình đổ vỡ tan nát, tự lo cho bản thân chưa xong, đâu thể gây ra chiến tranh tang tóc cho đồng bào Miền Bắc? Lòng Hận Thù nếu có ở đồng bào hải ngoại nay với thời gian cũng nguôi dần. Xét cho cùng đồng bào cả nước đều là nạn nhân của bọn quỷ vương Cộng Sản. Ta có thể nhìn thấy lòng hận thù giữa những người dân trước đây thuộc hai chế độ đã và đang tan biến đi rất nhanh. Nhà văn Vũ Thư Hiên là con của Vũ Ðình Huỳnh, bí thư của Hồ Chí Minh. Cả gia đình ông đã một thời cuồng nhiệt tin theo và hoạt động đắc lực cho đảng Cộng Sản. Khi ra hải ngoại lẽ ra đi đến đâu ông ta cũng bị đồng bào ném đá và mạ lị chửi rủa đánh đập chứ! Chuyện xảy ra khác hẳn: đi đến đâu ông cũng được đón tiếp nồng hậu, được nhìn bằng những cặp mắt đầy thiện cảm. Tại sao vậy? Chỉ vì ông ta đã nhìn thấy rõ kẻ đã gây ra tội ác cho cả dân tộc chính là bọn quỷ vương Cộng Sản và can đảm thẳng thắn nói lên ước vọng xóa bỏ Bạo Lực và Dối Trá, xóa bỏ chủ nghĩa và chế độ Cộng Sản. Ðó là ước vọng chung của cả dân tộc. Ðó là khởi điểm của một sự đồng thuận. Nếu những cán bộ Cộng Sản gộc nay phản tỉnh cũng không còn là đối tượng căm thù của người dân hải ngoại thì lòng hận thù giữa những người dân hai miền Nam Bắc trước đây nay hiển nhiên đã nhạt đi rất nhiều. Với thời gian mối Hận Thù đó không cần hóa mà tự nhiên sẽ giải. Vì thế tôi cho rằng lời kêu gọi xóa bỏ hận thù, hòa hợp hòa giải giữa những kẻ bị thua và những kẻ bị lừa là một lời kêu gọi lãng nhách, không thiết thực. Mối thù hận giữa người dân hai miền Nam Bắc trước đây là thù hận giả tạo, do bị những bàn tay nhơ nhớp xúi giục. Mối thù hận đó khi hiểu rõ nguyên nhân sẽ tự tan đi, không cần hóa mà tự nhiên sẽ giải. Cái mà ta
không thể làm được là hòa hợp hòa
giải với những kẻ đã và vẫn đang tiếp tục lừa người.
Hai người đi ngược đường
Một nhà văn và một người làm chính trị gặp nhau ở Úc. Một đám đông tụ lại nghe hai người nói chuyện. Nhà văn là một người đã từng sống ở miền Bắc dưới chế độ Cộng Sản. Ông bị tù đày, hành hạ vì bị nghi là có tư tưởng chống đối. Thoát ra hải ngoại ông viết một cuốn hồi ký kể lại những gì xảy ra ở miền Bắc dưới chế độ Cộng Sản. Nhà chính trị là một người miền Nam dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Ông đã từng giữ những chức vụ không lớn lắm nhưng cũng không nhỏ lắm. Ra tới hải ngoại ông bắt đầu suy nghĩ và muốn tìm một giải pháp để cứu lấy dân tộc. Hai người hình như đang đi ngược đường với nhau. Nhà văn từ trong nước thoát ra. Nhà làm chính trị đã ở hải ngoại lâu năm nay dường như đang tìm lối quay về. Nhà văn viết hồi ký là quay về nhìn quá khứ. Người làm chính trị vạch ra một kế hoạch cứu nước là hướng tới tương lai. Cử tọa lắng nghe và băn khoăn muốn tìm hiểu hai ông hướng về đâu, định làm gì, sẽ làm gì và phương pháp làm việc ra sao. Hoài bão của hai ông là gì? Phương pháp để đạt tới hoài bão đó ra sao? Tóm lại đâu là Mục Ðích và Phương Pháp của mỗi người ? Ðâu là Cứu Cánh và đâu là Phương Tiện? Hoài bão của nhà văn có lẽ rất giản dị và dễ hiểu. Ông chỉ muốn kể lại những gì ông đã thấy. Ông muốn nói lên những Sự Thật từ lâu bị dấu kín. Những điều ông muốn nói dàn trải hết trong cuốn sách ông viết. Viết xong cuốn sách mang in và phổ biến ông coi như đã đạt thành tâm nguyện. Tâm nguyện của ông có lẽ chỉ vẻn vẹn có như vậy. Ông đã đạt được đúng điều ông ước muốn. Mục đích của ông rất rõ ràng giản dị. Ông đã đạt được mục đích đó và không cảm thấy khó khăn. Viết xong cuốn sách là đã đạt được mục đích mong muốn. Người đọc nghĩ gì về những điều ông viết là chuyện của người đọc. Người đọc có rút ra được bài học thực tế nào từ những điều ông viết hay không cũng là chuyện của người đọc. Dân tộc có chuyển mình vì những điều ông viết hay không cũng là chuyện của cả dân tộc. Ông không có một kế hoạch nào cho tương lai. Ông không khuyên ai một điều gì. Ông tự biết cái giới hạn của khả năng mỗi người. Nhà văn chỉ làm công việc của nhà văn mà không giẫm chân lên công việc của nhà soạn thảo kế hoạch, của chiến lược gia và chính trị gia Phương pháp để đạt tới mục đích của ông cũng rất rõ ràng giản dị. Ngồi một mình trong đêm khuya, cố moi ký ức viết lại thật trung thực những gì mình đã nhìn đã nghe đã thấy. Phương pháp vỏn vẹn chỉ là: cố nhớ lại những gì đáng nhớ, cố viết lại những gì đáng viết, cố nói đúng sự thật. Và mang in, và phổ biến. Chấm hết. Hoài bão của người làm chính trị lớn hơn rất nhiều. Hoài bão đó là cứu lấy dân tộc đang trầm luân trong biển khổ, là đưa dân tộc lên địa vị hùng cường thịnh vượng văn minh tiến bộ, là hòa hợp hòa giải cả một dân tộc đã bị phân ly tan tác và đối nghịch nhau vì những hận thù đố kỵ. Hoài bão đó thật cao cả, thật lớn lao nhưng cũng thật mông lung. Có người thắc mắc hỏi ông điều gì là điều thực sự cần làm nên làm trong lúc này. Ông sôi nổi hùng hồn nói: chúng ta cần ngồi lại với nhau, cùng đồng thuận với nhau về Mục Ðích và Phương Pháp. Cả phòng hội rực sáng lên như vừa được nhìn thấy một hào quang chói lòa. Ờ hỉ! Chuyện giản dị có như vậy mà sao mọi người không nghĩ ra! Ngồi lại với nhau ư? Ngó quanh cử tọa ai cũng đang ngồi hết thảy, có ai đứng hay nằm đâu? Người duy nhất đang đứng trong phòng hội là diễn giả. Nhưng thôi, đó là chuyện nhỏ nhặt, bỏ qua đi. Hãy cùng nhau tìm ra những điểm đồng thuận về Mục Ðích và Phương Pháp. Mục đích của chúng ta là gì? Một người nêu câu hỏi đó hỏi ông nhà văn. Ông nhà văn khoan thai trả lời thật rõ ràng dứt khoát: Giải thể chế độ Cộng Sản! Cả phòng họp gần như vỡ tung vì tiếng vỗ tay. Một câu trả lời giản dị như vậy đã nói lên sự đồng thuận sâu xa trong lòng mọi người. Một người khác cắc cớ cũng đem câu hỏi đó hỏi người làm chính trị. Người làm chính trị gạt phắt đi. Ðó là một câu hỏi không nên đặt ra, không cần đặt ra. Cứ đồng thuận với nhau về Mục Ðích rồi ngồi ì một đống thì được tích sự gì? Ðất nước vẫn lầm than, dân tộc vẫn phân hóa, đảng Cộng Sản vẫn nắm hết quyền lực trong tay, người dân vẫn khốn khổ, vẫn chia rẽ, vẫn đánh nhau, cãi nhau, chửi nhau. Ðiều quan trọng không phải là đồng thuận về Mục Ðích. Ðiều thực sự quan trọng là đồng thuận với nhau về phương pháp. Vậy Phương Pháp nào là Phương Pháp hay nhất để đạt tới Mục Ðích mà hiện nay ta chưa thể đồng thuận? Phương pháp đó là hòa hợp hòa giải giữa những kẻ bị thua và những kẻ bị lừa. Kẻ bị thua là dân chúng miền Nam trước đây. Kẻ bị lừa là người dân miền Bắc sống dưới chế độ Cộng Sản. Nếu kẻ bị thua và kẻ bị lừa hòa hợp được với nhau, hóa giải được hận thù thì sẽ tạo nên một cái lực đủ mạnh để đấu tranh với Cộng Sản. Nhưng làm thế nào để hòa hợp hòa giải những kẻ bị thua và những kẻ bị lừa? Phải xóa bỏ hận thù, phải kêu gọi mọi người đã cầm súng hoặc đang cầm súng hãy buông súng xuống đừng đánh nhau nữa. Cử tọa nhìn nhau ngơ ngác. Ở hải ngoại có còn ai đang cầm súng nữa đâu? Họ đã buông súng từ 24 năm nay rồi. Buông súng trong tức tưởi nghẹn ngào, nhưng cũng là buông súng. Những người duy nhất hiện nay còn cầm súng là bộ đội và công an Cộng Sản. Tại sao diễn giả không trở về nước hùng hồn kêu gọi bộ đội và công an Cộng Sản hãy buông súng xuống? Một dấu chấm hỏi không thốt ra thành lời. Ðây là một câu hỏi không nên đặt ra, không cần đặt ra. Ðặt ra là làm khó dễ cho nhau. Làm khó dễ cho nhau thì không thể hòa hợp hòa giải với nhau. Ðành rằng miền Nam đã buông súng từ khuya rồi, nhưng cái óc hiếu chiến ham đánh nhau vẫn còn nguyên đó. Vì thế cần làm cho mọi người bỏ cái óc hiếu chiến đó đi. Muốn hòa hợp hòa giải thì phải đấu tranh thật quyết liệt. Phải đánh gục mọi kẻ thù. Kẻ thù ta là Quang Trung Nguyễn Huệ, là Khổng Tử, là Truyền Thống Dân Tộc. Phải chửi bới mạ lị Quang Trung, Khổng Tử thậm từ. Phải diệt cho được Truyền Thống Dân Tộc. Cử tọa lại nhìn nhau ngơ ngác. Quang Trung, Khổng Tử chết đã lâu rồi. Chửi bới mạ lị họ thì có ích gì cho sự hòa hợp hòa giải dân tộc? Truyền Thống Dân Tộc nay đã nhạt nhòa phai lãng. Giữ còn quá khó, cần gì phải hăm hở diệt? Sao cứ phải chửi bới mạ lị Quang Trung, Khổng Tử mới có thể hòa hợp hòa giải? Thật là khó hiểu. Ðấy lại là một dấu chấm hỏi không thốt nên thành lời. Nhưng có một sự thật lồ lộ hiện ra, dù không ai nói ra miệng nhưng ai cũng cảm nhận được. Nhà văn đã vô tình trả lời giùm cho nhà làm chính trị một câu hỏi thật nhức nhối và khó trả lời. Liệu có thể xóa bỏ hận thù, hàn gắn vết thương đau dân tộc được hay không? Liệu có thể hòa hợp hòa giải giữa những kẻ bị thua và những kẻ bị lừa được hay không và làm thế nào để hòa hợp hòa giải giữa những người đó? Nhà văn đã tự mình dấn thân vào hang cọp, đưa đầu vào miệng cọp, thử xem răng cọp bén hay không bén. Nhà văn là một người Cộng Sản, ông nói thẳng ra vậy. Ông đã từng say mê chủ nghĩa Cộng Sản, ông nói huỵch toẹt ra như vậy. Cả gia đình ông đã từng một thời tôn sùng ngưỡng mộ Hồ Chí Minh, ông kể hết không hề dấu diếm. Cha ông là bí thư của Hồ Chí Minh, là một trong những người thân cận nhất của Hồ Chí Minh, ông viết rõ điều đó ra trên giấy trắng mực đen. Giữa tôi và quý vị ngồi đây trước đây đã đứng ở hai bên chiến tuyến, là những kẻ thù nhau. Ðấy là sự thật. Tin hay không tin là quyền của quý vị. Ông viết xong, nói xong, đứng im chờ phản ứng của người đọc, người nghe. Ðây là giờ phút thử thách ghê gớm nhất. Liệu rằng những kẻ thù cũ có xắn váy nhảy chồm chồm lên chửi bới tam đại nhà ông không? Liệu rằng những kẻ thù cũ có ném đá, ném cà chua trứng thối vào mặt ông không? Liệu rằng những kẻ thù cũ có thủ sẵn con dao bén nhảy lên thọc huyết ông không? Không! Họ ngấu nghiến đọc những gì ông viết và vỗ tay rào rào tán thưởng. Lạ thật! Mối hận thù giữa những kẻ bị thua và những kẻ bị lừa tưởng chừng cao ngất như núi sao thực tế đã tan biến đâu hết? Còn lại chỉ là một nỗi bùi ngùi chua xót. Khi sự thật được phơi bày ra ánh sáng, những kẻ bị thua thấy rõ mình cũng đã bị lừa, những kẻ bị lừa thấy rõ mình cũng đã bị thua. Cả một dân tộc vừa bị thua vừa bị lừa, Nam và Bắc đâu có khác gì nhau? Ông nhà văn quay đầu về quá khứ mà lại nhìn thấy tương lai. Người làm chính trị muốn đoạn tuyệt với Truyền Thống thì đi đến đâu cũng gặp vấn đề. Hai người đi ngược đường, gặp nhau giây lát rồi
lại chia tay. Ai là người nhìn rõ Mục
Ðích và Phương Pháp hơn ai ? Yêu thương hay thù hận? Cuộc nội chiến thê thảm nhất chính là cuộc nội chiến xảy ra ngay trong lòng người. Nếu không giải được cuộc nội chiến trong lòng mỗi người thì mọi nỗ lực hòa giải dân tộc chỉ giống như bọt nước phù du. Khi lắng tâm xuống ta sẽ thấy ngay một câu hỏi day dứt triền miên nhức nhối vẫn giống như một lò lửa âm ỉ cháy và sẵn sàng bùng lên dữ dội nếu có kẻ khơi ra. Câu hỏi đó vỏn vẹn chỉ là: Yêu thương hay thù hận? Nhiều năm trước đây, một câu chuyện nát lòng đã xảy ra cho một gia đình tị nạn. Gia đình đó tới được trại tị nạn Thái Lan, nhưng người vợ, người con gái và hai người em gái đều đã bị hải tặc hãm hiếp. Nỗi đau ấy xé nát lòng người, kêu trời không thấu. Bây giờ giá thử có một nhà luân lý tới khuyên gia đình đó bằng một lời hết sức đạo đức như thế này: Này các con, oán thù nên cởi không nên thắt ! Các con hãy yêu thương kẻ thù của các con như anh chị em trong một nhà, vv và vv... Chẳng cần phải là một nhà tâm lý học hay một nhà tiên tri ta cũng có thể đoán được sự uất ức phẫn nộ trong lòng những nạn nhân đó bùng lên dữ dội như thế nào. Nhẹ lắm thì người chồng sẽ nhảy chồm lên, xáng một bạt tai vào mặt nhà đạo đức, khạc đờm vào mặt nhà đạo đức và hét lên giận dữ: Cút đi! Ðồ đạo đức giả! Ðồ vô lương tâm! Ðồ đểu cáng! Ðồ vô giáo dục! Ðồ chó má!... Nặng hơn nữa thì máu huyết sẽ xảy ra. Ta cứ cho rằng nhà đạo đức đó đã cất lời khuyên giải với tất cả thành tâm thiện chí đi nữa, thì hậu quả có lẽ cũng không khác với những gì được mô tả bao nhiêu. Sự đổ vỡ trong lòng người biến thành sự đổ vỡ của cả xã hội. Luân lý đạo đức vỡ nát thành cát bụi. Nếu những nạn nhân đó là tín đồ của một tôn giáo nào đó, và trong gia đình có một người đã phạm tội ác tày trời, chẳng hạn giết người vô tội hoặc hãm hiếp trẻ vị thành niên, thì có lẽ còn là điều may cho gia đình đó, và cũng là điều may cho cả xã hội. Gia đình đó sẽ đau xót, nhưng nghĩ rằng trời đất chí công, ông trời có mắt trừng phạt họ vì những việc sai trái họ đã làm. Mọi người trong xã hội cũng thở hắt ra nhẹ nhõm và buông một câu: có nhân có quả hết! Rồi thì mọi người tản hàng trở về nhà, lại ăn ngon ngủ yên như thường lệ. Nhưng nếu chẳng may gia đình đó lại là một gia đình bình thường, chẳng làm gì nên tội, hay tệ hơn nữa lại là một gia đình gương mẫu đạo đức, suốt đời tu nhân tích đức làm việc thiện, là những con chiên ngoan đạo hay những tín đồ thuần thành của bất cứ một tôn giáo nào, thì hậu quả tâm lý xảy ra cho gia đình đó cũng như cho cả xã hội còn khủng khiếp hơn nữa. Ông Trời sẽ biến thành lão tặc thiên, tôn giáo biến thành những lời quỷ mị. Nếu quả thực có Ông Trời thì tại sao Ông Trời không có mắt, để xảy ra những chuyện bất công, phi lý cùng cực như vậy? Những gì thực sự xảy ra cho gia đình họ tương phản trái ngược sâu xa nhức nhối với tất cả lời hay ý đẹp được tô điểm vẽ vời trong các kinh điển của mọi tôn giáo. Sự đổ vỡ trong lòng một người đã loang ra khắp xã hội. Niềm Tin vào Thượng Ðế, vào Ông Trời, vào Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, vào Alah, tất cả đều vỡ nát. Chuyện xảy ra cho gia đình nạn nhân kể trên không phải là trường hợp duy nhất. Không ai đếm được đã bao nhiêu người đã là nạn nhân của vụ đổi đời 1975. Không ai đo lường được sự đau khổ cùng cực trong lòng những nạn nhân đó. Nếu ta lùi xa về quá khứ hơn nữa, thì số nạn nhân của cuộc chiến 20 năm còn nhiều gấp bội. Nỗi đau khổ của cả dân tộc cao ngất như núi. Làm sao để giải được nỗi hận chứa chất trong lòng? Làm sao để vơi được nỗi khổ đau xé nát tim người? Nhiều người tin rằng thời gian là phương thuốc nhiệm màu nhất. Thời gian sẽ xóa nhòa tất cả, hàn gắn tất cả. Tất cả mọi chuyện rồi sẽ quen đi. Tất cả mọi chuyện rồi sẽ qua đi. Tất cả mọi chuyện rồi sẽ quên đi. Có lẽ thật vậy chăng ? Từ hải ngoại tới quốc nội nay nhiều người đã quên hẳn quá khứ. Trong nước quán nhậu, quán bia ôm, động điếm mọc lên như nấm. Người dân mải mê đi tìm lạc thú, hầu như đã quên hẳn dĩ vãng. Hải ngoại lao đầu lo sinh kế, mua nhà, mua xe, du lịch, hưởng thụ. Ít ai còn muốn gợi lại dĩ vãng thê lương. Ngoài mặt quên thì có quên, nhưng sâu trong lòng nỗi đau vẫn còn nguyên đó. Cuộc nội chiến ray rức trong lòng người vẫn nguyên vẹn chẳng tan biến. Nó chỉ được phủ kín, che đậy bằng một lớp vải thưa. Vén tấm vải đó lên, nó sẽ có thể bùng lên dữ dội hơn trước rất nhiều. Cứ mỗi khi chợt nhớ tới vết thương quá khứ và đối chiếu với thái độ dửng dưng thờ ơ đến độ độc ác của những người chung quanh, những nạn nhân của cuộc đổi đời lại cảm thấy vết thương cũ nhức nhối, xót xa gấp bội. Sợi dây kết nối giữa Người với Người trở thành bẽ bàng, chua xót, cay đắng. Mọi giá trị văn hóa biến thành những lời mỉa mai lố bịch kệch cỡm. Cả một nền văn hóa đã sụp đổ. Còn lại họa chăng chỉ là những mảnh vụn. Chẳng còn gì thực sự đáng gọi là tốt đẹp. Chẳng còn gì thực sự đáng để cho ta hy sinh. Tất cả chỉ còn là một vị đắng nghét, mặn chát hoặc nhạt tanh tùy theo khẩu vị của mỗi người. Sự uất ức phẫn nộ của cả một dân tộc đã được lộ ra bằng những câu chửi tục tĩu thô lỗ nhất, chửi thẳng ngay vào những giá trị văn hóa đã một thời được đề cao lên tận chín từng mây. Trong những ngày còn nằm trong trại cải tạo có lần người viết đã được nghe một câu chửi tục đó. Hai người bạn học cũ từ thời còn cắp sách học chung lớp ở một trường tiểu học ở Hà Nội gặp lại nhau trong một trại cải tạo. Một người là cải tạo viên, người kia là bộ đội. Hai người bạn cũ kéo nhau ra chỗ vắng tâm sự. Trong một lúc nóng giận, không biết vì lý do gì, anh bộ đội buột miệng văng tục : Ð.M., Ðộc Lập Tự Do Cái Cụ Hồ ! Cái Cụ Hồ là cái gì, người viết thấy không cần phải chú thích. Ðiều đau xót nhất là khi lắng tâm xuống ta vẫn thấy một xã hội tốt đẹp không thể thiếu những giá trị văn hóa, nhưng đồng thời khi nghe những câu chửi tục tĩu thô lỗ nhất nhắm thẳng ngay vào những giá trị văn hóa, ta lại thấy sự phẫn nộ của người thốt ra câu chửi hết sức chính đáng. Ðó là một mâu thuẫn vô cùng quái đản, vô cùng kỳ cục. Nó nói lên có một cái gì đó sai lầm ghê gớm đã và đang phủ ngập quê hương. Yêu thương hay thù hận? Rõ ràng đó là một câu hỏi cần đặt ra, nhưng khi đặt ra rồi câu hỏi đó tắc nghẹn trong cổ họng. Ðến lúc đó ta mới thấy làm một nhà luân lý không khó. Làm người cho đúng nghĩa con người khó hơn nhiều. Căn nguyên của lòng thù hận là Bạo Lực và Dối Trá. Bạo Lực và Dối Trá là những vũ khí sắc bén vô cùng lợi hại giúp cho kẻ sử dụng chiến thắng huy hoàng trong nhất thời, nhưng sẽ tạo ra những vết thương sâu trong trái tim con người, cũng như trong trái tim dân tộc. Những vết thương trong trái tim vỡ đó có thể cần hàng thế kỷ, hoặc hàng ngàn năm mới hàn gắn lại được. Cũng có thể chẳng bao giờ còn hàn gắn lại được. Một chiếc xe hư chỉ cần sửa trong một ngày là lại chạy êm như cũ, nhưng một trái tim vỡ không dễ gì sửa lại như cũ. Một người chồng lừa dối vợ một lần, vết thương trong tâm người vợ bị lừa cả đời cũng không khép kín. Một người bạn phản bội đâm sau lưng một người bạn khác một lần, suốt quãng đời còn lại giả lả mơn trớn nói những lời ngọt ngào như mía lùi cũng là vô ích. Lời nói ngọt ngào mơn trớn chỉ làm người kia lợm giọng muốn ói mửa. Phá vỡ Niềm Tin chỉ cần trong một ngày, một giờ, hay ít hơn thế nữa; nhưng hàn gắn lại Niềm Tin đã vỡ thì có khi để hết cuộc đời còn lại vẫn chưa đủ. Cái giả trá đã bao trùm phủ kín xã hội. Khi lời nói và việc làm trái ngược mâu thuẫn với nhau thì tất cả mọi giá trị văn hóa chỉ còn là những giá trị giả danh. Ðộc lập hóa ra Ðộc lập giả. Tự Do, Hạnh Phúc, Bình Ðẳng, Ðoàn Kết biến thành Tự Do giả, Hạnh Phúc giả, Bình Ðẳng giả, Ðoàn Kết giả. Khi một người nói họ hết lòng tin ở những giá trị văn hóa giả đó thì ta hiểu rằng Niềm Tin của họ cũng chỉ là Niềm Tin giả trên đầu môi chót lưõi mà thôi. Văn hóa là chất keo nối kết Người với Người. Khi mọi giá trị văn hóa chỉ còn là những giá trị giả danh thì văn hóa chẳng thể nào nối kết một ai. Xã hội sẽ tan rã phân ly. Lắng tâm xuống ta vẫn mơ ước được sống trong một xã hội mà con người có thể hiểu nhau, tin nhau và thương nhau thực lòng. Nhưng Tình Thương chỉ thực sự là Tình Thương khi đối tượng của Tình Thương thực sự dễ thương. Ép buộc ta phải yêu thương sự Ðộc Ác Gian Trá là làm một việc vô cùng nghịch lý, trái với lẽ tự nhiên của trời đất. Vì thế muốn cho Người có thể thực lòng thương yêu Người ta không thể nhắm mắt làm ngơ trước Bạo Lực và Dối Trá. Diệt trừ Bạo Lực và Dối Trá đi là diệt trừ được căn nguyên gây ra lòng Thù Hận.
Hành trình và thử thách Khi sống gần trọn cuộc đời nhìn lại những năm đã sống, tôi thấy cuộc sống giống như một cuộc hành trình đầy gian nan thử thách. Thử thách nhiều vô kể, nhưng thử thách lớn nhất vẫn là thử thách với lòng mình. Hoàn cảnh xã hội luôn luôn thay đổi, đưa đẩy ta vào những thế đứng khác nhau. Ðứng ở những vị trí khác nhau ta nhìn thấy những chuyện khác nhau, có những suy nghĩ khác nhau, nhận định khác nhau. Ðiều mà ta cho là tốt đẹp nhất khi đứng ở vị trí này có thể sẽ biến thành xấu xa tệ hại khi ta đứng ở vị trí khác. Nếu suốt đời ta chỉ đứng nguyên một chỗ, không nhúc nhích, không di chuyển, nếu mắt ta chỉ luôn luôn nhìn một hướng, không quay phải, không quay trái, có lẽ tâm ta sẽ tĩnh lặng yên ổn, suốt đời ta sẽ thấy cái Tốt vẫn là Tốt, cái Xấu vẫn là Xấu, núi vẫn là núi, sông vẫn là sông, không có gì cần thắc mắc suy nghĩ. Cũng không hẳn như vậy. Dù ta biến thành tượng đá nghìn năm thi gan cùng tuế nguyệt, dù ta nhắm nghiền đôi mắt, không nghe không nói không nhìn, thì vạn vật vẫn luôn luôn thay đổi. Nếu còn con tim khối óc ta vẫn cảm nhận được những đổi thay lớn lao ngoài xã hội và câu hỏi cái Tốt có thực sự là Tốt, cái Xấu có thực sự là Xấu hay không vẫn lởn vởn trong tâm ta. Mấy ai sống trọn cuộc đời vẫn cảm thấy tâm hồn mình không vỡ nát thành trăm mảnh? Mấy ai đi hết hành trình cuộc sống vẫn thấy mình chỉ là mình? Tôi vẫn mơ ước được sống trong một xã hội mà con người có thể hiểu nhau, tin nhau và thực lòng thương nhau. Xã hội đó có thực hay chỉ là ảo ảnh? Mơ ước đó có thể thực hiện được hay chỉ là mơ ước viển vông, lý thuyết xa vời, lý tưởng hão huyền? Không ai có thể trả lời được câu hỏi đó. Cũng không ai có thể trả lời giùm cho người khác câu hỏi đó. Mỗi người đi hết hành trình cuộc sống tự chiêm nghiệm và tự rút ra một kết luận cho riêng mình. Kết luận của người này có thể khác kết luận của người khác một trời một vực. Ðối với tôi những năm tháng nằm trong trại tù cải tạo thực quí vô cùng. Nó đã cho tôi hiểu được lòng mình, lòng người. Nó đã cho tôi phân biệt rõ ràng Tốt với Xấu. Nó đã cho tôi niềm tin vào những gì thực sự tốt đẹp. Nó đã cho tôi hiểu rõ ý nghĩa cuộc sống. Cái may nằm trong cái rủi. Họa và Phúc xen kẽ nhau, đan vào nhau, quyện với nhau thành mùi vị cuộc đời. Khi xã hội đột nhiên thay đổi, tôi đã chứng kiến nhiều gia đình đổ vỡ tan nát, nhưng đồng thời cũng chứng kiến những cặp vợ chồng xích lại gần nhau, gắn bó với nhau, hiểu nhau hơn, thương nhau hơn. Sự tương phản kỳ quặc đó khiến tôi bắt đầu hoài nghi về nhận định con người là sản phẩm của hoàn cảnh xã hội. Cùng một hoàn cảnh xã hội y hệt như nhau đã chẳng hề đúc ra những mẫu người y hệt như nhau. Hình như con người còn có một cái Tâm và chính cái Tâm đó đã xoay chuyển ý nghĩ và hành động của mỗi người theo bốn phương tám hướng. Nhưng cái Tâm ở đẩu ở đâu? Làm sao hiểu được lòng mình, lòng người? Thực không phải là chuyện dễ. Khi thế cờ lật ngược, liệu rằng con người mà ta hằng thương yêu, quí mến, kính trọng có vẫn còn là con người đáng để cho ta thương yêu, quí mến, kính trọng nữa hay không? Câu hỏi đó lại càng nhức nhối hơn nữa nếu ta thay đổi hướng nhìn, thay vì nhìn và phán xét người khác ta quay về nhìn và phán xét chính mình. Khi thế cờ lật ngược, liệu rằng ta có vẫn là ta hay không? Xã hội đột nhiên thay đổi là lúc ta nhìn thấy lòng mình và lòng người rõ nhất. Tôi biết một cặp vợ chồng nọ. Ngày mới cưới cô vợ xinh như mộng, đẹp như người trong tranh, con nhà gia giáo nền nếp, công dung ngôn hạnh vẹn toàn. Người chồng đẹp trai, học giỏi, đỗ đạt sớm, chiếm được địa vị vững chắc ngoài xã hội, được mọi người chung quanh kính nể trọng vọng. Tiền bạc dồi dào, cuộc sống phong lưu sung túc. Nhưng khi thời cuộc đổi thay những gì con người tưởng rằng mình đã có và sẽ vẫn còn có mãi bỗng nhiên tan biến hết. Sau nhiều năm trong trại cải tạo người chồng trở về thân tàn ma dại. Vẻ trẻ trung mạnh khỏe điển trai của thời xa xưa đã mất hẳn. Tâm tính cởi mở vui vẻ hồn nhiên thuở xưa nay cũng không còn nữa. Bằng cấp, địa vị, danh vọng hiển nhiên chỉ còn là một con số không to tướng. Người chồng trở về không thể tưởng tượng nổi vợ mình đã thay đổi sâu xa như thế nào. Người tình xinh như mộng của ngày mới quen nhau nay đã lùi quá xa vào dĩ vãng. Người vợ hiền lành thùy mị ngày nào cũng biến mất hẳn.Thay vào đó là một người đàn bà gày gò ốm yếu, tiều tụy xanh xao, nhưng dạn dày sương gió. Người vợ đã lăn vào cuộc đời để kiếm sống, áo quần xốc xếch, đầu tóc rối bù, mặt mày nhem nhuốc, lê lết ở chợ trời để bán thuốc tây. Tệ hơn nữa, người vợ đã học hết những mánh mung thủ đoạn trong xã hội, buôn rẻ bán đắt, miễn làm sao có tiền để nuôi mấy đứa con thơ. Lúc ấy cả hai vợ chồng nhìn nhau cùng ứa nước mắt. Sự đổ vỡ trong lòng người còn lớn hơn sự đổ vỡ của những lâu đài dinh thự gấp bội. Khi những lâu đài kiêu sa lộng lẫy sụp đổ tan tành, chỉ còn một đống gạch đổ nát tiêu điều, chuột bọ lúc nhúc, con người có dịp để suy ngẫm lại. Mình có thực lòng yêu nhau hay không? Mình đã yêu con người thực của nhau, hay chỉ yêu những giá trị biểu kiến phủ ngoài giống như chiếc áo màu hoàng kim lóng lánh? Khi bằng cấp, địa vị, danh vọng, tiền bạc, tuổi trẻ, nhan sắc đã tơi tả tả tơi biến hết vào dĩ vãng rồi thì con người phải đối diện với Sự Thực trần truồng không che dấu. Lòng mình và lòng người hiển hiện lên rõ mồn một. Cái còn lại khi tất cả lớp áo phủ ngoài rớt xuống có thể là tình yêu chân thật nhất, là Tâm Hồn rất thật của con người, là Chân Tâm, Chân Ngã, là cái Tình với nhau, cái Nghĩa với nhau, là những kỷ niệm không phai mờ của những ngày cùng chia xẻ ngọt bùi lẫn cay đắng cùng nhau, là con người thực của nhau. Nhưng cũng có thể là cái chân tướng chẳng có gì tốt lành đến giờ phút đó mới lộ ra rõ rệt. Nhiều cặp vợ chồng gặp hoàn cảnh tương tự đã đổ vỡ tan nát. Hạnh phúc xây đắp trên công danh, địa vị, tiền bạc, nhan sắc đã tàn lụn một sớm một chiều như lâu đài xây trên cát khi tất cả những giá trị biểu kiến đó tan biến. Vợ lẫn chồng đều cảm thấy như mình đã bị lừa. Con người thực của người phối ngẫu hiện ra lồ lộ, chẳng giống hình ảnh mình mơ tưởng mong ước chút nào. Nhưng cặp vợ chồng tôi vừa kể đã có những suy nghĩ khác hẳn. Trải qua bao nhiêu thử thách lớn lao trong cuộc sống gặp lại nhau họ đã nhìn thấy giá trị đích thực của nhau. Ngày xưa khi cuộc đời còn hoa gấm hai người dễ dàng nói những lời yêu nhau. Nhưng dường như khi đó họ chỉ mới nhìn thấy những vẻ đẹp bên ngoài của nhau mà chưa thấy rõ tâm hồn nhau. Khi tất cả những giá trị biểu kiến bên ngoài giống như đám mây trôi nổi có đó rồi mất đó ta ngạc nhiên bâng khuâng tự hỏi : tại sao người phối ngẫu vẫn yêu thương mình? tại sao mình vẫn yêu thương người phối ngẫu? Tình yêu khi đó rất rõ ràng, giản dị và chân thật vì không còn bị tiền bạc, địa vị, nhan sắc... phủ lên những lớp sơn hào nhoáng. Tình yêu chân thật đã giúp họ hiểu nhau, tin nhau và thương nhau hơn. Họ hiểu rằng cuộc sống vô cùng gian nan. Bao nhiêu khó khăn đụng chạm từ bên ngoài dồn ép tới rất dễ biến thành những xung đột dữ dội trong gia đình. Con người hoàn toàn bất lực không đủ sức chống lại một chế độ tàn bạo, những uất ức phẫn hận bị dồn nén không biết trút vào đâu, lại quay về trút ngược vào những người mình thân yêu nhất. Vợ biến thành cái thùng rác của chồng, chồng biến thành cái thùng rác của vợ. Nguyên nhân những vụ lục đục đổ vỡ trong gia đình thường là vậy cả. Cặp vợ chồng tôi biết đã nhận thức được một điều giản dị: nếu không đủ sức chống lại một chế độ tàn bạo thì cũng đừng quay ngược ngọn dáo đâm nhau. Hiểu được rằng mình đều là nạn nhân của một chế độ tàn bạo bất nhân thì sẽ thương xót lẫn nhau và biết sống hòa hợp với nhau hơn. Ngẫm lại thì những thử thách lớn lao nhất trong cuộc sống chính là thử thách lòng mình và lòng người khi hoàn cảnh đột biến đất lộn lên trời. Con người có quay 180 độ, quay như chong chóng hay không chính là ở lúc đó. Nhưng chẳng phải chỉ tình yêu vợ chồng mới trải qua những thử thách lớn lao khi thời cuộc đột nhiên đổi thay. Bao nhiêu giá trị văn hóa đạo đức cũng bị những thử thách tương tự. Xấu có thể biến thành Tốt, Tốt có thể biến thành Xấu, lộn tùng phèo chẳng biết đâu mà mò. Có những cô thiếu nữ sống trong nhung lụa, đọc tiểu thuyết Người yêu nước của Vũ Anh Khanh và thả hồn theo mộng, mơ ước gặp được một chàng trai khôi ngô tuấn tú, một chiến sĩ cách mạng đầy nhiệt huyết xả thân vì dân tộc, thoát ly gia đình vào bưng cầm súng chiến đấu cho một lý tưởng tuyệt vời. Hình ảnh Người chiến sĩ đó tuyệt vời quá, cao đẹp quá! Khi đất nước đổi thay, cả trăm ngàn Người chiến sĩ đó trở về đi nghễu nghện nhan nhản trên đường phố, đập vào mắt, đập vỡ nát cái hình ảnh kiêu hùng lý tưởng. Người chiến sĩ lộ nguyên hình thành lũ chó nhảy bàn độc, những quản giáo tàn ác bất nhân, những ông quan cách mạng tham lam gian ác hung tàn bạo ngược gấp nghìn lần thái thú Tô Ðịnh, những chú công an khu vực xòe tay xin chút tiền lẻ cà phê cà pháo, những công an võ trang hiếp người cướp của trắng trợn, những bày chó săn, vv và vv... Người yêu nước hay một bầy quỷ dữ? Lý tưởng cách mạng tuyệt vời hay thực tại trần truồng nhơ bẩn? Con người thường rơi vào một trong hai đối cực: một là nắm quyền lực trong tay, hai là bị quyền lực nghiến nát. Khi không có quyền lực, con người rất dễ cảm thấy uất ức vì xã hội đầy dẫy bất công. Từ đó nảy sinh ước muốn lật ngược thế cờ, tìm mọi cách chiếm lấy quyền lực. Khi chưa chiếm được quyền lực thì mơ ước lật ngược thế cờ là một lý tưởng tuyệt vời. Bao nhiêu giá trị văn hóa được trưng lên hết thành những bảng hiệu lòe loẹt lôi cuốn hấp dẫn: nào Ðộc Lập, Tự Do, Bình Ðẳng, Công Bình, Bác Ái, nào mình vì mọi người, làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu, vv và vv... Thử thách lớn lao nhất trong cuộc đời ngẫm lại chính là thử thách khi thế cờ lật ngược, hoặc đang từ chó lên voi, hoặc đang từ voi đột nhiên xuống chó. Khi thế cờ lật ngược, thời cuộc đột nhiên đổi thay, xoay 180 độ, là lúc con người cảm thấy không còn gì cần che dấu nữa, không còn gì có thể che dấu nữa. Lòng mình và lòng người lộ ra rõ mồn một. Khi đột nhiên đắc thế chó nhảy lên voi, con người dương dương tự đắc, vứt chiếc mặt nạ xuống đất, thấy không cần che dấu con người thực của mình nữa. Con quỷ lộ nguyên hình thành con quỷ. Khi đột nhiên thất thế, voi ngã xuống chó, con người xửng vửng xơ vơ, thấy mất hết, không còn gì phải gìn giữ nữa. Nhân cách cũng vứt, lý tưởng cũng vứt, luân lý đạo đức cũng vứt, khí phách cũng vứt, tình nghĩa cũng vứt. Con người thực hèn hạ xấu xa lộ liễu phơi bày ra hết. Những ai trải qua những cơn thử thách lớn lao khi thế
cờ lật ngược cảm thấy mình vẫn là mình sẽ hiểu
được cái gì thực sự tốt, cái gì thực sự xấu
và ý nghĩa đích thực của cuộc sống là
gì.
Chuyện ba người tù vượt ngục Viết tới đây đọc lại tôi thấy những điều tôi viết giống như một đống xà bần, hỗn độn và rối mù. Tôi đã cố viết đi viết lại cho được sáng sủa hơn, rõ ràng hơn, sau cùng thấy rõ mọi nỗ lực của mình đều vô ích. Thế giới quanh tôi có gì rõ ràng sáng sủa đâu? Nó cũng giống y hệt như một đống xà bần vậy. Nếu những điều tôi viết hỗn độn rối mù thì chỉ là vì nó đã phản ảnh trung thực những gì tôi nghĩ cũng như những gì tôi nhìn thấy ngoài xã hội. Khi nối kết tất cả những điều đã viết lại, tôi mơ hồ cảm thấy trọng tâm điều mình định nói là cái lỗi lầm lớn lao của cả dân tộc suốt một thế kỷ vừa qua. Dường như dân tộc tôi đã " làm văn hóa mà lầm" như lời cảnh cáo của Lão Tử. "Làm văn hóa mà lầm" là đã vội vã du nhập không suy xét những tư tưởng ngoại lai, tưởng nó là thần dược viagra sẽ mang lại sức mạnh thần kỳ cho cả dân tộc. Ngờ đâu nó chỉ xé nát dân tộc, xé nát tâm hồn con người. Con người bị vỡ vụn thành từng mảnh. Trí văng tuốt tận mây xanh, Dũng bay xuống biển sâu và Tâm rớt xuống địa ngục. Không có Tâm thì Trí biến thành Trá, Dũng biến thành Tàn Bạo Bất Nhân. Không có Trí thì Tâm biến thành Khờ khạo, dễ bị người lừa, Dũng biến thành hăm hở nhảy vào đống lửa. Không có Dũng thì Trí biến thành cái khôn vặt của kẻ hèn nhát đốn mạt, Tâm biến thành nhẫn nhục cam phận. Ý nghĩa cuộc sống có lẽ chính là sự hợp nhất Tâm Trí Dũng để con người đủ khôn ngoan sáng suốt mà tìm lại giá trị đích thực của con người chăng? Tôi xin kể lại một mẩu chuyện đã xảy ra cho mấy người bạn tù tôi đã gặp trong trại cải tạo. Mẩu chuyện đó tự nó sẽ nói lên những nỗi gian nan trong cuộc hành trình đi tìm ý nghĩa cuộc sống của con người. Vào năm 1978, khi chiến trường Căm-pu-chia sôi động, tôi bị đưa từ trại cải tạo Bù Loi về Suối Máu. Nơi đây tôi đã gặp một số bạn trẻ mà không bao giờ tôi quên nổi. Trong số những người bạn khó quên đó có ba người bạn tù trẻ tuổi là Nguyễn Văn Mạnh, Vũ Ngọc Văn và Phạm Văn Tiến. Cả ba anh đã vượt ngục từ một trại tù thuộc tỉnh Phước Bình, không may bị bắt lại và đưa về đồn biên phòng sát biên giới Miên Việt. Vừa tới đồn biên phòng, ba anh bị một trận đòn hội chợ tả tơi hoa lá. Trận đòn hội chợ tạm ngưng khi có hai em nhỏ bị dẫn tới. Hai em nhỏ đó là hai chị em sống ở vùng kinh tế mới gần đó. Con chị mới chừng 10,11 tuổi, đứa em trai độ 5,6 tuổi. Ðứa em trai bị lũ trẻ con cán bộ Cộng Sản hiếp đáp đánh đập, con chị chạy ra bênh vực.Thế là hai đứa nhỏ bị khép tội chống phá cách mạng, dám chống lại con em cán bộ, chống lại Ðảng, chống lại nhân dân. Và bị đưa về đồn biên phòng cho bộ đội xử lý. Lũ bộ đội thấy đây là một cơ hội tốt để tác oai tác phước. Chúng lấy ra mấy cái roi mây lớn và ra lệnh cho ba anh Mạnh, Văn, Tiến phải cầm roi quất nát đít hai đứa bé. Nếu làm theo lời chúng nói thì sẽ khỏi bị đánh tiếp, nếu không đánh hai đứa nhỏ thì sẽ tiếp tục chịu đòn. Cả ba anh khảng khái khước từ. Mạnh nói: - Hai đứa bé vô tội, chúng tôi không thể đánh chúng nó một roi. Các anh muốn làm gì chúng tôi thì làm! Bọn bộ đội trói ba anh vào ba cột nhà. Từ xa chúng lấy thế chạy tới dùng hết sức bình sinh giáng báng súng vào ngực ba anh. Các anh nghe thấy xương sườn gãy rắc rắc. Một thằng bộ đội lấy cây lồ ô chẻ một đầu cho toẽ ra, và quất túi bụi vào mặt Vũ Ngọc Văn. Miệng Vũ Ngọc Văn biến thành một đống thịt bày nhày nát bét. Nguyễn Văn Mạnh có một bộ râu quai nón khá rậm. Một thằng bộ đội khác múc một lon xăng tạt lên bộ râu của Mạnh và châm lửa đốt. Lửa cháy bừng bừng cho đến khi Mạnh ngửi thấy mùi da thịt khét lẹt. Khi tôi gặp ba anh vào cuối năm 1978 ở trại Suối Máu thì vết thương ở những mảnh xương sườn gãy vẫn chưa lành. Trời lạnh, ba anh vẫn nằm rên rỉ. Môi Vũ Ngọc Văn vẫn còn vết tích của trận đòn thù. Trong thâm tâm tôi kính nể và khâm phục ba anh bạn trẻ đó, dù cả ba anh còn rất trẻ. Mối dây kết nối ba anh bạn tù với hai đứa trẻ vùng kinh tế mới đó chính là sợi tơ hồng mà tôi muốn nói tới và không biết dùng lời nào để diễn tả cho thật chính xác. Nó được đan bằng Tâm Trí Dũng. Chỉ khi Tâm Trí Dũng hợp lại làm một ta mới thấy cái ta cho là tốt đẹp thực sự tốt đẹp. Nó khác rất xa với những ngôn từ hoa mỹ thường được những thuật sĩ của thời đại dùng làm tấm vải điều để phủ lên cái tâm địa đen thui như mõm chó. Ba anh bạn trẻ đó đã thấy mình hòa với hai đứa bé làm một. Da thịt non nớt trên mông hai đứa bé sẽ tóe máu nếu bị roi quất vào đít. Nỗi đau tóe máu ấy sẽ làm rung chuyển nhói buốt trái tim ba anh bạn trẻ. Các anh sẽ cảm thấy chính mình đau đớn, có lẽ còn đau đớn hơn cả hai đứa trẻ bị đánh. Da thịt hai đứa bé dường như cũng là da thịt của chính mình. Ba anh không thể cầm roi quất vào đít hai em nhỏ. Nếu làm như thế thì ba anh đã biến thành loài chó lợn, giống hệt như lũ bộ đội ở đồn biên phòng đó. Có một cái gì đã khiến ba anh cảm thấy xương sườn gãy rắc rắc lại dễ chịu và ít đau hơn trái tim bị nhói buốt. Cái gì đó là cái gì vậy ? Là lương tâm con người chăng? Là Tình Người chăng? Tôi cũng không biết nữa. Tôi chỉ thấy nó giống như một sợi dây êm ái kết nối người với người. Chính sợi tơ hồng êm ái đó đã giúp ta nhìn thấy ý nghĩa cuộc sống và thấy cuộc đời này đáng sống. Nó chính là nguồn sinh lực của cả một dân tộc mà ông cha ta đã cố công vun đắp, nhưng nay dường như đang nhạt nhòa tan biến như làn sương khói mỏng manh. Không hiểu tại sao khi nhắc tới chuyện ba người tù vượt ngục tôi lại liên tưởng ngay tới câu nói của Ðức Huỳnh Phú Sổ: Hãy giữ lấy Trí sáng suốt để khỏi bị kẻ khác lừa, nhưng hãy giữ lấy Tâm thuần hậu để không tính chuyện lừa người khác. Ba anh Mạnh, Văn và Tiến đã biết rất rõ họ phải làm gì khi thất thế. Quật cường, bất khuất, không cúi đầu trước bạo lực, nhưng không hung bạo, tàn ác, bất nhân. Ðó là cái Dũng của những kẻ có Tâm Từ Bi. Ðiều lạ lùng là anh Mạnh lại là một tín đồ Thiên Chúa Giáo ngoan đạo, Văn là một thanh niên lớn lên trong gia đình thờ cúng Ông Bà Tổ Tiên, còn Tiến theo đạo gì tôi cũng không biết nữa. Tôi chỉ biết ba người đã cùng gặp nhau trong một trại cải tạo, cùng vượt ngục, cùng bị bắt, cùng chịu chung một số phận như nhau và điều quan trọng hơn hết là có cùng một nhận thức nên làm gì, phải làm gì khi bị bắt. Cả dân tộc tôi, trên đại thể, cũng
cùng chung một số phận như ba anh. Chẳng biết đến bao giờ
dân tộc tôi mới cùng chung một nhận thức.
Bỉ và Thử Tôi chỉ là một người dân bình thường nên mọi ý nghĩ tư tưởng cũng rất bình dị tầm thường chẳng có gì tối tăm bí hiểm. Suốt đời tôi chỉ có một ước muốn rất bình dị là được sống hòa với mọi người, chẳng muốn bị lôi cuốn vào những vụ cãi vã vớ vẩn về những vấn đề trên trời dưới đất. Nhưng làm sao để có thể hòa với tất cả mọi người? Cúi đầu làm tôi tớ, ai bảo sao nghe vậy, ai sai gì làm đó, uốn gối khom lưng, bưng tai nhắm mắt, giả điếc giả câm, vùi đầu xuống cát, như vậy gọi là hòa chăng? Hình như không phải. Hình như đó chỉ là Hèn chứ không thể gọi là Hòa. Giữa Người với Người, giữa Bỉ với Thử, dường như luôn luôn có những tác động hỗ tương. Chính những tác động hỗ tương đó đã làm nảy sinh ý niệm Thiện và Ác. Có thể ý niệm Thiện và Ác còn lan rộng đến mọi loài sinh vật, nhưng rất khó mà lan tới cỏ cây gỗ đá. Chẻ cây tre ra - như Vương Dương Minh đã làm - không thấy Thiện Ác ở đâu. Thiện Ác không ở trong những vật vô tri, mà chỉ có trong lòng người. Sở dĩ như vậy là vì con người vừa có thể là nguồn hạnh phúc vừa có thể là gốc khổ đau cho đồng loại. Bỉ và Thử vừa là nguồn sáng vừa là tấm gương phản chiếu lẫn nhau. Những nỗi khổ đau mà con người gánh chịu do Trời Ðất tạo ra thì ít mà do con người tự tạo ra hoặc do người nọ gây ra cho người kia thì nhiều gấp bội. Tôi đã có dịp quan sát những gia đình bất hòa và những gia đình hòa thuận. Có gì khác nhau giữa những gia đình đó? Những nguyên nhân gây ra mối bất hòa nhiều vô kể nhưng tựu chung có ba nguyên nhân chính: Một là vợ chồng không chịu nổi áp lực của xã hội bên ngoài, không đủ sức đối phó với nghịch cảnh, quay về trút hết những phiền muộn uất ức đáng lẽ phải xả ra ngoài vào người phối ngẫu, coi người phối ngẫu như cái thùng rác. Hai là bất đồng ý kiến trong cách cư xử giải quyết mọi vấn đề trong cuộc sống - như khác nhau trong cách dạy con chẳng hạn. Ba là một bên nảy lòng ham muốn thèm khát những cái mình chưa có trong tay. Từ đó lừa nhau, lợi dụng nhau, coi người phối ngẫu như công cụ cho mình sử dụng để chạy theo những ảo ảnh bên ngoài, hoặc để đạt cho được những tham vọng thầm kín. Nhưng gom cả mọi trường hợp lại thì dường như nguyên nhân của mọi nỗi bất hòa chỉ là mỗi người đều cảm thấy mình là người sáng suốt nhất, chuyện gì cũng biết, biết phân biệt Tốt Xấu, biết rõ cách giải quyết công chuyện thích đáng nhất và muốn người kia phải nghe theo. Dù bất đồng ý kiến với nhau trong mọi lãnh vực, mọi vấn đề thì ít ra hai người cũng đồng thuận, nhất trí với nhau ở một điểm: cả hai bên đều thất vọng về nhau, cùng giơ tay lên trời tuyệt vọng chán ngán và cùng than một câu y hệt như nhau là không sao có thể hòa hợp được với nhau. Muốn hòa với nhau thì hai bên phải biết nghe lời nhau. Nhưng ai phải nghe ai? Vợ nghe chồng hay chồng nghe vợ? Cha mẹ nghe con cái hay con cái nghe cha mẹ? Quản giáo nghe tù hay tù nghe quản giáo? Ðảng nghe dân hay dân nghe Ðảng? Hòa hợp biến thành khúc xương gà mắc trong cổ họng, khạc ra không được nuốt vào không xong. Muốn hòa với nhau tại sao Nó không nghe lời Tôi? Tại sao Nó không vâng lời Tôi, phục tùng Tôi để cho Tôi sai gì làm đó, chỉ đâu đánh đó? Tại sao Nó cứ bắt Tôi phải nghe lời Nó, phục tùng Nó, vâng lời Nó, để cho Nó mặc tình sai khiến? Lắng nghe cả hai bên cãi nhau ta ngạc nhiên một cách kỳ lạ vì lập luận của hai bên giống nhau như đúc, không sai mảy may. Ðiểm khác nhau duy nhất chỉ là sự khác nhau giữa Bỉ và Thử, giữa Tôi và Nó. Vợ thấy mình là Tôi, chồng là Nó, chồng thấy chồng là Tôi vợ là Nó. Nguyên nhân đích thực của mọi mối bất hòa chỉ là vậy. Nếu ta có thể đổi được vị trí để Bỉ biến thành Thử, Thử biến thành Bỉ thì có lẽ sẽ có thể hiểu nhau hơn, tin nhau hơn, thương nhau hơn chăng? Ông Trời dường như không phải là một ông quan tòa ngồi trên chín từng mây cao ngất ngó xuống phán xét hành vi của mỗi người và ra tay thưởng phạt. Ông Trời chỉ cho ta những cơ hội để sống, chiêm nghiệm cuộc sống và tự tìm ra Lẽ Phải. Ông Trời tạo ra những biến dịch làm cho thế đứng của mỗi người luôn luôn thay đổi, Bỉ biến thành Thử, Thử biến thành Bỉ. Một trong những biến dịch đáng suy ngẫm nhất có lẽ là sự thay đổi vị trí giữa cha mẹ và con cái. Con người sinh ra ít ai chỉ làm cha mẹ hoặc chỉ làm con cái. Vừa oa oa cất tiếng khóc chào đời ta đã là con cái. Lớn lên lấy vợ lấy chồng, sinh con đẻ cái, ta biến thành cha mẹ. Nếu cha mẹ ta còn sống thì đồng thời ta vừa là con cái vừa là cha mẹ. Bỉ là cha mẹ Thử là con cái hay Bỉ là con cái Thử là cha mẹ? Ta là Bỉ hay Thử? hay vừa là Bỉ vừa là Thử? Hiểu được tương quan giữa cha mẹ và con cái có lẽ cũng sẽ hiểu được tương quan giữa Bỉ và Thử, giữa Người và Người. Khi làm cha mẹ ta muốn con cái phải vâng lời mình. Ta muốn con ta biết ngoan ngoãn nghe lời ta, phục tùng ta. Ta muốn uốn nắn dạy dỗ cho con ta vào khuôn vào phép. Có được như vậy con cái mới nên người. Con không nghe lời cha mẹ là đứa con hư. Tâm lý đó rất phổ cập, Ðông cũng như Tây, xưa cũng vậy mà nay cũng vậy. Nhưng khi là con cái lớn lên đến tuổi trưởng thành ta bắt đầu suy nghĩ, bắt đầu thắc mắc, hoài nghi và phản tỉnh. Ðôi khi ta day dứt với ý nghĩ rằng cha mẹ ta vị tất lúc nào cũng sáng suốt, cúi đầu ngoan ngoãn nghe lời cha mẹ vị tất đã là điều hay. Cha mẹ già rồi, đầu óc lú lẫn, tư tưởng không bắt kịp những biến chuyển của thời đại mới, cứ ôm mãi những ý nghĩ lỗi thời hủ lậu nay đã đặc cứng lại như chiếc bình vôi. Ta muốn vùng lên đập phá hết mọi khuôn phép để tự giải thoát, tự quyết định đời mình. Những mâu thuẫn đó cứ tái diễn từ thế hệ này sang thế hệ khác triền miên bất tuyệt. Mấy ai sống trọn cuộc đời lắng tâm suy nghiệm thấy mình vẫn là mình, hóa giải được những mâu thuẫn giữa Bỉ và Thử, thấy được điều gì mình cho là đúng khi là con cái vẫn còn là đúng khi là cha mẹ? Mâu thuẫn giữa cha mẹ và con cái không phải là mâu thuẫn giữa Ta với cha mẹ Ta, hoặc Ta với con cái Ta. Ðó chính là mâu thuẫn giữa cùng một cái Ta khi ta biến đổi thế đứng từ con cái thành cha mẹ hoặc ngược lại. Không giải được những mâu thuẫn đó thì ta lại tự mâu thuẫn với ta. Giải được mối mâu thuẫn đó thì Bỉ và Thử hòa với nhau thành một. Tôi đã lắng nghe, tìm hiểu, suy ngẫm ý nghĩ của rất nhiều người, và cảm thấy đã có những người nhìn rất rõ những nguyên nhân của những mối bất hòa giữa Bỉ và Thử. Một người cha thực lòng thương con không muốn con ngoan ngoãn cúi đầu trước quyền lực- dù đó là quyền lực của cha mẹ. Hậu quả của nếp suy nghĩ cúi đầu trước quyền lực có thể rất khác nhau, nhưng cách nào cũng tai hại như nhau. Hoặc là đứa con sẽ in sâu vào óc tinh thần nô lệ, khi bước ra xã hội hễ gặp cường quyền áp bức là nem nép uốn gối khom lưng cúi đầu phục tùng vô điều kiện. Hoặc là đứa trẻ uất ức ngấm ngầm, khi lớn lên vùng dậy hung hãn đập phá cả xã hội, oán hận bố mẹ, oán hận tất cả loài người, tìm mọi cách cướp lấy quyền lực để chà đạp dày xéo cả xã hội. Người cha thực lòng thương con chỉ muốn con nghe theo Lẽ Phải. Nghe theo Lẽ Phải là nghe theo tiếng gọi của Lương Tâm chính mình. Nghe theo tiếng gọi của Lương Tâm chính mình sẽ không còn ẩn ức, sẽ không còn đối kháng giữa cha mẹ và con cái. Bỉ và Thử hòa với nhau làm một. Nghe theo Lẽ Phải đứng thẳng lên làm người, không nghe theo mệnh lệnh của cường quyền, dù uy quyền đó phát xuất tự đâu - đó chính là cái chìa khóa để có thể hòa với nhau, chìa khóa của Niềm Tin và Tình Thương. Mâu thuẫn giữa cha mẹ và con cái tựu chung vẫn chỉ là mâu thuẫn giữa Người với Người khi mỗi người đứng ở một vị thế khác nhau. Nó không có gì khác biệt so với mâu thuẫn giữa Vợ Chồng, Chủ Thợ, Trẻ Già, Mới Cũ, Ðông Tây, Giàu Nghèo... hay giữa Ðảng Thống Trị và Dân Bị Trị. Một bên cho rằng ngoan ngoãn vâng lời, cúi đầu phục tùng, chỉ đâu đánh đó, sai gì làm đó là Tốt. Bên kia nghĩ ngược lại cho rằng vùng lên giành lấy quyền tự chủ tự quyết là Tốt. Cúi đầu hay đứng dậy? Ngoan ngoãn phục tùng hay vùng lên đối kháng? Giữa ngoan ngoãn phục tùng và vùng lên đối kháng chỉ cách nhau một sợi tóc thật mong manh, nhưng sợi tóc đó cũng có thể biến thành một vực thẳm sâu hun hút tách lìa Bỉ và Thử. Ðảng thống trị luôn luôn nghĩ rằng bắt dân bị trị cúi đầu phục tùng vô điều kiện là Tốt. Nếu ta lật ngược thế cờ đưa người bị trị lên thành kẻ thống trị, đem kẻ thống trị xuống làm người bị trị, để cho người bị trị sai khiến áp bức đầy đọa chém giết hành hạ kẻ thống trị y hệt như trước đây họ đã làm, liệu rằng kẻ thống trị có còn cho đó là Tốt nữa hay không? Căn nguyên của mâu thuẫn sinh ra mối bất hòa giữa Bỉ và Thử chính là sự Dối Trá và Lường Gạt. Tự dối mình và lường gạt người. Cái điều mình lớn tiếng rêu rao là Tốt chỉ là điều Tốt trên đầu môi chót lưỡi. Khi người khác áp dụng đúng cái điều Tốt đó vào mình thì giãy lên như đỉa phải vôi. Nằm trong ách thống trị tàn bạo phi nhân của Cộng Sản những người dân bị trị đã nhìn thấu tim đen của kẻ thống trị. Nhóm Nhân Văn Giai Phẩm đã vạch rõ nguyên nhân gây ra thảm họa khốc liệt cho cả dân tộc. Nguyên nhân đó vẻn vẹn ở hai chữ: Lường Gạt. Vì đã lường gạt nhau Niềm Tin giữa Người với Người vỡ vụn, nguồn sinh lực của dân tộc suy kiệt dần. Không phải tự nhiên mà Phùng Quán nhớ lời mẹ dặn và viết lên những câu thơ hùng tráng bất hủ : Yêu ai cứ bảo rằng yêu Dù ai ngon ngọt nuông chiều Cũng không nói yêu rằng ghét Ghét ai cứ bảo rằng ghét Dù ai cầm dao dọa giết Cũng không nói ghét rằng yêu... Cũng không phải tự nhiên mà Nguyễn Văn Trấn viết cho quốc hội mà lại nghĩ tới mẹ. Giữa Phùng Quán, Nguyễn Văn Trấn và cha mẹ hai ông không hề có sự đối kháng. Những lời mẹ dạy thấm sâu vào tận tâm khảm và hướng dẫn mọi ý nghĩ hành động của hai ông. Hai ông không hề cảm thấy uất ức phẫn nộ hoặc bị áp đặt tư tưởng khi nghe theo lời mẹ dạy. Tại sao vậy? Vì lời mẹ dạy bao hàm Sự Thật và chan hòa Tình Thương. Sự Thật và Tình Thương nối liền Bỉ và Thử, xóa nhòa cách biệt, hòa Bỉ và Thử làm một. Khi ước muốn của cha mẹ hoàn toàn phù hợp với ước muốn của con cái thì đối kháng sẽ tan biến. Khi ước muốn của cha mẹ vỏn vẹn chỉ là được thấy con mình đứng thẳng lên làm người thì sợi dây nối kết cha mẹ và con cái không còn là sợi xích sắt khổng lồ nữa mà biến thành sợi tơ hồng êm ái. Nếu nguyên nhân
gây ra mối bất hòa giữa Bỉ và Thử là sự
Lường Gạt thì lòng Thành Thật và
Tình Người chính là chất keo kết hợp lòng
người. Thay lời kết Tìm về dòng sông văn hóa Thời Minh Trị Thiên Hoàng nước Nhật tiến từ một quốc gia nghèo nàn lạc hậu chia năm xẻ bảy vọt lên hàng cường quốc trong vòng 10 tới 20 năm. Ngày nay khoa học kỹ thuật tiến bộ rất nhanh với nhịp độ của những hỏa tiễn. Khoa học kỹ thuật có thể tiếp thu rất nhanh.Với đầu óc không đến nỗi quá u tối một dân tộc có thể chuyển mình từ một quốc gia nghèo nàn lạc hậu lên hàng một quốc gia văn minh tiến bộ trong vòng 20, 30 năm. Ðó là sự thật nhiều người biết rõ. Nhưng khi một nền văn hóa sụp đổ, sức sống của dân tộc suy kiệt dần. Nguồn sinh lực của dân tộc dồn hết vào nỗ lực diệt trừ lẫn nhau. Càng nỗ lực diệt trừ lẫn nhau dân tộc càng lụn bại. Phải mất một trăm năm hay có lẽ một ngàn năm dân tộc mới có cơ phục hồi lại sinh khí. Cũng có thể chẳng bao giờ còn có thể phục hồi lại sinh khí. Dường như đã và đang có một sai lầm ghê gớm phủ ngập quê hương. Sự sai lầm đó dường như là nền văn hóa dân tộc đang tàn lụn đổ vỡ tan nát. Sức sống của dân tộc mỗi lúc một tan biến đi như gió thoảng mây bay. Văn hóa là chất keo kết hợp lòng người. Nay chất keo đó đã khô cứng lại không còn đủ sức kết dính người với người. Tại sao vậy? Cái tính kết dính của văn hóa là nhờ Niềm Tin và Tình Thương. Con người có tin nhau, hiểu nhau và thực lòng thương nhau thì mới dễ dàng kết hợp với nhau. Tại sao Niềm Tin đã vỡ? Tại sao Người chẳng còn thể tin Người? Con người đã vỡ nát thành nhiều mảnh. Tâm tách lìa Trí. Trí tách lìa Dũng. Những điều một người cho là Tốt khác rất xa với những gì cũng người đó suy nghĩ tính toán. Những điều một người nói là Tốt trái ngược hẳn với những điều người đó nghĩ là Tốt. Những điều người đó làm lại hoàn toàn chẳng giống những điều người đó nói sẽ làm. Mỗi mảnh của cùng một con người thường chửi nhau, mạ lị nhau thậm tệ. Cuộc nội chiến không phải chỉ xảy ra giữa những người dân trong cùng một nước. Cuộc nội chiến xảy ra thường xuyên giữa những mảnh vụn của cùng một con người, mảnh nọ đâm chém chửi bới thống mạ dầy xéo mảnh kia. Vì thế con người chẳng ai còn có thể tin ai Niềm Tin và Tình Thương chỉ nảy sinh một cách rất tự nhiên. Ta chỉ tin những gì thực sự đáng tin. Ta chỉ thương những người thực sự dễ thương. Ép buộc ta tin sự Lường Gạt, thương sự Ðộc Ác là trái với lẽ tự nhiên của trời đất. Nhưng ẩn sâu trong con người còn có mặc cảm tự ti thật tai hại. Thấy người hùng mạnh, thấy ta yếu hèn, con người bỗng nổi lên một nỗi khát khao sẽ được hùng mạnh bằng hoặc hơn kẻ khác. Nỗi khát khao đó thúc đẩy con người đi tìm kiếm những phương tiện, những đường lối, phương pháp để một sớm một chiều biến thành ông khổng lồ vĩ đại. Cho rằng dân tộc mình yếu hèn vì thiếu vũ khí, người Việt đã đổ xô nhau đi tìm vũ khí. Ðiều may mắn, hay bất hạnh, cho cả dân tộc là nỗi khát khao đó đã được thỏa mãn đầy đủ trọn vẹn. Quá đầy đủ nữa. Các thế lực ngoại bang vì những lý do khác nhau đã đổ ào ạt hàng kho vũ khí tràn ngập đất nước Việt Nam. Ðổ vũ khí vào cho người dân tha hồ đánh nhau, giết nhau. Vũ khí không cũng chưa đủ. Muốn hùng mạnh phú cường còn cần tư tưởng chỉ đạo. Có hai tư tưởng chỉ đạo đã như ánh sáng chói lòa làm chóa mắt những người đi tìm sức mạnh. Một là tư tưởng muốn thống nhất ý chí, thống nhất hành động tạo nên sức mạnh thì phải bắt muôn người phục tùng ý muốn một người. Hai là tư tưởng chính trị là vô luân. Từ đó thì Bạo Lực và Lường Gạt biến thành chân lý sáng ngời rực rỡ chói lòa, thành ngọn hải đăng mặt biển hướng dẫn cả dân tộc đi tìm sức mạnh thần kỳ, chém giết nhau không chút nương tình, dầy xéo chà đạp Lương Tâm con người không chút xót xa thương tiếc. Nói dối, nói láo, nói khoác, nói phét trở thành mẫu mực điển hình của con người mới trong xã hội mới. Lường gạt nhau, phản bội nhau, làm chó săn rình mò tố cáo lẫn nhau, đâm sau lưng nhau, đạp lên đầu lên cổ nhau để thủ lợi, chụp mũ cho nhau, vu khống bôi nhọ nhau... tất cả đã thành sách lược thần kỳ, thành đường lối ưu việt để chiến thắng. Khủng bố, thanh toán, cho nhau đi mò tôm, chôn sống người tập thể, chém bay đầu người bằng mã tấu, thủ tiêu người trong đêm hôm khuya khoắt... đó là Bạo Lực Cách Mạng trong một cuộc chiến tranh thần thánh dẫn dắt cả dân tộc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc xuống địa ngục. Cái hậu quả đau đớn của những tư tưởng chỉ đạo đó là con người trở nên hèn hạ đáng khinh. Người lại khinh người. Khinh nhau thì làm sao có thể tin nhau, thương nhau ? Không tin nhau, không thương nhau thì làm sao có thể kết hợp với nhau? Nhà văn Nguyễn Tuân là một người trước cuộc chiến được rất nhiều người yêu mến, quí nể. Sau năm 1975 Nguyễn Tuân đã tâm sự một câu thật chua xót cay đắng với một số bạn bè thân: Tao còn sống được đến ngày nay là nhờ biết hèn. Ôi, cái giá của sự sống sót mắc như vậy sao? Việt Nam không phải chỉ có một Nguyễn Tuân. Có hàng triệu Nguyễn Tuân vẫn đang sống trong buồn tủi uất ức. Khi Niềm Tin giữa Người với Người đã mất, con người hoặc sẽ chấp nhận Bạo Lực và Lường gạt như những khuôn mẫu tất yếu phải theo để sống trong xã hội, tự mình bắt chước y hệt những thái độ, hành động đểu cáng bất nhân của những kẻ trước đây mình khinh ghét; hoặc sẽ cảm thấy chán chường ghê tởm cả xã hội, muốn rút ra khỏi xã hội, tách lìa khỏi xã hội và rơi vào trạng thái dửng dưng thờ ơ trước mọi điều nghịch lý xảy ra trước mắt. Khi Niềm Tin giữa Người với Người đã mất xã hội sẽ tan rã ra thành cát bụi, chất keo kết dính mọi người sẽ khô cứng lại, lời kêu gọi kết hợp sẽ bay trong gió và tan loãng vào cõi hư vô. Lúc đó họa chăng con người còn ngồi lại với nhau để uống rượu say túy lúy hoặc miệt mài trong những cuộc truy hoan. Ðấy là hậu quả của một nền văn hóa bị đập phá tan nát. Mỗi người chúng ta có lẽ trong thâm tâm vẫn còn mong mỏi một ngày kia có thể tìm về dòng sông văn hóa. Tìm về dòng sông văn hóa là tìm lại Lương Tâm con người, tìm lại Khí Phách con người, tìm lại Niềm Tin và Tình Thương giữa Người với Người. Niềm Tin đó dãu đã vỡ vụn vẫn chưa mất hẳn. Ðâu đó trong và ngoài nước ta vẫn nhìn thấy những đốm lửa hồng nho nhỏ. Khi được biết chị Nhã Ca vẫn không chịu khuất phục trước họng súng, vẫn không chịu bẻ cong ngòi bút sửa lại những gì chị đã viết trong cuốn Giải khăn sô cho Huế, lòng tôi tràn ngập một Niềm Tin và sự cảm phục sâu xa. Nếu phải mất một trăm năm hoặc một nghìn năm nữa dân tộc ta mới tìm lại được dòng sông văn hóa thì ngay từ lúc này ta cũng nên bắt đầu tìm kiếm lại những đốm lửa hồng nho nhỏ, nuôi dưỡng nó và truyền hơi ấm cho nhau. Biết đâu những đốm lửa hồng nho nhỏ đó một ngày kia chẳng sẽ lớn dần lên và biến thành sức mạnh quật cường của cả dân tộc? Một vị cao niên nói với tôi rằng: Giấy rách giữ lấy lề, anh ạ! Tôi thâm cảm được những điều vị ấy muốn nói. Chị Nhã Ca đã giữ được cái lề đó. Cái lề đó không phải là vấn khăn mỏ quạ, để tóc đuôi gà, mặc áo tứ thân rồi lên trình diễn trong những buổi đại nhạc hội ở kinh đô ánh sáng. Cái lề đó chỉ giản dị là Lương Tâm, Khí Phách, Niềm Tin và Tình Thương giữa Người và Người. Lương Tâm giúp cho con người biết thương xót, phẫn nộ khi nhìn thấy đồng bào, đồng loại bị chà đạp, dày xéo, tàn sát, chôn sống. Khí phách giúp cho con người can đảm nói lên Sự Thật và không chịu uốn lưỡi bẻ cong ngòi bút khi bị mua chuộc đe dọa. Có người mỉa mai cho rằng Lương Tâm và Khí Phách con người vô tích sự, chẳng giúp ích gì cho việc hoán chuyển tình thế. Tôi không nghĩ vậy. Vận mệnh dân tộc nằm trong tay cả dân tộc, không nằm trong tay một người. Nếu cả dân tộc cam phận cúi đầu làm nô lệ thì một con én chẳng làm nên mùa xuân. Nhưng muốn cho cả dân tộc cùng thức dậy, ta phải bắt đầu từ đâu? Ít ra một đốm lửa hồng nho nhỏ còn giúp ta một chút hy vọng ở ngày mai. Tạo được Niềm Tin trong lòng người rất khó. Nếu ta tạo được Niềm Tin trong lòng một người thì vẫn tốt hơn là phá vỡ Niềm Tin trong lòng cả triệu người. Con đường tìm về dòng sông văn hóa thực gian nan và quá nhiều thử thách, nhưng thử thách càng lớn ta càng cảm thấy cuộc sống có ý nghĩa và đáng cho ta sống hơn. Chướng ngại lớn nhất trên con đường tìm về dòng sông văn hóa chính là cái ảo giác rằng những thủ thuật nắm đầu sỏ mũi sai khiến điều động cả dân tộc bằng Bạo Lực và Lường Gạt sẽ đưa dân tộc tới vinh quang. Những thủ thuật đó dãu có giúp cho kẻ sử dụng đạt được những thắng lợi nhất thời thì cũng phá nát Niềm Tin của cả dân tộc và biến cả xã hội thành những kẻ thù nhau. Lắng tâm xuống ta sẽ thấy mọi sự xúi giục khích động cho con người thù hận lẫn nhau chỉ mang lại những đổ vỡ thê thảm. Giữa Người với Người vốn không có sự cách biệt. Không có sự cách biệt giữa Ðông và Tây, giữa Cũ và Mới, giữa Xưa và Nay, giữa Trẻ và Già, giữa Giàu và Nghèo,... Sự cách biệt chỉ nảy sinh khi một bên muốn cưỡi lên đầu lên cổ bên kia, muốn bắt bên kia cúi xuống làm nô lệ cho mình sai khiến. Tìm về dòng
sông văn hóa là tìm lại sợi dây nối
kết Người với Người khiến Bỉ và Thử hòa với nhau
làm một. Phải thành thật lắm, can đảm lắm mới có
thể hợp nhất được những mảnh vụn của cùng một con người, chấm
dứt mọi cuộc nội chiến triền miên giữa Bỉ và Thử khiến cho
ý nghĩ, lời nói và hành động không
chửi nhau, mạ lị đâm chém lẫn nhau.
Kim Bằng
Nguồn: http://www.taphopdongtam.org Trang mạng Việt Nam Văn Hiến
Trang Dòng Sông Văn Hóa www.vietnamvanhien.net email: thuky@vietnamvanhien.net Trang
mạng Việt Nam Văn Hiến là nơi bảo tồn di sản văn hóa của
Việt tộc
và phục hồi nền An Lạc & Tự Chủ. |