Việt
Nam
Văn
Hiến
Năm
Thứ
4889
www.vietnamvanhien.net
Con
Đường
Nào
Cho
Việt
Nam Hôm Nay
Lê
Việt
Thường
Giải Pháp Loại Nào Cho Việt
Nam Hôm Nay
Vấn
đề
Việt
Nam
đã được đề cập đến nhiều trên các
khía cạnh Chính trị, Hiến chương, Pháp lý,
Xã hội, Kinh tế v.v... Sự đóng góp phong
phú về những khía cạnh trên đây là
điều cần thiết và đáng hoan nghênh, vì Việt
Nam hiện đang đứng trước ngã ba đường: chủ nghĩa Cộng sản
đã quá lỗi thời nên không còn ai tin
tưởng nữa, và tập đoàn Cộng sản Việt Nam hiện tại cấu kết
với nhau chỉ vì vấn đề quyền lợi và sống còn. Vậy
nên hầu như tất cả đều đồng ý là Việt Nam cần
có chính sách và đường hướng mới để bơm
sinh khí vào một xã hội quá băng hoại về cả
hai mẕt tinh thần và vật chất. Tuy nhiên, mẕc dầu thiện
chí cải tổ có thừa, nhưng khi câu hỏi được đẕt ra
là "nội dung của chính sách, đường hướng đó
là gì ?" thì khó khăn bắt đầu xuất hiện.
Các
biện
pháp
cải
tổ
được đề nghị thường nằm trên bình
diện Chính trị, Pháp chế như đòi hỏi chính
quyền Cộng sản Việt Nam từ bỏ độc tài đảng trị, sửa đổi hiến
pháp để người dân có các thứ tự do căn bản
như tự do lập hội đoàn, đảng phái... để tiến tới bầu cử
tự do.
Trước
áp
lực
quốc
tế
về các vấn đề Tự do, Nhân quyền,
chính quyền CSVN vẫn tỏ ra ngoan cố: Lâu lâu họ
làm ra vẻ nhượng bộ ở một điểm nóng, như trả tự do cho
một vài nhân vật đối lập chính trị nổi tiếng, nhưng
ngay sau đó họ lại ngấm ngầm siết chẕt sự quản thúc, kiểm
soát đối với chính nhân vật vừa được thả ra (như
trường hợp Hà Sĩ Phu, Nguyễn Ðan Quế trước đây..).
Ðối với những nhân vật, đoàn thể, tôn
giáo mà chính quyền CSVN nghĩ có thể
là mối đe dọa đối với sự sống còn của chế độ, họ thẳng
tay đàn áp, khủng bố, bắt bớ, bất chấp cả dư luận quốc tế
lẫn quốc nội ( như trường hợp Phật giáo Hòa Hảo chẳng
hạn).
Trên
đây
là
một
vài
thí dụ về những khó
khăn mà những nhà tranh đấu cho Tự do, Nhân quyền
tại Việt Nam gẕp phải trong thực tế. Lẽ dĩ nhiên, mẕc dầu những
khó khăn nêu trên, vì Hạnh phúc của
nhân dân, vì sự Sống còn của dân tộc
Việt Nam, chúng ta vẫn phải tiếp tục tranh đấu trên
các bình diện Chính trị, Hiến chương, Pháp
lý, Xã hội, Kinh tế.vvv.vvv. dựa vào Dư luận Quốc
tế cũng như ảnh hưởng Chính trị lớn lao của khối cử tri người
Việt Hải ngoại tại những nơi, những quốc gia mà họ hiện đang cư
ngụ.
Tuy
nhiên,
các
việc
làm
trên đây là
CẦN nhưng KHÔNG ÐỦ, vì chỉ là những giải
đáp CỤC BỘ. Vấn đề Việt Nam đòi hỏi một Giải Pháp
rộng lớn hơn, TOÀN DIỆN hơn, mà ta chỉ có thể gẕp
trên bình diện VĂN HÓA.
I ) TẠ I SAO CẦN ÐẾN GIẢI
PHÁP VĂN HÓA ?
Từ
ngữ
VĂN
HÓA
bao
gồm 2 khía cạnh RIÊNG và
CHUNG. RIÊNG vì Văn Hóa thường áp dụng cho
MỘT nhóm người, MỘT nhóm dân. CHUNG vì Văn
Hóa chỉ CÁCH THẾ SỐNG của nhóm người kể trên
bàng bạc ở khắp MỌI SINH HOẠT của họ. Ðiều khó khăn
nhất là làm sao tìm ra MẪU SỐ CHUNG đó.
Lý do là vì SINH HOẠ của con người rất phiền
nhiêu, đa tạp, nên nếu nhìn từ NGOÀI, tức
dừng ở cõi Hiện tượng Hữu hình, chúng ta rất
khó nắm bắt Mẫu Số Chung đó. Do đó, Cơ Cấu luận
(Structuralisme), một trong những lý thuyết mới nhất trong Khoa
học Nhân văn, đề nghị một phương pháp Khảo Cứu Mới Mẻ nhằm
vượt qua đợt Hiện tượng, Vật lý, Lý trí, Ý
thức, bên ngoài để đào sâu vấn đề đến tận đợt
Siêu trần, Vi thể, cõi Tiềm thức, Vô thức nhằm nắm
bắt CƠ CẤU nằm sâu trong lòng của Sự vật. Do đó, về
mẕt PHƯƠNG PHÁP, Cơ Cấu luận đẕt nổi mối LIÊN HỆ, TƯƠNG
QUAN có tính cách VÔ HÌNH giữa
các Yếu tố, Thành phần, Biến cố, Sự việc..hơn là
chính các Yếu tố, Thành phần, Biến cố, Sự
việc..vẫn còn nằm ở đợt HỮU HÌNH.
Các
SINH
HOẠT
của
Nhân
loại rất phiền nhiêu, đa tạp, nhưng
có thể tạm sắp xếp trong BA loại : KINH TẾ, CHÍNH TRỊ
XÃ HỘI và TÔN GIÁO đáp ứng với HAI
loại NHU CẦU của con người là : VẬT CHẤT và TINH THẦN.
Nhận xét đầu tiên là con người thời nào, nơi
nào cũng có những NHU CẦU CĂN BẢN như nhau là NO
ẤM, HẠNH PHÚC, HÒA BÌNH. Và ở thời
nào, nơi nào cũng có sự hiện diện, dưới
hình thái đơn giản hoẕc phức tạp của các Sinh hoạt
KINH TẾ, CHÍNH TRỊ và TÔN GIÁO.
Ðiều
đáng
nói
ở
đây
là tuy các Sinh hoạt
lâu đời vừa nêu trên là KINH TẾ, CHÍNH
TRỊ, TÔN GIÁO góp phần vào việc giải quyết
các vấn đề căn bản của con người như NO ẤM, HẠNH PHÚC,
HÒA BÌNH, nhưng thông thường chỉ đem lại những giải
đáp CỤC BỘ, và đôi khi lại không đạt được mục
tiêu.
Do
đó,
để
đạt
được
cứu cánh là đem lại NO ẤM, HẠNH
PHÚC, HÒA BÌNH thực sự, ngoài những giải
đáp CỤC BỘ vừa nêu trên, con người còn cần
một Giải Pháp TOÀN DIỆN nữa nằm ở bình diện Cao
hơn, Sâu hơn, tức lãnh vực VĂN HÓA mà dưới
ánh sáng của Cơ Cấu luận, bao gồm những mối LIÊN
HỆ, TƯƠNG QUAN có tính cách VÔ HÌNH
có khả năng nối kết được với nhau các YẾU TỐ HỮU
HÌNH là các địa hạt KINH TẾ, CHÍNH TRỊ
XÃ HỘI và TÔN GIÁO.
II) TƯƠ NG QUAN GIỮA VĂN HÓA
VỚI KINH TẾ, CHÍNH TRỊ, TÔN GIÁO:
1)
Môn
KINH TẾ nhắm đến mục tiêu giải
quyết cấp bách vấn đề ÐỦ ĂN, ÐỦ MẶC của con người.
2)
Môn
CHÍNH TRỊ có hai
khía cạnh:
a)ÐỐI
NỘI: nhắm đến việc định tính vai trò và địa vị
gồm những bổn phận, trách nhiệm, quyền lợi..của một CÁ
NHÂN đối với các Cá nhân khác
và CỘNG ÐỒNG, được thấy qua những mối tương quan, liên
hệ trong Xã hội� �hư chẳng hạn những mối NGŨ LUÂN trong
Nho Giáo: vợ chồng, cha con, thầy trò, vua tôi,
bằng hữu.
b)ÐỐI
NGOẠI: nhắm đến việc định tính vai trò và địa
vị của một quốc gia, dân tộc, đối với cộng đồng các quốc
gia, dân tộc.
3)
TÔN GIÁO hiện hữu vì
lý do sau đây: con người không chỉ có những
nhu cầu VẬT CHẤT, trong cõi TƯƠ G ÐỐI, HỮU HÌNH hoẕc
chỉ hạn chế vào chiều kích XÃ HỘI, mà
còn có những nhu cầu TINH THẦN, VÔ HÌNH,
cũng như những khát vọng về TUYỆT ÐỐI với chiều kích
HUYỀN NHIỆM, TÂM LINH.
Tuy
nhiên,trong
môn
Hóa
học
chẳng hạn, muốn tạo ra NƯỚC,
sự hiện diện của hai chất Hóa học KHINH KHÍ(Hydrogen)
và DƯỠNG KHÍ(Oxygen) là CẦN nhưng KHÔNG
ÐỦ. Lý do là muốn tạo ra NƯỚC, còn phải biết
kết hợp Khinh khí với Dưỡng khí theo đúng DUNG
LƯỢNG Hóa học là HAI nguyên tử HYDROGEN cộng với
MỘT nguyên tử OXYGEN mới tạo ra được MỘT phân tử NƯỚC
mà công thức Hóa học là H2O.
Một
cách
tương
tự,
muốn
đáp ứng những NHU CẦU CĂN BẢN của con
người là NO ẤM, HẠNH PHÚC, HÒA BÌNH gồm hai
khía cạnh TINH THẦN và VẬT CHẤT, sự hiện diện của
các sinh hoạt KINH TẾ, CHÍNH TRỊ, TÔN GIÁO
là CẦN nhưng KHÔNG ÐỦ.
Lý
do
là
muốn
Cá
nhân đạt được Hạnh Phúc
CHÂN THỰC, Nhân loại đạt được nền Hòa Bình
TRƯỜNG CỬU, còn phải biết cách kết hợp các sinh
hoạt KINH TẾ, CHÍNH TRỊ, TÔN GIÁO, cũng như điều
hòa các nhu cầu TINH THẦN và VẬT CHẤT của con
người trong một LIỀU LƯỢNG,TƯƠNG QUAN LÝ TƯỞNG tương tự như DUNG
LƯỢNG H2O làm nên NƯỚC trong môn Hoá học.
Và đó là vai trò của VĂN HÓA.
KINH
DỊCH,
cuốn
Kinh
nền
tảng nhất của Văn hóa Viễn Ðông
hé cho chúng ta thấy TƯƠNG QUAN LÝ TƯỞNG có
khả năng đem lại CHÂN HẠNH PHÚC cho con người cũng như nền
HÒA BÌNH THỰC SỰ cho nhân loại qua cụm từ THAM
THIÊN LƯỠNG ÐỊA(=3 Trời 2 Ðất) hay (3 Tinh thần 2 Vật
chất) làm nền tảng cho thuyết NGŨ HÀNH của Dịch Lý.
III ) THUYẾT NGŨ HÀNH
VÀ CON ÐƯỜNG CỦA VIỆT NAM:
Cơ
Cấu
NGŨ
HÀNH
chính
là VIỆT ÐẠO do mối
liên hệ thâm sâu giữa Huyền sử TIÊN RỒNG
và DỊCH LÝ.
Ngoài
ra,
lý
thuyết
Ngũ
Hành không chỉ là Suy luận
Triết học suông mà có NỀN TẢNG KHOA HỌC hẳn hoi như
khám phá gần đây của hai nhà Bác học
Trung Hoa Lý Chánh Ðạo và Dương Chấn Ninh, nhờ
đó hai ông được giải thưởng NOBEL cho thấy là khi
dùng máy "Accelerator"để bắn Hạt nhân của
Nguyên tử (Atomic Nucleus) vỡ ra, thì thoát ra 2
dòng "Ðiện tử"(Electron): ÂM ÐIỆN TỬ và
DƯƠNG ÐIỆN TỬ với VẬN TỐC DI CHUYỂN KHÔNG ÐỒNG ÐỀU.
Dương điện tử di chuyển nhanh hơn Âm điện tử TRONG TỶ LỆ 3/2(Ba
trên Hai), giống như Tương quan Lý tưởng "Tham Thiên
Lưỡng Ðịa" (= Ba Trời, Hai Ðất) hay 3 DƯƠNG 2 ÂM, của
lý thuyết NGŨ HÀNH vừa đề cập ở trên.(1)
Vì
CƠ
CẤU
là
một
vấn đề tối quan trọng nên không chỉ
là đề tài suy tư của các nhà Hiền triết
Viễn Ðông, mà còn là mối bận tâm
của nền Triết học Ấn Ðộ cũng như của các Triết gia Tây
Phương Cổ đại, mà vấn đề quan trọng nhất là tìm
hiểu về Bản chất Sơ nguyên làm nên Vũ trụ. Hầu hết
thưa Bản chất của Vũ trụ là ÐẤT, Thalès cho là
NƯỚC, Heraclite LỬA, Anaximene KHÍ. ARISTOTLE tổng hợp lại
thành TỨ TỐ: Ðất-Nước-Khí-Lửa.
Nếu
CƠ
CẤU
của
Vũ
trụ, Vạn vật là TỨ TỐ như Aristotle chủ trương,
thì hai nguyên lý ÂM-DƯƠ G sẽ ở trạng
thái Quân Bình TĨNH CHỈ (Static),Bất động như (2
DƯƠNG + 2 ÂM = 4) thì làm sao có Di động,
BIẾN HÓA cũng như hoàn toàn trái ngược với
THỰC TẠI mà Khoa học Ngày Nay chứng minh là
làm bằng một VŨ TRỤ được điều hợp trong thế Quân
Bình ÐỘNG ÐÍCH (Dynamic) là (3 DƯƠNG + 2
ÂM= 5) như Cơ Cấu NGŨ HÀNH của DỊCH LÝ. Thật vậy,
nguyên lý DƯƠNG đại diện cho TINH THẦN phải chiếm 3 phần,
tức trội hơn nguyên lý ÂM đại diện cho VẬT CHẤT
chiếm 2 phần, thì Vũ trụ, Vạn vật, Con người mới có BIẾN
HÓA thăng tiến về phía TINH THẦN, giống như chủ trương
của Sử gia danh tiếng A. Toynbee quan niệm Lịch sử con người là
hướng tiến dần dần lên thế giới TINH THẦN (=Etherialization
có nghĩa là "trở nên Tinh Khí, Thiêng
Liêng") (2)
Nếu
bốn
hành
Kim-Mộc-Thủy-Hỏa
của
NGŨ HÀNH của Dịch Lý
tương tự như TỨ TỐ: Ðất-Nước-Lửa- Khí của Tây Phương
vì nằm ở cõi HIỆN TƯỢNG Hữu Hình, thì
hành THỔ, hành thứ năm mới là nét Ðẕc
trưng của NGŨ HÀNH vì đại diện cho TÂM LINH,
VÔ THỂ. VÔ đây không có nghĩa là
"không có" theo nghĩa thông thường, mà
là "CHÂN KHÔNG DIỆU HỮU" là "HÀNH
VÔ HÀNH", tức là cái KHÔNG Huyền Diệu
làm nền tảng cho mọi cái CÓ.
ÐÔNG
LAN,
tác
giả
"YÊU
MẾN ANVI" đã đưa ra nhận
xét rất giá trị và sâu sắc cho thấy thuyết
NGŨ HÀNH của Dịch Lý với Tương quan Lý tưởng "Tham
Thiên Lưỡng Ðịa" có lẽ bắt nguồn từ Thuật ngữ "CON
RỒNG CHÁU TIÊN" của Huyền Sử TIÊN-RỒNG của VIỆT TỘC.
Vì CON là đời thứ 2, CHÁU là đời thứ 3,
nên "Con Rồng, cháu Tiên" cũng có nghĩa
là "2 RỒNG 3 TIÊN" hay "Tham Thiên Lưỡng Ðịa"!
Do
đó,
ta
có
thể
lập lại ở đây rằng Cơ Cấu NGŨ
HÀNH chính là VIỆT ÐẠO hay CON ÐƯỜNG của
VIỆT NAM vậy!
IV ) ÁP DỤNG NGŨ HÀNH VÀO VĂN
HÓA:
Bây
giờ
thử
áp
dụng
cái khung NGŨ HÀNH vào việc
nghiên cứu các nền Văn Hóa lớn là Tây
Phương, Ấn Ðộ và Viễn Ðông.
Như
đã
nói
ở
trên,
Tương quan Lý tưởng của
lý thuyết Ngũ Hành theo tinh thần Dịch Lý
là THAM THIÊN LƯỠNG ÐỊA có thể hiểu là
"3 Trời 2 Ðất" hay "3 Dương 2 Âm" hoẕc "3 Tinh Thần 2 Vật
Chất...tùy trường hợp.
Tóm
lại,
theo
Dịch
Lý,
ta đạt được Tương quan Lý tưởng hay
thế QUÂN BÌNH Ðộng đích khi ta có "3+2 =
5". Còn các tương quan khác như "4+1=5" hay
"1+4=5", tức "Tứ Thiên Nhất Ðịa" hay "Nhất Thiên Tứ
Ðịa" đều ở trong tư thế BẤT QUÂN BÌNH cần nên
tránh.
THIÊN
ÐỊA
hay
ÂM
DƯƠNG
là những Phạm Trù RỖNG chi
phối LUẬT BIẾN HÓA trong Nhân Sinh Quan và Vũ Trụ
Quan của ÐẠO DỊCH nên được dùng để chỉ những CẶP Phạm
trù có thể xem là MÂU THUẪN hay BỔ
TÚC tùy theo nhãn quan của người quan sát.
Trong
VĂN
HÓA
chẳng
hạn,
THIÊN ÐỊA hay ÂM DƯƠNG
có thể chỉ các CẶP Phạm trù "Ý Thức-Tiềm
Thức", "Lý Trí-Tình Cảm", Hiện Tượng-Tâm
Linh".vvv...vvv.
1)
TÂY PHƯƠNG: Văn hóa, Triết
học Tây Phương với việc các Tổ Sư như Socrates đưa
LÝ TRÍ lên vai trò ÐỘC TÔN, như
Plato cho thế giới Ý NIỆM (le monde des Idées) mới
là THẬT, còn TRẦN GIỚI hay thế giới CẢM XÚC chỉ
là "bèo bọt", nên là môt nền văn
hóa quá thiên về LÝ TRÍ Suy Luận, với
Tương quan Bất Quân Bình là "TỨ ÐỊA NHẤT
THIÊN", tức "4 Ý thức 1Tiềm thức", "4 Lý 1
Tình","4 Hiện tượng 1 Tâm Linh".
Hậu
quả
là
các
"Anh
hùng" của họ như Attila,
Napoléon, Hitler.hay các phong trào như Thực
Dân, Quốc Xã, Phát Xít, Cộng Sản..bắt nguồn
từ Tây Phương không ngần ngại "nướng" vào trận tiền
hàng ngàn, hàng vạn, hàng triệu.trang thanh
niên là những con người "bằng xương bằng thịt" để thoả
mãn các THAM VỌNG ngông cuồng, hoẕc nhân danh
các Ý THỨC HỆ Phi Nhân của cái thế giới DUY
LÝ, TRỪU TƯỢNG, KHÔNG TƯỞNG của họ.
2)
ẤN ÐỘ: Trước bầu khí HỮU VI của văn
hóa Tây Phương đầy tranh chấp, mâu thuẫn, đối
kháng, nền văn hóa VÔ VI Ấn Ðộ chủ trương từ bỏ
LÝ TRÍ để thực hiện một "cú nhảy" vào "hố
thẳm" của Nội tâm. Lúc ban đầu, có thể bị quyến rủ
bởi bầu khí nhẹ nhàng, thanh thoát của thế giới
Vô Vi, nhưng về sau ta sẽ nhận thấy là triết lý Ấn
Ðộ vẫn còn nẕng tính chất "độc thiện kỳ thân"
nên không thâm nhập được vào đời sống. Hậu quả
là với Ấn Ðộ Cổ truyền, Triết lý có vươn cao
mấy đi nữa cũng bỏ thây kệ xã hội với những bất công
trầm trọng như tệ nạn đẳng cấp và tục thiêu sống
đàn bà góa, ngay từ trong bản chất. (3)
Nếu
con
người
gẕp
phải
tình trạng VONG THÂN trong nền văn
hóa Tây Phương vì bị đồng hóa với SỰ VẬT,
thì trong nền văn hóa Ấn Ðộ, con người lại bị
ÁP CHẾ bởi sự hiện diện của THẦN LINH, mà Thần Linh dưới
ánh sáng của khoa Tâm Lý Tân tiến,
chẳng qua là những "phóng ảnh" của các "lực" nằm
trong cõi TIỀM THỨC, VÔ THỨC.
3)
VIỄN ÐÔNG: Dưới ánh
sáng của Cơ Cấu NGŨ HÀNH, cả hai nền văn hóa
Tây Phương và Ấn Ðộ đều ở trong tư thế BẤT QUÂN
BÌNH: với Tây Phương là "Tứ Ðịa Nhất
Thiên", tức "4 Ý Thức 1 Tiềm Thức", còn với Ấn
Ðộ thì ngược lại là "Tứ Thiên Nhất Ðịa",
tức "4 Tiềm Thức, 1 Ý Thức". Hậu quả là với Tây
Phương, ta có thế giới của SỰ VẬT, còn với Ấn Ðộ,
là thế giới của THẦN LINH. Và như lời của Sử gia Will
Durant, chỉ còn lại Viễn Ðông là quê
hương của NHÂN BẢN
Ai
có
thể
Ðại
diện
cho Văn hóa Viễn Ðông? Theo
tác giả lời Tựa của lần tái bản vào năm 2003 của
cuốn "Luận Ngữ" được hoc giả J. Legge dịch ra Anh ngữ, thì
"Trong dòng Lịch sử của Nhân loại, nếu có một người
có thể Ðại diện cho nền Văn minh của cả một Dân tộc
thì có lẽ đó là Khổng Tử. Nếu có một
cuốn sách có thể được xem là bản chỉ đường chung
cho cả một nhóm người, đó có lẽ là cuốn
"Luận Ngữ". Có điều chắc chắn là trong dòng Lịch
sử, hiếm người đã tô tạo và đóng dấu ấn
trên Văn minh của xứ sở mình một cách sâu đậm
như Khổng Tử. Sử gia danh tiếng Tư Mã Thiên đã viết
cách đây 2100 năm: "Có thể gọi Khổng Tử là
nhà Hiền Triết Thượng Thẕng".
Các
lời
Giáo
huấn
của
Khổng Tử không chỉ dùng
làm Mẫu mực cho tầng lớp Lãnh đạo và Sĩ phu,
mà còn có ảnh hưởng trên lối cư xử của người
Bình dân. Ðiểm đẕc sắc trong Ðạo lý của
Khổng Tử là sự GIAO THOA giữa Nhân Ái và Lẽ
Phải, giữa TÂM và TRÍ".(4)
V ) ÁP DỤNG NGŨ HÀNH VÀO VĂN MINH:
Một
mẕt,
Khổng
Tử
nói
: "Thuật nhi bất tác" (Ta không
sáng tác, chỉ thuật lại Ðạo của người xưa), mẕt
khác, trong sách "Trung Dung", Khổng tử khen cái
Ðạo của người phương Nam:"Nam phương chi cường giả, quân tử
cư chi".
1)TỔ TIÊN LẠC VIỆT KHAI
SÁNG RA VĂN MINH NHÂN LOẠI
Ngoài
ra,
theo
Lý
thuyết
Văn minh mới nhất, Tổ tiên Việt tộc
đã khai sáng và Ðông Nam Á
là cái Nôi của Văn minh Nhân loại, nên
người phương Nam mà Khổng Tử có nhắc tới có lẽ
là chính Tổ tiên của chúng ta . Vì
vào thời ấy, chưa có áp lực dân số nẕng nề
như ngày nay, nên ta có thể suy luận ra là
có lẽ các Ngài đã giải quyết được vấn đề ăn
làm, mưu sinh. Ngoài ra,vì Bách Việt
vào định cư ở đất Tàu trước Hoa tộc, và như hệ quả
là tác giả đầu tiên của Minh triết Thái
hòa của Văn hóa Dịch lý Siêu đẳng, nên
các Ngài cũng đem lại Thái bình An lạc cho
toàn dân. Do đó, các Ngài đã
thực hiện được Ðạo lý NGŨ HÀNH theo Tương quan
Lý tưởng là THAM THIÊN LƯỠNG ÐỊA hay "3 Trời 2
Ðất", "3 Tinh Thần 2 Vật Chất", "3 Văn Hóa 2 Văn Minh".
Về
sau,
dẫu
vai
trò
lãnh đạo Văn minh đã được chuyển
qua các dân tộc khác, nhưng hậu duệ gần gũi của
các Ngài vẫn cố gắng duy trì trong mức độ khả thi
Lý tưởng nêu trên. Bí quyết của việc hiện
thực này nằm trong triết lý TRI TÚC và thể
chế BÌNH SẢN giúp người dân Việt thời trước tương
đối ÐỦ ĂN, ÐỦ MẶC để có thể có một cuộc sống
PHONG LƯU Tiêu Sái theo Ðạo lý NGŨ HÀNH
mà dấu vết còn ghi lại trên các mẕt của
TRỐNG ÐỒNG.
2) HẬU DUỆ LẠI ÐI THEO HỌC
THUYẾT TỆ HẠI NHẤT CỦA NHÂN LOẠI
Ðiều
oái
ăm
là
trong
khi Tổ Tiên Lạc Việt khai
sáng ra Văn minh Nhân loại, thì hậu duệ của
các Ngài ngày nay còn chạy theo một Học
thuyết Tệ hại nhất trong Lịch sử loài Người là thuyết
Mác-Xít.
Ở
khởi đầu, Karl Marx muốn sửa sai Hegel vì cái gọi
là Biện chứng pháp (Dialectique) của Hegel đã sa
đọa thành một lý thuyết DUY TÂM Một Chiều: thật
vậy, về phương diện Chính trị chẳng hạn, giữa hai hạn từ
CÁ NHÂN và NHÀ NƯỚC, Hegel đã bỏ
Cá Nhân mà CHỌN NHÀ NƯỚC được đồng
hóa với Tinh Thần Tuyệt Ðối.(5) Hậu quả là Biện chứng
DUY TÂM của Hegel đã trở thành Ý Thức Hệ của
Chủ Nghĩa QUỐC GIA QUÁ KHÍCH của Âu Châu của
các thế kổ 18,19.
Karl
Marx
muốn
đẕt
Suy
tư Triết lý vào con người, nhưng theo
Marx, "Bản gốc CON NGƯỜI là KINH TẾ hoẕc XÃ HỘI
tính" nên cái gọi là Biện chứng pháp
của Karl Marx lại sa đọa thành một lý thuyết DUY VẬT Một
Chiều. Và học thuyết của Marx đã trở thành
Ý Thức Hệ của Chủ Nghĩa QUỐC TẾ CUỒNG TÍN của thế kổ 20
vừa qua.
Mác-Xít
là
một
lý
thuyết
KHÔNG TƯỞNG, và Karl Marx
hứa hẹn với những người theo ông một loại "Thiên Ðường
Cộng Sản" nơi đó "con người làm theo khả năng và
hưởng theo nhu cầu". Nhưng trước đó, ở giai đoạn trung gian, một
chính quyền XÃ HỘI sẽ hiện hữu và có thể
dùng những phương tiện PHI DÂN CHỦ như ÐỘC TÀI
CHUYÊN CHÍNH VÔ SẢN.(6)
Chính
các
điểm
lý
thuyết
vừa nêu trên của
Mác-Xít đã được các lãnh tụ Cộng Sản
như Lénine, Staline, Mao Trạch Ðông, Hồ chí
Minh..tận lực KHAI THÁC.Họ dùng các lời HỨA HẸN
đầy "quyến rủ" của Karl Marx như CHIÊU BÀI về mẕt
TUYÊN TRUYỀN, và mẕt khác áp dụng một
cách TRIỆT ÐỂ những phương thức PHI DÂN CHỦ như
ÐỘC TÀI CHUYÊN CHÍNH VÔ SẢN, mà
Marx "cho phép" ở giai đoạn trung gian với một chính
quyền XÃ HỘI. Ðiều trên giúp giải thích
hai tính chất DỐI TRÁ và SẮT MÁU của chế độ
Cộng Sản đạt đến trình độ KHỦNG KHIẾP NHẤT trong Lịch sử
loài người.
Riêng
đối
với
Cộng
sản
Việt Nam, các nghịch cảnh lịch sử của gần 100
năm đô hộ của người Pháp cộng với 30 năm chiến tranh Quốc-
Cộng với nhu cầu của đảng CSVN cần phải dựa trên thành
phần BẦN CỐ NÔNG để tranh đoạt chính quyền đưa tới
tình trạng là các người nắm giữ những chức vụ quan
trong trong guồng máy CSVN thường có trình độ HỌC
THỨC THẤP KÉM, khiến cho tính chất CUỒNG TÍN,
GIÁO ÐIỀU, SẮT MÁU của đảng CSVN đạt đến mức độ TỘT
CÙNG. Ðó là bức tranh của cái gọi
là "Thiên đường Xã hội chủ nghĩa" của 60 năm vừa
qua biến một nước Việt Nam GẤM VÓC mà Tổ Tiên Lạc
Việt để lại thành một TRẠI TÙ VĨ ÐẠI.
3) THỬ TÌM LỐI RA NGÕ
CỤT HIỆN NAY
Bây
giờ,
để
tìm
lối
ra NGÕ CỤT thử áp dụng Cơ cấu NGŨ
HÀNH của Văn Hóa Dân tộc vào BÀI
TOÁN VN hôm nay bao gồm nhiều khía
cạnh:Chính Trị, Kinh Tế, Pháp Lý.
A ) CHÍNH TRỊ: VẤN ÐỀ
DÂN CHỦ
Vấn
đề
DÂN
CHỦ
có
thể được nhìn dưới hai khía
cạnh: THỂ CHẾ và TINH THẦN
a) THỂ CHẾ DÂN CHỦ: dựa trên
Nguyên tắc là "Chủ quyền Quốc gia thuộc Toàn
Dân", nên "sự Cai trị do Dân và vì
Dân". Và người dân có những "quyền tự
nhiên của con người" như: quyền an ninh thân thể, quyền tự
do tinh thần và quyền chống lại áp bức của Nhà
nước. Các quyền căn bản phải được tôn trọng như : tự do tư
tưởng, tự do tôn giáo, tự do ngôn luận, tự do
báo chí, tự do lập và gia nhập đảng phái,
tự do ứng và bầu cử..vvv..vvv.
Ðể
bảo
vệ
thể
chế
DÂN CHỦ, thông thường phải áp dụng
các Nguyên tắc: TAM QUYỀN PHÂN LẬP(Hành
Pháp, Lập Pháp, Tư Pháp), TẢN QUYỀN, TỰ TRỊ
ÐỊA PHƯƠ NG..
Trên
đây
là
những
SỞ
ÐẮC của Nhân loại ngày
nay về THỂ CHẾ DÂN CHỦ. Ðó là điều
Ðáng Quý, tuy CẦN THIẾT nhưng KHÔNG ÐỦ,
vì với những Sở Ðắc trên, ta CHỈ có được một
loại DÂN CHỦ HÌNH THỨC. Ðiều quan trọng hơn nữa
là:
b) TINH THẦN DÂN CHỦ: mà muốn
có, giải pháp thường được đề nghị là dùng
phương tiện GIÁO DỤC để NÂNG CAO DÂN TRÍ.
KHÔNG
KÉM
phần
QUAN
TRỌNG
nhưng thường bị LẢNG QUÊN là
Nhu cầu trở về nghiên cứu chính LỊCH SỬ của Dân tộc
đó để thử tìm ra CỘI NGUỒN của TINH THẦN DÂN CHỦ.
Trở
về
KHỞI
THỦY
của
VĂN MINH NHÂN LOẠI, nhiều Học giả Quốc tế Danh
tiếng đồng ý với cẕp Phạm Trù: NÔNG NGHIỆP- DU MỤC,
do đó ta thử bắt đầu nghiên cứu vấn đề TINH THẦN DÂN
CHỦ với cẕp Phạm trù nêu trên.
Sự
xuất
hiện
của
Văn
minh NÔNG NGHIỆP với việc con người biết GIEO
TRỒNG đánh dấu một bước tiến quyết liệt ,vì con người bắt
đầu có thể ÐỊNH CƯ, nên xuất hiện nhu cầu làm
nhà để ở, làm đồ vật để dùng, do đó
kéo theo những khám phá khác như Dệt Vải,
làm Ðồ Gốm.Và ở đây khởi đầu thời kỳ VĂN
HÓA.
Những
dân
theo
văn
minh
NÔNG NGHIỆP thường có Văn
hóa CAO, nhưng vì sống rải rác nên bị THUA
TRẬN trước các đoàn người DU MỤC với đội ngũ chẕt chẽ hơn.
SỨC
MẠNH
của
Du
Mục
gia tăng theo tổ lệ thuận với sự PHỤC TÙNG đối
với người CHỈ HUY, nên xã hội DU MỤC : Ðề cao
TÙ TRƯỞNG, dựa trên liên hệ CHỦ-NÔ, đưa tới
chế độ GIAI CẤP cũng như tinh thần ĂN SẴN của cấp cầm quyền nên
KHINH VIỆC LÀM chân tay cho là Hèn hạ,
và ÐÀN ÁP THIÊN NHIÊN và
ÐÀN BÀ.
Trái
lại,
công
việc
trong
xã hội NÔNG NGHIỆP như
Cày cấy, Gieo gẕt đòi hỏi sự tham gia tận tình của
mọi người, nên kéo theo tinh thần LIÊN ÐỚI
TRÁCH NHIỆM, dựa trên PHẨM TRẬT là sự phân
chia theo diện Nghề nghiệp thay vì GIAI CẤP của DU MỤC, cũng như
ÐỀ CAO LAO TÁC, TÔN TRỌNG ÐÀN BÀ
và THIÊN NHIÊN.(7)
Vậy
nên
như
là
Phạm-Trù,
cẕp NÔNG NGHIỆP-DU MỤC
thường đi đôi với cẕp DÂN CHỦ-ÐỘC TÀI. Và
theo Lý thuyết mới nhất về Văn Minh, Tổ Tiên LẠC VIỆT khởi
sáng nền Văn Minh NÔNG NGHIỆP tại ÐÔNG NAM
Á vào khoảng 10 ngàn năm trước đây,
nên có TRUYỀN THỐNG DẬN CHỦ từ xa xưa.
TINH
THẦN
DÂN
CHỦ
được
thể hiện một cách TRUNG THỰC nhất trong
môi trường của Làng Xã VN xưa. Về mẕt TỰ DO TƯ
TƯỞNG, trong khi Lịch sử TÂY PHƯƠNG là một chuỗi
THÁNH CHIẾN, thì trái lại Tiền nhân ta
đã thực hiện được TAM GIÁO ÐỒNG NGUYÊN, nghĩa
là tuy có Tam Giáo, nhưng tuyệt nhiên
không bó buộc ai theo thuyết nào, đạo nào,
để tùy mỗi người lựa chọn.
Còn
TỰ
DO
CHÍNH
TRỊ
thì được biểu thị bằng cách thức
BẦU BÁN KHÔNG có chút KỲ THỊ nào về
phương diện DÒNG MÁU hay TIỀN CỦA mà chỉ căn cứ
trên TUỔI TÁC biểu thị cho Kinh Nghiệm SỐNG.(8) Còn
hai điểm rất ÐẶC SẮC và TÂN TIẾN khác là
chế độ TẢN QUYỀN và TỰ TRỊ XÃ THÔN
_
TẢN QUYỀN: Giáo Sư J. Mc.
Alister thuộc Ðại học Stanford có viết về vấn đề này
như sau:" Chính quyền Trung ương Việt Nam thời trước có
thể giữ các nhu cầu về Ngân sách ở mức độ thấp,
và sử dụng quyền KIỂM SOÁT của Trung ương đối với Ðịa
phương, nhưng loại quyền này KHÔNG có tính
chất HÀNH PHÁP, vì trách nhiệm thi
hành các biện pháp trong từng chi tiết nằm trong
thẩm quyền của Làng Xã. Trung Ương PHỐI HỢP chứ
KHÔNG ÐIỀU KHIỂN! Một đẕc sắc khác của đời sống
Làng Xã là Thể chế (9)
_
TỰ TRỊ ÐỊA PHƯƠNG: bao gồm việc
mỗi Xã TỰ CHỈ ÐỊNH lấy XÃ TRƯỞNG có nhiệm vụ
điều khiển công việc của Xã và đại diện Xã
đối với quan trên. Triều đình không cần biết đến
từng cá nhân trong Xã, và chỉ cần ấn định
mỗi năm Xã phải cung cấp bao nhiêu thuế, bao nhiêu
người làm xâu, bao nhiêu người đi lính.
Xã chỉ cần cung cấp đủ số tiền và người cho Triều
Ðình, còn sự phân phối cho dân Xã
chia ra chịu mỗi người một phần là việc riêng của
Xã.
Tự
Trị
Xã
Thôn
còn
được quãng diễn qua
câu PHÉP VUA THUA LỆ LÀNG được thấy qua các
trường hợp cụ thể như việc áp dụng các HƯƠNG ƯỚC nhằm ấn
định phương pháp làm việc của Xã theo Nguyên
tắc của Thánh Hiền: Về mẕt này, Xã TỰ ẤN ÐỊNH
nội dung của HƯƠNG ƯỚC theo Tục Lệ của Ðịa phương chứ không
bắt buộc phải theo Nghi thức của Triều Ðình.(10)
B )VẤN ÐỀ NHÂN QUYỀN: Ngày nay, người
ta thường căn cứ trên MỨC ÐỘ thực thi NHÂN QUYỀN để
làm thước đo TRÌNH ÐỘ DÂN CHỦ của một Quốc gia.
Vậy chúng ta thử xem Tiền nhân ta thực thi Nhân
Quyền như thế nào?
Hỏi
ai
trong
chúng
ta
biết rằng cách đây khoảng 500
năm, nước Ðại Việt đã hoàn tất bộ LUẬT HỒNG ÐỨC,
mà về phương diện NHÂN QUYỀN có thể đem đối chiếu
với Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền Quốc Tế của Liên
Hiệp Quốc ngày nay trong cả bốn lãnh vực : quyền
toàn vẹn thân thể, quyền bình đẳng, các
quyền dân sự và chính trị, các quyền kinh
tế, xã hội và văn hóa, mà không tỏ ra
thua sút chút nào. Trái lại, ở một số
Nguyên tắc và Ðiều khoản còn QUA MẶT cả Hiến
chương LHQ.
Nhưng
đó
là
SỰ
THẬT
có thể tìm thấy trong cuốn
"LÊ Code: Law in Traditional Viêt Nam" và tác
phẩm"The Vietnamese Tradition of Human Rights" của GS Tạ Văn
Tài.
C ) CHÍNH SÁCH KINH TẾ: Một đẕc điểm
khác của Làng Xã VN khi xưa là chế độ
BÌNH SẢN mà nét đẕc trưng có thể làm
nổi bật qua việc so sánh với hai chế độ TƯ BẢN và CỘNG
SẢN.
Nói
cách
chung,
chủ
nghĩa
TƯ BẢN thì quá TƯ
RIÊNG, còn CỘNG SẢN thì quá CÔNG CỘNG,
mà điều trên là hậu quả của nền Văn hóa MỘT
CHIỀU của TÂY PHƯƠNG, còn Văn hóa VN vì chủ
trương HAI CHIỀU như "Âm-Dương", "Thiên-Ðịa" nên
với thể chế BÌNH SẢN chẳng hạn, Tiền nhân ta quan niệm
là phải có sự QUÂN BÌNH giữa ÐẤT
CÔNG và ÐẤT TƯ. Một mẕt, người Nông dân VN
trước kia được quyền SỞ HỮU trên bình diện PHÁP
LÝ, mẕt khác, những thành phần KHÔNG
có đất TƯ thì cứ định kỳ được Làng Xã cấp
cho một phần đất CÔNG để cày bừa, trồng trọt và
hưởng phần hoa lợi do công lao mình tạo ra, tránh
được khủng hoảng do tâm lý tiêu cực "của CÔNG
là của CHÙA" gây ra, đã dẫn tới THẤT BẠI
KINH TẾ và sự SỤP ÐỔ của chế độ CỘNG SẢN.
Ngoài
ra,
cũng
khác
với
TƯ BẢN NGUYÊN THỦY, vì quá
đề cao cái TƯ RIÊNG, và với chủ trương quyền TƯ HỮU
TUYỆT ÐỐI, nên để thiểu số ưu đãi thống trị và
chiếm hữu phần lớn tài sản của quốc gia, đã gây ra
những bất công trầm trọng là nguyên nhân của
sự ra đời của phong trào CỘNG SẢN, thể chế BÌNH SẢN
đã dự trù những biện pháp TRÁNH tình
trạng ÐỘC QUYỀN của giai cấp Thống Trị trên tài sản
quốc gia, như cách thức được áp dụng dưới thời Vua Minh
Mạng chẳng hạn, chính phủ Trung ương canh chừng giới Hào
mục tự tiện BIẾN đất CÔNG thành đất TƯ, hay phương thức
mua lại số đất tư thẕng dư của TƯ nhân để QUÂN BÌNH
với số đất CÔNG hiện hữu hoẕc như tập tục của Làng
Xã VN trước đây nhằm khuyến khích giới Hào
phú Xã thôn chia xẻ của cải giàu sang với
các thành phần khác không được may mắn như
họ.
Ngoài
ra,
CÔNG
ÐIỀN
CÔNG
THỔ là một loại AN SINH
XÃ HỘI (Welfare) nhằm giúp đỡ các thôn
dân khi bị gẕp tai ương như trường hợp các cô nhi,
quả phụ, bô lão.hoẕc dùng làm một loại "học
bổng" để khuyến khích các thư sinh ưu tú tiếp tục
việc học hành.
Nhưng
thể
chế
BÌNH
SẢN
còn có giá trị TINH THẦN,
THIÊNG LIÊNG thường thiếu vắng trong các Lý
thuyết Tây Phương tương tự. Nhiều THỨC GIẢ phê bình
là xã hội Tây Phương ngày nay quá
THIÊN về VẬT CHẤT, mà tương quan theo thuyết NGŨ
HÀNH là "4 Vật chất 1 Tinh thần" nên BẤT QUÂN
BÌNH, do đó dẫu của cải dư thừa mà nhiều người vẫn
KHÔNG thấy Ðời có Ý NGHĨA: tình trạng
này có lẽ bắt nguồn từ quan niệm NHỊ NGUYÊN của
Triết Cổ Ðiển Tây Phương chủ trương "vật chất là vật
chất, tinh thần là tinh thần", nên ÐẤT CHỈ LÀ
ÐẤT.
Ngược
lại,
với
quan
niệm
NHẤT NGUYÊN LƯỠNG CỰC của Viễn Ðông,
trong "Vật chất còn có Tinh thần". Do đó, đối với
người VN, ÐẤT KHÔNG CHỈ LÀ ÐẤT, nhưng còn
là cái gì chất chứa đầy tính cách
LINH THIÊNG, vì Ðất là của người SỐNG cũng như
của người CHẾT, người SỐNG giữa Ðất một cách TRỨ
HÌNH, còn Linh Hồn TIÊN TỔ nắm giữ môt
cách VÔ HÌNH. Theo Học giả Paul Mus, chính
cái quan niệm đó là môt yếu tố đem lại sự
QUÂN BÌNH KINH TẾ cho xã hội VN HƠN hẳn các
xã hội TÂY ÂU về trước. Vì theo quan niệm
đó thì phải có chính sách QUÂN
PHÂN TÀI SẢN, sao cho ai cũng được làm NGƯỜI, nghĩa
là miếng ÐẤT CHỞ thực sự, để
đối
đáp
với
TRỜI
CHE
được thực thi bằng Ðạo THỜ CÚNG TỔ
TIÊN.(11)
KẾT LUẬN :
Sau
đây
thử
đưa
ra
một đóng góp nhằm giải quyết vấn đề
VN trong khung NGŨ HÀNH.
1)
Vấn
đề
DÂN CHỦ có hai phần:
TINH
THẦN và THỂ CHẾ.
a)
Về
THỂ CHẾ, ta có thể tiếp
thâu
những SỞ ÐẮC của Nhân loại ngày nay, nhắm vào
việc GIÁO DỤC quần chúng để NÂNG CAO DÂN
TRÍ và Ý THỨC CHÍNH TRỊ
b)Về
TINH THẦN, như vừa trình
bày ở trên ,ta có thể hãnh diện là
VĂN HÓA VN đã có một TRUYỀN THỐNG DÂN CHỦ
lâu đời. Tương quan NGŨ HÀNH được đề nghị áp dụng ở
đây là "3 TINH THẦN, 2 THỂ CHẾ".
2)
Về
NHÂN QUYỀN, Tiền nhân
ta
đã ÐI TRƯỚC phần còn lại của Nhân loại
ít nhất 4,5 năm trăm năm với bộ LUẬT HỒNG ÐỨC. Trong khi
đó, hậu duệ của các Ngài hiện tại trong nước lại
đang LẸT ÐẸT đi SAU CHÓT Thiên hạ!!!
3)
Về
KINH TẾ, ta có thể
theo chế
độ BÌNH SẢN của Tổ Tiên nhằm QUÂN BÌNH giữa
TƯ và CÔNG, với tương quan "3 TƯ 2 CÔNG" hay "3 Kinh
Tế Thị trường, 2 Công Bằng Xã hội". Ngoài ra,
vì nước ta là một nước đang phát triển nên
nhắm ưu tiên vào việc sản xuất nhu yếu phẩm hơn là
xa xỉ phẩm, đẕt mục tiêu dài hạn trên ngắn hạn, cũng
như phát triển trong mức độ mà môi trường sinh
thái chịu đựng được và không ăn thâm
vào "gia tài thiên nhiên" của các thế
hệ sau.
Nhưng
trên
hết,
phải
có
một ÐẠO LÝ
giúp người dân không những hưởng NO ẤM, SUNG
TÚC, mà còn có được môt HƯỚNG SỐNG
hầu đạt được CHÂN HẠNH PHÚC theo bức Cẩm Nang của Triết
lý NGŨ HÀNH là "3 TINH THẦN, 2 VẬT CHẤT"
Trên
đây,
thử
Phác
họa
Sơ lược về một GIẢI PHÁP VĂN
HOÁ cho vấn đề VN theo khung NGŨ HÀNH mà
các Nguyên tắc rút ra được đề nghị áp dụng
trong các lãnh vực CHÍNH TRỊ, KINH TẾ, PHÁP
LÝ.và các vấn đề DÂN CHỦ, NHÂN QUYỀN...
Lê Việt Thường
A) PHỤ CHÚ:
NHẬN XÉT VỀ KHUYNH HƯỚNG PHẢN KHÁNG ÐIỂN
HÌNH TRONG NƯỚC:
Ngày
nay,
những
thành
phần
PHẢN KHÁNG trong nước vì ở
lâu ngày trong một loại NHÀ TÙ nên
phần đông tưởng rằng bên ngoài mọi sự đều tốt đẹp,
đang ÐỒNG CA về bài hát KINH TẾ THỊ TRƯỜNG, xem như
vị CỨU TINH của XÃ HỘI CHỦ NGHĨA. Tuy Kinh Tế Thị Trường
có nhiều Ưu điểm, nhưng không nhờ thế mà có
khả năng giải quyết được mọi sự﮼/span> Bằng chứng là tuy
các nước Tây Phương theo Kinh tế Thị trường từ rất
lâu, nhưng cũng đang gẕp những vấn đề rất NGHIÊM TRỌNG loại
khác.
Có
lẽ
vì
phải
sinh
hoạt lâu năm trong một xã hội
ÐỘC TÀI, BƯNG BÍT, nên vốn KIẾN THỨC của phần
lớn giới Trí Thức trong nước KHÔNG được CẬP NHẬT
HÓA một cách đầy đủ, thỏa đáng. Nếu có ai
may mắn tránh được tình trạng nêu trên,
thì cũng không đủ thì giờ tiêu hóa hết
số kiến thức vừa thu thập được. Do đó, căn cứ trên những
gì chúng tôi đọc được từ những tác giả trong
nước, phần lớn có vẻ KHÔNG NẮM VỮNG những KHUYNH HƯỚNG
CHÍNH YẾU của VĂN HÓA THẾ GIỚI, nhất là ở Thượng
Tầng TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC, tức Nội Dung của các Công
Trình của những nhà TƯ TƯỞNG LỚN của Nhân Loại
Ngày Nay. Hậu quả của tình trạng trên là đa
số KHÔNG thiết lập được một BẢNG TIÊU CHUẨN đúng đắn
về phương diện VĂN HÓA để xử dụng trong việc THẨM ÐỊNH
GIÁ TRỊ
Ngoài
ra,
sau
gần
100
năm bị ngoại bang ÐÔ HỘ, và hơn 30 năm
sống trong một xã hội PHI NHÂN, SẮT MÁU, DỐI
TRÁ cùng cực, mà mọi giá trị cổ truyền
đã và đang bị "xuống cấp" một cách thảm hại, phản
xạ tự nhiên của họ là VỌNG NGOẠI. Và hậu quả nguy
hại nhất của tình trạng trên là họ có
thái độ "VƠ ÐỦA CẢ NẮM". Họ gán cho Văn Hóa,
Dân Tộc VIỆT những lỗi lầm mà thực sự THỦ PHẠM
chính yếu là học thuyết MÁC XÍT và
đảng CSVN.
Riêng
về
NHO
GIÁO,
có
lẽ vì chưa tiếp cận được với Tư
Tưởng KIM ÐỊNH mà phần đông chưa phân biệt được
VIỆT NHO hay NHO NGUYÊN THỦY với HÁN NHO, và
vô tình hay cố ý, LẦM LẪN Văn Hóa của NHO
với Chính Trị PHONG KIẾN.
Hệ
quả
là
họ
"tái
diễn" VỞ KỊCH CŨ của nhóm TỰ LỰC
VĂN ÐOÀN của thời kỳ 1930 là THEO MỚI một cách
hăng say, quá khích, mà "theo mới" có nghĩa
là THEO TÂY. Trong khi
đó, khuynh hướng của các nhà ÐẠI TƯ TƯỞNG
của Tây Phương Cận Ðại như Triết Gia Hàng Ðầu M.
HEIDEGGER hay Lý Thuyết Gia Khoa Học Hàng Ðầu F.
CAPRA là HƯỚNG VỀ ÐÔNG PHƯƠNG.
Ðúng
là
chơi
trò
CÚT BẮT!!!
Có
lẽ
phải
cần
thời
gian cho sự QUÂN BÌNH thì
Trí Thức Phản Kháng trong nước mới đóng nổi vai
trò Lãnh Ðạo của mình!
B) CHÚ THÍCH:
(1)
Ðông
Lan,
"Yêu
Mến
An Vi", Văn Hiến, USA, 2004, tr.162,
trích Báo"Time" số 26/01/1957
(2)
Kim
Ðịnh,
"Những
Dị
Biệt giữa hai Nền Triết Lý
Ðông Tây", Ra Khơi,VN,1969, tr.69, trích A.
Toynbee,"Le Monde et lOccident", tr.53
(3)
Kim
Ðịnh,
"Nhân
Chủ",
Thanh Niên Quốc Gia, USA, tr.118
(4)
James
Legge,
"The
Wisdom
of Confucius", Axiom, Úc, 2003, tr.5
(5)
Kim
Ðịnh,
"Dịch
Kinh
Linh Thể", An Việt Houston, USA, 1989, tr. 56
(6)
G.
Hands,
"Marx",
Hodder
& Stoughton, London, Anh, 2000, tr.46
(7)
Kim
Ðịnh,
"Sứ
Ðiệp
Trống Ðồng", Thanh Niên Quốc Gia,
USA, 1984, tr.308-312
(8)
Kim
Ðịnh,
"Hồn
Nước
và Lễ Gia Tiên", Nam Cung,
USA,1979, tr.214
(9)
P.
Mus
&
J.McAlister,
"Les Vietnamiens et leur Révolution",
Du Seuil,Pháp, 1972
(10)
Nguyễn
Ngọc
Huy,
"Di
Cảo V", Mekong, 1994, tr.142-144
(11)
Kim
Ðịnh,
"Hồn
Nước
và Lễ Gia Tiên", Idem, tr. 61
|
Lê Việt Thường
Nguồn: http://www.anviettoancau.net
Trang
mạng Việt Nam Văn Hiến là nơi bảo tồn di sản văn hóa của
Việt tộc, thắp sáng niềm tin Diên Hồng và nếp sống
văn hiến hầu phục hồi nền An Lạc
& Tự Chủ.
|