Giọt Nước Trong Biển Cả

Hoàng Văn Hoan
(tiếp theo)

Phần 4: Những năm tháng trước
 và sau cách mạng tháng Tám

Sau mười bốn năm họat động cách mạng ở nước ngoài [1] , tôi lại có dịp về họat động cách mạng trực tiếp ở trong nước, góp phần xây dựng Khu giải phóng Việt Bắc.
Tôi về Việt Bắc với một điều kiện thuận lợi, là đã biết tiếng Thái-lan, cơ bản giống như tiếng các dân tộc Nùng, Tày ở các tỉnh Việt Bắc giáp với Trung Quốc. Hơn nữa, trong những năm 1940, 1941 họat động ở Tịnh Tây, Long Châu, với nhiệm vụ là Bí thư Đảng ở hải ngoại, tôi thường phải về nước báo cáo công tác, và mỗi lần về như vậy đều ở bên cạnh Bác như ở hang Pác Pó, ở Lũng Nạm, ở Khuổi Nậm, có lúc đến một hai tuần, cho nên đã hiểu được đường lối xây dựng khu giải phóng, cách thức giáo dục cán bộ và huấn luyện quần chúng của Bác, mặc dù lần này về Việt Bắc trong lúc vắng mặt Bác hơn một năm.
Phần này gồm sáu mục:


  • Củng cố và phát triển Việt Minh ở Cao Bằng.
  • Tiến xuống Lạng Sơn.
  • Hồ Chủ Tịch bị bắt ở Trung Quốc và những họat động của người.
  • Hồ Chủ Tịch gặp Tư lệnh không quân Mỹ ở Côn Minh.
  • Hội nghị toàn quốc của Đảng và Quốc dân Đại hội ở Tân Trào.
  • Những ngày tháng sau Cách mạng Tháng Tám.

I. Củng cố và phát triển Việt Minh ở Cao Bằng
Theo lời Bác dặn ở Pò Vằn, tôi về Pác Pó ở nhà anh Đại Hoa gần chỗ trước kia Bác thường làm việc, để chờ việc liên lạc với Tỉnh ủy Cao Bằng ở Nhượng Bạn, phủ Hòa An.
Ở nhà anh Đại Hoa được một hôm, trong lúc đang nằm nghỉ mát buổi trưa, thì anh thôn trưởng Cột Mà đến.
Anh hỏi: Chiều hôm qua có phải anh đến nhà tôi không? Tôi hỏi vặn, sao anh biết tôi đến nhà mà anh lại tránh đi không gặp? Hôm qua lúc tôi đi qua dưới sàn nhà của anh thì tôi đã nghe tiếng anh nói rõ ràng, mà lúc lên nhà em anh lại bảo là anh đi vắng?
Anh thôn trưởng giải thích. Nguyên do thế này: Trước kia mỗi lúc anh gặp tôi, anh đều nói tiếng phổ thông, nhưng lần này gặp em tôi anh lại nói tiếng Quảng Đông, tôi nghĩ là bọn Quốc dân đảng đến bắt, nên tôi tránh ở trong buồng, nắm sẵn khẩu súng đã lên đạn, nếu thật là bọn Quốc dân đảng đến bắt tôi, thì tôi bắn chết, rồi đốt nhà và đưa cả gia đình vào Việt Nam. Tôi đã bảo thằng em tôi giơ đèn lên soi mặt anh để ở trong buồng tôi xem, nhưng anh cứ ngoảnh mặt đi, tôi không thấy rõ. Sau khi anh nói xuống nhà thôn phó, tôi đoán chắc là anh, nên bảo em tôi xuống nhà phó thôn trưởng xem, thì không thấy, tôi lại ngờ là kẻ gian nên bảo em tôi cùng hai người nữa mang theo ba khẩu súng đi ngay ra phía đầu thôn xem, nếu là Lý Quang Hoa thì đưa về nhà, kẻo để nằm bụi, nằm bờ ở ngoài trời tội nghiệp. Nếu không phải Lý Quang Hoa thì bất kỳ ai cũng phải bắt về để xét hỏi rõ ràng.
Tôi nói: Té ra là chuyện như thế. Hôm qua khi em anh nói là anh không có nhà, thì trời đã chập chọang tối, tôi nói xuống nhà phó thôn trưởng là để đánh lạc hướng chú ý của em anh, nhưng thực ra thì tôi ra đầu thôn, đi về phía Việt Nam, chạy nhanh xuống cái dốc dài, đến chỗ bãi ngô thì tối mịt. Đường núi đá gồ ghề không trèo leo được, tôi đành phải kiếm một chỗ náu thân bên cạnh một hốc đá ở gần bãi ngô, đến mờ sáng mới ra trèo núi đến Pò Vằn vượt qua biên giới rồi về đây.
Anh thôn trưởng hỏi: Vì sao anh lại phải làm khổ mình như thế? Tôi nói: Ở Tịnh Tây Trần Bảo Thương muốn ép tôi làm việc cho Quốc dân đảng, tôi nhất định không làm nên phải chạy về nước. Ngủ ở nhà anh, nếu đang đêm xảy ra chuyện gì mà anh không ở nhà thì không biết làm cách gì để đối phó. Vì vậy tôi phải rời nhà anh đi ngay.
Anh thôn trưởng xin lỗi: Tôi thật hồ đồ quá nên đã làm khổ anh. Nhưng bây giờ đã đến đây bình yên vô sự thì tôi rất mừng.
Chuyện trò xong, anh thôn trưởng xin về. Tôi bảo anh hãy nấn ná chờ, để tôi viết bức thư gửi cho Trần Bảo Thương, đồng thời cũng nhờ chuyển đến Trương Phát Khuê, Tư lệnh Quân khu bốn ở Liễu Châu. Thư đại ý nói, tôi rời Tịnh Tây về Việt Nam là để làm việc, vì công việc ở trong nước cần đến tôi hơn, nên tôi phải về nước chứ không phải là tôi bỏ trốn. Kèm theo bức thư, còn có một bài thơ chữ Hán như sau:
Xà thỉ tung hoành nhật,
Ngư long tịch mịch thì.
Kinh cung nghi khúc mộc,
Việt điểu sào nam chi.
Vong dương lao khả bố,
Thất mã phúc an tri.
Long tuyền khởi mai một,
Thiềm quang chung hữu kỳ.

Tạm dịch:
Rắn lợn đương khi được gặp thời,
Cá rồng đành phải vắng tăm hơi.
Cây cong, cung bắn, trông mà sợ,
Chim Việt cành nam vốn chẳng rời.
Dê mất đã đành cần sửa trại,
Ngựa chuồn mà hóa được ơn trời.
Long tuyền há dễ chôn vùi mãi,
Múa tít rồi đây sẽ sáng ngời.

Viết thư xong, gói ghém đề phong bì cẩn thận, rồi nhờ anh thôn trưởng đưa về Cột Mà dán tem gửi đi cho Trần Bảo Thương ở Tịnh Tây.

*

Trong những ngày chờ đợi ý kiến của Tỉnh ủy Cao Bằng, tôi vẫn ở nhà Đại Hoa giúp các đồng chí địa phương củng cố vùng Lục Khu thuộc Sóc Giang, mà anh Đại Lâm [2] là người phụ trách, đồng thời cũng là người phiên dịch khi tôi nói chuyện hoặc giảng giải các vấn đề cách mạng với người địa phương.
Thời gian ở Pác Pó, anh Đại Lâm thường đưa tôi đi nói chuyện với quần chúng, tham gia mấy đám cưới của cán bộ trong vùng. Có lần còn cùng đám thanh niên tham gia buổi hát của họ với đám thanh niên nữ ở trong làng. Cách hát này, tiếng Nùng gọi là “lượn tại”, cũng như ở Nghệ Tĩnh gọi là “hát ghẹo”, ở nhiều nơi miền Bắc gọi là “hát đúm”. Bắt đầu bên nam hát ở ngoài cổng làng hay một nơi cách gần chỗ ở các cô gái. Nếu hát hay và đối đáp được các cô gái vừa lòng thì được mời vào nhà chuyện trò, trao đổi tình tự. Nếu không được các cô gái mời vào thì coi là cuộc hát thất bại, phải chuẩn bị cuộc hát khác, hoặc thôi sau không hát nữa.
Qua một thời gian tiếp xúc với cán bộ và nhân dân địa phương, tôi đã nghe hiểu được khá nhiều tiếng Tày, và đã soạn một số thường thức chính trị thành những bài ca giản dị bằng tiếng Tày để phổ biến trong quần chúng. Thí dụ bài Tình hình thế giới nguyên bằng tiếng Tày, tạm dịch như sau:
Thế giới chúng ta ở,
Chia ra làm năm châu.
Và cứ mỗi một châu,
Lại chia ra nhiều nước.
Anh, Pháp, Ý và Đức,
Là thuộc về châu Âu.
Nước ta và Nhật, Tàu,
Là thuộc về châu Á,
………………………

Một hôm các đồng chí đi công tác về báo cáo, trong khu đã tổ chức được hầu khắp, chỉ riêng có một làng có mấy tên hào lý phản động cứ rêu rao là Việt Minh vào làng thì bắt nộp cho Tây, Nhật để lấy thưởng, vì vậy cán bộ không ai dám lọt vào. Làng này lại ở giữa đường đi rất quan trọng, nếu không tổ chức được làng này thì cả vùng đều bị ảnh hưởng. Chúng tôi bàn với nhau, nên dùng một số thanh niên nam hát giỏi, đến làng đó hát với các cô gái, nếu được các cô gái mời vào tình tự, thì lấy đó làm cơ sở phát triển dần ra đám thanh niên, rồi dần dần đến các người già, và sau đó người già sẽ nói cho bọn phản động biết Việt Minh là một tổ chức đánh Tây, đánh Nhật để cứu nước cứu dân, có tổ chức khắp các châu, các phủ huyện và có vũ trang rất mạnh, nếu chống đối với Việt Minh thì không tốt đâu. Chúng tôi gọi anh Nhâm đến bàn chuyện này, vì anh là một thanh niên hát giỏi, đi hát ở đâu các cô gái cũng rất thích, thường có cô làm giày gửi biếu. Anh Nhâm cho rằng đó là một phương pháp hay, có thể làm được, mà không bị nguy hiểm. Quả vậy, anh Nhâm dẫn một nhóm thanh niên đến làng đó hát mấy lần, thì các cô gái mời vào làng để trao đổi tình tự. Anh Nhâm làm công tác một thời gian thì cả làng đó bằng lòng theo Việt Minh. Cố nhiên mỗi lúc cán bộ Việt Minh đến thì vẫn phải phân công cho những người thật giác ngộ chú ý đề phòng mấy tên phản động.

*

Sau một thời gian công tác ở Lục Khu, tôi đi Hòa An gặp đồng chí Bác Vọng, Bí thư Tỉnh ủy Cao Bằng, và đồng chí Vũ Anh, trước đã cùng với tôi công tác ở Xiêm nay mới được cử vào Ủy viên Trung ương trong Hội nghị Trung ương lần thứ tám. Hai anh cho biết rằng, theo ý Bác Hồ thì công việc Nam tiến là rất cần thiết. Anh Giáp phụ trách đánh thông đường qua Bắc Cạn đến Thái Nguyên đã họat động từ hơn một năm nay; còn đường qua Lạng Sơn xuống Thái Nguyên thì chưa có ai phụ trách. Tỉnh ủy muốn tôi phụ trách đánh thông đường xuống Lạng Sơn. Tôi nhận lời ngay và đề nghị Tỉnh ủy xếp cho một số cán bộ chính trị vững, thông thạo đường sá và biết ứng phó khi có việc xảy ra. Tỉnh ủy đồng ý, nhưng xếp cán bộ như thế không phải một lúc đã làm ngay được, trước mắt hãy giúp Tỉnh ủy cũng cố và phát triển Việt Minh ở Cao Bằng.
Tôi ở chỗ Tỉnh ủy được mấy hôm thì được phái đến vùng Đào Ngạn mở một số lớp huấn luyện cho cán bộ địa phương, do anh Hải Khoát phụ trách đồng thời cũng là người phiên dịch như anh Đại Lâm ở vùng Lục Khu. Đào Ngạn là một vùng đã được tổ chức khá rộng, hầu hết các làng đều theo Việt Minh, chỉ mở những lớp huấn luyện để phổ biến một số thường thức cách mạng và bày cách làm việc cụ thể. Mỗi lớp huấn luyện chỉ độ hơn mười ngày, số người học có trên dưới mười người, có lúc đông đến độ hai chục người, đại bộ phận là thanh niên nam nữ, đôi khi cũng có một số người bốn năm mươi tuổi, hoặc một vài chú bé độ mười ba, mười bốn tuổi, nhưng đều không biết chữ.
Cách huấn luyện rất giản đơn, mỗi bài học đặt thành mấy câu hỏi cho người học tự trả lời trước, thường thì người học đều trả lời không được. Thế là mình mới nêu ra câu trả lời ngắn gọn và rất dễ hiểu, để các người học nói lại mỗi người độ một vài lần. Khi mọi người đều nói lại được, thế là xong. Vì quần chúng không biết chữ nên không có sách vở ghi chép gì cả, họa hoằn có người ghi chép được cũng không ghi chép để khỏi lộ bí mật. Một vài thí dụ cụ thể về cách huấn luyện:


  • Huấn luyện về vấn đề tuyên truyền, thì trước hết đặt câu hỏi: Tuyên truyền là gì? Trả lời: Tuyên truyền là làm cho người ta ghét Tây, ghét Nhật và theo cách mạng.

  • Huấn luyện về vấn đề tổ chức, thì trước hết phải đặt câu hỏi: Tổ chức là gì? Trả lời: Tổ chức là rủ người vào Hội Việt Minh, hoặc vào Hội Thanh niên, Hội Phụ nữ.

  • Huấn luyện về thường thức chính trị, thì đặt câu hỏi: Bọn ông tuần [3] , ông phủ, ông huyện, ông châu [4] có tài giỏi không? Thường thì người học đều cho là tài giỏi; vậy phải giải thích, bọn đó là rất ngu, vì Tây, Nhật cướp nước ta mà bọn đó lại coi Tây, Nhật như là bố, là mẹ. Chúng ta mới là tài giỏi hơn họ, vì chúng ta biết đoàn kết đánh Tây, đánh Nhật để cứu nước.

  • Du kích sao lại đánh được Tây, Nhật? Trả lời: Tây, Nhật tuy mạnh, nhưng du kích có cách đánh giỏi: Địch đánh thì ta rút; địch rút thì ta đuổi; địch nghỉ thì ta quấy; địch mệt thì ta đánh.

  • Bí mật là gì? Trả lời: Bí mật là ai hỏi gì thì cứ nói không biết, không nghe, không thấy. Như vậy là “địch có mắt như mù, địch có tai như điếc”, ta làm gì địch cũng không biết.

Ngoài ra còn nói một số thường thức trong cuộc sống như cách hòa thuận trong gia đình, thân mật với láng giềng, thành thật với đồng chí, và cảnh giác đề phòng kẻ địch.
Huấn luyện tuy giản đơn, mộc mạc như vậy, nhưng kết quả rất tốt. Những người được huấn luyện về đều trở thành những cán bộ thực tế. Không những họ lôi kéo được cả bố mẹ và anh chị em trong gia đình, mà còn lôi kéo được cả những người trong làng trong xóm.
Cách huấn luyện giản đơn mộc mạc như thế chính là cách tôi học được ở Bác Hồ từ trước kia trong lúc ở Thái-lan, và gần đây thường được gần gũi Bác trong thời gian đi lại từ Tịnh Tây về Cao Bằng, ở Pác Pó, ở Lủng Lạm, ở Khuổi Nậm.

*

Sau khi ở Đào Ngạn một thời gian, tôi lại về Nhượng Bạn để chuẩn bị lấy cán bộ Nam tiến đánh thông đường xuống Lạng Sơn, nhưng Tỉnh ủy Cao Bằng vẫn chưa xếp được người cùng đi, tôi ở lại Nhượng Bản giúp phát triển và củng cố Việt Minh ở vùng này.
Sao làm cách mạng là phận sự của mình mà lại nói rằng giúp? Nói rằng giúp, vì Bác có chủ trương những cán bộ miền xuôi công tác ở vùng dân tộc thiểu số không trực tiếp tham gia vào ban lãnh đạo địa phương, vì trực tiếp tham gia sẽ làm cho các đồng chí địa phương sinh lòng ỷ lại, không tự chủ được công việc của mình, vì vậy chỉ nên làm việc với danh nghĩa cố vấn để đảm bảo tôn trọng quyền tự quyết của các đồng chí địa phương. Các anh về Cao Bằng từ những năm 1940, 1941, như Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Cao Hồng Lĩnh, Lê Thiết Hùng đều làm việc với danh nghĩa cố vấn. Đây là một chủ trương rất sáng suốt của Bác, nhằm để phòng sự bao biện của các đồng chí miền xuôi, thường là những người có trình độ chính trị và văn hóa cao hơn; đồng thời để nâng cao lòng tự trọng và tự quyết của các đồng chí địa phương là dân tộc thiểu số.
Ở Nhượng Bản nhân dân địa phương đã biết tiếng Việt nhiều, nhưng khi đi công tác tôi thường đi với đồng chí Bác Vọng, Bí thư Tỉnh ủy Cao Bằng, là người thông thuộc địa phương và cũng là người phiên dịch khi cần thiết.
Thời gian này tôi được xếp ở nhà ông Lén tại Lũng Voài gần di tích Thành nhà Mạc, nơi mà cơ quan báo chí tỉnh Cao Bằng đóng và phát hành ở đó. Tuy nói ở nhà ông Lén nhưng thường thì phải ở các hang núi đá trên cao, có khi được tin Tây đến lục soát thì phải ở hẳn trên núi, do cán bộ địa phương cung cấp gạo muối đưa lên rồi mình phải tự nấu lấy ăn. Bài thơ Cõi tiên đã thể hiện tình cảnh ở trên núi như sau:
Núi cao cao ngất tầng mây,
Đá lô xô mọc cỏ cây rậm rì.
Quanh năm chẳng người đi kẻ lại,
Suốt ngày rành chim gáy thú kêu.
Bút nào tả cảnh đìu hiu,
Người nào bước tới chẳng xiêu xiêu lòng.
Vin chỏm đá lên vòng quanh mãi,
Lên càng cao thì lại càng xa.
Đỉnh non chót vót một tòa,
Hoa che lá phủ đây là cõi tiên.
………………………………


*

Đợi một thời gian mấy tháng mới xin được anh Hoàng và anh Nam [5] cùng đi đến tổng Xuân Sơn, Cao Bằng để đánh thông xuống phủ Tràng Định thuộc tỉnh Lạng Sơn. Đường đi đến Xuân Sơn phải qua làng Đề Thám, một làng đã theo Việt Minh, nhưng Tây bắt phải rào làng và đêm đến thì phải đóng cổng làng không được mở. Mỗi lần đi đều phải đi đêm và đi qua làng đó, các đồng chí trong làng đã để một chỗ có cột rào có thể nhổ lên được để cán bộ chui vào chui ra khi đi qua làng muốn vào hỏi tin tức hoặc lấy giao thông.
Hôm lên đường đi Xuân Sơn, đồng chí Bác Vọng dặn phải giữ gìn sức khỏe, ở đó người lạ đến thường thì ba bốn ngày là bị sốt rét đấy. Lúc nghe nói tôi không tin, nhưng lúc đến Xuân Sơn được ba ngày thì sốt rét thật, một thứ sốt rét rừng, lúc nổi cơn rét thì phải đắp ba bốn cái chăn cũng cứ run lẩy bẩy, nhưng hết cơn rét thì lại đi lại ăn uống như thường.
Tại Xuân Sơn, tôi ở nhà một cụ già ở làng Rỏng Bó. Cụ có bốn người con: Con trai cả là Kim Hạ, không hoạt động công khai; con thứ hai là Phong Cúc, một chị phụ nữ góa chồng; con thứ ba là Kim Khánh đã có gia đình, và con út là Kim Bôi, một thanh niên mới lớn lên; cả bốn người đều là cán bộ tích cực tham gia cách mạng trong vùng này. Được sự cộng tác tích cực của các đồng chí nên tổ chức Việt Minh được củng cố và phát triển khá nhanh. Ở Xuân Sơn một thời gian độ vài ba tuần lại phải về gặp Tỉnh ủy ở Nhượng Bạn mấy hôm để nắm tình hình, trao đổi ý kiến và cũng để xin thuốc sốt rét, mà các đồng chí phải mua từ Cao Bằng, với phương pháp nhờ nhiều người quần chúng mua rồi góp lại, chứ không dám mua nhiều một lúc sợ bị Tây phát hiện. Thuốc sốt rét lúc đó chủ yếu là ki-nin, mỗi lúc xin được nhiều là vài chục viên, ít là được mươi viên, cho nên khi sốt rét chỉ dùng mấy viên, hết sốt rét rồi là thôi, phải để dành không dám dùng nữa.
Đầu năm 1944, Tỉnh ủy phái thêm một số cán bộ và đồng chí Đàm Minh Viễn lấy tên là Kỹ Sư là một người có năng lực và rất xông xáo, nên công việc Nam tiến phát triển khá nhanh. Chỉ một thời gian thì các tổ chức Việt Minh ở Xuân Sơn được củng cố và phát triển nhanh đến các vùng thuộc châu Thạch An, như Bốc Thượng, Nà Ngòa, Nà Đoỏng, Nà Kể, Nà Mu, Nà Cọn, Nặm Tàn, giáp với Cao Môn, Bắc Khê thuộc tỉnh Lạng Sơn. Ở các nơi này đã mở được độ mười lớp huấn luyện, cũng như ở Đào Ngạn và Nhượng Bạn, mỗi lớp độ mười hai đến hai mươi người, thời gian trên dưới mười ngày, và cách thức cũng huấn luyện giống như trước.
Thời gian ở châu Thạch An thấy quần chúng có một kiểu hát đặc biệt là “lượn sương”, những bài hát đều là kiểu thơ Đường bốn câu ba vần. Có lẽ trước kia do một ông đồ nho nào đấy đã dùng kiểu thơ Đường đặt ra các bài hát bằng tiếng Tày, và phổ biến khá rộng rãi. Để đáp ứng sự đòi hỏi của cách mạng, tôi tuy không phải là một người hát giỏi, nhưng cũng cố gắng dạy cho đám thanh niên nam nữ những bài vè, bài hát tiếng Tày trước kia và đặt một số bài “lượn sương” để phổ biến trong quần chúng. Bài Phuổi chuyện nước Nam [6] đăng ở tập thơ Một đôi vần là bài “lượn sương” làm trong thời gian này.
Vào khoảng cuối năm 1943 đầu năm 1944, đế quốc Pháp khủng bố ráo riết. Ở Xuân Sơn có khi đã phải làm lán ở trong một khu rừng, gần đám rẫy của đồng chí Kim Khánh, các đồng chí thường đưa gạo muối đến và báo cáo tình hình địa phương, chỉ thỉnh thoảng mới đi vào làng tiếp xúc với quần chúng. Lúc về Nhượng Bạn cũng ở hẳn trong hang núi. Lúc này phần đông cán bộ Cao Bằng đều phải thoát ly gia đình làm lán trại ở rừng núi, chứ không ở trong nhà trong làng. Cán bộ thoát ly nhiều như vậy, Tây cũng hoảng, bèn bảo lão tuần Bách, tuần phủ Cao Bằng triệu tập bọn tổng lý lại bày cách dụ dỗ cán bộ ra đầu thú. Một cán bộ thiếu cảnh giác, đã chủ trương cho cán bộ ra đầu thú để “tiện cho công tác”. Đấu tranh với khuynh hướng này, tôi đã làm bài thơ Mẹo quan và bài thơ Chống khủng bố đăng lên báo Việt lập để sửa chữa lại tình trạng hữu khuynh đó.
Bài Mẹo quan có câu:
Người cách mạng đã ra cứu nước,
Phải khăng khăng sau trước một lòng,
Mẹo quan lừa dắt vào tròng,
Người cách mạng quyết là không mắc lừa.

Bài chống khủng bố có câu:
Chó chạy đã cùng đường,
Quay cổ lại cắn sủa.
Tây, Nhật đã cùng đường,
Phải già tay khủng bố.
…………………………
Chúng ta cứ vững lòng,
Cùng nhau chống khủng bố.
Rồi đây đánh Nhật, Tây,
Nhật, Tây nhất định đổ.




[1]ở Thái-lan từ 1928 – 1935, ở Trung Quốc 1935 - 1942
[2]anh ruột của Đại Hoa
[3]tuần phủ
[4]tri châu
[5]cả hai đều đã từ trần từ mấy năm trước đây
[6]Nói chuyện nước Nam
II. Tiến xuống Lạng Sơn
Mặc dù Tây, Nhật khủng bố ráo riết, nhưng việc tiến xuống Lạng Sơn là một nhiệm vụ chiến lược nhất định phải thực hiện cho bằng được. Nguyên kế hoạch trước là tiến về phía Cao Môn, Bắc Khê, nhưng một hôm, ở một con suối gần Cao Môn, hai đồng chí cán bộ xuống suối tắm, đã để súng và áo quần trên bờ suối, bị bọn lính dõng Cao Môn đi tuần trông thấy từ đường xa, về báo cáo với châu đoàn Thể ở Cao Môn, châu đoàn Thể bắt lĩnh dõng phải canh gác suốt ngày đêm ở dọc biên giới Cao-Lạng. Thế là kế hoạch đánh thông vào Cao Môn, Bắc Khê phải ngừng lại.
Vào khoảng tháng 5-1944, khi về Nhượng Bạn được đọc bài thơ của Bác viết trên một tờ báo Quảng Tây, do Trần Bảo Thương chuyển đến, và nhắn cho biết là Bác đã được khôi phục tự do.
Nguyên thơ bằng chữ Hán, có bốn câu:
Vân ủng trùng sơn, sơn ủng vân,
Giang tâm như kính tĩnh vô trần.
Bồi hồi độc bộ Tây phong lĩnh,
Giao vọng nam thiên ức cố nhân.

Tạm dịch:
Mây núi chen nhau cảnh trập trùng,
Lòng sông như một tấm gương trong.
Một mình dạo bước Tây phong lĩnh,
Bạn cũ trời Nam những nhớ trông.

Tuy Trần Bảo Thương đã nhắn cho biết là Bác được tự do, nhưng tôi vẫn cố suy nghĩ từng chữ từng câu trong thơ, để tìm hiểu ý tứ thật của nó. Tôi nghĩ: Mây núi chen nhau là nói ý cuộc đấu tranh cực kỳ phức tạp; lòng sông gương sáng là nói ý cách mạng vẫn dào dạt như nước ở dòng sông, và vẫn được vẹn toàn trong sáng; bồi hồi dạo bước bên núi Tây Phong rõ ràng là ý nói Bác đã được tự do; nhớ bạn cũ trời Nam là ý nói Bác muốn về nước. Tôi nghĩ như vậy, và nói ý nghĩ đó với các đồng chí Bác Vọng, Vũ Anh, đồng thời xin thêm mấy chục viên ki-nin để chuẩn bị đi Lạng Sơn. Chúng tôi quyết định chuyến đi này không tiến về Cao Môn, mà đi đường Keo Quí, tiến về Tràng Định, mặc dù đi con đường này phải trèo đèo lội suối rất khó khăn, và có một vài chỗ có bọn tay sai đắc lực của Pháp cản trở, như ở Nà Mèng, Nà Cạo. Nhưng chúng tôi vẫn cố gắng vượt qua, đến Tà Lừa rồi đến thẳng Thất Khê, một nơi đã có cơ sở từ trước, lúc đồng chí Hoàng Văn Thụ hoạt động ở đó.
Đến Thất Khê, chúng tôi thường ở nhà đồng chí Hoàng Minh Xương ở Bản Chang, đồng chí Trần Đức Hinh ở Toỏng Cọt, từ đó củng cố các nơi đã có cơ sở và phát triển thêm các nơi ở những vùng chung quanh. Trong khi củng cố và phát triển, chúng tôi được sự hợp tác đắc lực của những đồng chí đã biết nhau từ lúc ở lớp huấn luyện bộc phá ở Tịnh Tây như đồng chí Như Ý, đồng chí Lâm, đồng chí Khai Lạc; một số đồng chí đã tham gia Đại hội thành lập Hội giải phóng từ năm 1941 ở Tịnh tây như đồng chí Bế Hà Kinh; và một số đồng chí khác đã gặp nhau ở Long Châu như đồng chí Bế Chấn Hưng, đồng chí Hoàng Văn Kiều; các đồng chí này đều là những người đã được phổ biến đường lối Việt Minh và thông thuộc tình hình địa phương.
Trong mấy năm qua, mặc dù ở Lạng Sơn bị khủng bố nặng, nhưng các đồng chí này đã khôn khéo hoạt động giữ cơ sở và phát triển thêm nhiều. Một số đồng chí đã đánh thông Nà Nhàn, Nà Voài, Nà Cà, thuộc Cao Bằng; Pác Xiếc, Tà Lừa, thuộc Lạng Sơn. Thế con đường xuống Thất Khê đã thông suốt.
Những nơi kể trên tuy đã có tổ chức Việt Minh nhưng chưa rộng khắp, đường qua Keo Quí xuống vẫn phải đi đêm. Keo Quí là một khu rừng cây cối um tùm, các bản dọc đường đi từ bản này đến bản kia phải lội suối, thường người ta đi đêm là phải thắp đuốc, nhưng mình không dám thắm đuốc, phải bắt một ít đom đóm gói vào trong khăn mùi xoa, đeo ở sau cổ người đi trước để cho người đi sau thấy mà đi theo. Có khi qua suối gặp những chỗ khúc khuỷu khó đi thì phải vịn vào người giao thông mà đi, có những bước gồ ghề đặc biệt thì người đi trước phải đưa chân người đi sau đặt vào chỗ bước chắc chắn thì mới bước qua được.
Ở vùng Cao Môn, các đồng chí Đường Văn Thức, Trần Văn Liêm cũng đã nắm được các vùng Khau Chang, Khuổi Nháo, Khuổi Hải Tậu, Khuổi Thó, Khuổi Chăn, Khuổi Phầy, đồng chí Toàn và một số người khác cũng đã gây được cơ sở ở một số nơi.
Ở Thất Khê một thời gian, chúng tôi còn tổ chức được các anh xếp và cai người Việt trong đồn Thất Khê. Xếp Ân quê ở Nghệ An, cai Đài quê ở Cao Bằng là người liên lạc mật thiết. Chúng tôi đã nói chuyện nhiều với anh hai về tình thế cách mạng, đã mời hai anh đến ăn cơm ở nhà đồng chí Trần Đức Hinh, và đã có thể đi thẳng vào chỗ nhà ở của vợ con các anh ấy mà vẫn được an toàn.
Các anh xếp Ân và cai Đài nghị chúng tôi lấy đồn Thất Khê bằng cách nửa đêm đột nhập vào đồn [1] , các anh ấy sẽ phối hợp đưa đi bắt tên đồn trưởng người Pháp ở tại phòng ngủ, rồi các anh ấy sẽ hạ lệnh cho lính chuyển súng ống đạn dược ra chỗ căn cứ của ta.
Theo các anh ấy thì hầu hết người Việt ở trong đồn đều muốn theo Việt Minh và sẵn sàng hợp tác với các anh ấy làm việc đó.
Nói thì giản đơn như vậy, nhưng chúng tôi phải tính toán kỹ trước khi khởi sự. Anh Đàm Minh Viễn phải về Cao Bằng để xin Tỉnh ủy một số đạn tốt, vì chúng tôi tuy mối người đều có một khẩu súng bát [2] để hộ thân, nhưng có lần ban đêm gặp lính dõng phải bắn súng thì đạn thối không nổ. Còn tôi thì đi Bố Cục thuộc Long Châu Trung Quốc để liên hệ với quần chúng; phòng trường hợp lấy được đồn rồi, Tây đưa lực lượng các nơi đến phản công, thì phải chuyển bộ đội sang đấy. Bồ Cục là nơi mà năm 1940 khi anh Chu Văn Tấn khởi nghĩa Bắc Sơn thất bại đã đưa một số bộ đội đến tạm nương náu ở đó, và cũng là nơi mà năm 1941 khi tôi đến lập Biện sự xứ Việt Minh ở Long Châu cũng thường đi lại để liên hệ với quần chúng địa phương và anh em trong nước. Quần chúng Bố Cục giác ngộ cách mạng cao, họ xem cách mạng Việt Nam cũng như cách mạng của mình nên khi nghe tôi nói ý định muốn lấy Thất Khê thì họ trả lời ngay, nếu ở Việt Nam gặp khó khăn phải qua đây hàng trăm người chúng tôi cũng có thể giúp đỡ được.
Tuy được quần chúng Bố Cục sẵn sàng làm hậu viện cho việc chiếm đồn Thất Khê, nhưng thực ra thì điều kiện chủ quan và khách quan vẫn chưa thật chín muồi. Tôi nghĩ cần đi Tịnh Tây một chuyến gặp Trần Bảo Thương để nối lại mối quan hệ và cũng để tìm hiểu thêm tin tức về Bác. Nghĩ vậy, tôi liền viết một bức điện nhờ người đưa đến Sở bưu chính Long Châu đánh cho Trương Phát Khuê, đại ý nói: Tôi muốn đi đến Tịnh Tây gặp Chủ nhiệm Trần Bảo Thương, mong được sự đồng ý của Trưởng quan.
Hai hôm sau Trương Phát Khuê trả lời “đồng ý”. Tôi dùng bức điện trả lời này như là giấy thông hành đi qua con đường cũ trên đất Trung Quốc: Bố Cục, Long Châu, Khô Cạp, Bảo Hy, Thạc Long, Hạ Lôi, Hóa Động, Tịnh Tây, rồi qua Dường Lầu, Cột Mà về Pác Bó. Đi đường này tuy xa nhưng an toàn hơn và cũng để nhìn lại cái cảnh cũ dã từng quen thuộc trước đây gần hai năm kể từ tháng 8-1942 tôi rời Tịnh Tây về nước.
Đầu tháng 7-1944, tôi lên đường. Khi đến Tịnh Tây, tôi vào Chỉ huy sở của Trần Bảo Thương, ông ta lại vồn vã tiếp đón chuyện trò thân mật, và thết một bữa tiệc rất sang. Trong bữa tiệc, Trần Bảo Thương hỏi nhiều về tình hình Nhật, Pháp và tình hình phát triển của cách mạng Việt Nam. Tôi nói ở Việt Nam ngày nay không phải là người Pháp làm chủ, mà thật sự là người Nhật. Người Pháp cũng vẫn muốn chống Nhật, nhưng họ lại thẳng tay khủng bố đối với các lực lượng Việt Nam chống Nhật. Vì vậy, chủ trương của chúng tôi là phải chống cả Pháp, cả Nhật. Với chủ trương chống Pháp, chống Nhật, các đoàn thể cách mạng đều phát triển rất sâu rộng.
Nói xong tình hình Việt Nam, câu chuyện chuyển sang bài thơ của Hồ Chủ tịch. Trần Bảo Thương hỏi, trước đây tôi cỏ gửi một tờ báo Quảng Tây trong đó có bài thơ viết tay của đồng chí Hồ Chí Minh, chắc anh có được xem. Tôi trả lời: Vâng, tôi có được xem và được đọc cả bài họa của Chủ nhiệm nữa, tôi đang định viết bài thơ của tôi để trình Chủ nhiệm, đồng thời nhờ Chủ nhiệm chuyển đến Liễu Châu cho đồng chí Hồ Chí Minh. Bài thơ như sau:
Bích không vị tảo tận nùng vân,
Nam vãn thiên hà tẩy khát trần,
Thanh khí tương cầu chung hữu ứng,
Đoạn kim tần mộng kiến giai nhân.

Tạm dịch:
Trời xanh chưa quét sạch mây vần,
Khó kéo sông Ngân rửa bụi trần.
Thanh khí đã cầu thì phải ứng,
Chia vàng luôn mộng thấy giai nhân.

Chia vàng luôn mộng thấy giai nhân, đối với Hồ Chủ tịch là có ý nói luôn luôn mong ước được sự chỉ giáo của Bác, mà đối với Trần Bảo Thương là có ý nói luôn luôn mong được sự giúp đỡ. Hai chữ “chia vàng” là lấy ý ở câu “nhị nhân đồng tâm kỳ lợi đoạn kim” trong sách cổ của Trung Quốc, nghĩa là hai người cùng một lòng, lợi ích như chia vàng cho nhau. Nghe tôi đọc xong, Trần Bảo Thương khen hay và bảo người đưa bút giấy ra để tôi ghi lại.
Trần Bảo Thương còn cho biết, đồng chí Hồ Chí Minh hiện nay đã được hoàn toàn tự do, đang chuẩn bị, có lẽ không lâu cũng sẽ về nước đấy.
Cuộc gặp Trần Bảo Thương như vậy là rất tốt.
Ngày hôm sau tôi lên đường về nước, lại vẫn qua Dường Lầu nghỉ một đêm, rồi hôm sau đi thẳng đến Pác Bó, chỉ ở nhà Đại Hoa vài hôm rồi đi Nhượng Bạn.
Hồi này Cao Bằng đang bị khủng bố riết, tôi vẫn ở Lũng Voài, nhưng không ở nhà ông Lén như trước, mà phải ở một cái lán ở trên núi đá, thỉnh thoảng mới xuống dưới làng hoạt động. Một thời gian sau gặp anh Vũ Anh, được biết Bác đã về nước và đã phê phán chủ trương phát động chiến tranh du kích mà Hội nghị Cao- Bắc-Lạng vẫn còn ghìm lại chưa giải quyết.
Nguyên trước đây vào khoảng tháng 5-1944, tôi về Lam Sơn gặp Tỉnh ủy Cao Bằng thì cũng gặp cả anh Đồng, anh Giáp và anh Vũ Anh. Anh Giáp dự thảo ra một văn bản như một cương lĩnh hành động để đưa Tỉnh uỷ thảo luận. Trong đó chủ trương phát động chiến tranh du kích ở Cao-Bắc-Lạng và một số ý kiến cụ thể về việc tổ chức các đội du kích. Tôi xem văn bản này thấy rằng chủ trương phát động chiến tranh du kích là không đúng, vì có hai điều kiện chưa được giải quyết. Một là chưa có liên lạc quốc tế [3] . Hai là sự liên lạc Bắc-Trung-Nam chưa được thông suốt. Nếu phát động chiến tranh du kích thì sẽ gặp nhiều khó khăn, sẽ bị cô lập. Cố nhiên trong lúc này nơi nào có thể tổ chức đội du kích thì ta vẫn cần tổ chức để luyện tập và lúc cần vẫn có thể đánh du kích.
Anh Giáp nói, đã tán thành việc tổ chức đội du kích thì phải tán thành chủ trương chung là phát động chiến tranh du kích, vì hai việc là gắn chặt với nhau. Chủ trương của anh Giáp được anh Đồng ủng hộ. Tôi lý luận mãi hai anh vẫn không nghe. Sau tôi chỉ dặn anh Vũ Anh phải giải thích để các đồng chí Tỉnh ủy thấy rõ rằng với tình thế hiện nay, đặt vấn đề phát động chiến tranh du kích là không thực tế.
Tháng 7-1944, Hội nghị Cao-Bắc-Lạng họp [4] . Vấn đề phát động chiến tranh du kích được thảo luận sôi nổi. Anh Vũ Anh trình bày chủ trương này là chưa nên, nhiều đồng chí trong hội nghị đều phân vân, cuối cùng hội nghị quyết định hãy tạm gác lại để nghiên cứu thêm. Thế là vấn đề phát động chiến tranh du kích không biểu quyết [5] . Đi đôi với vấn đề phát động chiến tranh du kích, còn có vấn đề thành lập Quân giải phóng. Vấn đề này cũng không có quyết định của Hội nghị Cao-Bắc-Lạng nhưng anh Giáp cứ làm, anh Vũ Anh lấy danh nghĩa ủy viên Trung ương tuyên bố giải tán.
Trong khi đang đấu tranh găng, thì Bác từ Trung Quốc về.
Bác giải thích:

  1. Về vấn đề chủ trương phát động chiến tranh du kích ngay là không đúng, vì với điều kiện hiện nay, nếu phát động chiến tranh du kích thì sẽ gặp nhiều khó khăn không thể giải quyết được. Chỉ nói về mặt quân sự thì cán bộ và vũ khí cũng chưa đủ, chưa có một lực lượng mạnh.

  2. Về vấn đề Quân giải phóng, Bác nói là chưa đến lúc lấy tên là Quân giải phóng mà chỉ nên lấy tên là Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, tính chất của nó là chính trị trọng hơn quân sự. Nó là đội vũ trang tuyên truyền. Đồng thời đối với việc anh Vũ Anh tuyên bố giải tán, Bác cũng phê bình là một việc làm chưa cân nhắc cẩn thận.

Biết rõ ý kiến của Bác, trong lòng tôi như trút được gánh nặng, rất phấn khởi và tin tưởng rằng chủ trương lớn và đại cục đã có Bác làm rường cột, không phải lo nữa. Chỉ cố gắng làm tốt công việc cụ thể trong phận sự của mình.

*

Cao Bằng đang bị khủng bố nặng. Ở Đông Khê, những nơi mới có tổ chức Việt Minh, quần chúng có vẻ sợ sệt. Thí dụ một hôm anh Hoàng, anh Nam và tôi đi tới một nhà quần chúng cơ sở vào khoảng mười giờ đêm, chủ nhà nói trong nhà có người lạ không nên vào, hãy cử tạm ở ngoài lán ở đồng ruộng, để người lạ đi rồi sẽ vào. Chúng tôi biết đây chỉ là một cách từ chối khéo chứ làm gì có người lạ trong nhà. Chúng tôi nói, nếu đúng là người lạ chưa hiểu rõ ra sao thì để chúng tôi lấy tư cách là hào lý địa phương đến xét hỏi. Chủ nhà nói, các đồng chí không cần xét hỏi, bây giờ hãy mời các đồng chí tạm ở trên gác chuồng trâu bên cạnh nhà, đến sáng tôi bảo người lạ đi đi, rồi các đồng chí sẽ vào nhà. Tiếp đó, hôm sau chúng tôi đến một nhà ở gần Nặm Tàn, quần chúng đón tiếp rất thân mật, nhưng cho chúng tôi biết trong làng có ông thầy mo khuyên đừng để các đồng chí ở trong làng. Chúng tôi đề nghị mời ông thầy mo đến nói chuyện. Sau khi nghe giải thích mọi lẽ cho ông thầy mo và cho cả quần chúng nghe, thì họ thấy sự lo sợ là không cần thiết. Ông thầy mo chẳng những đồng ý để chúng tôi ở trong làng mà còn mời chúng tôi đến ở ngay nhà ông ta. Sau khi nghe giảng giải về cách chống khủng bố, chẳng những quần chúng mới được tổ chức đều yên tâm, mà chúng tôi còn phát triển thêm nhiều làng ở vùng Nà Cốc, Khuổi Hoỏng, tổ chức được ba lớp huấn luyện và bồi dưỡng được thêm một số cán bộ mới.
Trong khi chúng tôi đang chỉnh đốn công tác ở vùng Đông Khê thì Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945). Bộ máy thống trị của Pháp hoàn toàn tan rã, chỉ một số rất ít hào lý và xã đoàn vẫn mù quáng chống Việt Minh, còn nữa thì tỏ ý muốn theo Việt Minh hoặc biết Việt Minh hoạt động cũng làm ngơ. Nắm cơ hội, chúng tôi hoạt động mạnh, cứ mang súng ống đi công khai ban ngày từ làng này đến làng khác. Chúng tôi đi đến đâu đều mở những cuộc mít tinh lớn để nâng cao khí thế cách mạng của quần chúng và đè bẹp sự hung hăng của một số tên phản động mù quáng.
Hoạt động xong ở Đông Khê, chúng tôi trở lại Xuân Sơn cũng mở mấy cuộc mít tinh lớn như vậy, rồi mới đi về Nhượng Bạn gặp đồng chí Bác Vọng. Vừa khéo lúc đó lại gặp Bác từ Pác Bó trên đường đi về cùng xuôi, tôi cũng cùng đi với Bác một chặng đường. Trong khi đi đường Bác vẫn lên cơn sốt, anh Phạm Việt Tử tiêm ki-nin thẳng vào mạch máu cho Bác, anh nói tiêm như thế mau lành, tôi chẳng hiểu gì về thuốc cũng tin như thế là đúng. Đến năm 1946 công tác ở Khu bốn, tôi bị sốt rét, anh y tá cũng tiêm ki-nin thẳng vào mạch máu cho tôi. Vừa rút kim ra thì tôi ngất xỉu đi, tự cảm thấy mình không thể sống, may được các đồng chí xung quanh lấy nước nóng chườm cho một hồi lâu mới tỉnh lại bình thường. Sau hỏi thầy thuốc được giải thích rằng tiêm ki-nin vào mạch máu là rất nguy hiểm. Bây giờ mới biết trước kia anh Phạm Việt tử tiêm cho Bác mà không xảy ra việc gì, chẳng những may cho Bác, mà cũng là may cho cả dân tộc.
Đi cùng đường với Bác được một hôm thì chia tay, Bác đi về phía Tuyên Quang, tôi đi về phía Đông Khê xuống Lạng Sơn.
Chuyến này tôi đi Lạng Sơn có được thêm một số cán bộ mới. Anh Phan Bội phụ trách điện đài để liên lạc với Trung ương, anh Đàm Minh Viễn và một số đồng chí nam giới như: Hoàng Điền, Quốc Toản, Bảo An, Đức Vinh, Tân Cương, Tuấn Sơn, và một số phụ nữ như chị Nguyệt Nga [6] , chị Vũ Bào, chị Yến, chị Thuần, chị Ngọc, chị Bích v.v… Với một số cán bộ mới này công tác ở Tràng Định lại được đẩy mạnh.

*

Sau cuộc đảo chính, quân Pháp tuy đã tan rã nhưng ở Tràng Định không phải mọi sự đều dễ dàng, có nơi còn có một số tên phản động ngoan cố vẫn cương quyết đối lập với cách mạng, và canh phòng rất nghiêm ngặt. Chỉ sau khi tước vũ khí và giải quyết được tên lý trưởng ở Nà Cạo rồi viết thư bắt anh phó lý ở Lủng Bó nộp năm khẩu súng, và đưa bộ đội đi bắt tên phó lý Khen ở Bình Quân, vì tên này trước kia đã chặt đầu anh giáo Lợi nộp cho Tây để lấy mấy chục cân muối, bây giờ vẫn ngoan cố chống Việt Minh. Từ đó thế lực phản động mới rụt cổ lại, quần chúng mới hết lo ngại và hăng hái theo Việt Minh.
Một việc cũng ảnh hưởng khá quan trọng đến tình hình là thổ phỉ từ phía Trung Quốc, nhân khi Pháp đổ, Nhật chưa lập được trật tự vững vàng, cũng nhảy vào quấy rối, cướp trâu bò, bắt phụ nữ, làm cho dân chúng rất lo sợ, chưa tin rằng Việt Minh có thể bảo vệ được an ninh cho mình. Chúng tôi phải tổ chức việc đánh thổ phỉ, đánh được mấy chuyến làm cho thổ phỉ không dám quấy nhiễu nữa thì dân chúng mới tin, bọn châu đoàn và xã đoàn các địa phương mới tự nguyện nghe theo sự chỉ huy của cán bộ Việt Minh.
Một việc lớn là cuộc đánh vào đồn Pò Mã, diệt một tên tổng đoàn ngoan cố, treo cờ Việt Minh lên trên đồn, tước vũ khí và tuyên bố quân đội ai theo Việt Minh, ai muốn về quê nhà thì Việt Minh đảm bảo an toàn và giúp đỡ cho về. Việc này làm cho quần chúng rất phục. Nhưng các đồng chí quân sự đã phạm một sai lầm là say sưa với thắng lợi, cứ đóng quân ở trong đồn luôn nhiều ngày. Sau sửa chữa lại, chỉ treo cờ Việt Minh ở đồn, còn lực lượng vũ trang thì tỏa ra các vùng chung quanh để làm công tác tuyên truyền, tổ chức quần chúng. Đồng thời quy định, dù có quân Nhật đền đồn Pò Mã cũng không đánh, để Nhật khỏi khủng bố nhân dân địa phương, còn mình thì bảo toàn lực lượng để chuẩn bị những cuộc tiến công lớn. Quả vậy, lúc quân Nhật kéo đến Pò Mã, thấy đồn bỏ trống, thì chúng cho là Việt Minh dùng “kế không thành” như Khổng Minh ở Trung Quốc trước kia đã làm, nên chỉ quanh quẩn trong đồn một hồi rồi toàn bộ rút lui về Thất Khê.
Qua các việc nói trên, các châu đoàn, xã đoàn đều tỏ ý nghe theo Việt Minh. Nhưng bước đầu, bộ đội chưa nhiều, chúng tôi không bắt họ nộp súng mà chỉ giao hẹn khi nào bộ đội cần thì sẽ lấy.
Một việc quan trọng nữa là ở xã Kim Đồng có một tên cán bộ Việt Minh hủ hóa, cưỡng bức quần chúng phải quyên tiền và công khai ép một chị phụ nữ đã có người yêu phải ăn ở với mình. Việc này ảnh hưởng trong quần chúng rất xấu. Một hôm chúng tôi đưa một trung đội Việt Minh đến, kêu gọi quần chúng họp mít tinh ở một khu rừng để nghe truyền đạt chính sách. Anh cán bộ hủ hóa đó trong lúc đến trước Đài chủ tịch để báo cáo tình hình thì Đoàn chủ tịch hạ lệnh cho quân đội bắt, tước súng và xét người ngay tại chỗ, thấy trong người còn có mấy nghìn bạc. Đoàn chủ tịch hỏi quần chúng được biết đó là số bạc của quần chúng bị ép phải quyên góp, Đoàn chủ tịch liền tuyên bố số bạc ấy trả lại cho những người đã quyên góp, đồng thời xử bắn tại chỗ anh cán bộ đó. Thế là tiếng đồn vang đi khắp nơi. Bộ máy thống trị của Pháp tự giải thể. Việt Minh hoàn toàn làm chủ trên tất cả các mặt. Nhân dân có việc gì khó khăn hoặc có việc gì mâu thuẫn nội bộ cũng tìm hỏi Việt Minh để giải quyết, trên thực tế, một Chính quyền cách mạng đã hình thành, ở nhiều nơi lý trưởng đã nộp triện, xã đoàn và lính dõng đã tự động nộp súng cho Việt Minh.
Bộ đội vũ trang của Việt Minh đã công khai đi lại giữa ban ngày, đi đến đâu bọn phản động đầu sỏ đều chạy trốn hoặc ra xin đầu hàng, còn nhân dân thì được bảo vệ chu đáo, và tổ chức học tập rộn rịp.
Ngoài Tràng Định ra, các anh Chu Văn Tấn, đã đánh thông từ Bắc Sơn lên đến Tân Trào, các anh Khai Lạc, Bế Chấn Hưng, Hoàng Văn Kiều cũng đã giải quyết xong các đồn Nà Sầm, Đồng Đăng, Văn Mịch, Bình Gia, Điểm He, liên hệ với nhau thành một khối. Các đồn Đông Khê, Pắc Boóc ở Cao Bằng cũng đã theo Việt Minh. Thế là con đường Cao Bằng-Lạng Sơn đã hoàn toàn thông suốt. Đội vũ trang tuyên truyền ở Cao Bằng cũng đã kéo xuống Lạng Sơn và phối hợp chặt chẽ với lực lượng vũ trang ở đây. Các sĩ quan Pháp và tri phủ, tri châu đều chạy trốn, các xã đoàn và lính dõng đều theo Việt Minh.
Những thành tích đạt được trong mấy năm của các đồng chí Việt Bắc nói chung cũng như của phần tôi nói riêng là nhờ có chủ trương đường lối đúng đắn vạch ra và sự chỉ giáo về cách làm việc khôn khéo của Hồ Chủ tịch từ trước, mặc dù Người đang bị giam giữ ở Trung Quốc từ tháng 8 năm 1942 mãi cho đến tháng 9 năm 1944 mới về nước trực tiếp nắm việc lãnh đạo.

III. Hồ Chủ Tịch bị bắt ở Trung Quốc và những hoạt động của Người
Việc Hồ Chủ tịch đi Trùng Khánh gặp Tưởng Giới Thạch là một chủ trương chiến lược rất quan trọng, từ trước đến nay rất ít người biết, có người biết ít nhiều thì cũng vì lẽ này hoặc lẽ khác tránh đi không nói, cũng có người lại nói Hồ Chủ tịch đi Trùng Khánh là cốt để gặp Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc chứ không phải dể gặp Tưởng Giới Thạch. Cách suy nghĩ như thế là xuất phát từ chỗ không thấy rõ sự cần thiết của cách mạng Việt Nam trong lúc đó là phải có một vị trí quốc tế, cụ thể là phải có sự quan hệ rõ ràng với Trung Quốc, một nước trong phe Đồng minh chống phát-xít, một nước mà phần lớn đất đai đã bị Nhật chiếm, đang tiến hành cuộc chiến tranh chống Nhật và đang chuẩn bị việc Hoa quân nhập Việt. Hồ Chủ tịch bị bắt ở dọc đường và giam giữ hơn một năm là việc không ngờ, nhưng với một thái độ chính trị dúng đắn và những hành động khôn khéo, ở Liễu Châu Hồ Chủ tịch đã tranh thủ được sự đồng tình của Trương Phát Khuê và Tiêu Văn, được đưa vào Ban Chấp hành của Việt Nam cách mạng đồng minh hội và được đi về qua lại hoàn toàn tự do. Đó chính là điều kiện thuận lợi cho Hồ Chủ tịch về nước lãnh đạo việc chuẩn bị khởi nghĩa trước Cách mạng Tháng Tám, và cũng là điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh giữa Việt Minh-Việt Quốc-Việt Cách sau Cách mạng Tháng Tám mà Việt Minh là kẻ chiến thắng.
Sự việc có thể tóm tắt vào ba điểm như sau:


  • Hồ Chủ tịch bị bắt và cuộc vận động của ta chống việc bắt Hồ Chủ tịch.

  • Hồ Chủ tịch tham gia Việt Nam cách mạng đồng minh hội.

  • Hồ Chủ tịch được tự do về nước.


1. Hồ Chủ tịch bị bắt ở Trung Quốc và cuộc vận động của chúng ta chống việc bắt Hồ Chủ tịch
Việc Hồ Chủ tịch bị bắt ở Trung Quốc cuối năm 1942 là việc chúng ta đã biết, nhưng chỉ biết qua loa. Đến như những hoạt động của Người như thế nào để đạt được kết quả chính trị có lợi cho mình, cho cách mạng thì rất ít người biết. Có người trong lúc đó được biết một đôi chút về Người, khi viết hồi ký lại huênh hoang thêu dệt ra một số tình tiết để tỏ vẻ mình là người biết rõ sự việc, là người được Hồ Chủ tịch tin cậy, dặn dò và giao phó việc này, việc nọ. Thực ra, thời gian ở Liễu Châu khi chưa tham gia Việt Nam cách mạng đồng minh hội, Người chỉ chăm chú rèn luyện thân thể, cặm cụi đọc sách, báo và dịch cuốn Tam dân chủ nghĩa, không nói chuyện chính trị và tiếp xúc với một “nhà chính trị” Việt Nam nào, vì Người cảnh giác đối với các “nhà chính trị” đó. Sau khi tham gia Việt Nam cách mạng đồng minh hội, Người lại rất chan hòa với mọi người, và yêu cầu mọi người phải thật lòng đoàn kết trong mục đích chung là chống Nhật cứu nước. Chính vì thái độ đó mà được Trương Phát Khuê kính nể, tin cậy và cuối cùng để cho được hoàn toàn tự do. Những sự việc cụ thể mà tôi thuật lại trong mục này là đã tham khảo những tài liệu gốc của Quốc dân đảng Trung Quốc trong lúc đó mà gần đây mới sưu tầm được, để chứng minh sự thật một cách rõ ràng, chắc chắn hơn.
Sự thật là sau hơn một năm lãnh đạo công tác ở Cao Bằng, Việt Minh đã phát triển rộng khắp trên các tỉnh Việt Bắc, cuộc chiến tranh chống phát-xít trên thế giới cũng phát triển nhanh chóng, Hồ Chủ tịch thấy cần phải đi Trùng Khánh gặp Tưởng Giới Thạch và bà Tống Khánh Linh, Chủ tịch Phân hội phản xâm lược đồng minh Trung Quốc để đặt mối quan hệ chính thức với phía Trung Quốc, một trong năm nước lớn Đồng minh chống Phát-xít.
Ngày 20-8-1942, anh Lê Quảng Ba đưa Bác đi từ Pác Bó đến biên giới Trung Quốc, rồi xếp đặt một đồng chí Trung Quốc đưa Bác đi, còn anh thì lại trở về nước. Khi đến phố Túc Vinh thuộc chuyên khu Thiên Bảo tỉnh Quảng Tây thì Bác bị bắt.
Bác đi Trùng Khánh với danh nghĩa là đại biểu Phân hội phản xâm lược đồng minh Việt Nam đi gặp Tưởng Ủy viên trưởng để tỏ tòng tôn kính và gặp người phụ trách Phân hội phản xâm lược đồng minh Trung Quốc để thương lượng công việc chống Nhật. Với danh nghĩa như vậy, đáng lẽ nước Trung Quốc đang chống Nhật thì phải tiếp đãi thân mật và hết sức giúp đỡ; nhưng trái lại, đương cục địa phương lại lấy cớ giầy tờ không hợp lệ, tùy tiện bắt giải đi như một người tù mà chẳng cần xét hỏi gì cả.
Việc Bác bị bắt ở Túc Vinh ta chưa biết ngay, mãi đến cuối tháng 10-1942, quần chúng Trung Quốc nhắn cho biết, thì Tỉnh ủy Cao Bằng mới quyết định một mặt vận động các đoàn thể quần chúng và kiều bào hải ngoại liên danh viết thư đòi phía Trung Quốc phải tha ngay nhà cách mạng lão thành Việt Nam đang lãnh đạo phong trào chống Nhật; một mặt phái anh Hoàng Đình Ròng [7] đến biên giới lấy danh nghĩa Phân hội phản xâm lược đồng minh Việt Nam đánh điện cho Tôn Khoa, Viện trưởng Viện Lập pháp Trung Quốc yêu cầu tha ngay Hồ Chủ tịch. Bức điện bằng chữ Hán, nội dung như sau:
Kỉnh gửi Tôn Viện trưởng: Đại biểu của Hội chúng tôi là Hồ Chí Minh đi Trùng Khánh để dâng cờ tỏ lòng kính trọng đối với Tưởng Ủy viên trưởng, khi đi qua Tịnh Tây thì bị bắt, kính xin Ngài điện cho địa phương tha ngay.
Tôn Khoa nhận được điện liền chuyển ngay cho Ngô Thiết Thành, Bí thư trưởng Ban Chấp hành Trung ương Quốc dân đảng Trung Quốc. Ngày 9 tháng 11, Ngô Thiết Thành điện cho Chính phủ Quảng Tây và Trương Phát Khuê bảo phải xét rõ và thả ngay. Nhưng lúc đó Bác còn bị giải đi trên quãng đường Đồng Chính – Nam Ninh, nên Chính phủ Quảng Tây và Trương Phát Khuê vẫn chưa tìm ra manh mối.
Vào khoảng trung tuần tháng 11-1942, tôi đến Nhượng Bạn gặp các anh Vũ Anh, Bác Vọng, Phạm Văn Đồng đưa vấn đề ra bàn thì thấy rằng chỉ viết thư và đánh điện cho nhà đương cục Trung Quốc chắc không có kết quả, cần phải gây thành một dư luận quốc tế thì mới có sức ép với Quốc dân đảng Trung Quốc. Chúng tôi quyết định viết thư cho các hãng thông tấn lớn trên thế giới. Bức thư gửi cho Trung ương Thông tấn xã Trung Quốc tôi viết bằng chữ Hán; bức thư gửi cho các hãng TASS Liên Xô, UPI Mỹ, Roi-tơ Anh và AFP Pháp thì anh Đồng viết bằng chữ Pháp. Nội dung bức thư như sau:
“Tiền tuyến Trung – Việt ngày 15-11-1942,
“Gần đây giữa cách mạng Việt Nam với đương cục Trung Quốc phát sinh một sự hiểu lầm rất nghiêm trọng. Đồng chí cách mạng Hồ Chí Minh đại biểu Phân hội phản xâm lược đồng minh Việt Nam đi Trùng Khánh để dâng cờ tỏ lòng kính trọng đối với Tưởng Ủy viên trưởng và để bàn công việc với Phân hội phản xâm lược đồng minh Trung Quốc. Ngày 2 tháng 9 đi đến quãng đường giữa Tịnh Tây và Thiên Bảo bị đương cục địa phương tùy tiện bắt với lý do là giấy thông hành không hợp lệ.
“Phân hội phản xâm lược đồng minh Việt Nam, do sự hoạt động của đồng chí Hồ Chí Minh, được thành lập từ năm 1941 bao gồm nhiều đoàn thể như Thanh niên, Phụ nữ, Nông dân với hơn hai mươi vạn hội viên phân bố khắp cả nước, từ Nam kỳ, Trung kỳ cho đến Bắc kỳ.
“Đồng chí Hồ Chí Minh là người có uy tín lớn và rất trọng yếu của Phân hội phản xâm lược đồng minh Việt Nam, nay bị bắt ở Trung Quốc, đã gây nên một sự bất mãn lớn của những người cách mạng Việt Nam đối với Trung Quốc. Gần đây nhiều đoàn thể nhân dân Việt Nam đã gửi thư tới Trùng Khánh nói rõ vấn đề, nhưng cho đến nay đồng chí Hồ Chí Minh vẫn bị giam giữ. Đề nghị quý Thông tấn xã vận động đương cục Trung Quốc tha ngay đồng chí Hồ Chí Minh.
“Bức điện này nếu quý Thông tấn xã thấy cần thì có thể công bố.”
Khi các thông tấn xã ở Trùng Khánh nhận được bức thư này thì Hồ Chủ tịch đã bị giải đến Quế Lâm, nhưng qua một thời gian mấy tháng, Quế Lâm vẫn không điều tra ra manh mối, nên lại giải về cho Quân khu bốn ở Liễu Châu để Quân khu bốn xử lý. Quân khu bốn coi Hồ Chủ tịch là một người tình nghi chính trị, giữ lại chỗ giam giữ quân nhân, nhưng cung cấp cho ăn uống đầy đủ, được đọc sách bào và không bắt phải làm khổ công. Tháng 7- 1943, Quân khu bốn quan sát biết là một nhân vật hoạt động quốc tế, Trương Phát Khuê liền chuyển về Bộ chính trị Quân khu và giao cho tướng Hầu Chí Minh, phụ trách việc “cảm hóa”.
Đối với Hồ Chủ tịch, Hầu Chí Minh tỏ vẻ kính nể, thường ngồi cùng ăn uống và trò chuyện rất bình đẳng, nhưng tìm hiểu về thân phận thì Hồ Chủ tịch cự tuyệt không trả lời. Sau do sự phát giác của nội tuyến [8] thì mới biết rõ Hồ Chí Minh là Lý Thụy, là Nguyễn Ái Quốc, là Hoàng Quốc Tuấn, là lãnh tụ cộng sản và lãnh tụ Việt Minh.
Tên phản Đảng Trần Báo mách cho đương cục biết rõ lai lịch của Bác, mục đích là cốt để cho Bác mất hẳn tự do hoặc bị giết hại thì hắn mới có thể đứng vững. Nhưng không ngờ sau khi biết rõ thân phận của Bác, Trương Phát Khuê lại càng kính nể và ưu đãi hơn trước. Trong bản báo cáo của Trương Phát Khuê gửi Trung ương Quốc dân đảng hồi tháng 1-1944 có đoạn nói: “Hồ Chí Minh từ lúc dời đến Bộ chính trị Quân khu vẫn được ưu đãi và được cảm hóa với một thái độ kính nể. Lúc đó Trương Phát Khuê đã có ý định tha Hồ Chủ tịch về Việt Nam. Về việc này, bọn phái viên của Tưởng ở Liễu Châu tỏ vẻ rất bực tức, nhưng Trương Phát Khuê vẫn không thay đổi thái độ.

2. Hồ Chủ tịch tham gia Việt Nam cách mạng đồng minh hội
Như ở phần thứ ba đã nói, Quân khu bốn định lập Hội phản xâm lược đồng minh Việt Nam làm cơ quan lãnh đạo cách mạng Việt Nam, lấy Việt Bắc làm căn cứ, lấy chủ nghĩa tam dân làm cơ sở dựng nước và lập Chính phủ lâm thời Việt Nam để phục vụ việc cho Hoa quân nhập Việt, là những chủ trương không hợp lý mà chúng ta nhân danh Việt Minh đã chỉ vạch ra, Quân khu bốn phải gác lại không bàn chuyện lập Hội phản xâm lược đồng minh nữa. Sau khi hai người Việt Nam Quốc dân đảng là Vũ Hồng Khanh và Nghiêm Kế Tổ, được Trùng Khánh làm hậu thuẫn, từ Côn Minh đến Liễu Châu thì Quân khu bốn chuyển hướng, chuẩn bị thành lập Việt Nam cách mạng đồng minh hội với ý định hoàn toàn gạt Việt Minh ra ngoài.
Ngày 1-10-1942, Đại hội thành lập Việt Nam cách mạng đồng minh hội [9] chính thức khai mạc ở Liễu Châu. Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Trung ương gồm bảy người là: Trương Bội Công, Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ, Trần Báo, Nông Kinh Du, Trương Trung Phụng; mà ủy viên thường vụ là Trương Bội Công, Nguyên Hải Thần, Vũ Hồng Khanh. Xem danh sách thì Trương Bội Công, Nguyễn Hải Thần có địa vị cao, sự thực thì Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ là người của Trùng Khánh nắm ưu thế.
Mong Việt Cách sẽ trở thành một công cụ đắc lực cho việc Hoa quân nhập Việt, Trương Phát Khuê bổ nhiệm Hầu Chí Minh làm Chủ nhiệm Bộ chính trị Quân khu kiêm chức “Đại biểu chỉ đạo Việt Nam cách mạng đống minh hội”.
Ngày 1-9-1943, Hầu Chí Minh định triệu tập một cuộc Đại hội Việt Cách để bàn bạc việc chỉnh đốn nội bộ, nhưng rồi Trương Bội Công, Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Nông Kinh Du vẫn mỗi người một phách, vẫn ngấm ngầm tranh giành, chèn ép nhau nên cuộc họp không thực hiện được, mãi đến cuối năm 1943, tình hình Việt Cách vẫn như cũ chẳng có gì thay đổi.
Trương Phát Khuê thấy rõ Hầu Chí Minh là bất lực, bèn tự mình đứng ra trực tiếp nắm lấy quyền chỉ đạo, đồng thời chỉ định tướng Tiêu Văn làm phó. Một văn phòng của Đại biểu chỉ đạo được thành lập do Tiêu Văn làm Chủ nhiệm.
Tiêu Văn trao đổi ý kiến với Hồ Chủ tịch về việc muốn triệu tập một cuộc đại hội để chỉnh đốn Việt Cách bằng cách đưa một số người mới vào ban lãnh đạo, trong đó có Hồ Chủ tịch. Hồ Chủ tịch nói, hiện nay các thành viên của hội Việt Cách đều là người ở hải ngoại, chưa có đại biểu trong nước; như vậy, gọi là họp đại hội không ổn, có lẽ chỉ nên gọi là hội nghị đại biểu các đoàn thể của Việt Cách ở hải ngoại, thì thích hợp hơn. Đến như việc tôi [10] tham gia Hội Việt Cách như thế nào, thì do Trương Trưởng quan và Tiêu Chủ nhiệm quyết định. Hồ Chủ tịch cũng đề nghị nếu họp hội nghị thì nên để Nguyễn Tường Tam tham gia, vì y tuy là người của Đảng Đại Việt thân Nhật, nhưng là một người có học vấn, nếu được tham gia hội nghị thì sẽ hết sức cảm ơn Trương Trưởng quan và sẽ có thể tự cải tạo thành một người trong hàng ngũ chống Nhật.
Được nghe Tiêu Văn báo cáo những ý kiến trên của Hồ Chủ tịch, Trương Phát Khuê rất tán thưởng và quyết định triệu tập ngay hội nghị để chỉnh đốn lại bộ máy lãnh đạo của Việt Cách.
Hội nghị đại biểu họp tại Liễu Châu từ ngày 25 đến ngày 28-3-1944, gồm 15 đại biểu các đoàn thể, trong đó có đại biểu Hội giải phóng ở Vân Nam là Lê Tùng Sơn vốn đã theo Việt Minh, đại biểu Biệt động quân ở Nam Ninh là Nguyễn Thanh Đồng cũng là Việt Minh, đại biểu Đảng Đại Việt là Nguyễn Tường Tam và đại biểu Phân hội phản xâm lược đồng minh Việt Nam là Hồ Chí Minh.
Những đoàn thể có đại biểu được mời đến tham dự hội nghị lần này, trước kia đều không có chân trong Việt Cách.
Kết quả việc chỉnh đốn lần này là: Trước kia bảy người trong Ban Chấp hành trung ương có Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Nông Kinh Du, thì bây giờ ba người này chỉ ở trong Ban giám sát, ba người mới được thay vào là Lê Tùng Sơn, Bồ Xuân Luật và Trần Đình Xuyên. Hồ Chủ tịch và Nguyễn Tường Tam được bầu làm Ủy viên Trung ương dự khuyết. Sau một thời gian Trần Đình Xuyên bị gạt, Hồ Chủ tịch được trở thành Ủy viên Trung ương chính thức. Thế là Hồ Chủ tịch đã có một địa vị vững chắc trong Việt Nam cách mạng đồng minh hội.

3. Hồ Chủ tịch được tự do về nước
Việc cải tổ Việt Cách ở Liễu Châu tiến hành xong (28-3-1944) một thời gian thì đầu tháng 6-1944, Tiêu Văn đi Côn Minh để cải tổ Phân hội Việt Cách ở Vân Nam. Kết quả của việc cải tổ là Ban Chấp hành Phân hội năm người thì ba người là Việt Minh [11] ; Ban thường vụ ba người thì hai người là Việt Minh [12] ; Ban giám sát ba người thì có một người là Việt Minh [13] . Kết quả đó làm cho Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ hết sức bất mãn và tỏ thái độ chống đối. Tiêu Văn liền cho bắt ngay Nghiêm Kế Tổ và Vũ Quang Phẩm đang hoạt động ở Đông Hưng và định cho bắt luôn cả Vũ Hồng Khanh đang ở Côn Minh với cái tội “vi phạm kỷ luật, chống phá Phân hội Việt Cách”. Vũ Hồng Khanh được Trùng Khánh che chở nên không bị bắt, nhưng từ đó về sau bị cấm không được trở lại Liễu Châu nữa.
Ngày 9-8-1944, Hồ Chủ tịch được Trương Phát Khuê để cho hoàn toàn tự do để chuẩn bị việc về nước.
Trước khi về nước Hồ Chủ tịch dự thảo kế hoạch công tác và một số yêu cầu viện trợ cụ thể đưa Trương Phát Khuê. Kế hoạch công tác là xây dựng hai căn cứ địa du kích ở dọc biên giới tương đối gần nhau để có thể dễ bề liên lạc. Hai căn cứ địa cần độ 600 khẩu súng; ngoài ra còn cần 400 khẩu súng nữa để tổ chức một số tiểu đội, động thì đánh du kích, tĩnh thì làm vũ trang tuyên truyền. Về kinh phí xin cấp cho hai vạn năm nghìn tiền Đông Dương để chi phí về tiền ăn trong hai tháng đầu và một số tiền Trung Quốc đủ dùng cho trong lúc đi đường từ Liễu Châu về đến Việt Nam.
Về phần cá nhân, Hồ Chủ tịch yêu cầu mấy việc như sau:
  1. Yêu cầu Trương Phát Khuê việt một bức thư gửi các đoàn thể yêu nước Việt Nam.
  2. Yêu cầu có một thư ủy nhiệm của Trung ương Việt Cách phái Hồ Chủ tịch về nước công tác.
  3. Yêu cầu cho một bản địa đồ Việt Nam dùng cho quân sự.
  4. Yêu cầu Trương Phát Khuê cho một chứng minh thư dài hạn để tiện việc đi lại.
  5. Xin một số tài liệu tuyên truyền như quyển Tội ác giặc Nhật và một số tranh ảnh.
  6. Xin một khẩu súng nhỏ để tự vệ.
  7. Xin một số kinh phí cần thiết cho cá nhân trong buổi đầu.
Sau khi nhận được kế hoạch công tác và yêu cầu về cá nhân, Trương Phát Khuê liền cấp cho:
  • Một cái hộ chiếu dài hạn để tiện cho việc đi lại, các thứ giấy tờ cần thiết khác và một số thuốc chữa bệnh.
  • Bảy vạn sáu nghìn tiền Trung Quốc.

Đến như số kinh phí để xây dựng căn cứ địa và một số tiểu đội du kích thì còn nghiên cứu chưa cung cấp ngay.
Ngày 20 tháng 9 năm 1944, Hồ Chủ tịch cùng 18 cán bộ rời Liễu Châu qua Long Châu, Tịnh Tây, Bình Mãnh về Cao Bằng.
Theo hồi ký của đồng chí Mạc Nhất Phàm [14] , thì lúc Bác đến Bình Mãnh sức khỏe không tốt, đồng thời trong nước đang bị khủng bố nặng, Bác phải bí mật tránh ở nhà anh Lâm Kiến Thông ở Lũng Y thuộc xã Bình Mãnh. Các đồng chí ở Lũng Y sợ để trong làng dễ bị lộ, phải làm lán trong rừng để Bác ở và phái mấy đồng chí luân lưu thường trực săn sóc và bảo vệ Bác một thời gian rồi mới đưa Bác về Pác Bó.

VI. Hồ Chủ tịch đi Côn Minh gặp tư lệnh không quân Mỹ
Việc Hồ Chủ tịch đi Côn Minh gặp Tư lệnh không quân Mỹ cũng là một việc rất ít người biết, có người biết ít nhiều cũng tránh đi không nói. Tôi thấy đây cũng là chủ trương chiến lược rất quan trọng, cần phải thuật lại đầy đủ để mọi người thấy rõ sự thật. Những sự việc cụ thể mà tôi thuật lại trong mục này cũng đều có tham khảo tài liệu gốc của Quốc dân đảng Trung Quốc trong lúc đó mà gần đây mới sưu tầm được.
Mùa đông năm 1944, Mỹ phái nhiều máy bay từ Trung Quốc qua đánh Nhật ở Việt Nam. Một chiếc máy bay bị Nhật bắn rơi xuống một khu rừng gần thị xã Cao Bằng. Trung úy phi công tên là San (Shan) bị Nhật lùng bắt, được quần chúng địa phương thu dụng, che chở rồi đưa đến vùng biên giới gặp Hồ Chủ tịch. Trong khi đi đường trung úy San được săn sóc và đối đãi rất tốt, chỉ khổ một điều là không hiểu tiếng Việt và tiếng Pháp nên ai nói gì cũng nghe không ra. Khi gặp Hồ Chủ tịch bỗng được nghe một câu tiếng Anh: “Chào phi công, phi công ở đâu đến?” thì anh cảm động quá, ôm chồm lấy Bác và nói: “Tôi nghe tiếng nói của ông y như tiếng nói của bố tôi ở bên Mỹ”. Chuyện trò một hồi rồi Hồ Chủ tịch hỏi: “Bây giờ phi công có yêu cầu gì không?” San nói: “Cơ quan chỉ huy của tôi ở Côn Minh, tôi mong được các ông giúp đưa đến biên giới Trung Quốc, thì tôi sẽ được đón về Côn Minh”. Bác nói, tôi cũng có việc đang định đi Trung Quốc đây. Anh có thể cùng đi với tôi, Trung úy San nói, như thế thì rất tốt, đến Trung Quốc tôi sẽ đề nghị cơ quan chỉ huy của tôi mời ông cùng đi Côn Minh.
Việc lên đường được chuẩn bị gấp. Ann Phùng Thế Tài đưa Bác và Trung úy San đi Côn Minh, cùng đi trên đất Trung Quốc được năm ngày thì đương cục Trung Quốc tách riêng ra, chỉ tiếp đãi và đưa trung úy San đi Côn Minh, còn Hồ Chủ tịch thì để mặc tự mình đi mà không ngăn cản, vì Hồ Chủ tịch đã được tư lệnh không quân Mỹ ở Trung Quốc mời, mà lại có sẵn hộ chiếu dài hạn do Trương Phát Khuê cấp cho từ trước. Báo cáo của Trương Phát Khuê gửi Trùng Khánh cũng chứng nhận việc Hồ Chủ tịch đi Côn Minh là do Mỹ mời.
Cuối năm 1944, Hồ Chủ tịch đến Nghi Lương ở nhà anh Hoàng Quang Bình, nghỉ ngơi mấy hôm để hỏi han tình hình rồi đi Côn Minh.
Đến Côn Minh Bác ở nhà anh Tống Minh Phương, người đã báo cáo xin biếu cả toàn bộ gia tài cho cách mạng, bề ngoài vẫn là một hiệu bán cà phê, thực tế là trụ sở làm việc để Bác có thể tiếp xúc với những người có quan hệ. Ở đây vợ chồng anh Tống Minh Phương coi Bác như bậc thầy bậc cha, tiếp đãi và săn sóc hết sức chu đáo. Cụ Lê Nhuận Chi, anh Phạm Việt Tử rời Liễu Châu về Côn Minh từ cuối năm 1942 cũng cùng vợ chồng anh Tống Minh Phương hết sức giúp đỡ Bác.
Bác đến Côn Minh với danh nghĩa là ủy viên Trung ương của hội Việt Cách, tất nhiên có trách nhiệm xem xét tình hình Phân hội Việt Cách ở Vân Nam, và giúp đỡ cán bộ về tư tưởng và cách thức làm việc, khiến cho Phân hội trở thành một tổ chức cách mạng được quần chúng tin cậy.
Nhưng mục đích của Hồ Chủ tịch trong dịp đến Côn Minh là liên hệ với quân Đồng minh Mỹ để cách mạng Việt Nam có một vị trí quốc tế rõ ràng trong phe Đồng minh chống phát-xít.
Ở nhà anh Tống Minh Phương không lâu thì Bác đi gặp tướng Chen-nớt-tơ, Tư lệnh không quân Mỹ đóng ở Vân Nam. Chen-nớt-tơ trực tiếp gặp và chuyện trò thân mật.
Qua sự giới thiệu của Hồ Chủ tịch, được biết các tổ chức chống Nhật ở Việt Nam đều gia nhập mặt trận Việt Minh, Chen-nớt-tơ hỏi: Việt Minh có thể tổ chức một cái “trạm cứu hộ” để cứu giúp những phi công Đồng minh nhảy dù xuống Việt Nam được không? [15]
Hồ Chủ tịch trả lời, có thể làm được và sẵn sàng làm để phối hợp với quân Đồng minh đánh Nhật. Hiện nay tổ chức chống Nhật ở Việt Nam phát triển rộng, nếu Mỹ giúp vũ khí đạn dược và phương tiện thì Việt Nam sẽ có lực lượng nhiều hơn để đánh phá quân Nhật. Đến như việc “cứu hộ” quân nhảy dù Đồng minh, thì chúng tôi đã làm, việc trung úy San được cứu hộ và được an toàn đưa đến Trung Quốc là một bằng chứng cụ thể.
Chen-nớt-tơ hài lòng với câu trả lời trên, nhưng không quên đặt vấn đề yêu cầu Việt Minh làm tình báo cho Mỹ. Hồ Chủ tịch nói chúng tôi không làm nhân viên tình báo Mỹ, nhưng chúng tôi có thể thông báo tình hình chính trị, kinh tế, xã hội Việt Nam cũng như tình hình hoạt động của Nhật ở Việt Nam để phối hợp cùng nhau đánh Nhật. Chúng tôi xem đó là một sự hợp tác chặt chẽ giữa Việt Minh với các nước Đồng minh. Về việc này chúng tôi đã tuyên truyền và giáo dục quần chúng từ năm 1941 sau khi Việt Minh ra đời. Chúng tôi hiểu Việt Nam chỉ phải đứng về phe Đồng minh và hợp tác chặt chẽ với Đồng minh trong việc chống Nhật thì mới có thể giải thoát khỏi ách thống trị của phát-xít Nhật.
Ngoài việc gặp Chen-nớt-tơ ra, Hồ Chủ tịch còn tiếp xúc một số người Mỹ khác để bàn việc cụ thể. Khi rời Côn Minh, người Mỹ tặng Bác khẩu súng bát, hai vạn viên đạn, một số thuốc chữa bệnh và một số tiền. Bác không nhận tiền, chỉ nhận súng đạn, thuốc chữa bệnh, tỏ lời cảm ơn và nói mong sau này Mỹ sẽ giúp nhiều hơn nữa.
Thời gian Hồ Chủ tịch ở Côn Minh cũng là thời gian xảy ra một số việc quan trọng
  • Ở Trung Quốc, ngày 11-11-1944 Liễu Châu bị Nhật chiếm, Bộ tư lệnh Quân khu bốn phải chuyển về Bách Sắc, một thị trấn không lớn thuộc Quảng Tây. Các “nhân vật trọng yếu” của Việt Cách như Trương Bội Công, Nguyễn Hải Thần, Trần Báo, Nông Kinh Du đã hoảng hốt chạy khỏi Quảng Tây; sáu trăm quân Phục quốc cũng tán loạn, chỉ còn 140 người cùng với Bồ Xuân Luật, Lê Tùng Sơn chạy theo Bộ tư lệnh Quân khu bốn về đến Bách Sắc.
  • Ở Việt Nam, ngày 9-3-1945 quân Nhật đảo chính Pháp, ngày 13-3 Bảo Đại tuyên bố ngoan ngoãn làm tay sai cho Nhật.
  • Ở Pháp, ngày 24-3-1945 Chính phủ Đờ-gôn tuyên bố quyết tâm trở lại cai trị Việt Nam. Chính phủ Tưởng Giới Thạch vì không muốn gây rắc rối trong việc bang giao với Pháp, nên không tỏ thái độ phản đối, thì nhóm Việt Nam Quốc dân đảng ở Côn Minh cũng ngậm tăm, nhưng cũng ở Côn Minh, ngày 7-4-1945 Dương Bảo Sơn được sự chỉ dẫn của Hồ Chủ tịch, đã nhân danh phân hội Việt Cách họp báo tuyên bố chống chủ trương của Đờ-gôn, trong lời tuyên bố có đoạn nói: “Vận mệnh của Việt Nam phải do nhân dân Việt Nam quyết định, người Pháp không có quyền can thiệp. Hiện nay nhân dân Việt Nam đã có bộ đội vũ trang, do đoàn thể cách mạng [16] lãnh đạo, đang chiến đấu với kẻ thù”. Buổi họp báo có Tiêu Văn tham gia làm cno người ta hiểu rằng thái độ của Dương Bảo Sơn là thái độ của Quân khu bốn.

Ở đây cũng cần nhắc thêm một việc là, sau khi Nhật đảo chính Pháp ở Việt Nam, một số tàn quân Pháp chạy đến biên giới Trung Quốc. Trương Phát Khuê đã đưa ra một kế hoạch giải quyết, trong đó có đoạn nói: Đối với quân Pháp, Trung Quốc giữ mối quan hệ đồng minh, cùng nhau chiến đấu; đối với Đảng cách mạng Việt Nam [17] thì hết sức giúp đỡ, sau khi quân Nhật bị đuổi ra khỏi Việt Nam, sẽ do Đảng cách mạng Việt Nam thành lập chính quyền mới, tuyên bố nước Việt Nam độc lập [18] . Thấy kế hoạch có mâu thuẫn, một nhà báo thuộc phe Tưởng hỏi, vì sao đã giúp Pháp lại giúp Việt Nam độc lập? Truơng Phát Khuê trả lời, giúp Pháp là một cách nói hữu nghị, giúp cho Việt Nam độc lập mới là thực chất.
Qua hai việc kể trên, chúng ta có thể thấy rõ, lúc đó Trùng Khánh chủ trương chấp nhận việc người Pháp trở lại thống trị Việt Nam; Trương Phát Khuê và Tiêu Văn thì chủ trương giúp cho Việt Cách lập chính quyền mới; tuyên bố nước Việt Nam độc lập, cố nhiên quan niệm của Trương Phát Khuê và Tiêu Văn là độc lập dưới sự che chở của Trung Quốc. Đó là cái lý do chính mà Trương Phát Khuê không được Trùng Khánh tín nhiệm, việc Hoa quân nhập Việt phải chuyển từ tay Trương Phát Khuê qua tay Lư Hán, đã đành trong việc để cho Lư Hán phụ trách việc Hoa quân nhập Việt còn có một ý đồ quan trọng nữa là để hất cẳng Long Vân ở Vân Nam.
- Tháng 3- 1945, Hà Ứng Khâm, Tổng tư lệnh lục quân Trung Quốc đến Côn Minh để bố trí việc Hoa quân nhập Việt. Ngày 30-3-1945, Tiêu Văn đến Côn Minh gặp Hà Ứng Khâm yêu cầu lúc Hoa quân nhập Việt, vẫn giữ được trách nhiệm giúp Việt Cách thành lập Chính phủ Việt Nam độc lập thân Trung Quốc. Yêu cầu này được Hà Ứng Khâm đồng ý [19] .
Việc khác nhau giữa Tưởng Giới Thạch và Trương Phát Khuê làm cho chúng ta hiểu được vì sao Hồ Chủ tịch khi ở Liễu Châu, được ưu đãi và được đưa vào Ủy ban Trung ương của Việt Cách (3-1944), được tự do đưa 18 cán bộ về nước (9-1944), được tự do đi Côn Minh gặp Mỹ (cuối 1944) mà không bị ngăn trở, được hoạt động với danh nghĩa Việt Cách ở Côn Minh, được tự do trở về Bách Sắc, rồi lại một lần nữa tự do về nước.
Hồ Chủ tịch ở Côn Minh một thời gian tương đối lâu đến đầu tháng 4-1945 thì mới rời Côn Minh đi Bách Sắc.
Hồ Chủ tịch đến Bách Sắc được hai hôm thì Tiêu Văn cũng từ Côn Minh về Bách Sắc.
Tiêu Văn bố trí cho mấy tốp biệt kích vào Việt Nam:
  • Tốp Bồ Xuân Luật lãnh đạo 50 người vào phía Long Bang.
  • Tốp Trương Trung Phụng lãnh đạo 55 người vào phía Bình Mãnh.
  • Tốp Ngô Quang Hợp lãnh đạo 50 người vào phía Đông Khê, Thất Khê.
  • Hồ Đức Thành cũng mang một số người vào phía Bình Ca.
Trong khi các tốp biệt kích đang chuẩn bị vào Việt Nam thì Hồ Chủ Tịch đã gấp rút lên đường về nước.
Tháng 5- 1945 về đến Việt Bắc, khi gặp các anh Vũ Anh, Võ Nguyên Giáp, Bác bảo cần tìm một địa điểm thích hợp để làm chỗ trung tâm liên lạc. Hai anh đi tìm địa điểm đã bàn với anh Song Hào và anh Chu Văn Tấn chọn Tân Trào là chỗ thích hợp nhất, vì đó là một nơi đã có chính quyền nhân dân, có cơ sở quần chúng tốt, có núi rừng hiểm trở mà lại ở xa đường cái lớn.
Bác đến Tân Trào không bao lâu, thì một số người Mỹ, trong đó có thiếu úy Tô-mát (Thomas) nhảy dù xuống một sân bay nhỏ mà chúng ta mới phát một đám rừng và dọn dẹp xong.
Thiếu úy Tô-mát được xếp ở một chỗ trên núi Tân Trào để làm việc liên lạc. Hồ Chủ tịch thường đến gặp nói chuyện thân mật về tình hình thế giới, về tiền đồ của cuộc chiến tranh chống phát-xít. Tô-mát cảm thấy rất thoải mái và tin Việt Minh là thật lòng với phe Đồng minh.
Việc liên lạc với Mỹ như thế là cốt để gây ảnh hưởng trong nhân dân, để tạo uy thế lợi cho việc khởi nghĩa cướp chính quyền từ tay Nhật. Nhưng Hồ Chủ tịch cũng tính toán lực lượng của ta còn yếu, chưa chắc trước khi quân Đồng minh đến ta đã giành được chính quyền trong phạm vi cả nước, mà quân Đồng minh đến thì nhất định có Pháp, như vậy là ta phải nói chuyện với Pháp. Hồ Chủ tịch thông qua vô tuyến của Mỹ điện cho tướng Pháp Xanh-tơ-ni [20] ở Côn Minh, đề nghị gặp nhau để trao đổi ý kiến, nhưng vì trắc trở không gặp nhau được. Sau Cách mạng Tháng Tám đến Hà Nội, Xanh- tơ-ni là Trưởng đoàn đại biểu Pháp ở Việt Nam đàm phán với Hồ Chủ tịch và ký kết Hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946.
*
Việc Bác đi Trùng Khánh gặp Tưởng Giới Thạch [21] , việc đi Côn Minh gặp Tư lệnh không quân Mỹ và việc liên hệ với tướng Pháp Xanh-tơ-ni trước Cách mạng Tháng Tám thật ra ít người biết, có người biết ít nhiều cũng tránh đi không nói, vì họ nghĩ rằng như thế là hữu khuynh, là thỏa hiệp. Cách nghĩ như vậy là không phù hợp với thực tế, không hiểu hết ý nghĩa chiến lược và sách lược của sự việc.
Chúng ta đều biết, từ Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tám (5-1941) quyết định lấy Mặt trận Việt Minh thay cho Mặt trận phản đế thì chúng ta đã tuyên truyền là chúng ta đứng về phe Đồng minh chống phát-xít. Chúng ta đã phái 12 người đi học bộc phá và 60 người đi học quân sự ở Trung Quốc là một biểu hiện ta đứng về phe Đồng minh. Quần chúng ta cứu phi công Mỹ và Bác di Côn Minh gặp Tư lệnh không quân Mỹ cũng là biểu hiện ta đứng về phe Đồng minh, Bác có ý muốn bàn bạc với Tướng Pháp Xanh-tơ-ni cũng là biểu hiện ta đứng về phe Đồng minh, vì trong cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai đã phân định thành hai phe rệt, phe phát-xít là Đức, Ý, Nhật; phe Đồng minh là Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp, Trung Quốc. Trong đại hội lần thứ bảy của Quốc tế Cộng sản họp ở Mạc Tư Khoa năm 1935 đã quyết định các Đảnh cộng sản trên toàn thế giới cần lập Mặt trận chống phát - xít là đã chống phát-xít thì khi có phe Đồng minh chống phát-xít là ta phải ủng hộ phe Đồng minh. Việc ủng hộ phe Đồng minh và đứng về phe Đồng minh chúng ta đã tuyên truyền nhiều, nhưng trên thực tế ta chưa trực tiếp liên hệ được với phe Đồng minh. Ta đã biết chắc phát-xít nhất định sẽ thất bạt, Đồng minh nhất định sẽ thắng, ta cần phải có một hình thức liên hệ thực tế với Đồng minh thì khi Đồng minh thắng ta mới có một địa vị, có tiếng nói của mình. Đến như việc muốn liên hệ với Pháp để trao đổi ý kiến, là vì Bác đã biết chắc khi quân Nhật thua, Đồng minh đồng ý cho Pháp trở lại Việt Nam, nếu không có sự chuẩn bị trước thì lúc đó sẽ bị động. Vì vậy việc Bác định gặp Tưởng ở Trùng Khánh, gặp Mỹ ỏ Côn Minh và muốn trao đổi ý kiến với Xanh-tơ-ni là một chủ trương chiến lược rất sáng suốt. Về mặt sách lược, thì Bác biết rất rõ là cách mạng thì phải dựa vào quần chúng, không có quần chúng tức là không có lực lượng, phải tự mình tổ chức vũ trang, không có vũ trang là không thể chiến đấu, vũ trang đó ta có thể lấy ở địch, nhưng ta phải có một cái vốn. Bác cũng biết rất rõ là Mỹ tuy đồng tình Pháp trở lại Việt Nam nhưng Mỹ vẫn muốn hất cẳng Pháp. Tưởng tuy phải thừa nhận quyền bảo hộ của Pháp ở Việt Nam nhưng cũng vẫn muốn trong dịp Hoa quân nhập Việt sẽ gây khó dễ cho Pháp. Bác vẫn biết Mỹ và Tưởng sẽ không giúp cho chúng ta gì nhiều đâu, nhưng gặp để tranh thủ ảnh hưởng, tranh thủ được sự giúp đỡ dù rầt ít cũng vẫn tốt, gặp để phân hóa họ, để hạn chế họ.
Đó là vấn đề sách lược. Hãy xem bọn đặc vụ Trùng Khánh khi thấy Trương Phát Khuê để cho Bác tham gia Việt Nam cách mạng đồng minh hội, để cho Bác tự do về nước, để cho bác tự do đi gặp Mỹ ở Côn minh mà không ngăn cản, thì chúng rất căm tức, báo cáo với Trùng Khánh phê phán Trương Phát Khuê là tả khuynh, Tiêu Văn là thân Cộng, đồng thời cho việc Bác đi Côn Minh là “liên Mỹ, chống Hoa”, việc muốn liên hệ với Xanh-tơ-ni là “thỏa hiệp với Pháp chống Trung Quốc”. Tất cả những việc đó nói lên việc Bác muốn gặp Tưởng, gặp Mỹ là muốn trao đổi ý kiến với Pháp là những việc có tính chất chiến lược và sách lược đó hoàn toàn có lợi cho cách mạng. Sự thực lịch sử đã chứng minh như vậy.



[1]lính gác ở cổng đồn và mấy nơi trọng yếu trong đồn đều do các anh ấy phụ trách bố trí người của mình đứng gác
[2]Có lẽ là Coll Bát (súng ngắn Coll, ổ đạn có 8 viên) chăng? BT
[3]ý nói Hồ Chủ tịch còn bị giữ ở Trung Quốc nên chưa hiểu tình hình quốc tế ra thế nào
[4]tôi ở Lạng Sơn không tham gia
[5]hiện nay có một số tài liệu nói Hội nghị Cao -Bắc- Lạng đã quyết định phát động chiến tranh du kích, nói như thế là không đúng sự thật
[6]tức Vân
[7]Hoàng Đình Giong?
[8]nội tuyến ở đây là tên phản Đảng Trần Báo
[9]gọi tắt là Việt Cách
[10]Hồ Chủ tịch tự xưng
[11]Phạm Việt Tử, Lý Đào, Phạm Minh Sinh
[12]Phạm Việt Tử, Lý Đào
[13]Dương Bảo Sơn
[14]người Quảng Tây vào Việt Nam tham gia cách mạng từ năm 1942
[15]Trạm cứu hộ nói ở đây cụ thể là một cái sân bay nhỏ để máy bay trực thăng (máy bay thì đúng hơn vì khi đó, ở Trung Hoa và Đông dương chưa có trực thăng. BT) có thể lên xuống và một chỗ ở cho một số người Mỹ làm việc liên lạc.
[16]mập mờ không nói rõ Việt Minh hay Việt Cách
[17]muốn nói là Việt Cách
[18]nguyên văn trong Việt Nam vững biên của Hình Sâm Châu tháng 7-1947. Hình là đại biểu Trung ương Quốc dân đảng Trung Quốc đóng ở một vùng biên giới Việt - Trung
[19]về tình hình Hoa quân nhập Việt sẽ nói rõ hơn trong mục Những ngày tháng sau Cách mạng Tháng Tám
[20]Có lẽ tác giả nhầm, Sainteny J. không đeo hàm tướng bao giờ. BT
[21]không gặp được vì bị bắt ở dọc đường.
--------------------------------------------

. Hội nghị toàn quốc của Đảng và quốc dân đại hội ở Tân Trào

Vào khoảng tháng 6-1945, ở Lạng Sơn chúng tôi đang bàn việc phân phối công tác, các anh Lê Thiết Hùng, Hoàng Điền, Bế Chấn Hưng về phía Hội Hoan để chỉnh đốn và thành lập chính quyền; anh Đàm Minh Viễn, ông Ké Lộc [1] và tôi đi xuống phía Bắc Sơn để cùng các đồng chí địa phương giải phóng tỉnh lỵ Lạng Sơn.
Trong lúc đang chuẩn bị đi Lạng Sơn thì tôi được điện Trung ương gọi về Tân Trào để tham gia Hội nghị toàn quốc của Đảng đang chuẩn bị họp. Tôi giao nhiệm vụ cho anh Đàm Minh Viễn và các đồng chí, còn tôi và anh Hoàng Hữu Nam lên đường đi Tân Trào. Đi Tân Trào chuyến này không phải lén lút, mà đi công khai ban ngày có vũ trang yểm hộ, xuất phát từ Thất Khê, qua Bình Gia, La Hiên, Thượng Lung, Thần Sa, Phú Đô, Quán Vuông, vượt đèo De, đến Tân Trào.
Đến đây anh em liền đưa đi gặp Bác. Bác không ở trong nhà dân, mà ở một cái lán trên núi không xa làng lắm. Cứ vẫn một bộ quần áo chàm như ông già người Nùng, và một cái bàn đánh máy chữ. Bác làm việc không biết mệt mỏi. Lúc này Bác đã khỏe hơn trước, không sốt rét như lúc ở Trung Quốc mới về. Bác hỏi rất tỉ mỉ về tình hình Lạng Sơn. Nghe xong, Bác nói: Tình hình như thế là rất tốt, bây giờ chúng ta đã có đủ điều kiện để khởi nghĩa chính quyền. Vài hôm nữa các đồng chí Bắc, Trung, Nam đến đầy đủ rồi sẽ họp Hội nghị toàn quốc của Đảng để bàn định. Thời gian là rất khẩn cấp và rất quan trọng.
Tôi biết là Bác đang suy nghĩ và đang làm việc, nên xin cáo biệt, xuống dưới làng để xem xét.
Tôi và anh Hoàng Hữu Nam được xếp ở một nhà dân trong làng. Các anh em dưới xuôi cũng lục tục đến khá đông. Một hôm máy bay Mỹ đến thả dù lương khô và một ít quân trang xuống ngay giữa làng Tân Trào, mọi người hiểu rằng đó là sự tiếp tế của quân Đồng minh, đều rất vui mừng, nhưng vẫn chưa thấy hết sự khó khăn phức tạp do việc quân Đồng minh đến, mà Bác đang phải suy nghĩ, tính toán.
Lúc này ta đã có điện đài nên nắm được tình hình thế giới khá nhậy.
Ngày 2-5-1945, quân Liên Xô đánh thẳng vào Béc-lanh, sào huyệt cuối cùng của phát-xít Đức. Giải quyết xong phát-xít Đức, ngày 8-8-1945, Liên Xô kéo quân vào vùng Đông Bắc Trung Quốc đánh tan đội quân Quan Đông của Nhật. Nhưng Nhật thua rồi quân đồng minh vào Việt Nam thì sao? Việc Hoa quân nhập Việt đang chuẩn bị riết, Hoa quân nhập Việt thì sao? Cũng có thể là quân Anh, Mỹ, Pháp vào, thì sao? Việc phát-xít Nhật thua là một cơ hội rất tốt để giải phóng đất nước, nhưng việc quân Đồng minh vào lại là một việc rất phức tạp phải tính toán việc đối phó, phải có mưu lược.
Ngày 13-8-1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp do Bác chủ tọa. Những người tham gia Hội nghị ở Bắc có các anh Trường Chinh, Nguyễn Lương Bằng, ở Trung có anh Nguyễn Chí Thanh; ở Nam có anh Hà Huy Giáp; ở Việt Bắc có anh Võ Nguyên Giáp và tôi; ở Thái-lan và Lào về có các anh Dương Trí Trung, Trần Đức Vịnh; ngoài ra còn có một số đồng chí khác nay không nhớ rõ tên.
Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở nhà một người dân trong làng Tân Trào.
Sau khi nghe báo cáo các nơi, Bác phân tích: Lúc này tuy Nhật chưa đầu hàng, nhưng phát-xít Đức đã đầu hàng Liên Xô đánh thẳng vào Béc-lanh; sáu mươi vạn quân của Nhật ở “Mãn Châu quốc” đã bị quân Liên Xô đánh tan, thì phát-xít Nhật nhất định sẽ phải đầu hàng, đó là việc có thể biết chắc chắn. Phát-xít Nhật đầu hàng thì quân Đồng minh sẽ vào tiếp quản Đông Dương. Quân Đồng minh đây có thể là quân Anh, quân Pháp, cũng có thể là quân Quốc dân đảng Trung Quốc, vì việc Hoa quân nhập Việt đã được chuẩn bị từ năm 1940, 1941. Bất kể là quân nào vào, đứng về mặt quốc tế mà nói là ta không thể cự tuyệt và nói cho đúng là ta cự tuyệt họ cũng cứ vào. Như vậy là ta phải tiếp xúc, phải nói chuyện với họ, và nói chuyện với họ là ta phải có thế mạnh, thế mạnh đó là nước Việt Nam đã giành được độc lập từ tay Nhật. Như vậy là khi Nhật đầu hàng thì ta phải cướp lấy thời cơ làm tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Việc này ta có thể làm được vì ta đã có cơ sở quần chúng trong toàn quốc. Và quân đội của Pháp thì sau khi bị Nhật đáo chính đã tan rã, còn quân bảo an theo Nhật thì phần nhiều đã chịu ảnh hưởng của ta. Hội nghị họp ngắn gọn. Trừ một số đồng chí phải ở lại để tham gia Quốc dân Đại hội, còn nữa là về địa phương và đơn vị để chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền. Riêng tôi được giao nhiệm vụ làm Bí thư Khu giải phóng ở lại Việt Bắc để tiếp tục củng cố và phát triển chính quyền cách mạng, đề phòng lúc lực lượng ta phải trở lại Việt Bắc.
Ngày 16-8-1945, Quốc dân Đại hội họp ở đình Tân Trào, do Tổng bộ Việt Minh triệu tập. Đại biểu các đảng phái chính trị, các đại biểu đoàn thể nhân dân và đại biểu các dân tộc độ 60 người tham gia. Tôi tham gia Đại hội với tư cách là Ủy viên Tổng bộ Việt Minh.
Ở Quốc dân Đại hội, với danh nghĩa là người lãnh đạo của Việt Minh, Bác phân tích tình hình thế giới và trong nước cũng như đã phân tích ở Hội nghị toàn quốc của Đảng. Đồng thời giới thiệu những chủ trương lớn của Việt Minh là đoàn kết tất cả các lực lượng nhân dân để đánh Pháp, đánh Nhật, xây dựng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Lúc này, Nhật đã tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, nên Bác cũng nói đến vấn đề quân Đồng minh vào tiếp quản Đông Dương. Bác đặt câu hỏi, bất kể một nước nào của phe Đồng minh vào thì ta phải thế nào? Nếu ta chống lại, thì có nghĩa là ta cự tuyệt quân Đồng minh, như vậy là về danh nghĩa không thuận. Ta phải nói chuyện với họ, mà nói chuyện với họ thì ta phải có một cái thế mạnh, thế mạnh ấy là chính quyền, là đại biểu của nước Việt Nam đã độc lập. Chúng ta phải gấp rút phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong phạm vi toàn quốc từ tay Nhật. Nhưng đối với Nhật, chúng ta cũng phải khôn khéo thuyết phục để họ không chống lại ta. Ta có thể làm được như thế vì Nhật đã đầu hàng, vì ta có sức mạnh của nhân dân do Việt Minh lãnh đạo. Ta lại có khu giải phóng, tiến có thể công, lui có thể thủ. Chúng ta phải đoàn kết nhất trí, kiên quyết vượt mọi khó khăn giành lại độc lập cho Tổ quốc, xây dựng một nước Việt Nam mới, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Đó là phương châm chung, chúng ta phải nắm vững. Nhưng chúng ta cũng phải tính đến một tình thế khó khăn nhất có thể xảy ra là, quân Pháp vào với một lực lượng mạnh, bất chấp tất cả một mực liều lĩnh tiến công ta, lại được Anh, Mỹ hết sức ủng hộ cũng có thể được cả sự chấp thuận của Quốc dân đảng Trung Quốc, thì ta phải thế nào? Ta phải đánh, đánh với giáo mác, với tất cả vũ khí thô sơ, thà chết không chịu làm nô lệ. Đồng thời với sự kiên quyết đánh, ta vẫn phải đàm phán với Pháp. Đàm phán thế nào? Để có thể giảm bớt sự hy sinh của ta, để có thể tranh thủ được sự đồng tình của nhân dân Pháp và dư luận thế giới; ta có thể đòi Pháp phải thừa nhận nước Việt Nam độc lập trong khuôn khổ khối liên hiệp Pháp, có quốc hội, có chính phủ, có quân đội, có tài chính và chính sách ngoại giao riêng; chúng ta đảm bảo quyền lợi kinh tế và văn hóa của Pháp ở Việt Nam; sau năm năm thì nước Việt Nam hoàn toàn độc lập. Ta đặt điều kiện như vậy mà Pháp không chấp nhận hoặc chấp nhận giả dối thì ta kiên quyết đánh, ta tuy yếu nhưng chính nghĩa thuộc về ta, sự đồng tình của nhân dân Pháp và dư luận thế giới thuộc về ta, thì ta nhất định thắng.
Nghe xong, mọi người đều phấn khởi, nhất trí tán thành những chủ trương lớn và mệnh lệnh tổng khởi nghĩa của Việt Minh, đồng thời cử ra Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam do đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, để kêu gọi và lãnh đạo toàn dân tổng khởi nghĩa.
Quốc dân Đại hội kết thúc, mọi người gấp rút chuẩn bị về địa phương. Các đồng chí Trung ương ở miền xuôi đã về ngay sau Hội nghị toàn quốc của Đảng. Anh Võ Nguyên giáp và một số cán bộ quân sự chuẩn bị mang bộ đội về chiếm Thái Nguyên. Bác cũng chuẩn bị về xuôi, còn tôi thì như Trung ương đã quyết định, phải ở lại Tân Trào để củng cố hậu phương làm căn cứ cho cuộc khởi nghĩa do Việt Minh lãnh đạo đương chuẩn bị bùng nổ.
Về vấn đề đàm phán với Pháp là một vấn đề Bác đã nói rõ trong Quốc dân Đại hội ở Tân Trào, và sau Cách mạng tháng Tám Bác đã đàm phán với Xanh-tơ-ni đi đến Hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946. Nhưng về sau trong tài liệu về Quốc dân Đại hội Tân Trào ta tránh đi không nói đến. Tôi thấy việc này cần nói rõ, đây là một chủ trương rất sáng suốt có tình có lý xuất phát từ chỗ nhìn xa thấy rộng, từ chỗ biết người, biết ta. Cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi chính là nhờ có sự nhìn xa thấy rộng, sự chỉ đạo sáng suốt vừa kiên quyết chiến đấu vừa có sách lược mềm dẻo của Bác đã tranh thủ được một hoàn cảnh hết sức có lợi cho mình.
*
Cùng ở Tân Trào với tôi có anh Hoàng Hữu Nam, phụ trách điện đài để liên lạc với Trung ương, có anh Lê Giản và chị Châu giúp việc. Được mấy hôm, chúng tôi đang chuẩn bị triển khai công tác, thì được tin quân Nhật ở Thái Nguyên đã giao cho ta một số vũ khí và để cho quân ta tự do đi qua Thái Nguyên về xuôi. Tiếp đó là tin mừng liên tiếp dội đến.
Ngày 19 tháng 8, nhân dân Hà Nội vùng dậy giành chính quyền, đó là ngày mà sau này chúng ta gọi là “Cách mạng Tháng Tám”.
Ngày 21 tháng 8, Việt Minh điện vào Huế yêu cầu Bảo Đại thoái vị. Bảo Đại liền đánh điện mời Đại biểu Việt Minh vào Huế tiếp thu chính quyền.
Ngày 24 tháng 8, Bảo Đại tuyên bố xin làm công dân nước Việt Nam độc lập.
Ngày 25 tháng 8, tại Hoàng cung Huế, Bảo Đại làm lễ trao ấn kiếm cho cán bộ Việt Minh là Trần Huy Liệu và Cù Huy Cận.
Ngày 30 tháng 8, Bác về đến Hà Nội. Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập, gồm:
Chủ tịch kiêm Bộ trưởng
Bộ ngoại giao
Hồ Chí Minh
Nội vụ
Võ Nguyên Giáp
Quốc Phòng
Chu Văn Tấn
Tài Chính
Phạm Văn Đồng
Kinh tế
Nguyễn Mạnh Hà
Lao động
Lê Văn Hiến
Thanh niên
Dương Đức Hiền
Giáo dục
Đặng Thai Mai
Tư pháp
Vũ Trọng Khánh
Giao thông công chính
Đào Trọng Kim
Y tế vệ sinh
Phạm Ngọc Thạch
Xã hội
Nguyễn Văn Tố
Tuyên truyền
Trần Huy Liệu
Bộ trưởng không bộ
Cù Huy Cận, Nguyễn Văn Xuân

Trần Huy Liệu và Nguyễn Văn Xuân trước là đảng viên Việt Nam Quốc dân đảng, sau gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương.
Ngày mồng hai tháng chín (2-9-1945), hơn năm mươi vạn quần chúng họp mít tinh ở vườn hoa Ba Đình. Cờ đỏ sao vàng tung bay ngập trời. Đúng ba giờ chiều, Bác bước lên lễ đài với tư cách là Chủ tịch Chính phủ lâm thời, đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Phối hợp với Hà Nội, và các nơi trong toàn quốc, ngày 24 tháng 8, Sài Gòn cũng vùng dậy, treo cờ đỏ sao vàng khắp thành phố, và ngay đêm hôm đó khâm sai đại thần Hồ Văn Ngà xin giao quyền cho Việt Minh.
Ngày 25 tháng 8 ở thị sảnh Sài Gòn, Ủy ban hành chính Nam bộ, Chủ tịch là Trần Văn Giàu ra mắt nhân dân và kêu gọi toàn thể nhân dân đại đoàn kết.
Ngày 2 tháng 9, hàng chục vạn quần chúng họp mít tinh ở sau nhà thờ Đức Bà để nghe tuyên ngôn độc lập của Hồ Chủ tịch đọc tại Hà Nội.
Ngày 4 tháng 9, một cuộc họp Việt Minh mở rộng tại tòa thị sảnh Sài Gòn, mời đại biểu các đoàn thể nhân dân thành lập “Ủy ban nhân dân Nam bộ”, thay cho Ủy ban hành chính Nam bộ. Trần Văn Giàu hôm trước là Chủ tịch Ủy ban hành chính nay là Ủy viên của Ủy ban nhân dân, Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch là Chủ tịch.
Được những tin tức như trên, chúng tôi rất phấn khởi, nhưng cũng rất nóng ruột. Để nắm tình hình cụ thể hơn, chúng tôi phái anh Hoàng Hữu Nam về Hà Nội, thì anh được lệnh Trung ương bảo ở lại Hà Nội làm Thứ trưởng Bộ Nội vụ giúp cụ Huỳnh Thúc Kháng mới được Hồ Chủ tịch mời từ Quảng Nam ra làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ thay anh Võ Nguyên Giáp. Thế là anh Hoàng Hữu Nam không trở lại Tân Trào nữa. Độ hơn một tuần sau, tôi lại đích thân về Hà Nội vừa gặp lúc năm mươi vạn nhân dân Hà Nội đang biểu tình phản đối việc quân đội Anh giúp Pháp chiếm Ủy ban nhân dân Nam bộ [2] . Tôi đi thẳng vào Bắc bộ Phủ, nơi Chính phủ lâm thời làm việc, gặp Bác và các đồng chí Trung ương để xin ý kiến về công tác. Bác nói: Trọng tâm công tác ngày nay là “bảo vệ chính quyền”, tôi cũng phải thu xếp về Hà Nội gấp để cùng Trung ương nắm vững thời cuộc. Thế là tôi phải quay về Tân Trào thu xếp mọi việc rồi đưa cả anh Lê Giản, chị Châu cùng về Hà Nội.
Về đến Hà Nội, tôi giới thiệu anh Lê Giản và chị Châu với anh Nguyễn Lương Bằng để phân phối công tác, còn tôi thì ở một chỗ với Bác tại nhà anh Trịnh Văn Bô, phố Hàng Đào, sau chuyển đến ngôi nhà số 8 phố Hàng Trống bên cạnh nhà hội quán “Khai trí tiến đức” cũ, trông thẳng ra nhà Thủy Tạ ở hồ Hoàn Kiếm [3] .
Không bao lâu, Trung ương quyết định anh Chu Văn Tân về Việt Bắc nắm Khu giải phóng, anh Giáp phụ trách Bộ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tổng tư lệnh Vệ quốc quân [4] , tôi làm Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Ủy viên chính tri Vệ quốc quân toàn quốc.
Lúc này quân Anh đã vào miền Nam gây tội ác. Còn quân Trung Quốc vào Việt Nam thì không phải là quân Trương Phát Khuê như đã chuẩn bị từ năm 1940-1941, mà là quân Vân Nam do tướng Lư Hán chỉ huy. Trương Phát Khuê thì chỉ phái Tiêu Văn [5] vào Việt Nam với danh nghĩa là Đoàn đại biểu chỉ đạo giúp cho Việt Nam cách mạng đồng minh hội thành lập chính phủ ở Việt Nam. Âm mưu của Tưởng Giới Thạch trong việc điều quân Vân Nam vào Việt Nam là cốt để thực hiện việc hất cẳng Long Vân ở Vân Nam cũng như trước kia đã âm mưu hất cẳng Trần Tế Đường ở Quảng Đông, Bạch Sùng Hy ở Quảng Tây v.v…
Việc quân Anh và quân Trung Quốc vào tiếp quản Việt Nam đã tạo nên một tình thế cực kỳ phức tạp sau Cách mạng Tháng Tám.

VI. Những ngày tháng sau cách mạng tháng Tám
Những ngày tháng sau Cách mạng Tháng Tám là những ngày tháng rất căng thẳng, chúng ta phải đối phó với quân Nhật, đối phó với quân Anh ở phía nam vĩ tuyến 16 và quân Tưởng ở phía bắc vĩ tuyến 16, đối phó với quân Pháp được Anh, Mỹ ủng hộ trở lại Đông Dương hòng đặt lại nền bảo hộ đối với Đông Dương như trước kia.

1. Về việc đối phó với quân Nhật
Quân Nhật tuy đã đầu hàng vô điều kiện nhưng họ nói là đầu hàng phe Đồng minh chứ không đầu hàng Việt Minh. Họ không chịu giao vũ khí cho ta, cá biệt có chỗ họ còn gây khó khăn cho việc hoạt động của ta nữa.
Đối với quân Nhật, Trung ương chủ trương chủ yếu là dùng phương pháp thuyết phục. Nói cho họ biết Việt Nam là của nhân dân Việt Nam. Trước kia Pháp xâm chiếm, và gần đây Nhật xâm chiếm, nhân dân Việt Nam đều chống lại. Ngày nay nhân dân Việt Nam đã vùng dậy giành tự do độc lập cho mình, thì các ông cần phải ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam. Các ông không giao vũ khí cho chúng tôi, thì khi quân Đồng minh đến, các ông cũng phải giao cho quân Đồng minh. Như vậy giao vũ khí cho chúng tôi là các ông đã làm một việc nghĩa, các ông sẽ được nhân dân Việt Nam hoan ngênh mà không mất gì hết. Nếu các ông đối chọi với nhân dân Việt Nam thì chúng tôi phải cương quyết chống lại, ít nhiều các ông vẫn phải hy sinh, và hy sinh như vậy đối với các ông ngày nay mà nói thì chỉ là một cái chết uổng trong khi đáng được sống. Nước Việt Nam ngày nay đã là một nước độc lập, các ông nên tỏ ra là người biết điều, ủng hộ nền độc lập của nhân dân Việt Nam.
Cách giải thích này làm cho người Nhật thấy có lẽ phải. Nhưng dù sao họ vẫn phải để vũ khí nộp cho quân Đồng minh. Có nơi họ kín đáo giao cho ta một số, cũng có nơi ta mua họ một số. Còn đại bộ phận là họ giữ thái độ trung lập không can thiệp đến sự hoạt động của ta. Cũng có một số người Nhật sợ bị quân Đồng minh báo thù, nên nhờ ta che chở, cho họ trà trộn vào trong nhân dân ta. Số người này tuy ít, nhưng ở đâu cũng có, có người được chúng ta đối xử tốt, sau này chúng ta kháng chiến chống Pháp, họ còn giúp ta huấn luyện quân sự, hoặc làm một số việc phục vụ như lái xe, sửa chữa máy móc v.v. . . Một vài người cụ thể mà tôi còn nhớ là Lam Sơn, đại tá quân đội Nhật và Thanh Tùng, trung úy quân đội Nhật đã giúp ta ở Nghệ An khi tôi là Bí thư Quân khu bốn và sau khi về Nhật, họ là nhân vật tích cực trong Hội hữu hảo Nhật – Việt.
Việc đối phó với quân Nhật tuy cũng phức tạp nhưng chỉ trong một thời gian ngắn. Khi quân Đồng minh đến thì thuộc quyền quân Đồng minh, ta không phải đối phó nữa.

2. Về việc đối phó với quân Anh ở miền Nam
Quân Anh nguyên trước kia được sự thỏa thuận của Mỹ, phụ trách chiến khu miền Nam kể từ vĩ tuyến 16 trở xuống, nên khi Nhật đầu hàng, thì tự nhiên là quân Anh có quyền giải giáp quân Nhật trong phạm vi chiến khu của mình.
Ngày 12-9-1945, tức là sau ngày quân Nhật đầu hàng (15-8) gần một tháng, quân Anh do thiếu tướng Gơ-la-xây [6] chỉ huy 1.400 quân [7] , phần lớn là người Ấn Độ, đổ bộ vào Sài Gòn.
Ngày 20-9-1945, quân Anh ra thông cáo cấm báo chí Việt Nam không được xuất bản, cấm người Việt không được mang vũ khí.
Ngày 21-9-1945, quân Anh dùng tàu chiến của mình chở quân Pháp vào Sài Gòn, đồng thời ra lệnh thiết quân luật cấm người Việt không được hội họp, không được ra phố kể từ 9 giờ tối cho đến 5 giờ sáng.
Ngày 22-9-1945, quân Anh chiếm Khám Lớn Sài Gòn và thả 5.000 tù binh Pháp trước kia bị Nhật bắt giam giữ, đồng thời cho phép người Pháp lấy súng đạn trong kho vũ khí của Nhật, thay quân Nhật đóng giữ các bến tàu, kho tàng và xưởng đóng tàu Ba Son.
Ngày 23-9-1945, quân đội Anh che chở cho quân đội Pháp chiếm Sở cảnh sát Trung ương, kho bạc; đồng thời chiếm luôn cả Tòa thị chính Sài Gòn, trụ sở Ủy ban nhân dân Nam bộ. Thành phố Sài Gòn nói chung là bị quân Pháp kiểm soát.
Ngày 5-10-1945, Pháp phái tướng Lơ-cơ-le [8] đưa quân Âu-Phi tăng viện cho Sài Gòn, đồng thời cho quân nhảy dù xuống Cam-pu-chia và Lào, với mục đích là chiếm lại toàn bộ Đông Dương.
Ngày 12 tháng 10, Pháp tung quân ra chiếm Gia Định, Gò Vấp và Phú Mỹ.
Ngày 23 tháng 10 chiếm Thủ Dầu Một và Biên Hòa [9] .
Ngày 29 tháng 10 chiếm Vĩnh Long.
Ngày 30 tháng 10 chiếm Cần Thơ.
Ngày 1 tháng 2 năm 1946, quân Pháp chiếm Ban Mê Thuột, rồi đổ bộ chiếm Nha Trang, Khánh Hòa và Đà Lạt. Mấy hôm sau thì thị trấn các tỉnh Gò Công, Mỹ Tho, Sa Đéc, Long Xuyên, Châu Đốc, Hà Tiên, Rạch Giá, Cà Mau đều bị quân Pháp chiếm đóng.
Trước tình hình đó, Ủy ban nhân dân Nam bộ phải rút về Bến Tre, cắt đứt cầu phà, phá hoại đường sá, tổ chức cuộc kháng chiến chống Pháp. Đồng thời còn phải đối phó với một lực lượng tự xưng là quốc gia do một đảng viên Việt Nam Quốc dân đảng là Nguyễn Hòa Hiệp cầm đầu cướp bóc nhân dân và phá hoại kháng chiến.
Để hỗ trợ cho cuộc kháng chiến miền Nam, miền Bắc đã liên tiếp phái những đội quân Nam tiến do các anh Hoàng Đình Ròng [10] , Đàm Minh Viễn và sau là Nguyễn Bình dẫn đầu, sát cánh với nhân dân miền Nam chống Pháp. Các anh này đều đã hy sinh ở miền Nam trong khi làm nhiệm vụ.

3. Về việc đối phó với quân Tưởng ở miền Bắc
Ở miền Bắc hai mươi vạn quân Tưởng do tướng Lư Hán chỉ huy từ Vân Nam vào để giải giáp quân Nhật, và một đơn vị do tướng Tiêu Văn chỉ huy từ Quảng Tây vào với danh nghĩa là đại biểu Trương Phát Khuê giúp cho Việt Nam cách mạng đồng chí hội thành lập Chính phủ. Đây mới là một vấn đề cực kỳ phức tạp.
Cả hai lực lượng của Lư Hán và Tiêu Văn vào Việt Nam với một nhiệm vụ giao phó từ Trùng Khánh là “Diệt Cộng cầm Hồ”, nghĩa là “Diệt cộng sản, bắt Hồ Chí Minh” đồng thời dựng lên một chính phủ bù nhìn tay sai đắc lực cho Quốc dân đảng Trung Quốc.
Về bọn Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ thì Lư Hán cũng như Tiêu Văn đều biết từ trước là những người hoạt động với danh nghĩa Việt Nam Quốc dân đảng, nhưng là người của Trùng Khánh, ở Vân Nam là để theo dõi hành động của Long Vân, cũng như ở Quảng Tây là để theo dõi hành động của Trương Phát Khuê, cho nên lúc Lư Hán đi máy bay vào Hà Nội, Vũ Hồng Khanh xin đi theo, Lư Hán đã từ chối không cho đi theo. Mãi đến cuối tháng 9-1945, Vũ Hồng Khanh mới đi đến thị trấn Lào Cai thì chính quyền ở đó đã vào tay nhân dân và được bộ hạ của tướng Lư Hán là Lý Du Sinh ủng hộ. Vì vậy, Vũ Hồng Khanh không hoạt động gì được, bèn đổi đường đi đến Sa Pa, chỉ đạo cho bọn Triệu Việt Hùng chiếm Sa Pa, thì Lý Du Sinh cho bắt giam bọn Triệu Việt Hùng và giữ luôn cả Vũ Hồng Khanh, chỉ sau khi Trùng Khánh hạ lệnh phải thả, thì mới được thả. Tuy vậy, sau này ở một số nơi như Lào Cai, Yên Bái, Nghĩa Lộ, Việt Trì, Phú Thọ, Vĩnh Yên, Hải Ninh v.v…. chúng vẫn dựa vào sự ủng hộ của quân Tưởng, lập được cơ quan tuyên truyền phản cách mạng trong vòng bao vây của quân và dân ta ở chung quanh.
Ngày 20-10, khi Vũ Hồng Khanh đến Hà Nội thì các đảng viên của Việt Quốc nhưng bấy giờ đã theo Việt Minh như Nguyễn Văn Xuân, Bùi Văn Hách, Phạm Quang Chúc, Trần Ngọc Tuân, Trần Đức Chính đã đứng ra lập “Ủy ban cải tổ Quốc dân đảng”. Bọn Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ tuy không được Tiêu Văn và Lư Hán đồng tình, nhưng được Trùng Khánh ủng hộ, nên vẫn hoạt động ráo riết, đã kết hợp với bọn Nguyễn Tường Tam, Trương Tử Anh, Đỗ Tiến Hỷ, thu hút được một số quan lại, công chức và tư sản vào đảng, bọn này đã dựa vào sự che chở của quân Tưởng mà làm bậy, nên quần chúng rất ghét.
Đến như Nguyễn Hải Thần thì từ đầu tháng 9 đã vào Lạng Sơn, dựa vào uy quyền và lực lượng của Tiêu Văn, đã tước vũ khí của một số đơn vị bộ đội ta và triệu tập bọn quan lại, thân hào nói xấu Việt Minh. Khi đến Hà Nội, được bọn Đại Việt tôn làm lãnh tụ tối cao, lập trụ sở ở đường Quan Thánh và một số nơi khác, do Nhượng Tống làm Bí thư, Nguyễn Triệu Luật làm Chính uỷ, Tạ Nguyên Hối làm Ủy viên kinh tài. Các trụ sở đều treo cờ Việt Nam cách mạng đồng minh hội. Ngày song thập [11] , Việt Nam cách mạng đồng minh hội tổ chức kỷ niệm ở Nhà hát lớn, Tiêu Văn đến tham gia, đã chỉ thị cho Nguyễn Hải Thần chỉ được nói về Cách mạng Tân Hợi, không được nói lung tung ra ngoài vấn đề.
Để Tiêu Văn và Lư Hán bớt lo ngại, ngày 11-11-1945, Hồ Chủ tịch công khai tuyên bố “Đảng Cộng sản Đông Dương tự giải tán”, người cộng sản sẽ là những hội viên của “Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác”. Về việc này, tôi được phái vào các tỉnh Khu bốn để giải thích cho các Đảng bộ biết, vì thời cục chúng ta phải tuyên bố như vậy, nhưng Đảng vẫn tồn tại, vẫn bí mật hoạt động để lãnh đạo nhân dân đấu tranh.
Việc tuyên bố Đảng cộng sản tự giải tán đã làm cho tình hình bớt căng thẳng.
Ngày 19 tháng 11, Tiêu Văn lấy danh nghĩa là đại biểu Trương Phát Khuê đứng ra tổ chức một cuộc hội nghị hòa giải có Quốc dân đảng, Việt Nam cách mạng đồng minh hội và Việt Minh tham gia. Sau khi bàn bạc, cả ba phái đều thỏa thuận thành lập một Chính phủ liên hiệp, quân đội các bên không dùng vũ lực giải quyết những vấn đề bất đồng, đồng thời chấm dứt việc công kích nhau trên báo chí, và cuối cùng đồng ý lập một đội quân đưa vào Nam cùng đồng bào miền Nam kháng chiến. Cố nhiên đội quân ấy đều là người Việt Minh.
Chúng ta tán thành việc thành lập Chính phủ liên hiệp. Nhưng đề nghị cứ tiến hành tổng tuyển cử đúng ngày 23 tháng 12 như đã quy định để lập ra Quốc hội, rồi Quốc hội sẽ bầu ra Chính phủ thì dân chủ hơn. Vũ Hồng Khanh và Nguyễn Hải Thần lấy cớ chuẩn bị không kịp, đề nghị hoãn. Ta đồng ý hoãn đến ngày 6 tháng 1 năm 1946 sẽ tổng tuyển cử. Nhưng đến ngày đó, Vũ Hồng Khanh và Nguyễn Hải Thần vẫn nói chuẩn bị không kịp, đòi phải để 50 ghế cho Quốc dân đảng và 20 ghế cho Việt Nam cách mạng đồng minh hội mà không cần phải qua tuyển cử. Ta đồng ý và cứ tiến hành tổng tuyển cử đúng ngày 6-1-1946. Ở miền Bắc cuộc bầu cử rất thuận tiện. Ở miền Nam thì một số thành phố phải bầu cử trong khói lửa, nhưng nhân dân vẫn tích cực tham gia.
Tổng tuyển cử xong, ngày 24-2-1946, do Tiêu Văn dàn xếp một cuộc họp ba phái đã thỏa thuận và ký kết việc lập Chính phủ liên hiệp do Hồ Chí Minh là Chủ tịch. Nguyễn Hải Thần là Phó Chủ tịch, Việt Minh và Đảng Dân chủ nắm bốn bộ, còn Bộ Quốc phòng và Bộ Nội vụ thì dành cho các nhân sĩ trung lập, không đảng phái.
Ngày 2-3-1946, Quốc hội họp kỳ thứ nhất, thừa nhận 70 ghế của Quốc dân đảng và của Việt Nam cách mạng đồng minh hội và làm một số việc như sau:
  1. Bầu ra Chính phủ liên hiệp kháng chiến gồm:
    Chủ tịch
    Hồ Chí Minh
    Phó Chủ tịch
    Nguyễn Hải Thần
    Ngoại giao
    Nguyễn Tường Tam
    Kinh tế
    Chu Bá Phượng
    Y tế
    Trương Đình Chí
    Giáo dục
    Đặng Thai Mai
    Tài chính
    Lê Văn Hiến
    Tư pháp
    Vũ Đình Hòe
    Giao thông công chính
    Trần Đăng Khoa
    Nội vụ
    Huỳnh Thúc Kháng
    Quốc phòng
    Phan Anh
    Bộ trưởng không bộ
    Bồ Xuân Luật


  2. Thành lập Ban cố vấn do Vĩnh Thụy [12] là Cố vấn tối cao đứng đầu.
  3. Thành lập Ủy ban kháng chiến gồm 9 ủy viên, Võ Nguyên Giáp là Chủ tịch, Vũ Hồng Khanh là Phó Chủ tịch.
  4. Thành lập Ban thường trực Quốc hội, Chủ tịch là Nguyễn Văn Tố, thành viên gồm có Lê Tư Lành, Trần Tấn Thọ là đại biểu Việt Nam cách mạng đồng minh hội do Quốc hội thừa nhận chứ không phải do dân tuyển cử.

Tuy ta đã nhân nhượng như vậy để tranh thủ hòa bình nhưng Nguyễn Hải Thần và Vũ Hồng Khanh vẫn dựa vào sự che chở của quân Tưởng chống đối ta ra mặt. Ở đền Quan Thánh bên cạnh Hồ Tây chúng lập đài phát thanh nói xấu Việt Minh suốt ngày. Các ổ hoạt động của bọn Việt Quốc lập ở trường tiểu học Đỗ Hữu Vỹ [13] vẫn hoạt động ráo riết, mặc dù ngày 28-2-1946, Tưởng Giới Thạch vẫn ký hiệp ước thừa nhận chủ quyền của Pháp ở Đông Dương mà chúng vẫn không hay biết gì cả. Đến khi quân đội của Tưởng rút, thì chúng cũng lẽo đẽo rút theo. Một số người bị chúng bỏ rơi thì đều đầu hàng ta, ta vẫn để yên, sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, quân Pháp tập kết vào dưới vĩ tuyến 17, một số trong bọn này đã đi theo quân Pháp vào miền Nam.
Vì sao theo mệnh lệnh của Trùng Khánh là phải “Diệt cộng sản, bắt Hồ Chí Minh”, mà với hơn hai mươi vạn quân đội vẫn không thực hiện được? Là vì Lư Hán cũng như Tiêu Văn đều biết Nguyễn Hải Thần và Vũ Hồng Khanh là phẩm chất không tốt, Nghiêm Kế Tổ là đặc vụ của Trùng Khánh được giao nhiệm vụ dò xét hoạt động của họ. Tiêu Văn là tham mưu cao cấp của Trương Phát Khuê đã chuẩn bị việc Hoa quân nhập Việt từ những năm 1940-1941, nay Tưởng không tin mà để cho quân Vân Nam nhập Việt, nên không thích thú lắm, đồng thời đối với Hồ Chủ tịch cũng đã có lòng kính nể từ lúc còn ở Liễu Châu. Riêng về Lư Hán thì biết rất rõ việc Tưởng Giới Thạch cho quân Vân Nam vào Việt Nam là âm mưu điệu hổ ly sơn để hất cẳng Long Vân và khống chế Vân Nam, nên trong lòng nhiều nỗi bực dọc, làm việc với một thái độ tiêu cực.
Nhưng điều quan trọng là chúng ta đã nắm được nhân dân, khi quân Tưởng vào, dọc đường đã gặp phải cảnh tẩy chay của nhân dân. Nếu bây giờ thẳng tay quá, Việt Minh sẽ vận động khắp nơi làm vườn không nhà trống thì quân đội sẽ gặp nhiều khó khăn. Còn bắt Hồ Chí Minh thì tất sẽ gây một mối hận thù quá lớn, toàn dân Việt Nam sẽ nổi dậy chiến đấu, thì biết đâu lại bị Tưởng Giới Thạch đổ tội vào đầu, cho là bất lực và trừng trị.
Hơn nữa, trong phạm vi toàn miền Bắc, tuy quân Tưởng đã làm nhiều việc ngang ngược, cướp bóc hãm hiếp nhân dân, nhưng cán bộ và nhân dân ta tuyệt đối tin theo Hồ Chủ tịch, tích cực chuẩn bị chiến đầu nhưng tránh tất cả mọi sự khiêu khích. Tôi còn nhớ việc cán bộ một số nơi như ở Chèm, tước súng của một trung đội quân Lư Hán, Hồ Chủ tịch liền phái Anh Nguyễn Đức Quì đến bắt buộc phải trả lại đủ số vũ khí cho quân Lư Hán và thi hành kỷ luật với người cán bộ chủ trương làm việc đó.
Nắm được dân, tích cực chuẩn bị chiến đấu nhưng không nóng nảy trước sự khiêu khích, đồng thời khéo làm công tác với Tiêu Văn và Lư Hán đó là bí quyết để phá tan cái ảo tưởng ngông cuồng “Diệt cộng sản, bắt Hồ Chí Minh” của Tưởng Giới Thạch. Phải nói rằng tình thế muôn cân một sợi tóc như thế, nếu không có Hồ Chủ tịch đứng mũi chịu sào, đưa con thuyền Việt Nam vượt qua nhiều thác ghềnh, thì không thể giữ được chính quyền non trẻ, bảo toàn và gây dựng được lực lượng để đối phó với tình thế hết sức phức tạp đang sẵn sàng diễn ra trên buớc đường đi tới của chúng ta.
Rõ ràng việc đối phó với quân Tưởng ở miền Bắc đến đây xem như là đã kết thúc thắng lợi. Nhưng nếu khi Hồ Chủ tịch bị giữ ở Liễu Châu không được Trương Phát Khuê và Tiêu Văn kính nể, không được bầu làm Ủy viên Trung ương hội Việt Cách, không được tự do về nước để kịp thời chuẩn bị tư tưởng cho cuộc khởi nghĩa; đặc biệt là sau Cách mạng Tháng Tám, trong việc đấu tranh với Việt Quốc, Việt Cách, nếu Tiêu Văn không đóng một vai trò dàn xếp đắc lực, không công nhận vai trò quan trọng của Hồ Chủ tịch trong Chính phủ liên hiệp, thì tình hình Việt Nam lúc đó có thể phát triển theo chiều hướng khó khăn cho cách mạng nhiều hơn. Vì vậy đối với thái độ của Trương Phát Khuê và Tiêu Văn trong lúc đó, đứng về lợi ích cách mạng Việt Nam mà nói, là một thái độ có tác dụng tích cực, cần được đánh giá một cách khách quan.
Tiện đây, tôi thấy cần nói một vài ý nghĩ về Trần Bảo Thương, chủ nhiệm Chỉ huy sở Quân khu bốn ở Tịnh Tây, người đã hạ lệnh bắt tôi hồi cuối năm 1941 theo đề nghị của Nguyễn Hải Thần và Trần Báo. Nếu Trần Bảo Thương như những người Quốc dân đảng phản động khác, thì từ đó tôi đã mất hết điều kiện hoạt động cách mạng. Nhưng Trần Bảo Thương đã coi tôi là một người lãnh đạo của Việt Minh và đối đãi tử tế suốt cả quá trình tôi bị bắt giữ. Cuối cùng Trần đã cấp năm trăm bạc lộ phí và phái người đưa tôi đi Quân khu bốn ở Liễu Châu để giám thị, nhưng không báo cáo gì xấu về tôi. Khi gặp Hồ Chủ tịch ở Liễu Châu, Trần cũng tỏ thái độ kính nể, nhận chuyển bài thơ của Hồ Chủ tịch có kèm theo bài họa của ông về Cao Bằng cho chúng tôi, và thông báo cho biết Hồ Chủ tịch đã được tự do. Tất cả những việc đó tỏ ra Trận Bảo Thương là một người có phong độ chính trị đúng đắn, đặc biệt là mới đây được biết, ở Đài Loan, Trần Bảo Thương đã bị xử bắn vì tội “thân Cộng”. Như vậy, chúng ta có thể nói Trần Bảo Thương là một người tiến bộ, một nhân sĩ dân chủ yêu nước.

4. Bây giờ nói đến việc đối phó với quân Pháp
Như mục V đã nói, khi ở Quốc dân Đại hội ở Tân Trào, Bác đã nêu vấn đề nếu Đồng minh cho Pháp tiếp quản Đông Dương thì thế nào? Và Bác đã kết luận: Như vậy là ta phải nói chuyện với Pháp, mà nói chuyện với Pháp thì ta phải có thế mạnh, thế mạnh ấy là chính quyền, là đại biểu của một nước Việt Nam đã giành được độc lập từ tay quân Nhật. Bác đánh giá như vậy là hoàn toàn đúng, vì cuối năm 1944 Trương phát Khuê để Bác tự do về nước, Bác đã nhân dịp đưa một phi công Mỹ từ Cao Bằng qua Côn Minh gặp Bộ chỉ huy không quân Mỹ ở đó, đã mong manh biết việc quân Pháp sẽ vào tiếp quản Đông Dương. Ngày 24 tháng 3 năm 1945, Thủ tướng Chính phủ lâm thời Pháp là Đờ-gôn lại tuyên bố ý đồ muốn trở lại cai trị Đông Dương bằng cách thành lập một liên bang gồm năm xứ Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ, Ai-lao, Cao Miên trước kia [14] . Như vậy, việc quân Tưởng vào tiếp quản miền Bắc Việt Nam chỉ là việc nhất thời mà ta cần phải chịu đựng và khôn khéo đối phó nhất thời, chứ đối tượng phải đối phó lâu dài ở Việt Nam cũng như ở Đông Dương là quân Pháp.
Về phía Pháp, theo sự dàn xếp của Mỹ, cũng có sự bàn bạc thỏa thuận với Tưởng Giới Thạch, để quân Tưởng rút về Trung Quốc, quân Pháp thay thế. Bối cảnh của việc dàn xếp này là vì sau khi quân Nhật đầu hàng, Mỹ muốn Tưởng Giới Thạch tập trung toàn bộ binh lực để tiêu diệt lực lượng của Đảng cộng sản và Quân giải phóng ở Trung Quốc. Muốn thế phải có sự dàn xếp thỏa thuận giữa Pháp-Tưởng. Sự thỏa thuận đó đã đi đến kết quả là ngày 28-2-1946, Tưởng ký hiệp định với Pháp thừa nhận quyền bảo hộ của Pháp ở Đông Dương, đổi lấy việc Pháp trả lại các tô giới ở Thượng Hải, Hán Khẩu, Quảng Châu, trả lại Quảng Châu Loan và bán lại đường sắt Vân Nam cho Trung Quốc. Còn Tưởng thì cam đoan quân Trung Quốc phải rút khỏi Bắc Việt Nam trước ngày 31 tháng 3 năm 1946. Cố nhiên quân Tưởng chây lười mãi đến tháng 5-1946 để vơ vét thêm một ít rồi mới rút hết.
Thế là việc quân Pháp tiến vào Đông Dương như Hồ Chủ tịch đã đoán trước từ lúc ở Quốc dân Đại hội Tân Trào là một sự thật đã xuất hiện và cách giải quyết cũng vẫn như Hồ Chủ tịch đã nói ở Quốc dân Đại hội là phải nói chuyện với Pháp.
Qua một quá trình bàn bạc, ngày 6 tháng 3 năm 1946, Hiệp định sơ bộ được ký kết giữa Hồ Chủ tịch và Xanh-tơ-ni, Tổng đại diện của Pháp ở Hà Nội [15] . Hiệp ước nói rõ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một nước tự do trong Khối liên hiệp Pháp, có chính phủ, có nghị viện, có quân đội và tài chính riêng. Pháp được đưa vào Việt Nam thay thế quân Tưởng để giải giáp quân Nhật ở miền Bắc. Hai bên Việt, Pháp ngừng bắn ở miền Nam tạo không khí thuận lợi để mở tiếp cuộc đàm phán giải quyết vấn đề ngoại giao của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và vấn đề quyền lợi kinh tế văn hóa của Pháp ở Việt Nam. Việc thống nhất Nam – Bắc sẽ do toàn dân quyết định. Bản phụ lục Hiệp định còn nói rõ số quân Pháp đưa vào thay thế quân Tưởng là một vạn năm nghìn người (lúc này quân Pháp không có người Việt mà chỉ có người Âu-Phi), và chỉ được đóng ở một số nơi trên miền Bắc do ta chỉ định. Hiệp định cũng quy định rõ, mười tháng sau khi ký kết, quân Pháp phải dần dần rút hết khỏi Việt Nam nội trong năm năm.
Ý nghĩa quan trọng của Hiệp định sơ bộ là Pháp phải thừa nhận sự tồn tại của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và phải được sự đồng ý của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thì mới đưa quân vào và chỉ được đóng quân ở những nơi do ta qui định.
Một ý nghĩa quan trọng nữa của Hiệp định sơ bộ là một vạn năm nghìn quân Âu-Phi của Pháp vào thì hai mươi vạn quân Tưởng phải rút và bọn tay sai là Nguyễn Hải Thần và Việt Nam Quốc dân đảng cũng phải rút. Bọn tay sai này trước có một bộ phận quấy rối bằng quân sự ở một số nơi, nhưng nay đã mất hết chỗ dựa mà lại không kịp rút đi nên phải đầu hàng ta hoặc bị ta tiêu diệt.
Ta vẫn biết Pháp ký với ta như vậy, mục đích là cốt để được đưa quân vào, rồi sau sẽ từng bước dùng vũ lực mở rộng ảnh hưởng tiến tới lật đổ chính quyền của ta, trở lại thống trị toàn cõi Đông Dương. Nhưng ta vẫn ký như vậy để cho hai mươi vạn quân Tưởng rút khỏi miền Bắc, đồng thời cũng để có hoàn cảnh chuẩn bị lực lượng kháng chiến chống Pháp một khi chúng không thi hành đúng hiệp định đã ký kết.
Đi đôi với việc ký Hiệp định sơ bộ với Pháp, Hồ Chủ tịch đã có sự bố trí chiến lược tỉ mỉ: Một bộ phận các anh công tác ở các khu căn cứ cũ, nay lại về chỗ cũ để chuẩn bị chiến đấu; anh Nguyễn Lương Bằng đã tháo dỡ một số máy móc chuyển đi Thái Nguyên xây dựng binh công xưởng; tôi được phái vào Khu Bốn bàn với các anh Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Chí Thanh chuẩn bị mọi mặt, đồng thời đến Thanh Hóa bàn kế hoạch lập khu căn cứ ở núi Nưa, nơi trước kia Nguyễn Huệ đã dùng làm căn cứ tiến quân ra Thăng Long đánh bại đội quân xâm lược của Mãn Thanh do Tôn Sĩ Nghị chỉ huy.
Sau khi ký Hiệp định sơ bộ, Hồ Chủ tịch đã gặp Đắc-giăng-li-ơ ở vịnh Hạ Long và đã thỏa thuận: Quốc hội Việt Nam cử một đoàn đại biểu qua Pháp, đồng thời Pháp cũng cử một đoàn đại biểu qua Việt Nam để cùng với đại biểu Chính phủ ta bàn bạc chuẩn bị mọi việc cần thiết cho việc ký một hiệp ước chính thức ở Pa-ri.
Ngày 16-4-1946, đoàn đại biểu Quốc hội ta do anh Phạm Văn Đồng dẫn đầu lên đường sang Pháp.
Ngày 17-4-1946, đoàn đại biểu Chính phủ ta do anh Võ Nguyên Giáp dẫn đầu, họp hội nghị với đoàn đại biểu Pháp ở Đà Lạt để chuẩn bị cho việc ký kết chính thức ở Pa-ri, nhưng do sự ngoan cố của Pháp, nên đã không thu được kết quả gì.
Ngày 30-5-1946, Hồ Chủ tịch với tư cách là thượng khách của Chính phủ Pháp lên đường đi Pa-ri để thương lượng với Chính phủ pháp giải quyết vấn đề thống nhất Nam-Bắc, vấn đề ngoại giao của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và vấn đề quyền kinh tế và văn hóa của Pháp ở Việt Nam như Hiệp định sơ bộ (6-3) đã quy định.
Nhưng trong khi Hồ Chủ tịch đang trên đường đi sang Pháp thì ngày 1 tháng 6, Cao ủy Pháp ở Sài Gòn tuyên bố thành lập nước Cộng hòa Nam kỳ [16] và thành lập Chính phủ Nam kỳ gồm:
Thủ tướng kiêm Nội vụ
Nguyễn Văn Thinh
Phó Thủ tướng
Nguyễn Văn Xuân
Tư pháp
Trần Văn Trọng
Tài chính
Nguyễn Thành Lập
Công chính
Lưu Văn Lang
Canh nông, Thương mại,
kỹ nghệ
Ưng Bảo Toàn
Giáo dục
Nguyễn Thanh Giang
Lao động xã hội
Khương Hữu Long

và một Hội đồng tư vấn Nam kỳ 12 người, trong đó có 4 người Pháp và 8 người Việt quốc tịch Pháp.
Ngày 6-7-1946, Hội nghị Phông-ten-bơ-lô khai mạc. Trong lời phát biểu của mình, đoàn đại biểu ta đã nghiêm khắc phê bình việc quân đội Pháp làm không đúng Hiệp định sơ bộ đã ký kết. Đồng thời kịch liệt lên án việc thành lập nước Cộng hòa Nam kỳ.
Ngày 9 tháng 7, hội nghị họp lần thứ hai thông qua chương trình hội nghị, mỗi tuần họp hai lần vào ngày thứ ba và thứ sáu; bầu ra bốn ủy ban thảo luận các vấn đề chính trị, kinh tế, quân sự và ngoại giao.
Nhưng đến ngày 2 tháng 8, Cao ủy Pháp ở Đông Dương là Đắc-Giăng-li-ơ triệu tập hội nghị Đà Lạt có đại biểu Lào là Xa-phung, đại biểu Miên là Châu Long, đại biểu Cộng hòa Nam kỳ là Nguyễn Văn Xuân [17] tham gia, “để xác định nguyên tắc tổ chức Liên bang Đông Dương”.
Đoàn đại biểu của ta ở Phông-ten-bơ-lô tuyên bố: Nếu nhà đương cục Pháp ở Nam kỳ có quyền quyết định vận mệnh của các nước Đông Dương, thì Hiệp định sơ bộ 6-3-1946 không còn giá trị và Hội nghị Phông-ten-bơ-lô cũng không còn ý nghĩa gì nữa. Đồng thời tuyên bố tạm ngừng Hội nghị Phông-ten-bơ-lô đến lúc nào sự mờ ám ở Đà Lạt được làm sáng tỏ thì sẽ họp. Đoàn đại biểu ta tỏ lòng hy vọng sẽ có lúc họp lại.
Ngày 14-8-1946, Chính phủ Pháp đưa ra một bản dự thảo thanh minh, thừa nhận Hiệp định sơ bộ 6-3 là cơ sở để bàn bạc, nhưng lại nêu ra một lô vấn đề về chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao của Việt Nam đều do Pháp khống chế.
Ngày 18 tháng 8, Đoàn đại biểu ta đưa ra một bản trả lời từng điểm, nêu rõ chủ quyền Việt Nam về các vấn đề, đồng thời đưa ra những đề nghị cụ thể về việc trưng cầu ý dân để nhân dân Nam kỳ tự định đoạt sự quy thuộc của Nam kỳ. Nhưng Pháp không chấp nhận bất kỳ một giải pháp nào của ta.
Đoàn đại biểu ta thanh minh lấy làm tiếc việc Hội nghị Phông-ten-bơ-lô không đạt kết quả mong muốn, rồi rời nước Pháp về nước. Hồ Chủ tịch vẫn còn ở lại để tiếp tục giao thiệp.
Ngày 14-9-1946, Hồ Chủ tịch đại biểu Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mút-tê [18] , Bộ trưởng Bộ thuộc địa, đại biểu Chính phủ lâm thời Cộng hòa Pháp ký Tạm ước 14 tháng 9, hứa hẹn tháng Giêng năm 1947 có thể khôi phục Hội nghị Phông-ten-bơ-lô.
Sau khi ký xong Tạm ước, Hồ Chủ tịch cũng về nước.
Ngày 28-10-1946, Quốc hội họp kỳ thứ hai, trao toàn quyền cho Chính phủ đứng đầu là Hồ Chủ tịch để chỉ đạo việc đối phó với mọi tình thế. Đồng thời bầu Ban thường trực Quốc hội để giám sát Chính phủ, gồm 15 người do cụ Bùi Bằng Đoàn là Trưởng ban, hai cụ Tôn Đức Thắng, Phạm Bá Trực [19] là Phó ban. Cụ Tôn Đức Thắng được cử làm quyền Trưởng ban vì cụ Bùi Bằng Đoàn ốm không đến dự được kỳ họp. Tôi cũng được bầu làm một ủy viên trong Ban thường trực Quốc hội.
Ngày 20-11-1946, Pháp gây hấn ở Móng Cái, Tiên Yên, Lạng Sơn.
Ngày 21-11-1946, Pháp gây hấn ở Hải Phòng
Ngày 17-12-1946, Pháp gây vụ thảm sát ở phố Hàng Bún, phố Hàng Than và nhiều nơi khác ở Hà Nội.
Ngày 18-12-1946, Pháp cho quân đội chiếm Bộ Tài Chính và Bộ giao thông. Đồng thời Móc-li-e [20] , tướng chỉ huy quân đội Pháp đưa tối hậu thư đòi tự vệ và công an ta phải hạ vũ khí.
Tình thế đã đến lúc ta phải kháng chiến thật sự.
Ta chỉ để lại một trung đoàn bảo vệ Thủ đô, còn Hồ Chủ tịch và cán bộ cao, trung cấp đều quay lại Việt Bắc. Tôi được phái vào Khu bốn với tư cách là Bí thư Khu đảng ủy, Chủ nhiệm Việt Minh và Đại diện Chính phủ Trung ương tại Khu bốn.
Ngày 19-12-1946, Hồ Chủ Tịch kêu gọi toàn dân đứng dậy chiến đấu. Cuộc kháng chiến toàn quốc chống Pháp bắt đầu.
Lần này tôi hoạt động ở Khu bốn với một hoàn cảnh khá thuận lợi là ba tỉnh Thanh, Nghệ, Tĩnh quân Pháp không dám động tới, và được sự cộng tác đắc lực của các anh Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Chí Thanh và các anh trong Khu ủy, Tỉnh ủy, mọi mặt công tác đều được tiến hành tốt. Tháng 3 năm 1948 thì được Trung ương ủy nhiệm qua Thái-lan phụ trách một nhiệm vụ mới.



[1]tức Mạc Nhất Phàm
[2]4 giờ sáng ngày 23-9 quân Pháp chiếm
[3]ngôi nhà này sau đã bị bom Mỹ ném tan nay không còn nữa
[4]lúc này Giải phóng quân đổi tên là Vệ quốc quân
[5]có Nguyễn Hải Thần và hai đoàn bộ binh đi theo
[6]Douglas Gracey (1894-1964). BT
[7]Khoảng 26.000 lính thuộc Quân đoàn Ấn Độ số 20; 1.400 là số quân Pháp đi kèm. BT
[8]Philippe Leclerc de Hauteclocque (22/12/1902 -28/12/1947) BT
[9]quân Anh -Ấn chiếm rồi giao cho Pháp
[10]Hoàng Đình Giong? BT
[11]ngày 10 tháng 10. (Quốc khánh Trung hoa Dân quốc. BT)
[12]tức Bảo Đại
[13]Đỗ Hữu Vỵ? BT
[14]Tuyên bố Brazzaville
[15]Chính xác là: Cao ủy Cộng hòa Pháp tại Bắc Bắc-kỳ. BT
[16]Nước Cộng hòa Nam kỳ Tự trị.BT
[17]lúc này Thủ tướng là Nguyễn Văn Thinh đã tự sát
[18]Marius Moutet. BT
[19]công giáo
[20]Louis Morliere. BT
-----------------------------
Tháng 3-1948, anh Phạm Ngọc Thạch từ Thái-lan về nước báo cáo công tác và chuyển lên Trung ương Đảng lời đề nghị của các đồng chí ở Thái-lan, xin Trung ương cử tôi sang Thái phụ trách công tác.
Vừa khéo trong dịp này tôi cũng đang có mặt ở Việt Bắc để xin ý kiến Bác và Trung ương Đảng về việc chuẩn bị Đại hội đại biểu toàn Đảng bộ Liên khu IV.
Tối hôm ấy, bên bếp lửa ở nơi làm việc của Bác trong rừng Việt Bắc, có cả Bác, anh Trường Chinh, anh Thạch và tôi.
Qua lời báo cáo của anh Thạch thì công tác trên địa bàn Thái-lan hồi này đang triển khai nhiều mặt. Nhưng anh em cán bộ phụ trách trong kiều bào thì có tình trạng “cá mè một lứa”, không ai chịu ai. Ở Băng-cốc tuy đã có cơ quan phái viên Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhưng anh em phụ trách Việt kiều ở Đông Bắc Thái-lan liên hệ không mật thiết và không hỗ trợ tích cực cho công tác của Phái đoàn, đồng thời anh em ở Phái đoàn cũng hầu như không quan tâm đến việc vận động kiều bào của anh em ở Đông Bắc. Anh Thạch nói: Các đồng chí công tác lâu năm ở Thái-lan đều biết anh Hoan là một cán bộ phụ trách của ta ở bên ấy từ trước. Anh em đề nghị Bác và Trung ương cử anh Hoan sang Thái chỉ đạo công tác thì chắc rằng sẽ đoàn kết được cán bộ, và các mặt hoạt động ở đấy cũng sẽ phát triển một cách thuận lợi hơn.
Bác và anh Trường Chinh hỏi tôi: Thế nào là đồng chí Hoan đi được chứ?
Tôi trả lời: Nếu Bác và Trung ương ủy thác thì tôi xin sẵn sàng nhận nhiệm vụ.
Thế là tôi thu xếp trở vào khu IV, tiến hành xong cuộc Đại hội đại biểu toàn Đảng bộ Liên khu, và bàn giao công tác Bí thư Liên khu ủy cho anh Nguyễn Chí Thanh rồi lại trở ra Việt Bắc để chuẩn bị các thủ tục đi Thái-lan.
Về mặt Đảng, tôi được giới thiệu là Đại diện Trung ương Đảng, có trách nhiệm chỉ đạo toàn diện công tác vận động Việt kiều ở Thái-lan, ở Ấn Độ, Miến Điện, ở Tiệp Khắc và ở Pháp. Về mặt chính quyền, Hồ Chủ tịch ký giấy ủy nhiệm tôi là Đặc phái viên Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở hải ngoại.
Khoảng cuối tháng 5 đầu tháng 6-1948, tôi trở lại Khu IV, về thăm nhà độ hai hôm rồi lên đường sang Thái-lan.
Lần này ở Thái-lan không lâu (1948-1949), nhưng qua những năm trước và sau cách mạng Tháng Tám, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bác, đối phó với tụi phản động, giải quyết những vấn đề trong tình thế nguy nan, tôi đã nắm được một số nhận thức cơ bản về chiến lược và sách lược, nên trong hoàn cảnh sóng gió, tuy là sóng nhỏ gió nhẹ, nhưng phải đứng mũi chịu sào và phải độc lập suy nghĩ, đã giải quyết được một số vấn đề trong tình hình khó khăn phức tạp như:
  • Chỉnh đốn công tác vận động Việt kiều ở Thái-lan.
  • Chỉnh đốn công tác Phái đoàn ở Băng-cốc và ở Răng-gun.
  • Chỉnh đốn công tác giúp đỡ cách mạng Lào, Miên.
  • Giải quyết một số vấn đề trên đường đi Bắc Kinh.
I. Chỉnh đốn công tác vận động Việt kiều ở Thái-lan
Trước khi đi vào vấn đề chính, tôi thấy cần nhắc lại quá trình hoạt động cách mạng của Việt kiều ở Thái-lan. Năm 1930 sau khi Đảng Cộng sản Xiêm thành lập, Việt kiều hoạt động dưới sự chỉ huy trực tiếp của Đảng Cộng sản Xiêm. Năm 1938 Xiêm ủy quyết định cách mạng Xiêm phải do nhân dân Xiên làm là chính, ngoại kiều chỉ hoạt động trong tổ chức yêu nước của mình. Năm 1941, sau khi Nhật chiếm Việt Nam một năm, Việt Minh ra đời, kêu gọi toàn dân đoàn kết chống Nhật, Pháp. Việt kiều ở Thái-lan [1] hưởng ứng lời kêu gọi đó, chuyển hướng hoạt động cách mạng về Đông Dương. Trong nhiệm vụ chống Nhật, Pháp cứu nước, kiều bào đã đóng góp phần xứng đáng của mình. Nhưng trong việc lãnh, thì Ban lãnh đạo lúc này gọi là Đặc ủy vẫn còn vướng vít một ít tư tưởng của những năm trước kia. Do đó, việc chỉnh đốn công tác vận động Việt kiều đã trở thành một đòi hỏi gấp rút.
Sang Thái-lan, thoạt đầu tôi đến Bưng-càn độ hai hôm, thì anh em đưa tôi vào U-thên, rồi đi Na-khon. Ở đây được tin anh Nguyễn Đức Quì, phái viên Chính phủ đã từ Băng-cốc ra U-bôn dự lễ khánh thành nông trường của Việt kiều mới xây dựng xong. Tôi quyết định đi U-bôn để gặp anh Quì ngay.
Các đồng chí ở U-bôn biết tôi là Ủy viên Trung ương Đảng và là Đặc phái viên của Chính phủ ở hải ngoại, thì muốn xếp đặt cho tôi ăn ở thật đàng hoàng để tỏ sự trọng thị. Nhưng tôi đề nghị cứ xếp cho tôi ở nhà một quần chúng, và giữ bí mật, tôi sẽ tham dự lễ khánh thành nông trường như một người cán bộ thường.
Anh Quì gặp tôi báo cáo tình hình công tác ở Thái. Lúc này Phi-bun Xổng-khram đã nắm chính quyền, những điều kiện thuận lợi cho hoạt động yêu nước của Việt kiều không còn nữa.
Với sự ủy nhiệm của Hồ Chủ tịch, và theo như dự kiến ban đầu khi Bác gặp tôi trước ngày sang Thái-lan, thì Bác có ý định tôi sẽ thay anh Quì làm Đại diện Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở Thái, để anh Quì về nước nhận công tác khác. Nhưng sau khi nghe báo cáo tình hình, tôi cân nhắc lại vấn đề và thấy rằng cần giữ nguyên vị trí của anh Quì là Đại điện Chính phủ thì có lợi hơn. Trong lúc này nếu thay anh Quì, thì nhà đương cục Thái-lan có thể nhân lúc mình thay đổi đại điện mà phủ nhận luôn cả vai trò Đại diện Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, với lý do là nước Thái-lan chưa hề chính thức công nhận Chính phủ Hồ Chí Minh.
Tôi bàn với anh Quì cứ tiếp tục giữ nhiệm vụ phái viên Chính phủ. Tôi sẽ đứng phía sau, chịu trách nhiệm về mặt đường lối chủ trương và phụ trách công tác Đảng, để giúp đỡ anh hoàn thành nhiệm vụ đại diện cho Nhà nước và kiều bào ta trước chính quyền Thái-lan.
Lễ khánh thành nông trường U-bôn được tổ chức khá long trọng. Vì khi Việt kiều ở Lào mới tản cư sang Thái-lan, Chính phủ Pri-đi đã giúp đỡ rất nhiều, trong đó có việc cho đất để lập “nông trường”. Trong mấy năm thuận lợi, cán bộ Tổng hội Việt kiều cứu quốc đã tổ chức cho kiều bào tản cư đến U-bôn dựng nhà trên một khu đất rộng rãi, chia nhau mỗi gia đình một khoảnh đất bằng nhau để sản xuất. Tuy làm ăn vẫn là cá thể, nhưng cách sắp xếp nhà cửa thì đồng loạt, ngay hàng, thẳng lối, trông như một nông trường tập thể. Cán bộ và kiều bào tự hào về cách tổ chức của mình, gọi đó là “nông trường”. Nhân dân Thái-lan cũng gọi đó là “ni-khôn Duôn” [2] .
Tôi thấy sự cố gắng của anh em chăm lo đời sống kiều bào là rất đáng khuyến khích, nhưng gọi đây là “nông trường” thì vừa không đúng với nội dung vừa có hại về chính trị. Chính phủ Phi-bun có thể vì hai tiếng “nông trường” mà e ngại Việt kiều gây ảnh hưởng cách mạng trong nhân dân Thái-lan, sẽ tìm cách làm khó dễ cho ta sau này. Tôi bàn với anh Quì nên bỏ cái tên gọi là “nông trường”, và cần làm cho người Thái hiểu rõ đây chỉ là một xóm làm vườn của Việt kiều lánh nạn chiến tranh từ Lào sang.
Vấn đề “nông trường” U-bôn chỉ là một biểu hiện trong tình trạng chung. Tôi để ý điều tra nghiên cứu và thấy rằng cần phải có một sự uốn nắn chung.
*

Ở U-bôn mấy hôm, trao đổi ý kiến với anh Quì xong, tôi đi ra U-đon gặp các đồng chí Đặc ủy Việt kiều và Tổng hội Việt kiều cứu quốc.
Kết hợp những điều tai nghe mắt thấy trên đường đi từ Bưng-càn qua Na-khon, U-bôn đến U-đon, và nghe thêm báo cáo của các đồng chí phụ trách, tôi thấy rằng trong những năm từ ngày kháng chiến đến nay, cán bộ và kiều bào ta đã làm được nhiều việc, nêu cao tinh thần đoàn kết, yêu nước, và đã làm cho nhân dân Thái-lan nể phục. Nhưng trong mấy năm tình hình chính trị Thái-lan có phần thuận lợi, anh em đã áp dụng một số hình thức không thích hợp với hoàn cảnh của người lánh nạn. Đến khi tình thế chuyển sang khó khăn, sau cuộc đảo chính của Phi-bun anh em vẫn chưa nhận thức đầy đủ sự cần thiết phải chuyển hướng triệt để, nên tuy đã hạn chế bớt một số hoạt động phô trương, lộ liễu nhưng vẫn còn lại khá nhiều những biểu hiện chủ quan, hình thức, nếu không thay đổi thì có thể nguy hiểm đến cuộc vận động yêu nước của Việt kiều.
Điều đáng chú ý là anh em hoạt động trên đất Thái-lan mà ít chú ý đọc báo chí Thái-lan để theo dõi thái độ chính trị của nhà đương cục như thế nào. Ở U-đon, tôi xem mấy tờ báo Thái- lan thấy họ tung tin vu khống Việt kiều vi phạm trật tự trị an, đốt nhà và cướp của ở nơi này nơi khác. Tuy nhiên đó là những tin tức bịa đặt vu khống hoàn toàn trái ngược với sự thật. Nhưng rõ ràng họ đang chuẩn bị dư luận cho một cuộc đàn áp Việt kiều.
Tôi bàn với Đặc ủy triệu tập một cuộc hội nghị mở rộng, gồm tất cả cán bộ phụ trách các Chi bộ Đảng, các Chi hội Việt kiều cứu quốc địa phương để giải quyết một số vấn đề về nhận thức tình hình và phương hướng công tác lâu dài của Việt kiều.
Hội nghị được tiến hành trong ba ngày 15, 16, 17 tháng 8 năm 1948.
Qua báo cáo của Đặc ủy và các đại biểu địa phương đến dự hội nghị, có thể khái quát tình hình hoạt động yêu nước của Việt kiều như sau:
Tháng 3-1946, Việt kiều ở Lào tản cư sang Thái-lan, nâng tổng số Việt kiều từ 4-5 vạn lên tới 9-10 vạn người. Bà con tản cư được kiều bào cùng với nhân dân và Chính phủ tiến bộ Thái-lan tận tình giúp đỡ, nên sớm ổn định được đời sống. Trong năm 1946, Đặc ủy và kiều bào đã tổ chức được chi đội Trần Phú, đưa về Nam bộ tham gia kháng chiến. Năm 1947 tổ chức hai đoàn Cửu Long I và Cửu Long II mang vũ khí về nước. Sau ngày kháng chiến toàn quốc bùng nổ, hàng ngàn thanh niên Việt kiều xung phong tòng quân, sang mặt trận Lào và Cam-pu-chia giúp nhân dân hai dân tộc bạn đánh Pháp xâm lược. Địa bàn Thái-lan trở thành hậu phương của “Mặt trận miền Tây”. Ở nhiều tỉnh giáp biên giới Lào và Cam-pu-chia có cơ sở huấn luyện quân đội, sản xuất và sửa chữa vũ khí cho mặt trận. Nhiều khi cơ quan chỉ huy của các đặc khu đóng trên đất Thái-lan, anh em chiến sĩ sang Lào hoặc Cam-pu-chia đánh giặc rồi trở về Thái- lan an dưỡng và huấn luyện. Trong hai năm 1946-1947, Chính phủ Pri-đi rất nhiệt tình ủng hộ cuộc kháng chiến của ta, đã giúp đỡ Việt kiều tản cư có công ăn việc làm, còn giúp cả một số vũ khí cho ta đưa về nước, và mặc nhiên để cho Việt kiều hoạt động yêu nước trên đất Thái-lan với một thiện cảm rõ rệt.
Trong điều kiện thuận lợi như thế, cán bộ cũng như kiều bào không tránh khỏi chủ quan, có một số việc làm vi phạm chủ quyền của nước sở tại mà không tự biết, như treo cờ đỏ sao vàng ở nhiều nơi, cán bộ và chiến sĩ mang vũ khí đi lại tự nhiên trên đất Thái-lan. Khi anh Trần Văn Giầu ở Băng-cốc ra thăm Việt kiều ở Đông Bắc, thì bố trí đón tiếp nghi vệ, có cả bộ đội Việt kiều bồng súng chào v.v… Một số cán bộ công khai biểu thị mình là người cộng sản. Tài liệu, sách báo cộng sản được để ngay ở trụ sở Hội Việt kiều cứu quốc và ở hiệu sách “Thay-mày”. Ngay cái tên đặt cho hiệu sách: Thay-mày có nghĩa là nước Thái mới, hoặc người Thái mới, cũng tỏ rõ một ý thức chính trị không chặt chẽ.
Cán bộ cũng như kiều bào, đầy nhiệt tình yêu nước, rất tự hào về cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, về lãnh tụ vĩ đại của mình. Nhưng anh em chưa có một nhận thức toàn diện về địa bàn hoạt động của mình và về địa vị chính trị của mình trên đất Thái-lan.
*

Trong hội nghị Đặc ủy mở rộng, tôi đã nêu lên một số vấn đề để anh em thảo luận, và phát biểu một số ý kiến, tập trung vào mấy điểm chính:
Trước hết tôi nói về vị trí chiến lược của địa bàn Thái-lan:
Từ ngày Đảng ta thành lập, Đảng bộ Việt kiều Thái-lan đã có những đóng góp quan trọng, nhất là thời kỳ hoạt động của Đông Dương viện trợ bộ sau khi cao trào Xô-viết Nghệ-Tĩnh thất bại; tiếp đến thời kỳ tổ chức Việt kiều Thái-Lào tham gia cuộc cách mạng 1945 ở Lào. Ngày nay cuộc kháng chiến của nhân dân ta đang ở trong giai đoạn khó khăn, bị bao vây bốn phía, Đảng bộ Việt kiều ở Thái-lan đóng một vai trò rất quan trọng. Nhờ có cơ sở kiều bào đông đảo với truyền thống cách mạng sâu sắc, lại được mấy năm trước đây Chính phủ tiến bộ Thái-lan tạo điều kiện thuận lợi cho Việt kiều hoạt động yêu nước, nên địa bàn Thái-lan đã trở thành cửa ngõ duy nhất cho cuộc kháng chiến Việt Nam và Đông Dương thông ra quốc tế. Muốn liên lạc được với các Đảng anh em, các nước trong phe xã hội chủ nghĩa và dân chủ nhân dân, thì nhất thiết phải giữ cho được cửa ngõ này. Muốn tranh thủ được sự ủng hộ của thế giới bên ngoài, làm cho nhân dân Pháp cũng như nhân dân thế giới hiểu rõ chính nghĩa của cuộc kháng chiến Việt Nam, phản đối sự xâm lược tội ác của đế quốc Pháp, cũng phải ra sức giữ vững cửa ngõ quốc tế này. Muốn tiếp tế về nước những khí tài, vật liệu cần thiết cho kháng chiến, càng phải giữ vững cửa ngõ Thái-lan. Do đó địa bàn Thái-lan có vị trí chiến lược vô cùng quan trọng đối với cách mạng Việt Nam và Đông Dương trong giai đoạn hiện tại. Cũng do đó trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi kiều bào đều phải giữ vững cái chỗ đứng của mình ở trên đất Thái-lan.
Tiếp đó tôi nói về địa vị chính trị của Việt kiều và đường lối ngoại giao nhân dân Việt-Thái thân thiện.
Muốn gánh vác được nhiệm vụ nặng nề trên địa bàn chiến lược quan trọng này, trước hết mỗi cán bộ, đảng viên phải nhận rõ mình và quần chúng Việt kiều chỉ là những kiều dân ăn nhờ, ở độ trên đất nước người. Đã là kiều dân, thì dù có được điều kiện hoạt động thuận lợi đến đâu cũng phải tôn trọng pháp luật, phong tục tập quán của nước người ta. Mấy năm qua, do được Chính phủ tiến bộ Thái-lan và nhân dân Thái-lan giúp đỡ nên kiều bào đã làm được nhiều việc quan trọng. Nhưng anh em cán bộ cũng như kiều bào thường coi nhẹ vấn đề này. Một số hình thức hoạt động mà anh em đã làm từ năm 1940-1947, như treo cờ đỏ sao vàng tràn lan là không đúng đâu. Theo luật quốc tế thì bất cứ nước nào, cờ ngoại quốc chỉ được treo ở cơ quan đại diện quốc gia của mình mà thôi. Các việc đóng quân, luyện quân, lập binh công xưởng trên đất Thái-lan chỉ có thể làm được khi mà Chính phủ tiến bộ Thái-lan hoàn toàn đồng tình, ủng hộ cuộc cách mạng của nước ta. Tuy nhiên cũng phải làm một cách kín đáo. Những hình thức phô trương như cán bộ ở Mặt trận miền Tây về cứ mang vũ khi đi ngênh ngang, cho bộ đội bồng súng chào v.v… là vi phạm nguyên tắc trong quan hệ quốc gia mà các đồng chí không biết.
Trước đây Chính phủ tiến bộ và nhân dân Thái-lan thông cảm sâu sắc với ta nên mặc nhiên để cho ta làm, nhưng các hoạt động phô trương, hình thức như trên vẫn làm cho một số người không đồng tình, và có thể là mục tiêu cho những phần tử khiêu khích phá hoại mối tình Việt – Thái thân thiện.
Từ sau cuộc đảo chính 11-1947, phái phản động Thái-lan lên cầm quyền, các đồng chí đã hạn chế một phần các hoạt động phô trương nói trên; nhưng nội dung và hình thức hoạt động hiện nay vẫn còn nhiều biểu hiện chủ quan, lộ liễu, có thể gây hậu quả xấu. Ngày nay cần phải thanh toán triệt để những hình thức hoạt động xã hội không thỏa đáng nói trên.
Tránh lộ liễu, tránh khiêu khích chỉ mới là một mặt. Muốn đối phó với sức ép của thế lực phản động Thái-lan, chúng ta cần tranh thủ cho được cảm tình sâu sắc của nhân dân Thái-lan. Đây mới là biện pháp căn bản và lâu dài. Trước đây Hồ Chủ tịch đã giáo dục cán bộ và kiều bào ta gần gũi, thân thiện với nhân dân Thái-lan. Cố Đi đã thực hiện tốt và vận động kiều bào làm việc này. Ngày nay cách mạng Việt Nam thắng lợi, nhân ta đã có chính quyền, chúng ta càng phải đề cao khẩu hiệu Việt – Thái thân thiện. Một mặt chúng ta luôn tỏ rõ tinh thần yêu mến nhân dân Thái-lan, tôn trọng phong tục tập quán và pháp luật của nước Thái. Mặt khác chúng ta làm cho nhân dân bạn hiểu rõ chính nghĩa của cuộc kháng chiến Việt Nam, đồng tình và bảo vệ Việt kiều hoạt động yêu nước, phản đối sự khủng bố, đàn áp của Chính phủ Thái-lan. Chẳng những tranh thủ cảm tình của nhân dân lao động, mà còn tranh thủ cảm tình của các nhân sĩ và các quan chức. Ngày nay đương cục Thái-lan tuy đã nắm được Chính phủ Trung ương, nhưng chưa với tay đến hết các địa phương, nếu các quan chức địa phương đồng tình với hoạt động yêu nước của Việt kiều thì chúng ta vẫn giữ được một điều kiện thuận lợi rất lớn.
*

Sau khi xác định mấy phương châm lớn, tôi nêu lên cho anh em thảo luận một số biện pháp cụ thể. Có người cho rằng Phi-bun tuy bản chất chống Cộng, nhưng bấy lâu nay còn bận đối phó với tình hình nội bộ, thanh toán lực lượng chống đối trong nhân dân Thái-lan, chưa thể rảnh tay để đàn áp Việt kiều. Cách suy nghĩ hoàn toàn không chính xác, nó dẫn tới hành động chủ quan, mất cảnh giác. Qua báo chí hàng ngày, chúng ta đã thấy rõ Chính phủ Thái-lan đang chuẩn bị dư luận để đàn áp Việt kiều, chúng ta phải tích cực chuẩn bị để đối phó, và phải có ngay những biện pháp cụ thể.
Phải dẹp lại ngay các hành động phô trương, lộ liễu trước đây, nhưng vẫn phải giữ vững và phát huy tinh thần yêu nước của quần chúng Việt kiều. Cờ đỏ sao vàng và ảnh Hồ Chủ tịch là biểu tượng thiêng liêng đối với kiều bào, ta không thể bỏ hẳn đi. Nhưng để tránh khiêu khích, ta sẽ vận động kiều bào đưa cờ ảnh vào nhà, trang trí thành ra bàn thờ Tổ quốc. Nếu họ còn can thiệp, thì ta sẽ nói đó là tín ngưỡng của nhân dân, kiều bào có thể dùng lý lẽ đấu tranh để bảo vệ quyền yêu nước của mình.
Việc đi lại của cán bộ và kiều bào cần phải hết sức tranh thủ được mọi sự thuận lợi. Trước đây Đặc uỷ có chủ trương không nên để kiều bào lấy giấy “tàng đạo”, là giấy chứng nhận kiều dân, để được tự do đi lại trên đất Thái-lan, vì các đồng chí sợ rằng một khi đã lấy giấy “tàng đạo” thì sẽ mất danh nghĩa là những người dân lánh nạn chiến tranh. Chủ trương này không đúng, tự mình gây ra trở ngại cho mình và cho kiều bào trong sự đi lại, làm ăn hàng ngày. Việc lấy giấy “tàng đạo” tuy có tốn kém, mỗi giấy phải nộp mấy trăm bạc, nhưng chúng ta phải tạo điều kiện cho cán bộ và kiều bào sớm được tư thế hợp pháp để làm ăn đi lại hoạt động yêu nước.
Hình thức hợp pháp là điều rất cần thiết, cần phải làm ngay. Nhưng đó chưa phải là điều căn bản nhất. Điều căn bản nhất là phải ra sức củng cố lực lượng đoàn kết, đấu tranh của kiều bào. Về mặt tổ chức, phải vững chắc, nhưng gọn nhẹ, kín đáo. Hội Việt kiều cứu quốc ngày nay còn được hoạt động, nhưng phải dự kiến một ngày kia sẽ bị cấm, ta phải sẵn sàng chuyển sang hình thức “Việt kiều cứu tế” để tránh màu sắc chính trị. Như vậy một khi Chính phủ Thái-lan cấm Việt kiều không được hoạt động chính trị thì ta sẽ không bị động. Hiện nay một số cán bộ thoát ly phải hạn chế lại thật ít. Cán bộ đảng cũng như cán bộ Hội Việt kiều cứu quốc cần bám sát quần chúng và dựa hẳn vào quần chúng, sống và làm ăn như mọi kiều bào, không để cho người Thái nhận biết mình là người hoạt động chính trị.
Dựa vào kiều bào để giữ gìn bí mật, đồng thời mỗi cán bộ đều phải hết sức tuân theo những nguyên tắc hoạt động bí mật trong cách sống và làm việc hàng ngày. Hội nghị đã thảo luận mấy biện pháp cụ thể sau đây: Cơ quan làm việc và trong nhà cán bộ phải dọn dẹp hết các thứ vũ khí, quân trang, cũng như sách báo tài liệu “đỏ”. Chiến sĩ từ Mặt trận miền Tây trở về trong kiều bào không được mặc quần áo nhà binh, mang vũ khí như trước. Cán bộ không được mang theo trong mình các tài liệu chính trị, phòng khi bị bắt thì cảnh sát cũng không có chứng cớ để buộc tội mình. Trong vòng năm ngày, mọi cơ quan, cán bộ đều phải chấp hành triệt để các biện pháp trên. Ai không thực hiện nghiêm chỉnh, để xảy ra bắt bớ, tổn thất cho cách mạng là có tội với nhân dân, với Tổ quốc.
*

Trong khi thảo luận các chủ trương, biện pháp, các đồng chí đã liên hệ với các hoạt động cụ thể ở địa phương mình. Có đồng chí phụ trách Chi hội Việt kiều cứu quốc Na-khon nói, ngay lúc này kiều bào Na-khon đang chuẩn bị rước đuốc thật rầm rộ để kỷ niệm ngày Tổng khởi nghĩa 19 tháng 8. Anh em quyết định để đồng chí về ngay địa phương mình lập tức đình chỉ cuộc rước đuốc.
Sau khi cuộc hội nghị mở rộng đã giải quyết xong các vấn đề chung, tôi họp riêng với một số cán bộ, đảng viên trung kiên, nói rõ thêm về trách nhiệm lãnh đạo của Đảng để bảo đảm cho các nghị quyết được thực hiện. Anh em đánh giá kết quả cuộc hội nghị mở rộng vừa qua là đã mở mang nhận thức cho cán bộ, đảng viên nắm được nhiệm vụ, phương châm hoạt động một cách có hệ thống.
Tôi ở lại U-đon thêm một thời gian để theo dõi tình hình. Khoảng cuối tháng 8, các đồng chí báo cáo cho biết ở một số địa phương xảy ra việc khám xét nhà cán bộ và cơ quan Hội Việt kiều cứu quốc, cảnh sát Thái-lan đón các ngả đường ra vào U-đon để kiểm soát Việt kiều, nhưng họ không bắt được tài liệu, vũ khí gì cả. Điều đó chứng tỏ anh em cán bộ địa phương đã chấp hành nghị quyết của hội nghị một cách nghiêm chỉnh.
Cuộc hội nghị tháng 8-1948 ở U-đon vừa là cơ sở cho việc duy trì, phát triển hoạt động yêu nước của Việt kiều, vừa là cơ sở để giải quyết vấn đề đoàn kết nội bộ. Thật ra những điều lủng củng trước đây trong một số cán bộ chủ chốt chẳng qua là do phong cách làm việc không hợp nhau. Nhưng trong khi mà đường lối hoạt động chưa được rõ ràng thì những sự khác nhau lặt vặt thường dẫn tới mâu thuẫn, mất đoàn kết. Một khi đường lối hoạt động đã được vạch rõ thì những điều lặt vặt không ăn ý nhau sẽ được dẹp đi.
Trong khi gần gũi các đồng chí cán bộ chủ chốt, tôi phê bình thái độ sai lầm của một số anh em không tích cực ủng hộ các hoạt động của Phái đoàn Chính phủ ở Băng-cốc. Có thể là một số đồng chí ở Băng-cốc cũng có khi có sự phóng túng trong sinh hoạt và hành động, nhưng đó không phải là vấn đề chính trị cơ bản. Tôi phải thuyết phục các đồng chí phụ trách kiều bào ở Đông Bắc khá nhiều về điểm này: Trước kia, cách mạng chưa nắm chính quyền, tất cả anh em cán bộ đều ăn ở kham khổ như nhau. Ngày nay, chún ta đã giành được chính quyền Nhà nước, những người đóng vai đại diện Nhà nước phải có cái bề thế trang trọng. Chúng ta ủng hộ các đồng chí đại diện Nhà nước không phải là vì cá nhân các đồng chí đó, mà là vì lợi ích dân tộc, vì lợi ích cách mạng. Một vài cá nhân nào đó có thể phạm sai lầm trong sinh hoạt, ta cần nghiêm khắc phê bình, xây dựng. Nhưng không nên lẫn lộn việc phê bình cá nhân với việc ủng hộ hoạt động của một cơ quan đại diện Nhà nước. Nhất là trước mặt Chính phủ và nhân Thái-lan, biểu hiện sự ủng hộ của quần chúng Việt kiều đối với người đại diện Nhà nước là một điều rất quan trọng.
Khi đã nhận rõ ý thức chính trị anh em trong cơ quan, mấy đồng chí trước kia thành kiến với anh em trong cơ quan Phái đoàn Chính phủ ở Băng-cốc đã thay đổi thái độ. Mối quan hệ được cải thiện tốt đẹp hơn.

II. Chỉnh đốn công tác phái đoàn ở Băng-cốc và ở Răng-gun
Từ U-đon, tôi đi một vài địa phương để xem xét việc thực hiện nghị quyết hội nghị vừa qua và thăm mấy gia đình cơ sở cách mạng rồi vào Băng-cốc.
Ở Băng-cốc hồi này có cơ quan của Phái đoàn Chính phủ ta, cơ quan Thông tấn xã Việt Nam và một cơ sở bí mật tiếp tế về nước trực thuộc Ủy ban kháng chiến Nam bộ.
Trong thời gian từ 1946 đến 1948, các đồng chí ở đây đã làm được một số việc góp phần vào công cuộc kháng chiến ở trong nước và tuyên truyền ảnh hưởng của Việt Nam ra ngoài nước. Nhưng nhìn chung thì công tác còn thiếu toàn diện, nơi ăn chỗ ở thì luộm thuộm chưa có bề thế một cơ quan Đại diện Chính phủ ở một nước nào đó là phải quản tất cả các hoạt động của nước mình trên đất nước sở tại, để nắm rõ tình hình và thống nhất chỉ đạo. Thế nhưng cơ quan Phái đoàn của chính phủ ta ở đây lại chỉ nắm một số hoạt động có tính chất đối ngoại, còn công việc của các ngành khác thì hầu như không quan tâm và cũng không đủ sức với tới.
Như vậy, muốn chỉnh đốn công tác của Phái đoàn, trước hết là phải có một hình thức tổ chức nào đó để đảm bảo sự liên hệ giữa Phái đoàn với các ngành khác, như bộ phận vận động Việt kiều, bộ phận quân sự miền Tây, bộ phận tiếp tế v.v… được sát sao hơn, thì công tác mới tiến hành được thuận lợi.
Tôi đưa ra ý kiến này bàn với anh Quì và một vài anh trong Đặc ủy thì mọi người đều thấy là hợp lý. Tiếp đó, tôi báo cáo Trung ương xin cho lập một ban cán sự lấy tên là Ban cán sự Trung ương ở hải ngoại để lãnh đạo toàn diện các mặt công tác phải tiến hành trên địa bàn Thái-lan. Những công tác ấy là:
  • Tổ chức, động viên Việt kiều Thái-lan đoàn kết yêu nước, ủng hộ kháng chiến và giữ vững “cửa ngõ” thông ra quốc tế cho công cuộc kháng chiến Việt Nam và Đông Dương.
  • Chỉnh đốn công việc giúp Lào và Cam-pu-chia từ phía Tây.
  • Chỉ đạo công tác tiếp tế về nước. Công tác này trước đây là một ngành hoạt động riêng, không tham gia sinh hoạt với Đảng bộ ở đây, nay dặt dưới sự chỉ đạo của Ban cán sự Trung ương.
  • Chỉ đạo công tác đối ngoại, gồm cả việc tuyên truyền quốc tế, hoạt động của các đại diện chính phủ ở Thái-lan, Miến Điện.
  • Liên lạc và hướng dẫn việc hoạt động của cán bộ ở các nơi khác như ở Pháp, ở Tiệp.
Ban cán sự Trung ương do tôi là Bí thư, anh Quì là Phó Bí thư và một số đồng chí phụ trách các ngành là ủy viên, như anh Hồng, anh Song Tùng trong Đặc ủy Việt kiều; anh Khanh, anh Bỉnh trong Ban chỉ đạo Mặt trận miền Tây; anh Cao Hồng Lĩnh và anh Dung Văn Phúc đang phụ trách một bộ phận tiếp tế.
*

Được sự đồng ý của Trung ương, Ban cán sự Trung ương vừa thành lập xong, đang chuẩn bị họp bàn việc chỉnh đốn cơ quan Phái đoàn ở Băng-cốc, thì phát hiện việc Lê Hy tùy tiện bỏ cương vị đi đâu không ai biết, Lê Hy trước kia hoạt động ở Nam bộ, khi Nam bộ bắt đầu kháng chiến thì chuyển sang Thái-lan, phụ trách Thông tấn xã Việt Nam, bên cạnh Phái đoàn Chính phủ.
Trong công tác, Lê Hy thường đi lại giao thiệp với Sứ quán Liên Xô ở Băng-cốc. Do sự thông cảm giữa các đồng chí Liên Xô với ta, trong hoàn cảnh hoạt động ở một nước thuộc hệ thống tư bản chủ nghĩa, mà nhiều khi các đồng chí Liên Xô không đòi hỏi thủ tục giấy tờ phiền phức, chỉ cần nói miệng là được các đồng chí giúp đỡ tận tình.
Khoảng tháng 9-1948, Lê Hy nhân lúc anh Quì đi Đông Bắc, đã lợi dụng địa vị công tác của mình tự ý đi đến Sứ quán Liên Xô nói dối là Đảng định phái anh ta đi Mạc Tư Khoa để phát hành bản thông tin Việt Nam. Thế là Sứ quán Liên Xô giúp đỡ tận tình và làm thủ tục cho anh ta đi Liên Xô.
Lê Hy đi một thời gian rồi mà anh em ở cơ quan Phái đoàn Chính phủ và ở Thông tấn xã Việt Nam vẫn không hay biết gì cả. Khi anh Quì ở Đông Bắc về, cảnh sát Thái-lan hỏi Lê Hy đi đâu, anh Quì trả lời là chưa biết.
Khi tôi đến Băng-cốc, nghe anh Quì báo cáo, tôi phán đoán có hai khả năng: Hoặc là Lê Hy đã bị cảnh sát Thái-lan bắt, nhưng họ giả vờ hỏi; hoặc là Lê Hy thấy tình thế khó khăn, đã bỏ nhiệm vụ đi ẩn náu ở một nơi nào trên đất Thái-lan.
Sau khoảng hơn một tháng, Sứ quán Liên Xô thông báo cho biết Lê Hy đã tới Mạc Tư Khoa an toàn thì anh em mới yên tâm. Có điều là anh em chỉ thấy yên tâm về việc Lê Hy không bị bắt, mà không biết đặt thành vấn đề cảnh giác trước một hành động vô kỷ luật nghiêm trọng như thế. Nhất là khi ra đi, Lê Hy còn đem theo cả một anh người Úc, nói là đảng viên cộng sản, do anh Phạm Ngọc Thạch đưa từ Xin-ga-po về, giúp ta trong việc phiên dịch Anh văn ở cơ quan Thông tấn xã Việt Nam tại Băng-cốc.
Được báo cáo về vấn đề này, tôi bàn với anh Quì rằng, việc Lê Hy bỏ cương vị công tác là một hành động vô nguyên tắc, có khi không phải chỉ vì sợ sệt, mà có thể còn có nguyên nhân chính trị gì chăng? Vậy trước mắt phải tìm cách hạn chế ngay những hậu quả xấu có thể xảy ra. Đối với đương cục Thái-lan nếu họ hỏi lại lần nữa, anh Quì sẽ trả lời là anh ta đi thăm bà con Việt kiều ở các địa phương hoặc đi công việc riêng trong khi tôi không có mặt ở Băng-cốc nên không rõ, một thời gian nữa chắc sẽ có tin. Đối với Sứ quán Liên Xô thì phải thông báo ngay cho các cho các đồng chí biết việc Lê Hy đi là một hành động tự do vô kỷ luật mà cơ quan Đại diện Chính phủ Việt Nam ở Băng-cốc hoàn toàn không biết trước, và đề nghị các đồng chí báo cáo ngay việc này về nước cho Trung ương Đảng và Chính phủ Liên Xô biết, để khỏi hiểu lầm đối với Đảng và Chính phủ ta, và ngăn chặn những việc làm vô nguyên tắc của Lê Hy ở Mạc Tư Khoa.
Về sau tìm hiểu thêm, chúng tôi được biết Lê Hy hành động vô kỷ luật như vậy là do y đã chịu ảnh hưởng tư tưởng sai lầm của Trần Ngọc Danh, Đại diện Chính phủ ta ở Pháp.
Danh và Hy là cán bộ của Đảng, xa rời thực tế cách mạng trong nước. Họ đọc nhiều sách vở lý luận, nhưng không tiêu hóa tốt, nên đã phạm sai lầm. Họ không hiểu vì sao Đảng ta đã nắm chính quyền mà chỉ nêu cao khẩu hiệu độc lập, thống nhất dân tộc, chứ chưa nói ngay đến việc làm cách mạng ruộng đất, chưa có chủ trương hạn chế chủ nghĩa tư bản ở trong nước, và chưa lên tiếng đả kích đế quốc Mỹ như các Đảng Liên Xô, Trung Quốc và các Đảng Đông Âu đã làm và đang làm. Họ không hiểu rằng từ năm 1945-1946, trong hoàn cảnh chính quyền cách mạng Việc Nam còn trứng nước, phải đối phó với nhiều loại thù trong giặc ngoài, Hồ Chủ tịch và Trung ương Đảng đã vận dụng sách lược mềm dẻo, khôn khéo, thêm bạn bớt thù, cố tránh những mũi nhọn đả kích có thể tránh được để tập trung lực lượng vào kẻ thù cụ thể số một trước mắt là đế quốc Pháp xâm lược.
Hiểu sai lầm về đường lối của Đảng đã là nguy hiểm, họ còn đi xa hơn nữa: Một người ở Pháp, một người ở Thái-lan, bí mật trao đổi với nhau những tư tưởng hoài nghi, chống Đảng, hẹn nhau tìm cách sang Liên Xô và Đông Âu để làm một việc bậy bạ là nói xấu Đảng ta. Trong khi Lê Hy ở Băng-cốc chuẩn bị đi thì Trần Ngọc Danh ở Pa-ri đã tự ý tuyên bố giải tán cơ quan Đại diện Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở Pháp và đòi sang Tiệp.
Còn Lê Hy thì vẫn tưởng rằng đã lừa được Đại sứ Liên Xô ở Băng-cốc rồi, thì mọi chuyện đều xong xuôi, không ngờ Chính phủ Liên Xô đã biết được hành động vô nguyên tắc của y nên đã không cho ở Mạc Tư Khoa và bắt buộc phải dời sang Tiệp. Ở đây, Danh và Hy lại tìm cách lung lạc mấy đồng chí đại diện Thanh niên, Công đoàn Việt Nam ở Pra-ha, nhưng anh em không nghe theo.
Việc này cuối năm 1949 tôi đi qua Tiệp thì mới có dịp gặp Trần Ngọc Danh và Lê Hy để phê bình họ.

*

Việc Lê Hy tự ý sang Liên Xô là một biểu hiện đột xuất rất nghiêm trọng, có tính cách cá biệt, nhưng phần nào cũng có liên quan đến lề lối làm việc thiếu chặt chẽ hồi này ở Băng-cốc. Một vài anh em phụ trách công tác đối ngoại ở đây cũng có phần phóng túng trong sinh hoạt. Thấy Pri-đi là người có tư tưởng xã hội, có nhiệt tình ủng hộ Việt Nam kháng chiến, có đồng chí đã tự xưng mình là cộng sản, đi đâu cũng nói chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa xã hội, phong cách này dẫn đến một kết quả trái ngược là những người cộng sản ở một số nước như Thái-lan, Mã-lai, Miến Điện, thì hoài nghi đồng chí này có phải là cộng sản chân chính không? Nhưng nhiều người trí thức tiểu tư sản lại hiểu lầm đồng chí đó là lãnh tụ quan trọng của Đảng Cộng sản Đông Dương trong khi Chính phủ phản động Thái-lan rất chú ý theo dõi và chuẩn bị tóm bắt.
Trung ương Đảng được báo cáo về tình hình này, đã quyết định điều động ngay đồng chí đó về nước. Tôi phải thuyết phục khá nhiều mới bố trí đưa được đồng chí về nước để tránh khỏi sự rắc rối trong tình hình chính trị Thái-lan đang chuyển biến ngày càng xấu.
Trong công tác đối ngoại và tuyên truyền quốc tế hồi này, các đồng chí ở Băng-cốc đã làm được nhiều việc: Đặt cơ quan Phái viên Chính phủ ở Miến Điện, do anh Trần Văn Luân phụ trách; mở rộng quan hệ ngoại giao giữa Phái đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với Sứ quán các nước ở Băng-cốc như Liên Xô, Ấn Độ, Miến Điện, Pa-ki-xtan và In-đô-nê-xi-a; đặt liên hệ với các đoàn thể Thanh niên, Công đoàn thế giới, có bộ phận thường trực ở Tiệp Khắc; Thông tấn xã Việt Nam ở Băng-cốc ra được bản tin tiếng Anh Vietnam News gửi đi nhiều nước và gửi đến kiều bào ở các nơi trên thế giới.
Tuy nhiên trong khi làm được nhiều việc, cũng thấy có chỗ hình thức phô trương không cần thiết.
Các đồng chí đã lập ra một cơ quan gọi là “Ban liên lạc quốc tế của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”, có trụ sở công khai ở Băng-cốc, liên hệ rộng rãi, hoạt động sôi nổi. Báo chí phương Tây đã tung tin rằng đây là một thứ bàn giấy của “Cô-min-phooc” [3] ở Đông Nam Á. Tôi đề nghị giải tán “Ban liên lạc quốc tế” này để lấy cán bộ tăng cường cho công tác đối ngoại và thông tin ở Băng-cốc và Răng-gun, đẩy mạnh hoạt động về thực chất, để tránh khỏi sự chú ý của Chính phủ phản động Thái-lan.
Nhìn vào cách ăn ở của cơ quan Phái đoàn Chính phủ ở Băng-cốc thấy rất luộm thuộm, chưa có thể thống của một cơ quan đại diện quốc gia. Nhân viên công tác thì đi đứng, ăn mặc rất tùy tiện. Tôi bàn với anh em thuê hẳn một biệt thự tương đối đàng hoàng để tách rời Phái đoàn Chính phủ ra khỏi chỗ làm việc của cơ quan thông tin, và xây dựng một nếp sống trong cơ quan vừa bình đẳng thân ái vừa nghiêm túc, mọi người phục vụ công tác với tinh thần cách mạng cao, trong tư thế của một cơ quan nhà nước có kỷ luật chặt chẽ. Anh em đã tìm được một ngôi nhà khá tốt ở phố Xả-thon, đủ nơi làm việc và ăn ở cho vài chục cán bộ, có sân, vườn rộng rãi và kín đáo, có bộ mặt là một cơ quan của phái đoàn Chính phủ. Nề nếp sinh hoạt và công tác cũng được chỉnh đốn hơn trước.
Ở Răng-gun, cơ quan Phái viên quán của anh Trần Văn Luân còn lùi xùi hơn ở Băng-cốc. Có khi người ta mời Đại diện Chính phủ Việt Nam đi dự tiệc mà vợ chồng anh Luân phải thuê xe xích lô để đi. Muốn giữ thể diện, không để người ngoài thấy cảnh thiếu thốn của mình, các đồng chí phải xuống xe cách nơi dự tiệc khoảng nửa cây số rồi đi bộ tới.
Thật ra hồi này công quỹ của ta ở ngoài nước rất nghèo. Tiền bạc Việt kiều ủng hộ chỉ có hạn, tuy rằng kiều bào rất hăng hái đóng góp. Sự cung cấp của Chính phủ từ trong nước lại càng khó khăn. Nhưng chúng ta không thể giữ nguyên tình trạng lùi xùi như thế trong công tác ngoại giao. Tôi đề nghị Ban cán sự chuẩn y cho cơ quan Đại điện Chính phủ ta ở Răng-gun mua một chiếc ô tô nhỏ làm phương tiện đi lại trong khi hoạt động đối ngoại.
*

Khoảng cuối năm 1948 đầu năm 1949, Ban cán sự Trung ương triệu tập hội nghị cán bộ làm công tác đối ngoại ở các nơi về Băng-cốc để thảo luận một số vấn đề hoạt động ngoại giao và tuyên truyền. Anh Trần Văn Luân, Đại diện Chỉnh phủ ở Răng-gun cũng về dự.
Trong hội nghị này anh em nêu ra nhiều vấn đề, và tôi cũng có dịp trình bày một số ý kiến về nguyên tắc hoạt động đối ngoại:
Vấn đề quan trọng hàng đầu trong hoạt động đối ngoại là phải giữ vững và thể hiện được đường lối và chính sách của Chính phủ ta. Trong sự quan hệ và tiếp xúc hàng ngày, người cán bộ công tác đối ngoại phải luôn luôn giữ nguyên tắc, chống mọi biểu hiện tự do cá nhân, thoát ly đường lối, chính sách của Chính phủ. Trong công tác đối ngoại mỗi hành động sai nguyên tắc đều có thể gây thiệt hại đến việc lớn của quốc gia [4] .
Một số đồng chí thường băn khoăn về cách ăn mặc, nói năng, tiếp đãi phải như thế nào. Những điều đó đều phải chú ý, nhưng vấn đề căn bản là phải giữ được thể diện của quốc gia, không thể để cho người ta coi thường hoặc hiểu lầm về quốc gia mình. Vì vậy, có khi bề trong chúng ta hết sức tiết kiệm, dè sẻn, nhưng bề ngoài ta phải có cái bề thế của một cơ quan đại diện quốc gia, nhất là những người làm ngoại giao phải hết sức nghiêm túc và đứng đắn.
Cũng trong dịp này, tôi nói thêm về đường lối ngoại giao nhân dân. Bất cứ ở nước nào, công tác ngoại giao cũng cần tranh thủ được sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân nước đó đối với cuộc kháng chiến chống đế quốc của dân tộc ta. Không chỉ cán bộ ngoại giao làm công tác ngoại giao, mà chính là phải vận động quần chúng Việt kiều tham gia công tác ngoại giao nhân dân. Đường lối ngoại giao nhân dân càng có ý nghĩa quyết định khi mà trên thế giới chưa có một nước nào chính thức công nhận chính phủ kháng chiến của ta. Cho đến năm 1948-1949 ngay cả Liên Xô và các nước Đông Âu cũng chưa thừa nhận chính phủ ta, còn Trung Quốc thì chưa giành được thắng lợi trong phạm vi cả nước.
Để phát triển công tác ngoại giao nhân dân, việc thông tin tuyên truyền ở Băng-cốc cũng được cải tiến một bước. Cuối năm 1948 ra thêm bản tin bằng tiếng Thái lấy tên là Khào Việt Nam, nghĩa là Tin Việt Nam, có nội dung tuyên truyền đúng mức, được các nhà chùa, các nhân sĩ Thái-lan mua nhiều. Năm 1949, các đồng chí dịch cuốn sách Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch ra tiếng Thái, vận động người Thái viết lời tựa và xuất bản, để giới thiệu lãnh tụ kính yêu của dân tộc ta với nhân dân Thái-lan.
Nhìn chung mấy công việc đã giải quyết ở Băng-cốc đều có tính chất chỉnh đốn lề lối làm việc. Một mặt giữ vững cái thế hợp pháp và thế thống của cơ quan đối ngoại, mặt khác xây dựng một phong cách làm việc thận trọng chu đáo trong hoàn cảnh phải luôn luôn cảnh giác, đối phó với thế lực phản động có thể khiêu khích hoặc phá hoại mình.

III. Chỉnh đốn công tác giúp đỡ cách mạng Lào, Miên
Việc giúp đỡ cách mạng Lào và Cam-pu-chia là một nhiệm vụ quan trọng của Ban cán sự Trung ương. Công tác này đã được Đặc ủy ở Đông Bắc và các đồng chí phụ trách ở Băng-cốc tiến hành từ trước. Ngay khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Trung ương Đảng chỉ thị cho Đảng bộ Việt kiều ở Thái-lan tích cực chi viện mặt trận Lào và Cam-pu-chia từ phía tây. Các đồng chí đã thành lập ra “Ủy ban quân sự Mặt trận miền Tây” có anh Vũ Hữu Bỉnh phụ trách về mặt quân sự, các anh Trần Văn Giầu, và Lê Hữu Quán phụ Trách về mặt chính trị, các anh Xô, Khanh, Cung v.v… làm ủy viên.
Từ năm 1946 đến năm 1948, các đồng chí đã phân bố Mặt trận miền Tây từ Thượng Lào xuống Tây Bắc Cam-pu-chia thành 5 đặc khu. Phần lớn cán bộ Việt kiều đổ dồn sang Mặt trận miền Tây. Tiền của kiều báo đóng góp hàng triệu bạc cũng chi dùng phần lớn cho Mặt trận miền Tây.
Đối với các vị thành viên trong Chính phủ Lào Ít-xa-la lưu vong sang Thái-lan, các đồng chí ta ở Băng-cốc thường đi lại giúp đỡ cả về sinh hoạt lẫn chính trị. Nhưng khả năng giúp đỡ của ta rất có hạn, mà bọn gián điệp Pháp, Mỹ thì tung tiền ra lung lạc và lôi kéo một cách ráo riết làm cho những thành viên trong Chính phủ Lào dần dần bị phân hóa. Một số người không chịu nổi gian khổ, không nhìn thấy phương hướng kháng chiến lâu dài, đã lần lượt bỏ về Lào, như Cà-tày, Khăm-mão, Xu-va-na Phu-ma v.v… trong đó Cà-tày đã trở thành tay sai đắc lực cho Pháp chống lại kháng chiến. Chỉ còn Hoàng thân Xu-pha-nu-vông kiên trì đại nghĩa, nắm lực lượng cán bộ và quần chúng Lào ở Thái-lan, liên hệ mật thiết với anh em Việt Nam, có lúc có thắc mắc, nhưng rồi bỏ qua và tiếp tục sự nghiệp kháng chiến đến cùng. Trong khi đó ở các vùng Thượng, Trung và Hạ Lào đều có một số người tích cực chống Pháp, như Xi-thôn Cô-ma-dam, Xinh-ca-pô, Phu-mi Vông-vi-chít v.v… họ đều có sự liên hệ mật thiết với ta.
Về phía Cam-pu-chia, các đồng chí ta ở Băng-cốc đã liên hệ với một số người Khơ-me chống Pháp, bàn với họ lập ra ủy ban dân tộc giải phóng Cao Miên. Ủy ban này có lúc đã xây dựng được lực lượng đưa về đất Miên hoạt động ở vùng Biển Hồ, Bát-tăm-băng và vùng Tây Bắc Cam-pu-chia. Nhưng về sau trong nội bộ của họ mâu thuẫn nhau, mỗi người nắm một ít lực lượng, đánh lại nhau, một số trở thành người cướp bóc nhân dân.
Việt kiều ở Thái-lan cũng có một số đơn vị sang hoạt động trên đất Cam-pu-chia, anh em có khu căn cứ ở vùng núi Đăng-rếch, trên biên giới Cam-pu-chia –Thái-lan; đã tuyên truyền, vận động ở một số vùng có Việt kiều trên đất Cam-pu-chia, rồi đặt liên hệ với Ban cán sự Miên trực thuộc Ủy ban kháng chiến Nam bộ.
Khi tôi đến Băng-cốc thành lập Ban cán sự Trung ương thì các hoạt động của ta giúp đỡ kháng chiến Lào và Cam-pu-chia đang được xúc tiến. Có thể nói rằng sự cố gắng của cán bộ và kiều bào trong công tác này là rất lớn. Cuộc chiến đấu của các chiến sĩ Việt kiều trên Mặt trận miền Tây rất gian khổ và đầy tinh thần cách mạng. Tuy nhiên vấn đề tồn tại cũng còn khá nhiều.
Một hôm anh Quì cho tôi biết Hoàng thân Xu-pha-nu-vông muốn rời Băng-cốc đi nơi khác. Đây là một việc có ý nghĩa chính trị đột xuất. Hoàng thân Xu-pha-nu-vông vốn là người kiên quyết kháng chiến, liên hệ mật thiết với ta. Vì sao nay Hoàng thân lại muốn rời khỏi Băng-cốc mà đi?
Sau khi điều tra nghiên cứu, chúng tôi hiểu rằng việc này có liên quan đến một số hành động vô chính trị của anh em ta ở bên đất Lào. Việc đáng chú ý nhất là một đơn vị bộ đội ta ở Hạ Lào định tìm cách lấy súng của đơn vị bộ đội người Lào, vì anh em suy nghĩ một cách giản đơn rằng súng ấy vào tay mình sẽ được sử dụng có hiệu quả hơn. Việc này đã gây ra lủng củng to. Nguyễn Đình Hin cho biết Hoàng thân Xu-pha-nu-vông bất bình trước những hành động như thế và giảm sút lòng tin đối với sự giúp đỡ của ta.
Chúng tôi xác định rằng sự bất bình có Hoàng thân Xu-pha-nu-vông là có thể hiểu được, và bản chất của Hoàng thân không giống với những người đã bỏ cuộc trở về đất Lào trước đây. Điều đáng ngại là có một lực lượng nào đó đang lôi kéo ông, hoặc ông đang đi tìm một lực lượng nào giúp đỡ dân tộc Lào thay cho sự giúp đỡ của Việt Nam. Lực lượng này có thể là nhóm người Thái tự do vốn có quyền lợi liên quan đến vùng dân tộc Lào trên đất Thái-lan. Có thể xấu hơn nữa là bọn Mỹ đang muốn nắm những con bài để nhúng tay vào Đông Dương. Vô luận thế nào, việc tranh thủ lại lòng tin của Hoàng thân Xu-pha-nu-vông là rất cần thiết.
Tôi bàn với anh Quì phải gặp Hoàng thân ngay, tổ chức một bữa cơm thân mật như là để tiễn đưa, những phải nói rõ được hai vấn đề: Trước hết anh Quì thay mặt anh em Việt Nam ở đây chân thành thừa nhận với Hoàng thân rằng việc làm của đơn vị bộ đội tình nguyện ở Hạ Lào vừa rồi là sai lầm rất đáng tiếc, chúng tôi đã nghiêm khắc phê phán những người làm sai và đặt thành vấn đề phải trả lại số vũ khí đó.
Khi đã nói rõ được thái độ chân thành tự phê bình của ta rồi, còn làm cho Hoàng thân hiểu rằng chúng ta sẵn sàng giúp đỡ ông trong chuyến đi này, đồng thời phân tích rõ những người đang mời Hoàng thân đi với họ không phải là có thiện chí với nhân dân Lào và cuộc kháng chiến giành độc lập của Lào đâu. Ngày nay hai dân tộc Việt-Lào cùng chung một kẻ thù xâm lược là đế quốc Pháp cho nên có sự hợp tác chiến đấu Lào-Việt là đáng tin cậy hơn hết. Trong quá trình hợp tác chiến đấu, cán bộ cấp dưới có lúc phạm sai lầm, nhưng đường lối chính sách của Hồ Chí Minh và Chính phủ Việt Nam chúng tôi là hết sức chân thành, có thủy, có chung. Trong lúc này Hoàng thân tạm ra đi, chúng tôi thu xếp mua vé máy bay và phái một cán bộ cùng đi với Hoàng thân; sau này nếu gặp khó khăn xin Hoàng thân cứ trở lại để cùng nhau lo toan sự nghiệp lớn của hai dân tộc Lào- Việt.
Hoàng thân Xu-pha-nu-vông đi Mường-lơi một thời gian liên hệ và tìm hiểu thì thấy rõ những người mời Hoàng thân không phải là người thật lòng vì cách mạng Lào, nên lại quay về Băng-cốc tiếp tục liên hệ với ta, tổ chức lực lượng kháng chiến Lào. Ít lâu sau, ông trở về Lào, hợp tác chặt chẽ với cán bộ Việt Nam và các đồng chí Lào xây dựng quân đội Pa-thét Lào đẩy mạnh cuộc kháng chiến Lào đến thắng lợi.
Từ một số vấn đề trước mắt, như việc Hoàng thân Xu-pha-nu-vông ra đi, tôi tìm hiểu sâu thêm toàn bộ công tác giúp đỡ cách mạng Lào, Miên. Tôi gặp nhiều đồng chí cán bộ phụ trách các đặc khu, nghe anh em báo cáo tình hình, nêu ra những khó khăn, vướng mắc cần giải quyết. Cuối năm 1948, Ban cán sự Trung ương họp hội nghị cán bộ Mặt trận miền Tây, xác định những ưu khuyết điểm trong công tác giúp đỡ cách mạng Lào, Miên.
Hội nghị đánh giá cao những cố gắng lớn lao của cán bộ, chiến sĩ Việt kiều trên các đặc khu đã chịu đựng gian khổ, hy sinh phấn đấu vì lợi ích của cách mạng Lào, Miên cũng như vì lợi ích của cách mạng Việt Nam. Mặt khác hội nghị đã tổng kết ra một số vấn đề tồn tại như:
  • Ý thức về việc giúp đỡ dân tộc bạn chưa thật chính xác. Tuy nói là “giúp”, nhưng thật ra thì nặng về công việc của Việt Nam nhiều hơn. Các đồng chí còn sao nhãng việc vận động, tổ chức quần chúng, lập căn cứ địa, huấn luyện bộ đội, cán bộ cho bạn.
  • Nặng quân sự, nhẹ chính trị. Việc tuyên truyền quần chúng tuy có làm, nhưng thực chất là bộ đội đi làm công tác dân vận để có chỗ bao dung cho mình đánh giặc, chứ chưa đặt thành một nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng cơ sở cách mạng trong nhân dân Lào và Khơ-me.
  • Chủ trương “tả” và máy móc. Nhiều việc làm ở Việt Nam được anh em mang sang áp dụng ở Lào và Cam-pu-chia một cách cứng nhắc, như tổ chức “Ủy ban nhân dân”, dịch chương trình điều lệ Việt Minh để huấn luyện cho người Lào và Khơ-me.
  • Vụng về trong việc đối đãi với cán bộ bạn. Có đồng chí đem chương trình huấn luyện về chủ nghĩa cộng sản để lên lớp cho cán bộ người Khơ-me mà không phân biệt đối tượng nào là thích hợp. Một số người học tập xong thì hoài nghi và xa dần ta.
Sau khi báo cáo về Trung ương những nhận xét tổng quát nói trên, tôi bắt tay vào nghiên cứu một đường lối chung cho công tác giúp đỡ cách mạng Lào, Miên. Đầu năm 1949, tôi tập trung thời gian để viết bản “Đề cương công tác Lào, Miên”, với tinh thần là không những chỉ phổ biến trong cán bộ Việt Nam công tác ở Lào, Miên xem, mà còn phải để cho cán bộ chủ chốt của Lào, Miên cùng xem để phối hợp làm việc với nhau cho thật tốt.
Tháng hai năm 1949, Bản đề cương được đem ra hội nghị Ban cán sự Trung ưong mở rộng để thảo luận, bổ sung thêm ý kiến. Hội nghị này có nhiều cán bộ chủ chốt của Mặt trận miền Tây tham dự. Anh em đều nhất trí tán thành bản “Đề cương công tác Lào, Miên”, và coi đó là một tài liệu về đường lối, dùng để phê bình cho cán bộ, chiến sĩ đang công tác trên các đặc khu ở Tây Lào và Tây Bắc Cam-pu-chia. Đề cương có mấy phần chủ yếu như sau:
Phần thứ nhất, kiểm điểm “Ba năm công tác Lào, Miên” (1946, 1947, 1948), đã đánh giá tổng quát:
“Chúng ta tuy giúp được Lào, Miên gây chính quyền, gây phong trào cách mạng và tổ chức kháng chiến, nhưng Lào, Miên vẫn chưa có một cơ sở nhân dân to rộng; cơ quan hành chính kháng chiến Lào, Miên còn yếu; lực lượng vũ trang nhân dân Lào, Miên chưa có; bộ đội chủ lực Lào, Miên vẫn chưa thành. Nói tóm lại là cơ sở kháng chiến Lào, Miên chưa vững.
“Chúng ta tuy đã mở mặt trận Lào, Miên làm cho Pháp bối rối, nhưng chúng ta vẫn chưa cản hẳn được chúng. Chúng vẫn còn dùng được các phương tiện ở Lào, Miên để đánh ta, vẫn còn dùng một số tài nguyên và hàng hóa của ta cung cấp cho bộ máy thống trị của chúng ở Lào, Miên để phá hoại cuộc vận động giải phóng Lào, Miên.
“Chúng ta tuy đã gây được thiện cảm giữa Lào-Miên-Việt, nhưng trong một đôi hành động vụng về, chúng ta đã làm cho nội bộ Lào, Miên lủng củng, làm cho những phần tử có ý phá hoại bám lấy để hòng chia rẽ Việt Nam với Lào, Miên.
“Những khuyết điểm ấy bởi đâu sinh ra?
“Có thể nói là vì chúng ta chưa nhận rõ tính chất và đặc điểm cách mạng Lào, Miên, chưa có thái độ đúng trong việc giúp đỡ Lào, Miên, chưa nắm được công tác chính của Lào, Miên.
Phần thứ hai, nói về tính chất và đặc điểm cách mạng Lào, Miên có đoạn phân tích như sau:
“Nhìn bao quát ta thấy rằng Lào, Miên đang ở một mức tiến hóa thấp hơn Việt Nam…
“Bởi vậy, cách mạng Lào, Miên không thể là cách mạng xã hội hay cách mạng tân dân chủ, mà chỉ là cách mạng dân tộc giải phóng.
“Cách mạng Việt Nam cũng là cách mạng dân tộc giải phóng, nhưng vì tình hình kinh tế, chính trị và xã hội của Việt Nam đã cao hơn, nên khẩu hiệu cách mạng Việt Nam là độc lập và dân chủ đi đôi. Còn khẩu hiệu Lào, Miên thì chỉ độc lập và dân chủ. Để thực hiện mục đích độc lập, Lào miên, phải đoàn kết toàn dân, phải không phân biệt phong kiến hay tư bản, không phân biệt giàu, nghèo, không phân biệt người có tư tưởng cấp tiến hay chưa có tư tưởng cấp tiến, miễn là thật lòng đánh Pháp giành độc lập là phải gắn bó nhau lại thành một khối thống nhất, cùng nhau kháng chiến.
“Nhưng nói thế không phải là cách mạng Lào, Miên sẽ mang lại kết quả “độc tài”. Chúng ta phải biết rằng, mặc dù cách mạng Lào, Miên còn thấp kém, còn non, nhưng đã là cách mạng thì dù muốn hay không muốn, thực sự cũng là đứng về mặt trận dân chủ thế giới. Hơn nữa là trong quá trình cách mạng mọi việc đều phải nhờ vào dân, cái ý thức dân chủ sẽ nảy ra trong đầu óc nhân dân cũng như trong đầu óc người lãnh đạo. Nội dung dân chủ đã có đầy đủ, thì hình thức dân chủ sẽ ứng thời mà ra. Chế độ quân chủ lập hiến, hình thức Ủy ban dân tộc giải phóng là những cái bao hàm tính chất dân chủ một phần nào, mà còn tiến bộ dần, tiến bộ nữa. Trong giai đoạn hiện thời, miễn cưỡng đưa khẩu hiệu dân chủ ra là có hại cho sự đoàn kết dân tộc của Lào, Miên, có lợi cho địch…”
Nói về đặc điểm cách mạng Lào, Miên, bản đề cương nêu lên ba điều mâu thuẫn trong quá trình phát triển vượt bực của cuộc kháng chiến của hai dân tộc bạn:
  1. Chưa có cơ sở nhân dân mà đã có chính quyền…
  2. Chưa có bộ đội cách mạng mà đã phải đấu tranh quân sự…
  3. Bộ máy lãnh đạo yếu…
“Như vậy, cách mạng Lào, Miên ngày nay tuy là ở giai đoạn cao nhưng phải chú trọng lắm những công tác của giai đoạn thấp là gây dựng cơ sở quần chúng, gây dựng căn cứ địa.”
Phần thứ ba, nói về phương châm giúp đỡ cách mạng Lào, Miên gồm bốn điểm chính:
“a. Không đứng trên lợi ích Việt Nam mà làm công tác Lào, Miên… Chúng ta là một dân tộc bị xâm lăng, là một dân tộc cách mạng, trong việc giúp Lào, Miên, chúng ta phải hoàn toàn đứng trên lập trường lợi ích của Lào, Miên… Việc bộ đội đánh Xiêm-riệp rồi kéo cả về Nam, việc Quảng Trị mượn súng Lào mà trả chậm trễ, việc lấy bộ đội của ông Xi-thôn đưa về Khu V, đều là những việc cẩu thả trái với lập trường “không đứng trên lợi ích Việt Nam mà làm việc Lào, Miên”.
“b. Nắm chắc nguyên tắc dân tộc tự quyết... dân tộc tự quyết là một nguyên tắc căn bản để giải quyết vấn đề giữa hai dân tộc cũ quan hệ với nhan. Một chủ trương gì có quan hệ đến vận mệnh dân tộc Lào, Miên thì phải do Lào, Miên tự quyết định lấy. Thí dụ Lào, Miên sau này sẽ cùng với Việt Nam thành lập một liên bang Đông Dương hay tự mình lập riêng một nước độc lập… là những vấn đề chúng ta tuyệt đối không thể đặt ra một cách miễn cưỡng. Nhưng một người chân chính cách mạng Lào, Miên tuyệt đối không phải là người chỉ đánh Pháp mà lại cừu thị với Việt Nam…
“c. Không đem chủ trương Việt Nam ứng dụng vào Lào, Miên như lắp máy… Để tránh khỏi bệnh lắp máy, chúng ta phải điều tra nghiên cứu tình hình kinh tế, chính trị, xã hội Lào, Miên thật kỹ càng. Với cán bộ Lào, Miên gần gũi ta, chúng ta phải hiểu biết thật rõ… Bấy giờ hỏi chính sách dịch ở Lào, Miên thế nào? Sinh hoạt của các tầng lớp nhân dân Lào, Miên thế nào? Tự hỏi rồi tự trả lời thì thấy rằng chúng ta đối với Lào, Miên còn xa lạ lắm. Đã xa lạ như vậy, thì chủ trương đưa ra làm sao mà thích hợp, làm sao mà tránh khỏi được cái bệnh lắp máy.
“d. Giúp đỡ tiến tới cách mạng Lào, Miên tự làm lấy được.
“Cách mạng không phải là một món hàng nhập cảnh, mà là cái kết quả của sự giác ngộ và sức đấu tranh của quảng đại nhân dân. Cách mạng Lào, Miên là việc của nhân dân Lào, Miên. Nếu nhân dân Lào, Miên không giác ngộ, cán bộ Lào, Miên không biết làm việc thì dù Việt Nam có đem đại bộ phận lực lượng đến cũng không thể giải quyết được. Để tiến tới Lào, Miên có thể tự làm lấy được, chúng ta cần tuyệt đối tránh bệnh bao biện là cái bệnh sinh ra từ chỗ không biết dùng người đến chỗ không dám tin người… Bất kể một công việc gì chúng ta cũng phải tìm cách gần gũi cán bộ Lào, Miên và lôi kéo cán bộ Lào, Miên gần gũi chúng ta, chịu khó bày vẽ, dìu dắt họ, đưa họ từ chỗ dễ đến chỗ khó, từ việc nhỏ đến việc to, từ chỗ thực tế tỉ mỉ đến chỗ lý luận cao xa. Như vậy là họ sẽ làm được việc, họ sẽ thành nhân tài, như vậy thì việc giúp đỡ Lào, Miên mới thật là có thể đạt đến mục đích”.
Phần thứ tư, nói về “Nhiệm vụ cần kíp của Lào, Miên ngày nay: Xây dựng và củng cố căn cứ địa”.
“Tuy tốn biết bao nhiêu công của, nhưng lực lượng kháng chiến Lào, Miên hiện này còn yếu. Về chính trị và kinh tế thì nói chung là đương bị địch kiểm soát. Về nhân dân thì tản mạn, chưa có tổ chức. Về quân sự thì chỉ có vài ba đơn vị đi phiêu lưu chiến đấu, cơm gạo phải mang từ nơi xa đến ăn, cán bộ và bộ đội lúc bị thương thì phải đi nước ngoài. Cơ quan chỉ đạo kháng chiến như Chính phủ Lào còn phải lưu vong. Ủy ban dân tộc giải phóng Miên thì lủng củng, không có tác dụng thật sự.
“Trước tình trạng này cố nhiên chúng ta phải chú trọng tổ chức nhân dân, nhưng không phải tổ chức nhân dân như trong hồi bí mật, cũng không phải chỉ lo lập chính quyền, mà lại càng không phải chỉ có tác chiến. Chúng ta phải chú ý cả ba mặt tổ chức (tổ chức nhân dân, xây dựng chính quyền, xây dựng bộ đội đánh giặc). Ba mặt công tác ấy cộng lại là thành căn cứ địa.
“Không có căn cứ địa, đội quân phiêu lưu cứ phiêu lưu, sẽ hao mòn, sẽ rời rã.
“Không có căn cứ địa, chính quyền cách mạng không thể tồn tại.
“Không có căn cứ địa thì không thể kháng chiến…”
Trong phần này có một tiểu mục nói về việc xây dựng chính đảng ở Lào, Miên:
“... bộ máy chính quyền phải làm việc chính quyền, quân đội phải chuyên tâm về quân sự; chỉ có chính đảng mới đi sâu vào nhân dân được, thật sự giác ngộ và động viên được nhân dân...Chính đảng là một đoàn thể gồm những phần tử giác ngộ hơn hết, kiên quyết hy sinh hơn hết. Nếu tổ chức quần chúng là một cái quả thì chính đảng là cái hột, nếu tổ chức quần chúng là một đội quân thì chính đảng là bộ tham mưa không thể thiếu được.
“…Tính chất cách mạng Lào, Miên là độc lập, thì chính đảng mà Lào, Miên cần có cũng là một đảng độc lập, chứ không phải là đảng dân chủ như một số cán bộ Lào đã chủ trương, cũng không phải là đảng xã hội như một số cán bộ Miên đã chủ trương.
Đề cương công tác Lào, Miên được Hội nghị cán bộ công tác Lào, Miên thông qua. Và sau đó được gửi về báo cáo Trung ương và được phổ biến rộng rãi trong cán bộ và chiến sĩ Việt kiều trên chiến trường Lào, Miên. Nhờ đó mà công tác giúp đỡ Lào, Miên được chuyển biển và phát triển mạnh hơn trước. Còn các đồng chí Lào, Miên khi được đọc Bản đề cương thì rất phấn khởi vì thấy rõ Việt Nam giúp Lào, Miên là vì lợi ích của Lào, Miên, chứ không phải vì lợi ích của Việt Nam.
Tháng 10-1949, Trung ương điện ra Băng-cốc chỉ định tôi phụ trách đoàn đại biểu Công đoàn Việt Nam tham gia Hội nghị Công đoàn Á-Úc họp ở Bắc Kinh vào khoảng cuối năm 1949. Tôi chuẩn bị lên đường đi Bắc Kinh ngay. Cùng đi với tôi có anh Bùi Các là một người giỏi tiếng Anh, tiếng Pháp và rất thạo về việc giao thiệp trong lúc đi đường. Có thể nói, chuyến đi này nếu không có anh thì không thể đi đến nơi, đến chốn.


[1]lúc này nước Xiêm đã đổi tên là nước Thái
[2]nông trường Việt Nam
[3]Cục thông tin Cộng sản quốc tế
[4]hồi này Đảng ta chưa ra hoạt động công khai, nên khi trình bày các vấn đề trong hội nghị rộng rãi có cán bộ ngoại Đảng, tôi không nói gì về Đảng.
----------------------------------
IV. Giải quyết một số vấn đề trên đường đi Bắc Kinh
Đi từ Thái-lan qua Trung Quốc, thông thường là đi tàu biển từ Băng-cốc sang Hương Cảng, rồi đi xe hỏa vào nội địa Trung Quốc. Nhưng lúc này Trung Quốc mới giải phóng, vùng Hoa Nam chưa thật yên ổn, mà Hương Cảng lại là địa bàn thống trị của Anh, đi qua đó có thể xảy ra những chuyện không hay. Chúng tôi quyết định đi đường qua Miến Điện, Ấn Độ, rồi đến Tiệp và Liên Xô là những nước có cảm tình với cách mạng Việt Nam. Hơn nữa, ở Tiệp còn có một số cán bộ Việt Nam phụ trách công tác Công đoàn và công tác sinh viên ở đó, cũng cần phải đi qua tìm hiểu cụ thể thì việc chỉ đạo mới sát được. Cách tính toán như vậy cơ bản là đúng, nhưng thực tế trên đường đi thì không giản đơn.
Trước khi ra đi, chúng tôi có đánh điện cho đồng chí Lê Đức Chỉnh, đại biểu thường trú của Công đoàn Việt Nam ở Tiệp, đồng thời điện cho đồng chí Lu-y Xây-giăng, Chủ tịch Công đoàn thế giới từ Pháp qua Tiệp biết rõ tôi là Trưởng đoàn, một người nữa là thư ký Đoàn đại biểu Công đoàn Việt Nam, và nhờ đồng chí làm thủ tục nhập cảnh Tiệp, Liên Xô và Trung Quốc.
Chúng tôi rời Băng-cốc sớm qua Răng-gun để chờ tin trả lời của anh em ở Tiệp về việc nhờ đồng chí Lu-y Xây-giăng xin chứng nhận quá cảnh. Trong thời gian chờ đợi, tôi mở những buổi nói chuyện chung với anh em ta ở Răng-gun. Nội dung nói chuyện cũng như tinh thần đã nói với anh em ở Thái-lan. Chờ độ hai mươi ngày thì được điện trả lời từ Pra-ha [1] : “Visa prêt Bombay”, nghĩa là việc chứng nhận nhập cảnh đã sẵn sàng ở Bom-bay [2] .
Chúng tôi lập tức lên đường đi Bom-bay, đến Lãnh sự quán Tiệp ở đó, hỏi về việc chứng thực nhập cảnh, thì Lãnh sự quán trả lời rằng, chúng tôi không được Chính phủ chỉ thị gì hết về việc này. Thế là chúng tôi phải đưa cho ông Lãnh sự Tiệp 50 rúp-pi [3] để nhờ ông đánh điện về hỏi. Không lâu, chúng tôi nhận được chứng nhận của Tiệp cho nhập cảnh. Nhưng liên hệ với các hãng máy bay, chúng tôi được biết rằng, muốn đi Tiệp, chẳng những phải có chứng nhận nhập cảnh của Tiệp, mà còn phải có chứng nhận quá cảnh của những nước mà máy bay phải bay qua nữa thì hãng máy bay mới bán vé. Thế là chúng tôi phải đến Lãnh sự quán Ý, Lãnh sự quán Thụy Sĩ, Lãnh sự quán I-rắc để xin chứng nhận. Họ đều trả lời là không có quan hệ ngoại giao với Việt Nam, nên không thể cho chứng nhận. Chúng tôi nghĩ tình hình như thế này, nếu cứ ở Bom-bay mãi cũng không giải quyết vấn đề, chi bằng đi qua Pa-ki-xtan, may ra có thể xin được chứng nhận của các nước đi qua chăng, bằng không thì lúc gặp khó khăn có thể nhờ ông Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, hoặc ông Bộ trưởng Bộ Nội vụ giúp, vì hai ông này có cảm tình rất tốt với Việt Nam và đã thật sự giúp một số cán bộ Việt Nam trong một số trường hợp hoạt động cho cách mạng.
Chúng tôi liền đi Ca-ra-si, một thành phố lớn của Pa-ki-xtan. Ở đây chúng tôi được ông Bộ trưởng Bộ Nội vụ tiếp rất thân mật, ký giấy gia hạn cho ở Ca-ra-si ba tháng, và nói nếu có gặp việc gì khó khăn, thì cứ nói thật, ông ấy sẽ hết sức giúp theo khả năng. Ở đây cũng như ở Bom-bay, chúng tôi vẫn phải qua lại các hãng máy bay để tìm hiểu. Các nhân viên trong Công ty hàng không Pa-ki-xtan biết chúng tôi là người Việt Nam đi dự Hội nghị Công đoàn Á-Úc nên hết sức tìm cách giúp đỡ. Một hôm người phụ trách sân bay báo cho biết rằng có một chiếc máy bay Anh đi Tiệp, khi qua Rôm [4] chỉ dừng ở sân bay một giờ để lấy xăng rồi bay luôn. Như vậy hành khách chỉ phải ngồi đợi ngay ở sân bay mấy chục phút, nên không phải lấy chứng nhận quá cảnh. Các ông nên tranh thủ mua vé đi chuyến máy bay này, tuy tiền vé khá đắt nhưng có thể đến Tiệp ngay trong ngày. Nghe nói chúng tôi rất mừng và mua vé ngay. Thế là ngày hôm sau chúng tôi lên máy bay đi Tiệp. Khi đến Pra-ha thì đã thấy anh Chỉnh đại biểu Công đoàn Việt Nam và anh Hướng đại biểu sinh viên Việt Nam ở Tiệp đứng đón sắn ở chỗ đón khách.
*


Đến Pra-ha, chúng tôi ở một khách sạn hạng vừa, liên hệ với anh Chỉnh và anh Hướng được biết rằng, đồng chí Lu-y Xây-giăng và hai anh cán bộ ta từ Băng-cốc đến đã cùng đi Bắc Kinh rồi, còn chứng thực quá cảnh Liên Xô của chúng tôi thì đã xin ở Sứ quán Liên Xô. Anh Bùi Các đến ngay Sứ quán Liên Xô hỏi về chuyện chứng thực, lúc đầu Sứ quán nói không có, nhưng anh Các nói quả quyết là đồng chí Lu-y Xây-giăng thông báo cho biết là đã xin chứng thực ở đây xong xuôi. Sứ quán Liên Xô nghe nói liền nhận lời sẽ tìm lục, và ba ngày sau thì cho biết là đã tìm được chứng thực của anh Các mà không có chứng thực của tôi. Anh Các nói đã có thì phải có cả hai người, vì anh chỉ là thư ký đoàn, còn một người nữa là đồng chí Hoan mới là Trưởng đoàn. Sứ quán Liên Xô lại nhận lời tìm lục thêm.
Trong khi chờ đợi chứng thực, chúng tôi được anh Chỉnh báo cáo cho biết là Lê Hy bị Liên Xô đuổi qua đây, được Trần Ngọc Danh bảo đảm hiện còn ở Pra-ha. Trần Ngọc Danh là người đã tuyên bố giải tán Phái đoàn nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Pháp, và được Trung ương Đảng Pháp giới thiệu qua Tiệp hình như để lập một cơ quan đại diện Chính phủ ở đây. Đương cục Tiệp đã cho một cái nhà đàng hoàng và có đủ tiện nghi. Vợ anh Danh là Thái Thị Liên hiện đang học trường âm nhạc Tiệp.
Chúng tôi còn hỏi thêm về hoạt động của anh Danh, được biết là anh Danh có hoạt động chống Đảng rất tích cực.
Danh là em ruột của Trần Phú, giác ngộ cách mạng sớm, được giới thiệu đi học ở trường Đông Phương đại học Liên Xô. Anh ta học lý luận nhiều, nhưng tiêu hoá không tốt vì không có thực tế. Anh ta thấy sau Cách mạng Tháng Tám, Đảng không thủ tiêu giai cấp tư sản và địa chủ, không tuyên bố làm cách mạng xã hội chủ nghĩa, mà lại gần gũi với các nước như Ấn Độ, Miến Điện, Pa-ki-xtan và In-đô-nê-xi-a là những nước tư bản, thì anh ta cho là Đảng hữu khuynh. Anh ta đã viết thư cho một số đảng nói đường lối của Hồ Chủ tịch và Trung ương Đảng là không đúng. Trong khi đó, chị Hồ Thị Minh là một nữ thanh niên miền Nam được cử sang Pháp học, đã hỏi vặn rằng, nếu nói Đảng là không đúng thì làm sao mà Đảng lại đưa Cách mạng Tháng Tám đến thành công và vận động toàn dân đứng dậy chống Pháp? Danh không trả lời được câu nào, nhưng cứ phố biển tư tưởng chống Đảng trong đám cán bộ công tác ở Tiệp. Trong số cán bộ bị tuyên truyền đó có anh Chỉnh và anh Hướng là không tin nhưng không đủ lý luận để bác lại. Hai anh này ở Pra-ha, còn các người khác thì đã cùng đồng chí Xây-giăng đến Bắc Kinh để dự Hội nghị Công đoàn Á-Úc.
Đây là một tình hình rất nghiêm trọng, tôi thấy cần phải được giải quyết gấp rút. Tôi phải nói chuyện với anh Chỉnh và anh Hướng hai buổi, giúp các anh ấy có đủ nhận thức để chống lại lý thuyết của Danh. Sau đó tôi gặp đồng chí phụ trách Tân Hoa xã ở Pra-ha nói chuyện về tình hình khó khăn trong lúc đi đường, nhờ đồng chí đánh điện về Bắc Kinh báo cáo với Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc biết là có thể tôi không kịp đến dự Hội nghị Công đoàn Á-Úc, đồng thời tôi nói cho đồng chí hiểu tình hình tư tưởng của cán bộ Việt Nam ở Pra-ha, và mượn đồng chí một số tài liệu của Đảng Cộng sản Trung Quốc như những bài nói chuyện trong thời kỳ chống Nhật của đồng chí Mao Trạch Đông, của đồng chí Lục Định Nhất để làm tài liệu tham khảo thuyết phục những lệch lạc của cán bộ Việt Nam đang công tác tại Pra-ha trong lúc đó. Đồng chí rất nhiệt tình giúp đỡ, tìm lục cho kỳ được những tài liệu đó rồi đưa cho tôi.
Sau khi xem xong tài liệu, tôi và anh Các đến chỗ ở của Danh để nói chuyện. Tôi trực tiếp phê bình Danh về việc tuyên bố giải tán cơ quan Phái đoàn là một việc làm sai nguyên tắc. Danh biện hộ rằng, lúc đó Pháp cho người khiêu khích, thậm chí cho bọn côn đồ lái xe để đâm vào xe của Phái đoàn. Tôi nói, cũng có thể như thế, nhưng cơ quan Phái đoàn là của Nhà nước, mà người phụ trách cơ quan là người do Nhà nước bổ nhiệm. Người phụ trách dù nguy hiểm đến mấy cũng không có quyền quyết định giải tán một cơ quan của Nhà nước. Hơn nữa, nếu người phụ trách này thôi việc, thì Nhà nước còn có thể bổ nhiệm người khác đến thay, chứ nếu tuyên bố giải tán Phái đoàn thì Nhà nước muốn bổ nhiệm người khác đến thay cũng được. Nếu nói rằng Pháp muốn gây khó khăn đối với Phái đoàn, mà anh lại tuyên bố giải tán Phái đoàn, thì như vậy là âm mưu của thực dân Pháp đã thực hiện được một cách dễ dãi. Trước sự giải thích đó, Danh đã biết đuối lý nhưng vẫn nói quanh co không chịu nhận sai lầm. Trong dịp này tôi cũng phê bình Lê Hy, nhưng Lê Hy cứ ngồi im không nói gì, không thừa nhận mà cũng không biện hộ. Cuối cùng tôi nói, cả hai anh đều rời nước đã khá lâu, nay nên về nước để báo cáo công tác với Chính phủ và nhận nhiệm vụ mới. Lê Hy vẫn không nói gì. Còn Danh thì nói rằng tôi đang có bệnh, thầy thuốc khuyên không nên đi máy bay và đi tàu. Tôi hiểu ý là Danh vì có sự giới thiệu của Trung ương Đảng Pháp, được Đảng Tiệp đối đãi đặc biệt, nên muốn ở lại Tiệp chứ không muốn về nước.
Vấn đề Trần Ngọc Danh và Lê Hy ở Pra-ha bước đầu chỉ giải quyết được đến đó, còn phải báo cáo với Trung ương mới giải quyết được triệt để [5] . Tuy vậy, đối với hai anh Chỉnh và Hướng thì lại là một thu hoạch lớn. Anh Chỉnh đã nói: Trước kia nghe Trần Ngọc Danh nói, chúng tôi vẫn cho là không đúng, nhưng không đủ lý luận để chống lại. Nay được nghe anh phê bình và giải thích cả về mặt lý luận và mặt thực tiễn, chúng tôi đã nắm chắc vấn đề. Bây giờ thì chúng tôi có đủ sức để chống lại những chủ trương sai trái của Trần Ngọc Danh. Chúng tôi vẫn hết sức tin tưởng chủ trương của Trung ương và của Hồ Chủ tịch là hoàn toàn đúng.
Sau mấy hôm làm việc với các anh Chỉnh, Hướng và phê phán xong Danh, Hy, thì sứ quán Liên Xô ở Pra-ha cũng tìm ra được cả giấy chứng nhận nhập cảnh của anh Các và của tôi. Nhưng thời gian chứng nhận chỉ còn sáu ngày nữa là hết hạn. Chúng tôi phải gấp rút rời Pra-ha đi Mạc Tư Khoa để tranh thủ đến Bắc Kinh càng sớm càng tốt.

Ngày 25 tháng 12 năm 1949, tôi và anh Bùi Các đi xe hỏa rời Pra-ha, Thủ đô Tiệp Khắc, hai ngày hôm sau thì đến Mạc Tư Khoa. Chúng tôi tìm một khách sạn nhỏ thuê một phòng ngủ nhỏ để đỡ tốn tiền. Khách sạn biết chúng tôi là khách nghèo nhưng tiếp đãi rất tốt và xếp cho một cái phòng ngủ hai người, tính mỗi ngày 25 rúp. Xếp đặt chỗ nghỉ xong, chúng tôi liền đi đến Sứ quán Trung Quốc làm thủ tục nhập cảnh để gấp rút lên đường đi Bắc Kinh.
Lại một việc bất ngờ. Sứ quán Trung Quốc nói, cách đây độ một tháng có mấy người Việt Nam cùng đi với đồng chí Lu-y Xây-giăng qua đây cũng làm thủ tục nhập cảnh Trung Quốc để họp Hội nghị Công đoàn Á-Úc, lúc qua đây các đồng chí đó đều nói là sẽ còn có bạn Việt Nam đến sau. Tôi nói, chính tôi là người được ủy nhiệm làm Trưởng đoàn đại biểu Công đoàn Việt Nam, còn người đi cùng với tôi là thư ký của Đoàn đại biểu. Chúng tôi đều đi từ Thái-lan đến, nhưng vì khi qua Ấn Độ và Pa-ki-xtan bị mắc kẹt nên bây giờ mới đến được Mạc Tư Khoa. Sứ quán nói, Hội nghị Công đoàn Á-Úc đã họp xong rồi, mà chúng tôi cũng không được chỉ thị gì của Chính phủ về việc này. Như vậy, nguyên tắc là chúng tôi không thể cấp chứng thực cho các bạn nhập cảnh.
Tôi nói, đã đành nguyên tắc là như vậy, nhưng chúng tôi là người Việt Nam, đi qua các nước tư bản gặp rất nhiều khó khăn nên đến chậm, nay lại phải trở lại qua các nước đó, thì chúng tôi càng gặp rất nhiều khó khăn. Hơn nữa là chứng nhận quá cảnh Liên Xô của chúng tôi cũng chỉ còn bốn ngày nữa là hết hạn. Nếu các đồng chí không thể cho chứng nhận nhập cảnh, thì chúng tôi đề nghị các đồng chí cho chứng nhận quá cảnh để chúng tôi có thể đi qua Trung Quốc về Việt Nam. Lúc qua Bắc Kinh, chúng tôi sẽ trình bày với Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Chúng tôi tin chắc rằng, về việc chúng tôi đi dự Hội nghị Công đoàn Á-Úc, Trung ương Đảng chúng tôi đã có thông tri cho Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc biết rồi. Nghe nói có lý, Sứ quán Trung Quốc bằng lòng cấp giấy chứng nhận quá cảnh.
Sau khi được giấy chứng nhận, chúng tôi liền mua vé xe hỏa đi Bắc Kinh. Ngày 31 tháng 12 năm 1949, chúng tôi đến Mãn Châu Lý, ga xe lửa đầu tiên ở biên giới Trung-Xô trên đất Trung Quốc. Ở đây, chúng tôi được xếp ngay ở Ngoại sự xứ Trung Quốc và được tiếp đãi rất thân mật. Ngày 1 tháng giêng năm 1950, chúng tôi được Ngoại sự xứ xếp cho đủ mọi phương tiện và phái một đồng chí Giải phóng quân đưa chúng tôi về Bắc Kinh đến thẳng Bộ Ngoại giao. Khi đến Bộ Ngoại giao thì thấy mấy anh trước đây cùng đi với đồng chí Lu-y Xây-giăng từ Tiệp Khắc đến Bắc Kinh họp Công đoàn Á-Úc đã ngồi chờ sẵn ở đó. Chuyện trò một lúc về việc trắc trở trên đường đi và nghe các anh thuật lại tình hình Hội nghị Công đoàn Á-Úc, Bộ Ngoại giao xếp tôi và anh Bùi Các đi ở sở chiêu đãi của Bộ ở Lang Phòng Đầu Điều để chờ ý kiến giải quyết của Quốc vụ viện Trung Quốc.
Trong khi chờ đợi thì được tin Hồ Chủ tịch và anh Trần Đăng Ninh cũng đang trên đường đi từ biên giới đến Bắc Kinh, để gặp Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Đến Bắc Kinh, Hồ Chủ tịch được xếp ở Trung Nam Hải gần chỗ làm việc của Mao Chủ tịch và Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tôi cũng được xếp vào Trung Nam Hải cùng ở một chỗ với Hồ Chủ tịch.

I. Ở lại Bắc Kinh theo chỉ thị của Hồ Chủ tịch
Ở Trung Nam Hải, Hồ Chủ tịch hỏi rất cặn kẽ về tình hình kiều bào ta ở Thái-lan, về sự hoạt động của các Phái đoàn Chính phủ ta ở Thái-lan, ở Miến Điện, ở Pháp, và tình hình các anh em được phái ra hoạt động ở nước ngoài. Tôi báo cáo rõ từng điểm một. Nghe xong, Hồ Chủ tịch kết luận, công tác của Ban cán sự Trung ương ở hải ngoại như vậy là tốt. Nhưng hiện nay, Trung Quốc đã giải phóng, cán cân lực lượng đã nghiêng về phía có lợi cho cách mạng của nhân dân thế giới, đặc biệt là có lợi cho cuộc kháng chiến của Việt Nam. Cuộc kháng chiến chống Pháp mấy năm nay, với sự cố gắng của bản thân chúng ta đã thu được kết quả lớn. Nay Trung Quốc đã quyết tâm viện trợ chúng ta về mọi mặt, như vậy, trọng tâm hoạt động đối ngoại của chúng ta bây giờ không ở Thái-lan nữa, mà phải chuyển qua Trung Quốc. Như vậy, chú có thể phải ở lại Bắc Kinh để nhận nhiệm vụ mới. Công việc sẽ có thể có nhiều cái mới phải học hỏi, phải cố gắng. Nhưng điều quan trọng là các đồng chí Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ và Chu Ân Lai đều tỏ lòng sẵn sàng ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam, mặc dù Trung Quốc mới giải phóng, các đồng chí cũng còn có nhiều khó khăn phải khắc phục.
Nguyên từ năm 1938-1940, Hồ Chủ tịch từ Liên Xô về Trung Quốc để tìm liên lạc với tổ chức cách mạng Việt Nam và đã gặp Ban hải ngoại Đảng Việt Nam ở Côn Minh. Tháng 6-1940, phát-xít Đức đánh chiếm Thủ đô Pháp, Hồ Chủ tịch chủ trương chuyển hướng hoạt động về biên giới Việt – Trung rồi về nước, thì đã đi Trùng Khánh gặp Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc để trao đổi ý kiến về thời cuộc. Đến nay trong khoảng mười năm xa cách với các đồng chí Trung Quốc, Hồ Chủ tịch đã thành công trong việc xây dựng một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và đã kháng chiến chống Pháp có kết quả, nên khi gặp Mao Chủ tịch đặt vấn đề viện trợ, thì Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc coi là một nhiệm vụ quốc tế hàng đầu trong tư thế là một nước lớn nhất ở Châu Á đã thoát khỏi địa vị một nước nửa phong kiến, nửa thuộc địa bị các đế quốc chia cắt và khống chế do sự nhu nhược đầu hàng của triều đình phong kiến Mãn Thanh và của Chính phủ tư bản quan liêu Tưởng Giới Thạch.

*

Ở Trung Nam Hải, Mao Chủ tịch tổ chức và chủ trì một bữa tiệc long trọng chiêu đãi Hồ Chủ tịch, có hầu hết các vị lãnh đạo cao cấp của Đảng như Lưu Thiều Kỳ, Chu Đức, Chu Ân Lai, Đổng Tất Vũ, Lâm Bá Cừ và sáu bảy đồng chí khác nữa tham dự. Có thể nói đây là một bữa tiệc mừng sự thành công của Cách mạng Tháng Tám, bữa tiệc ca ngợi quyết tâm và ý chí kiên cường chống Pháp của nhân dân Việt Nam, ca ngợi sự lãnh đạo tài tình của Hồ Chủ tịch và của Đảng Cộng sản Đông Dương. Đồng thời là bữa tiệc tỏ mối tình đoàn kết chiến đấu cao cả của Trung Quốc đối với cuộc chiến đấu anh dũng của nhân dân Việt Nam. Trong bữa tiệc, đồng chí Lưu Thiếu Kỳ hỏi Hồ Chủ tịch: Những người tham gia lớp huấn luyện ở Quảng Châu hồi năm 1925-1926 nay còn những ai? Hồ Chủ tịch nói: Còn đồng chí Hoàng Văn Hoan (vừa nói vừa chỉ vào tôi) hôm nay cũng có mặt ở đây.
Tiếp đó, Hồ Chủ tịch nói cho biết đồng chí Lưu Thiếu Kỳ là một trong những người thường giảng bài ở lớp huấn luyện Quảng Châu. Tôi liền bưng một chén rượu đến chúc sức khỏe đồng chí Lưu Thiếu Kỳ và hứa hẹn sẽ hết lòng hết sức phục vụ cách mạng. Đồng chí Lưu Thiếu Kỳ cũng chúc sức khỏe tôi và cả hai người cùng cạn hết chén rượu.
Sau bữa tiệc, hai Đảng đi vào bàn bạc công việc thực chất.
Đồng chí Lưu Thiếu Kỳ nói: Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã quyết định thừa nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và sẽ bàn với Liên Xô cũng thừa nhận, để Việt Nam có một địa vị mạnh trên trường quốc tế. Hiện nay, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã được Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân Đông Âu và Triều Tiên, Mông Cổ thừa nhận. Nước Anh cũng thừa nhận. Nước Pháp cũng đang chuẩn bị thừa nhận. Bây giờ chúng tôi thừa nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thì chắc chắn Pháp sẽ hoãn lại việc thừa nhận chúng tôi, nhưng chúng tôi không sợ. Chúng tôi mạnh lên, Pháp sẽ phải thừa nhận. Bây giờ vấn đề chính là phải tích cực ủng hộ cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam mau tới thắng lợi.
Với ý định này, Trung Quốc đề nghị đồng chí Rô-sin, Đại sứ Liên Xô tại Trung Quốc đánh điện về báo cáo với Chính phủ Liên Xô và đề nghị để Hồ Chủ tịch qua Liên Xô gặp đồng chí Sta- lin để trình bày trực tiếp. Sau khi Liên Xô trả lời đồng ý, đồng chí Rô-sin mở một bữa tiệc hoan nghênh Hồ Chủ tịch qua thăm Liên Xô, có anh Trần Đăng Ninh và tôi cùng tham gia. Trong bữa tiệc, Hồ Chủ tịch giới thiệu tôi sẽ là người đại biểu Đảng và Chính phủ Việt Nam tại Trung Quốc. Sau này có việc gì cần trao đổi ý kiến hoặc đề nghị giúp đỡ thì xin các đồng chí hết sức giúp đỡ.
Sau hai hôm, Hồ Chủ tịch và anh Trần Đăng Ninh đi Mạc Tư Khoa, còn tôi phải ở lại Bắc Kinh liên hệ với các đồng chí Văn phòng Trung ương Đảng Trung Quốc và các đồng chí phụ trách Bộ Ngoại giao Trung Quốc để chuẩn bị mọi sự cần thiết cho việc thành lập Sứ quán Việt Nam tại Trung Quốc.
Bàn xong công việc ở Mạc Tư Khoa rồi, Hồ Chủ tịch lại đáp máy bay về Bắc Kinh ở thêm mấy ngày để bàn một số việc cụ thể. Hồ Chủ tịch đề nghị cử tôi làm Đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Đại biểu Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương bên cạnh Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc. Mao Chủ tịch đồng ý. Hồ Chủ tịch gấp rút về nước để triển khai mọi mặt công tác trong điều kiện mới.

*

Sau khi Hồ Chủ Tịch và anh Trần Đăng Ninh về nước, tôi cũng rời khỏi Trung Nam Hải ra ở khách sạn Lục Quốc, sau đổi tên là khách sạn Quốc tế, chiêu đãi sở của Quốc vụ viện, trực tiếp liên hệ với đồng chí Lý Khắc Nông, Phó Bộ trưởng Bộ Ngoại giao để chuẩn bị việc thành lập sứ quán.
Lúc này, Bộ Ngoại giao Trung Quốc đang chuẩn bị mở một lớp huấn luyện đặc biệt đào tạo một số cán bộ ngoại giao đầu tiên để phái đi làm Đại sứ Trung Quốc tại các nước. Tôi được sự đồng ý của Thủ tướng Chu Ân Lai cũng tham dự lớp huấn luyện này với danh nghĩa là một Hoa kiều mới về nước. Trong Bộ Ngoại giao chỉ riêng đồng chí Lý Khắc Nông được biết tôi là người Việt Nam. Dự lớp huấn luyện xong, đồng chí Lý Khắc Nông phái một cán bộ thạo việc cùng tôi tiến hành thực hiện việc lập sứ quán. Chúng tôi chọn một tòa nhà lớn, nguyên trước là một cái trường học của Mỹ ở ngõ “Sử Gia” làm sứ quán. Các đồ đạc cần dùng cho một sứ quán và cho các nhân viên sứ quán, các người phục vụ như người nấu cơm, người đốt lò, người quản lý, người làm vệ sinh v.v. . . đều được Bộ Ngoại giao cung cấp đầy đủ và rất chu đáo. Không bao lâu, một số cán bộ trong nước gửi ra, một số cán bộ điều từ Thái-lan về đều lần lượt đến Bắc Kinh. Bộ máy nhỏ gọn của sứ quán tổ chức xong, thì thư ủy nhiệm của Chính phủ từ trong nước cũng đã gửi đến.
Theo thủ tục ngoại giao thì Đại sứ đặc mệnh toàn quyền mới trình Quốc thư lên Chủ tịch nước, còn Đại biểu Chính phủ thì chỉ trao thư ủy nhiệm cho Bộ Ngoại giao là được. Nhưng với sự chiếu cố đặc biệt, Bộ Ngoại giao cũng tổ chức việc yết kiến Mao Chủ tịch, với lễ nghi tương tự như lễ nghi trình Quốc thư. Yết kiến Mao Chủ tịch xong, Bộ Ngoại giao Trung Quốc còn giới thiệu liên hệ với Đại sứ Liên Xô, Đại sứ Tiệp Khắc đã có mặt tại Trung Quốc, liên hệ với một số ngành có quan hệ đến công tác Việt Nam, như văn hóa, kinh tế, v.v. . . liên hệ với các vị lãnh đạo Đảng và Chính phủ thành phố Bắc Kinh, các vị Phụ trách các đoàn thể như Công đoàn, Thanh niên, Phụ nữ.
Trong khi liên hệ với các Đại sứ quán các nước anh em, các Đại sứ đều đặt câu hỏi: Vì sao Việt Nam không đặt quan hệ ngoại giao với Trung Quốc ở cấp Đại sứ, mà chỉ đặt ở cấp Đại biểu Chính phủ. Các Đại sứ hỏi như vậy là vì quan hệ ngoại giao ở cấp Đại sứ là cao nhất, còn ở cấp Đại biểu Chính phủ thì thấp hơn. Trước mình cứ tưởng Đại biểu Chính phủ tức là Đại sứ. Bây giờ tiếp xúc rộng mới biết có sự phân biệt như thế. Báo cáo về nước, Trung ương Đảng và Chính phủ biết rõ vấn đề này mới quyết định việc ủy nhiệm tôi làm Đại sứ. Vì vậy, tuy đã hoạt động ngoại giao như một Đại sứ, nhưng mãi đến ngày 20-12-1950 thì mới có sự bổ nhiệm làm Đại sứ, và đến ngày 28-4-1951 mới lại trình Quốc thư với danh nghĩa là Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Trung Quốc. Đồng thời với việc ủy nhiệm làm Đại sứ tại Trung Quốc, tôi còn được ủy nhiệm kiêm chức Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam tại Mông Cổ và tại Triều Tiên.

*

Cuộc kháng chiến chống Pháp ở trong nước đang tiến hành một cách quyết liệt, tất cả cán bộ trong nước đều phải tập trung lực lượng vào đó, nên việc hoạt động ngoại giao ở ngoài nước gần như toàn bộ đều được Trung ương và Chính phủ giao phó cho tôi phụ trách. Đối tượng phải liên hệ mật thiết trong lúc đó là đại sứ các nước anh em, đặc biệt là Đại sứ Liên Xô và Đại sứ Tiệp Khắc, chẳng những để tỏ tình hữu nghị mà còn để học hỏi những kiến thức về ngoại giao. Ngoài ra còn qua lại nhiều với đại sứ các nước như Ấn Độ, Miến Điện, Pa-ki-xtan, chuyện trò và giới thiệu tình hình Việt Nam với họ để tranh thủ sự đồng tình ủng hộ về mặt tinh thần, mặc dù các nước đó vẫn chưa tuyên bố thừa nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đối với các sứ quán phương Tây [6] như Phần Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, v.v… cũng thường có sự gặp gỡ để gây tình cảm.
Để mở rộng quan hệ đối ngoại, tháng 5 năm 1950, Trung ương và chính phủ quyết định phái tôi đi dự lễ kỷ niệm Quốc tế lao động 1-5 ở Liên Xô và đi dự lễ Quốc khánh Tiệp Khắc 9-5, để luôn tiện giải quyết một số vấn đề ở Tiệp Khắc mà cuối năm 1949 đi qua vẫn còn gác lại chưa giải quyết.
Dự lễ kỷ niệm ngày Quốc tế lao động, lần đầu tiên được thấy vẻ oai hùng của Hồng quân Liên Xô trang bị bằng vũ khí tối tân, thể hiện sức mạnh vô địch của nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, tận mắt thấy cái khí thế của mấy chục vạn nhân dân Liên Xô, hàng ngũ chỉnh tề, tinh thần hiên ngang, nối tiếp nhau diễu hành qua Hồng Trường trước Đài chủ tịch, trước Lăng Lê-nin. Dự xong lễ kỷ niệm, tôi được hướng dẫn đi xem chung bộ mặt hùng vĩ của thành phố Mạc Tư Khoa và một số nhà máy. Ban đêm, tôi được đưa đi xem các tiết mục văn nghệ như ca kịch, xiếc, múa rối v.v… Trước kia thường nghe nói Liên Xô là Tổ quốc của giai cấp vô sản thế giới, là ngọn đèn pha soi đường cho các dân tộc bị áp bức tiến lên, thì chuyến này thật sự được chứng kiến rõ ràng, càng làm cho lòng tin tưởng đối với tiền đồ cách mạng thêm vững chắc. Những cái được trông thấy và được hiểu biết về Liên Xô, có thể hình dung bằng hai tiếng “Vĩ đại! Vĩ đại!”.

*

Để chuẩn bị cho việc đi dự lễ Quốc khánh Tiệp Khắc, tôi đến gặp các đồng chí Sứ quán Trung Quốc ở Mạc Tư Khoa để tìm hiểu cách thức và nhờ giúp một số việc. Lần này đến Sứ quán, được đồng chí Đại sứ Vương Giá Tường tiếp đón niềm nở và thân mật. Đồng chí nói: Cuối năm ngoái, đồng chí đến Sứ quán chúng tôi chưa biết là ai. Nay được biết đồng chí là một cốt cán cách mạng Việt Nam, lại được đồng chí đến thăm Sứ quán, chúng tôi rất phấn khởi. Đồng chí Vương Giá Tường thuật lại cho biết đầu năm nay, trong dịp Hồ Chủ tịch gặp đồng chí Sta-lin, đồng chí cũng có tham gia. Đồng chí Sta-lin rất quan tâm dến cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống Pháp, và phân công việc viện trợ Việt Nam cho chúng tôi (Trung Quốc) là người phụ trách chính. Chúng tôi nhất định sẽ hết sức giúp đỡ Việt Nam và tin chắc rằng cuộc kháng chiến của Việt Nam nhất định sẽ đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Tôi nói, lần này tôi đến Sứ quán là cốt để tỏ tình hữu nghị của nhân dân Việt Nam đối với nhân dân Trung Quốc, đồng thời trong việc đi dự lễ Quốc khánh Tiệp Khắc có một số việc thuộc về lễ tiết tôi không biết, muốn được sự chỉ giáo của các đồng chí. Nghe nói trong lễ Quốc khánh, đại biểu các nước đều có đọc lời chúc mừng. Tôi đã dự thảo lời chúc mừng và đã dịch sẵn ra tiếng Trung Quốc để nhờ các đồng chí sửa chữa lại cho đúng cách thức, đồng thời nhờ các đồng chí giúp dịch ra tiếng Pháp và đánh máy cho một bản tử tế đễ lúc đến Tiệp, đưa cho Ban tổ chức Quốc khánh Tiệp dịch ra tiếng Tiệp và đọc trong buổi lễ.
Đồng chí Vương Giá Tường cầm lấy bản dịch chữ Trung Quốc xem và nói: Viết như thế này là được rồi, không phải sửa chữa gì nữa, để chúng tôi sẽ địch và đánh máy ra chữ Pháp một bản cho đồng chí dùng. Về chữ Pháp ở Sứ quán chúng tôi không có người giỏi lắm, nhưng cũng tạm dịch được.
Chuyện trò xong, đồng chí Vương Giá Tường đề nghị sẽ tổ chức cuộc gặp mặt với một số cán bộ cốt cán của Sứ quán để nghe tôi giới thiệu về tình hình Việt Nam. Tôi nhận lời. Buổi gặp mặt và giới thiệu được tổ chức ngay sau đó chỉ độ mười lăm phút. Tự nhiên đây là một dịp tốt để tôi giới thiệu về quan hệ khăng khít giữa cách mạng hai nước từ khi có Đảng cộng sản Trung Quốc, về tình hình sau Cách mạng Tháng Tám và tình hình cuộc kháng chiến chống Pháp trong lúc đó. Tiếp theo buổi nói chuyện là một bữa tiệc thân mật hết sức vui vẻ. Tiệc xong, Đại sứ Vương Giá Tường đưa bản dịch chữ Pháp đã đánh máy chỉnh tề cho tôi và chúc cuộc đi thăm Tiệp Khắc sẽ thành công tốt đẹp.
Việc gặp Sứ quán Trung Quốc như vậy là đạt kết quả mong muốn. Ngày hôm sau tôi lên máy bay đi Tiệp, Sứ quán Trung Quốc còn cử người đi tiễn chân ở sân bay Mạc Tư Khoa.
Dự lễ Quốc khánh Tiệp Khắc là một việc cực kỳ quan trọng trong đời tôi và cũng là việc quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Lần đầu tiên Đại biểu nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa dự lễ Quốc khánh, lế kỷ niệm long trọng nhất của một nước bạn, có dịp tiếp xúc với những nhân vật quan trọng, những người đồng chí cách mạng của các nước anh em, được chứng kiến sự trọng thị của các nước đối với Việt Nam, được đứng trên Đài chủ tịch kiểm duyệt cuộc duyệt binh và cuộc diễu hành của hàng chục vạn quần chúng. Đó không phải là sự hãnh diện của cá nhân, mà là sự hãnh diện của cả một dân tộc dưới sự cai trị của đế quốc gần một thế kỷ, nay trở thành một dân tộc độc lập, có một địa vị hẳn hoi trên trường quốc tế.
Lễ kỷ niệm được tổ chức hết sức ngăn nắp và chu đáo. Việc nào ra việc ấy, khớp nhau rất nhịp nhàng không có một chút gì là cập rập lộn xộn. Một việc đặc biệt còn mãi trong trí nhớ của tôi là khi tôi ở khách sạn, chỗ chiêu đãi quốc tế của Chính phủ Tiệp trong dịp Quốc khánh, một chị phục vụ phụ trách việc trật tự trong phòng và phục vụ khách một cách hết sức thân mật và chu đáo. Lúc đầu mình cứ tưởng chị ta là một người phục vụ thông thường như ở các khách sạn khác, không ngờ khi Quốc khánh xong, khách và chủ cùng liên hoan với nhau, thì mới biết đó là một sinh viên năm thứ năm trường Đại học luật! Thông thường thì một sinh viên đại học như thế ở Việt Nam hoặc ở một nước nào khác thì không bao giờ chịu làm một người phục vụ như thế, nhưng ở đây thì bản thân người phục vụ đó lại xem là một vinh dự được phục vụ bạn quốc tế trong dịp Quốc khánh. Đó là một việc mà tôi cho là phải học tập, mà khi về nước báo cáo với Trung ương hoặc chuyện trò với cán bộ tôi thường nhắc đến.
Theo sự giới thiệu của các bạn cùng dự lễ Quốc khánh, thì Tiệp Khắc không phải là một nước lớn ở châu Âu, nhưng đời sống vật chất của nhân dân thì xếp vào bậc thứ hai trên thế giới [7] . Thành phố Pra-ha không đồ sộ như Mạc Tư Khoa, nhưng là một thành phố lâu đời rất xinh đẹp và rất sạch sẽ, trên đường phố không có một mảnh giấy vụn hay một mẩu thuốc lá vút bừa bãi như các thành phố châu Á mà tôi thường trông thấy.
Có thể nói dịp tham gia lễ Quốc khánh Tiệp Khắc là một dịp để hiểu biết được cái nền văn minh vật chất của châu Âu.
Xong lễ kỷ niệm Quốc khánh rồi, tôi còn ở lại Pra-ha hơn một tuần để gặp Ban liên lạc Trung ương Đảng Cộng sản Tiệp Khắc để giới thiệu tình hình Việt Nam và bàn một số công việc như nhờ Trung ương Đảng Tiệp giúp đỡ những cán bộ Việt Nam từ Pháp về, giúp phương tiện cho nhập cảnh, quá cảnh, trường hợp cần thiết thì yêu cầu giúp cả về lộ phí.
Lần này tôi đến Tiệp, Trần Ngọc Danh đang chữa bệnh ở Xlô-vác có về Pra-ha thăm tôi rồi lại đi Xlô-vác. Còn Lê Hy thì thường đi với tôi trong những lúc đi dạo phố và là người phiên dịch. Lúc rời Tiệp về Bắc Kinh, tôi cũng xếp cho Lê Hy cùng về, còn Trần Ngọc Danh thì vẫn ở Tiệp tiếp tục chữa bệnh một thời gian rồi sẽ về nước.

II. Mối tình thắm thiết Việt–Hoa
Trong thời gian tám năm làm Đại sứ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Trung Quốc và Đại biểu Trung ương Đảng Việt Nam bên cạnh Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, một việc không bao giờ phai nhạt trong trí nhớ của tôi là mối tình thắm thiết Việt – Hoa, là sự giúp đỡ cực kỳ to lớn có tính chất quyết định đưa cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam hoàn toàn thắng lợi.
Là một người chứng kiến lịch sử, tôi thấy mình có trách nhiệm ghi lại và tóm tắt sự giúp đỡ đầy tinh thần quốc tế vô sản của Trung Quốc đối với Việt Nam, để nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới quan niệm được sự quan trọng của nó.
Sự giúp đỡ của Trung Quốc đối với Việt Nam có thể trình bày vắn tắt qua bốn mặt như sau:

1. Sự ủng hộ của Trung Quốc về mặt chính trị và ngoại giao
Từ tháng 12-1946 toàn dân Việt Nam đứng lên kháng chiến chống Pháp, tuy đã bước vào giai đoạn cầm cự, nhưng vẫn chưa có một nước nào trên thế giới thừa nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Chỉ sau khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thành lập được hơn ba tháng, thì ngày 18-1-1950 Chính phủ Trung Quốc chính thức tuyên bố thừa nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tiếp theo Chính phủ Trung Quốc, ngày 30-1-1950, Liên Xô cũng tuyên bố thừa nhận, và tiếp theo Chính phủ Liên Xô, Chính phủ các nước dân chủ nhân dân ở Đông Âu và Triều Tiên, Mông Cổ ở châu Á liên tiếp thừa nhận. Các nước khác ở châu Á như Ấn Độ, Miến Điện Pa-ki-xtan tuy chưa chính thức công bố thừa nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhưng đều tỏ vẻ đồng tình và hữu nghị rõ rệt.
Việc Trung Quốc dẫn đầu phe xã hội chủ nghĩa thừa nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã làm cho Việt Nam có một địa vị vững chắc trên trường quốc tế. Đó là một việc cực kỳ quan trọng trong lịch sử đấu tranh giành độc lập của nhân dân Việt Nam. Vì vậy, chúng ta đã lấy ngày 18 tháng Giêng làm “Ngày thắng lợi ngoại giao”, và hằng năm cứ đến ngày đó là tổ chức kỷ niệm long trọng.


  • Tại hội nghị Giơ-ne-vơ năm 1954, Trung Quốc hoàn toàn ủng hộ lập trường của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đồng chí Chu Ân Lai, Trưởng đoàn đại biểu Trung Quốc hợp tác chặt chẽ với đồng chí Mô-lô-tốp, Trưởng đoàn đại biểu Liên Xô cùng với đoàn đại biểu Việt Nam, phá tan âm mưu phá hoại hội nghị của Mỹ, đi đến kết quả miền Bắc Việt Nam hoàn toàn giải phóng, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trở thành một nước có thủ đô, có hải cảng, có địa vị Quốc tế, đủ điều kiện làm cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất Tổ quốc. Tình hình phát triển của lịch sử đã chứng tỏ Hiệp đinh Giơ-ne-vơ là một thắng lợi to lớn của cách mạng Việt Nam, vì có miền Bắc vững mạnh làm cơ sở, thì mới đẩy mạnh được cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam. Sự cống hiện của Trung Quốc trong cuộc hội nghị cũng như sự giúp đỡ trên chiến trường Việt Nam đã có tác dụng làm thay đổi cán cân lực lượng, buộc đế quốc Pháp phải hoàn toàn rút khỏi miền Bắc nước Việt Nam và thừa nhận chủ quyền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

  • Đi đôi với việc tích cực giúp đỡ Việt Nam khôi phục và phát triển kinh tế ở miền Bắc, Trung Quốc còn kiên quyết ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam Việt Nam với quyết tâm và lời lẽ đanh thép như “Trung Quốc sẽ dành cho nhân dân miền Nam Việt Nam mọi sự viện trợ cần thiết về vật chất, và để chuẩn bị sẵn sàng, một khi nhân dân miền Nam Việt Nam cần đến, sẽ cử người sang kề vai sát cánh cùng chiến đấu với nhân dân miền Nam Việt Nam”. Ở Trung Quốc, đài phát thanh và các báo chí thường xuyên đưa tin về cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam Việt Nam, ra nhiều sách và tranh ảnh xây dựng thành nhiều tác phẩm văn nghệ như kịch múa “Lửa hận rừng dừa”, ….để tranh thủ nhân dân thế giới đồng tình và ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam Việt Nam.

  • Sau khi đế quốc Mỹ ném bom ở miền Bắc từ tháng 8 năm 1964, Trung Quốc đã dấy lên một cao trào mới giúp Việt Nam chống Mỹ. Chúng ta còn nhớ rõ cảnh tượng hàng trăm triệu nhân dân các tỉnh của Trung Quốc đã đổ ra đường phố biểu tình ủng hộ Việt Nam, Mao Chủ tịch và Thủ tướng Chu Ân Lai đích thân tham dự cuộc mít tinh của hơn một triệu người ở Bắc Kinh, và nghiêm trang tuyên bố: Sự xâm phạm của Mỹ đối với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tức là sự xâm phạm đối với Trung Quốc và nhân dân Trung Quốc sẽ áp dụng mọi biện pháp cần thiết, thậm chí không tiếc chịu đựng một sự hy sinh dân tộc lớn nhất, dốc toàn lực ủng hộ nhân dân Việt Nam tiến hành đến cùng cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước.

Sự thực lịch sử đã chứng tỏ, sự ủng hộ mạnh mẽ của Trung Quốc có một tác dụng hết sức quan trọng trong việc ngăn chặn đế quốc Mỹ đang muốn trực tiếp tiến công vào miền Bắc Việt Nam.

2. Sự giúp đỡ của Trung Quốc về mặt vật chất trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và xây dựng kinh tế ở miền Bắc Việt Nam
Chính phủ Trung Quốc đã từng tuyên bố, “bảy trăm triệu nhân dân Trung Quốc là hậu thuẫn vững mạnh của nhân dân Việt Nam, đất nước bao la của Trung Quốc là hậu phương chắc chắn của Việt Nam”. Đây không phải chỉ là lời nói mà sự thực cũng đúng như vậy. Từ năm 1950 đến năm 1978, tổng số viện trợ của Trung Quốc dành cho Việt Nam trị giá hơn hai mươi tỷ đô-la Mỹ, chiếm 41% tổng số viện trợ của Trung Quốc cho nước ngoài. Trong thời kỳ chống Pháp từ năm 1950 đến năm 1954, Trung Quốc là nước duy nhất viện trợ quân sự cho Việt Nam. Toàn bộ vũ khí, đạn dược và quân trang, quân dụng của quân đội Việt Nam là do Trung Quốc trực tiếp cung cấp theo dự trù hàng năm và nhu cầu của các chiến dịch ở Việt Nam. Trong thời kỳ chống Mỹ, phần lớn vũ khí đạn dược và quân trang, quân dụng cũng do Trung Quốc cung cấp, gồm quần áo, thuốc men, y cụ và nhiều đại bác, xe tăng, thiết giáp, cao xạ, tên lửa, máy bay, tàu chiến, cùng các phụ tùng thay thế và dầu mỡ v.v… đủ trang bị cho hơn hai triệu quân đội Việt Nam và thường xuyên cung cấp đủ số đạn được và trang bị cần thiết cho việc tác chiến liên tục trên các chiến trường.


  • Về mặt giúp đỡ Việt Nam khôi phục và xây dựng kinh tế ở miền Bắc, ngay sau khi hòa bình được lập lại năm 1954, theo yêu cầu của Hồ Chủ tịch, Trung Quốc đã giúp Việt Nam lập tức khôi phục lại đường sắt từ Hà Nội đến Đồng Đăng dài chừng 200 cây số đã bị phá hoại hoàn toàn trong chiến tranh. Lúc đó, Trung Quốc chưa sản xuất được loại đường ray hẹp, Mao Chủ tịch liền quyết định tháo dỡ đường ray của đường sắt Đồng Bồ ở tỉnh Sơn Tây Trung Quốc [8] để lắp cho đường sắt Việt Nam, đồng thời trang bị đủ toàn bộ đầu máy và toa tàu. Với sự giúp đỡ của các nhân viên kỹ thuật và công nhân Trung Quốc, chỉ trong bốn tháng là quãng đường sắt ấy đã làm xong, “làm cho nước ta càng gần gũi Trung Quốc, Liên Xô và các nước bạn khác. Nó nối liền Hà Nội với Bắc Kinh, Mạc Tư Khoa và các thủ đô khác cho đến Béc-lanh” (lời Hồ Chủ Tịch). Tiếp đó, Trung Quốc bắt đầu giúp Việt Nam xây dựng một nền kinh tế tương đối toàn diện để làm cơ sở vật chất thực hiện tự lực cánh sinh.

  • Từ năm 1954, Trung Quốc giúp Việt Nam xây dựng 450 hạng mục, đến tháng 3 năm 1978 đã hoàn thành 339 hạng mục, gồm những công trình như nhà máy xay, nhà máy đường, nhà máy dệt, nhà máy dệt kim, nhà máy giấy, nhà máy phát diện, nhà máy hóa chất, nhà máy cao su, nhà máy xà phòng, nhà máy thuốc lá, nhà máy diêm, nhà máy bóng đèn phích nước, nhà máy tráng men, nhà máy làm đồ sứ, nhà máy văn phòng phẩm Hồng Hà, nhà máy mì chính, nhà máy phân hóa học, nhà máy thuốc trừ sâu, xưởng đóng tàu, nhà máy gang thép Thái Nguyên, thiết bị mỏ quặng, hệ thống vô tuyến điện, nông trường quốc doanh, trường kỹ thuật nông nghịệp, và tiếp tục làm lại đường sắt từ Hà Nội đến Lào Cai, đến Thái Nguyên, xây lại cầu Hàm Rồng v.v… Tất cả những hạng mục do Trung Quốc giúp Việt Nam đã đáp ứng một cách rất thiết thực yêu cầu của nền kinh tế Việt Nam và của đời sống nhân dân Việt Nam. Đến sau năm 1965, khi máy bay Mỹ bắn phá miền Bắc, Trung Quốc lại đáp ứng yêu cầu của Chính phủ Việt Nam, cử nhiều đoàn chuyên gia và nhân viên kỹ thuật sang giúp Việt Nam tháo dỡ các thiết bị máy móc của mấy chục cơ sở công nghiệp do Trung Quốc viện trợ để sơ tán đến những nơi an toàn, khỏi bị máy bay Mỹ tàn phá.

  • Về các loại hàng hóa dùng để chi viện tiền tuyến và giải quyết đời sống cho nhân dân, riêng từ năm 1965 đến năm 1975 Trung Quốc đã viện trợ hơn năm triệu tấn lương thực, hơn ba trăm triệu mét vải, hơn ba vạn chiếc ô tô, hơn sáu trăm tàu thủy đủ các loại, hơn một trăm đầu máy và hơn bốn nghìn toa xe lửa, gần hai triệu tấn xăng, và các thứ hàng dệt và bách hóa trị giá bảy trăm triệu đồng nhân dân tệ.

Một khoản viện trợ quý giá đặc biệt là từ năm 1955 đến năm 1976, Trung Quốc đã giúp cho Việt Nam hơn sáu trăm triệu tiền mặt Mỹ kim để Việt Nam sử dụng cơ động vào cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam trong khi Trung Quốc cũng rất cần ngoại tệ để xây dựng đất nước.

3. Cử cố vấn, chuyên gia, nhân viên kỹ thuật và bộ đội Trung Quốc sang giúp Việt Nam
Từ năm 1950 trở đi, nhiệm vụ khẩn cấp của Việt Nam là đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi. Theo yêu cầu của Hồ Chủ tịch và Trung ương Đảng Việt Nam, Trung Quốc đã cử Đoàn cố vấn quân sự và Đoàn cố vấn chính trị sang giúp Việt Nam.


  • Nhiệm vụ của Đoàn cố vấn quân sự do đồng chí Vi Quốc Thanh dẫn đầu và giúp Việt Nam xây dựng quân đội và phổ biến kinh nghiệm tác chiến. Ngoài việc giúp Tổng quân ủy Việt Nam ra, còn có các tổ cố vấn về tham mưu, chính trị hậu cần, giúp các đại đoàn [9] chủ lực 308, 312, 316, 304 và các Binh chủng khác. Qua sự giúp đỡ của các cố vấn Trung Quốc kết hợp với sự cố gắng vượt bậc của bản thân quân đội Việt Nam, ta đã xây dựng thành công một đội quân chủ lực gồm mấy sư đoàn dã chiến, có khả năng tiêu diệt từng bộ phận sinh lực quan trọng của địch và thực tế đã chiến thắng quân địch trong các chiến dịch từ chiến dịch Biên Giới (cuối năm 1950) cho đến chiến dịch Điện Biên Phủ (năm 1954), đi đến giải phóng toàn bộ miền Bắc Việt Nam.

  • Nhiệm vụ của Đoàn cố vấn chính trị do đồng chí La Quý Ba đứng đầu là góp ý kiến với Đảng Lao động Việt Nam và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về chính sách và công tác cụ thể của các ngành để xây dựng khu giải phóng vững mạnh đủ sức chi viện tiền tuyền. Ngoài việc đồng chí Trưởng đoàn cố vấn thường xuyên trao đổi ý kiến với Bộ Chính trị Trung ương Đảng, còn có các tổ cố vấn giúp các ngành tài chính, thuế, ngân hàng giao thông vận tải, công an, tình báo, v.v… Các cố vấn Trung Quốc đã cùng cán bộ Việt Nam xây dựng nên phương châm chính sách bộ máy tổ chức, chế độ công tác và cách thức làm việc cho các ngành, bồi dưỡng được nhiều cán bộ có trình độ chính trị và chuyên môn để thúc đẩy mọi công tác tiến lên. Đến năm 1955, khi miền Bắc Việt Nam đã được hoàn toàn giải phóng, theo đề nghị của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đoàn cố vấn chính trị mới toàn bộ rời Việt Nam về nước [10] . Đồng chí La Quý Ba được ủy nhiệm làm Đại sứ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tại Việt Nam.

  • Từ năm 1954 đến năm 1978, khi hòa bình được lập lại ở Việt Nam sau Hội nghị Giơ-ne-vơ, nhiệm vụ khẩn cấp ở miền Bắc là khôi phục nền kinh tế bị chiến tranh tàn phá và xây dựng nền móng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc làm cơ sở thực hiện thống nhất Tổ quốc. Để xây đựng các hạng mục công nông nghiệp do Trung Quốc viện trợ, nhiều Đoàn chuyên gia trung Quốc của các ngành được lần lượt cử sang Việt Nam, do đồng chí Phương Nghị làm Trưởng đoàn chuyên gia [11] .
    Các chuyên gia đó làm việc rất tận tụy, được các cán bộ, công nhân viên Việt Nam hết sức mến phục. Đến năm 1978, khi bọn Lê Duẩn ráo riết chống Trung Quốc, Chính phủ Trung Quốc mới quyết định rút toàn bộ chuyên gia về nước.

  • Một điều cần nói rõ là, cố vấn hoặc chuyên gia Trung Quốc công tác ở Việt Nam, phía Việt Nam chỉ phải cung cấp cơm ăn, nhà ở và phương tiện giao thông, còn tiền lương, tiền trợ cấp và các khoản chi tiêu khác đều do phía Trung Quốc tự giải quyết.
    Đó chẳng những cũng là một khoản viện trợ lớn, mà còn là một thái độ chính trị rõ rằng cán bộ Trung Quốc công tác ở Việt Nam cũng chỉ bình thường như cán bộ Việt Nam, không có một sự ưu việt nào trong đời sống. Theo thống kê chưa đầy đủ, thì số cố vấn, chuyên gia và nhân viên kỹ thuật của Trung Quốc sang giúp Việt Nam từ năm 1950 đến năm 1978, tổng số có đến 20.000 người. Hồ Chủ tịch đánh giá rất cao sự cống hiến các cố vấn, chuyên gia và nhân viên kỹ thuật Trung Quốc. Người từng nói, “Bác tuyệt đối tín nhiệm các cố vấn Trung Quốc”, Người đã từng đích thân tặng huân chương cao nhất của nước Việt Nam cho các đồng chí Trưởng đoàn cố vấn chuyên gia. Chính phủ và Tổng quân ủy Việt Nam cũng tặng nhiều huân chương cho các đồng chí Trung Quốc để tuyên dương công lao của các đồng chí đó trong công cuộc kháng chiến và kiến thiết của Việt Nam.

  • Từ năm 1965 đến năm 1970, khi đế quốc Mỹ điên cuồng bắn phá miền Bắc, theo yêu cầu của Hồ Chủ tịch và Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Mao Chủ tịch và Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã phái hơn ba mươi vạn bộ đội Trung Quốc gồm phòng không, công trình, đường sắt và hậu cần, mang theo toàn bộ vũ khí, trang bị, phương tiện, máy móc và vật liệu sang giúp Việt Nam, và đã hoàn thành được những nhiệm vụ quan trọng như đắp được 1.231 cây số đường ô tô, 476 cây số đường sắt, xây thành sân bay Yên Bái v.v… Đồng thời với việc hoàn thành nhiệm vụ xây dựng, các đồng chí còn bắn rơi nhiều máy bay Mỹ, cùng quân dân Việt Nam bảo vệ được các đường giao thông từ Bắc vào Nam. Ở những nơi đóng quân, các đồng chí Trung Quốc còn tích cực giúp nhân dân địa phương sơ tán người già, trẻ con, đào hầm hố phòng không, cứu chữa những người bị bệnh, bị thương v.v…gây thêm được mối tình thắm thiết giữa nhân dân hai nước Việt - Trung. Trong khi làm nhiệm vụ quốc tế, hơn một nghìn đồng chí Trung Quốc đã bị hy sinh và hơn ba nghìn đã bị thương trên đất Việt Nam. Đến tháng 7 năm 1970, khi làm xong nhiệm vụ, toàn thể bộ đội đó đã trở về Trung Quốc. Sự có mặt của bộ đội Trung Quốc ở Việt Nam còn có một ý nghĩa hết sức quan trọng là làm cho đế quốc Mỹ không dám đưa quân trực tiếp đụng đến đất đai miền Bắc, để quân dân ta có điều kiện dốc sức vào cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam.

4 - Ngoài những mặt nói trên, Trung Quốc còn thật sự là hậu phương vững chắc của Việt Nam
Dưới sự bắn phá của máy bay Mỹ, giao thông vận tải là một vấn đề rất khó giải quyết. Trung Quốc đã tìm đủ trăm phương ngàn kế giúp ta giải quyết vấn đề này một cách có hiệu quả, như giúp ta đặt đường ống dẫn dầu dài chừng 4.000 cây số để đưa dầu Trung Quốc đến tận miền Nam Việt Nam. Bắt đầu từ năm 1967, Trung Quốc điều động 500 chiếc xe vận tải trực tiếp chuyển hàng vào Việt Nam. Sau khi cảng Hai Phòng bị Mỹ thả thủy lôi phong tỏa, Trung Quốc lại điều động thêm 2.200 chiếc xe vận tải chia ra năm đường chở các hàng viện trợ vào trong nội địa Việt Nam.
Về đường biển, sau năm 1965, Trung Quốc đã mở một đường bí mật cho tàu đi theo bờ biển chở hàng viện trợ đến mấy hòn đảo nhỏ ở Trung bộ để tiện cho Việt Nam chuyển vào miền Nam. Trung Quốc còn dành hai cửa biển ở đảo Hải Nam để Việt Nam dùng làm trạm chuyển tiếp vật tư vào Nam.
Một điều có tầm quan trọng đặc biệt là trung Quốc đã bỏ ra nhiều ngoại tệ mở một con đường qua Cam-pu-chia đến tận Nam bộ để chở hàng viện trợ của Trung Quốc như vũ khí, đạn được, lương thực, thuốc men thẳng đến cho Quân giải phóng miền Nam.
Trung Quốc còn thường xuyên giúp vận chuyển các hàng viện trợ của Liên Xô và các nước khác quá cảnh Trung Quốc sang Việt Nam và không lấy tiền cước đối với toàn bộ hàng viện trợ quân sự.
Một điều quan trọng nữa là Trung Quốc còn để cho Việt Nam sử dụng đất đai của mình làm địa bàn hoạt động và cung cấp cho các thiết bị như:


  • Trong thời kỳ chống Pháp, Trường lục quân của Việt Nam được đặt ở tỉnh Vân Nam do thiếu tướng Trần Tử Bình và thiếu tướng Lê Thiết Hùng phụ trách, để huấn luyện cán bộ quân sự với sự giúp đỡ của một số huấn luyện viên Trung Quốc.
    Trước chiến dịch Biên Giới, một số bộ đội chủ lực mới được xây dựng như Đại đoàn quân tiên phong [12] v.v… trực tiếp kéo sang Trung Quốc nhận toàn bộ vũ khí trang bị rồi về nước tác chiến ở biên giới.

  • Trong thời kỳ chống Mỹ, các phi đoàn của không quân Việt Nam từng sang huấn luyện, ẩn náu và hoạt động ở sân bay tỉnh Vân Nam trong khi sân bay Việt Nam bị máy bay Mỹ uy hiếp.
    Xây dựng một đài phát thanh dự bị cho Việt Nam ở Tỉnh Vân Nam. Khi Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam bị máy bay Mỹ ném bom tối 18-12-1972 ớ Hà Nội, thì chỉ sau chín phút, Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam ở Vân Nam đã thay Đài tiếng nói Việt Nam ở trong nước tiếp tục phát thanh, thông báo kịp thời tin thắng lợi cho nhân dân cả nước.
    Ở Quế Lâm thuộc Quảng Tây có bệnh viện Nam Khê Sơn gồm 600 giường bệnh dành riêng cho các bệnh nhân Việt Nam. Trong thời gian bảy năm, đã có hơn 5.000 cán bộ Việt Nam đến đó điều trị. Sau đó, toàn bộ thiết bị của bệnh viện đã giao lại cho Việt Nam mang về nước. Cũng ở Quế Lâm, còn có Trường thiếu niên Việt Nam chủ yếu dạy con em liệt sĩ và học sinh miền Nam tập kết.
    Ngoài ra, Hội chợ Quảng Châu còn dành riêng một phòng triển lãm cho Việt Nam, để giúp Việt Nam tiêu thụ các thứ hàng hóa ra nước ngoài. Trung Quốc còn giúp Việt Nam in các loại sách báo, tranh ảnh, từ điển, sách giáo khoa v.v…

Thủ tướng Chu Ân Lai thường dạy các đồng chí Trung Quốc phụ trách công tác viện trợ phải “luôn luôn nghĩ như nhân dân Việt Nam nghĩ, và làm gấp những việc nhân dân Việt Nam cần gầp”. Tinh thần của Trung Quốc giúp đỡ Việt Nam là: Bớt ăn, bớt mặc, bớt dùng, ưu tiên cung cấp cho Việt Nam những hàng hóa và thiết bị có chất lượng tốt và phải tìm trăm phương ngàn kế, kể cả đi mua sắm ở nước ngoài để giúp cho Việt Nam các hàng cần thiết với tinh thần không kêu khổ, không tuyên truyền, làm nghĩa vụ quốc tế của mình một cách thầm lặng. Theo chỉ thị của Thủ tướng Chu Ân Lai, đồng chí Lý Cường, Bộ trưởng Bộ Ngoại thương Trung Quốc từng đích thân đến tận con đường Trường Sơn xem xét tình hình vận chuyển hàng viện trợ vào Nam dưới sự bắn phá dữ dội của máy bay Mỹ. Hồ Chủ tịch đã từng hình dung sự giúp đỡ của Trung Quốc đối với Việt Nam là khảng khái, vô tư, hết sức to lớn và có hiệu quả. Người nói: “Tinh thần quốc tế cao cả đó và tình thân ái của nhân dân Trung Quốc đối với nhân dân Việt Nam làm chúng ta rất cảm động và biết ơn”.
Sự thực lịch sử trong hai mươi tám năm (1950-1978) Trung Quốc viện trợ Việt Nam đã chứng tỏ rằng: Sự giúp đỡ của Trung Quốc đối với Việt Nam là nhân tố quốc tế không thể thiếu được để nhân dân Việt Nam giành lấy thắng lợi trong cuộc cách mạng cũng như trong việc kiến thiết. Ngược lại, sự thật lịch sử trong mấy năm qua (1978-1986) cũng chứng tỏ rằng: Không có sự giúp đỡ của Trung Quốc thì Việt Nam đã lâm vào tình cảnh hết sức khó khăn bế tắc.
Việc ghi lại tóm tắt tình hình Trung Quốc giúp đỡ Việt Nam có nghĩa là ghi lại một trang sử quan trọng trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, một trang lịch sử đẹp đẽ nhất trong mối quan hệ vừa là đồng chí vừa là anh em giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân Trung Quốc. Cố nhiên đối với sự giúp đỡ quan trọng về quân sự của Liên Xô như tên lửa, để ta có thể bắn rơi máy bay B-52 của Mỹ, sự giúp đỡ của Liên Xô trong việc xây dựng, cũng như sự giúp đỡ của các nước anh em khác, chúng ta cũng vẫn phải luôn luôn ghi nhớ và biết ơn.



[1]Thủ đô Tiệp
[2]một thành phố lớn của Ấn Độ
[3]tiền Ấn Độ
[4]Thủ đô Ý
[5]sau khi về nước, cả hai người đều bị Trung ương phê phán và khai trừ không thời hạn ra khỏi Đảng
[6]không ủng hộ Pháp chống Việt Nam
[7]bậc nhất là nhân dân Hà Lan
[8]cũng là đường ray hẹp
[9]sư đoàn
[10]Đoàn cố vấn quân sự cũng về nước
[11]sau đổi thành Phòng đại điện kinh tế của Trung Quốc ở Việt Nam
[12]Sư đoàn 308.
-------------------------------

Phần 6:
Những năm tháng là đại biểu Chính phủ
 và đại biểu Trung ương Đảng  tại Trung Quốc (1950-1957)

III. Một số hoạt động ở trong nước
Tôi tuy là Đại sứ Việt Nam và Đại biểu Trung ương Đảng tại Trung Quốc, nhưng là ủy viên Trung ương Đảng và ủy viên Ban thường trực Quốc hội, nên thường phải về nước báo cáo công tác và tham gia một số hoạt động ở trong nước. Đặc biệt là sau thắng lợi chiến dịch Biên giới, việc đi lại dễ dàng hơn trước, tôi càng có dịp về nước hoạt động được nhiều hơn. Những hoạt động ở trong nước có cảm nghĩ sâu sắc mà đến nay vẫn còn in sâu trong trí nhớ, có thể kể ba việc như sau:
  • Về chiến dịch Biên giới, tháng 9-1950.
  • Về Đại hội lần thứ hai của Đảng, tháng 2-1951.
  • Về vấn đề sửa sai sau cải cách ruộng đất, tháng 9-1956.
1. Về chiến dịch Biên giới (tháng 9-1950)
Nói đến chiến dịch Biên giới, trước hết cần phải hiểu lai lịch của nó. Đầu năm 1950, khi cuộc kháng chiến chống Pháp của ta đang ở giai đoạn cầm cự, nhân dịp cách mạng Trung Quốc thắng lợi, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thành lập (1-10-1949), Hồ Chủ tịch bí mật qua Bắc Kinh đặt vấn đề yêu Trung Quốc viện trợ. Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và Mao Chủ tịch đã vui vẻ chấp nhận ngay yêu cầu đó. Việc trước tiên là ngày 18-1-1950 Trung Quốc tuyên bố thừa nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa như đã nói ở mục trên. Sau đó Trung Quốc phái một đoàn cán bộ do đồng chí La Quý Ba dẫn đầu vào Việt Nam để cùng Trung ương Đảng Việt Nam nghiên cứu tình hình kháng chiến. Qua sự nghiên cứu thấy rằng, muốn được sự viện trợ to lớn của Trung Quốc thì điều kiện quan trọng là phái khai thông vùng Biên giới Việt-Trung, nghĩa là phải tiêu diệt được quân Pháp ở vùng Biên giới. Và như vậy là Trung Quốc phải giúp nhiều mặt, mà mặt quan trọng là kinh nghiệm quân sự. Được báo cáo của các đồng chí, Mao Chủ tịch đồng ý phải khai thông Biên giới bằng cách mở chiến dịch Biên giới, và quyết định phái đồng chí Trần Canh, một vị tướng tài đã đánh quen trăm trận và đã quen biết Hồ Chủ tịch ở Quảng Châu từ những năm 1925-1926, đến giúp Việt Nam tổ chức chiến dịch này.
Đầu tháng 7 năm 1950, đồng chí Trần Canh mang theo một số cán bộ xuất phát từ Vân Nam, trèo đèo lội suối đến Việt Bắc gặp Hồ Chủ tịch ở một địa điểm trong khu rừng thuộc tỉnh Thái Nguyên, đó là “Phủ Chủ tịch của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”. Ở đây, Hồ Chủ tịch và đồng chí Trần Canh cùng nghiên cứu chiến dịch Biên giới. Trời nóng, hai người thường mặc áo may-ô suồng sã như người trong một nhà, cùng chỉ trỏ trên một bản địa đồ để ở trước mặt, bàn tính về cách đánh của chiến dịch. Hồ Chủ tịch nói: “Có người chủ trương đánh vào cứ điểm địch ở Cao Bằng, giải phóng được Cao Bằng tức là khai thông được Biên giới”. Đồng chí Trần Canh cho rằng, Cao Bằng là một cứ điểm lớn của địch, quân đội ta chưa quen đánh trận địa lớn, đánh vào đó chắc phải kéo dài ngày và có thể phải hy sinh nhiều. Rất tốt là ta đánh Đông Khê, một cứ điểm nằm trên đường Cao Bằng- Lạng Sơn, ở đó lực lượng địch chỉ có độ ba trăm, ta có thể đánh thắng mau và gọn. Như vậy quân địch ở Cao Bằng sẽ bị cô lập, Thất Khê sẽ phải kéo đến cứu viện, ta sẽ chặn đánh tiêu diệt địch trên đường hành quân. Mục đích của chúng ta là tiêu diệt binh lực địch càng nhiều càng tốt. Địch bị tổn thất nặng thì hoặc phải co lại hoặc phải tháo chạy, thế là ta giành được thế chủ động ở Biên giới. Hồ Chủ tịch rất tán thưởng ý kiến này và đưa ra bàn ở Bộ Chính trị và Bộ chỉ huy quân đội thì mọi người đều đồng ý. [1]
Kế hoạch đã định. Mọi việc chuẩn bị cho chiến dịch bắt đầu. Hồ Chủ tịch đích thân ra mặt trận Biên giới nắm việc chỉ đạo chiến dịch. Đồng chí Vi Quốc Thanh từ phía Quảng Tây đến với một bộ máy đầy đủ gồm các cố vấn thanh mưu, chính trị, hậu cần, là những đồng chí cán bộ ưu tú của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc. Mối tình hữu nghị chiến đấu giữa quân đội cách mạng hai nước Việt-Trung chan hòa khắp dọc vùng Biên giới. Nhân dân các dân tộc hết sức phấn khởi và tin tưởng, tích cực xông ra chi viện tiền tuyến. Một cảnh tượng chiến tranh nhân dân hiện ra trước mắt chúng ta.
*

Ngày 16-9-1950, quân đội ta đánh thẳng vào Đông Khê, đến sáng ngày 18-9-1950 thì toàn bộ 300 quân địch ở đây bị tiêu diệt. Sau khi Đông Khê mất, viên chỉ huy binh đoàn địch ở Cao Bằng là thượng tá Sác-tông (Charton) phải bỏ Cao Bằng đưa toàn bộ binh đoàn chạy về phía Thất Khê, viên chỉ huy binh đoàn địch ở Thất Khê là thượng tá Lơ-pa-giơ (Lepage) đưa hai nghìn quân lên phía Đông Khê để cứu viện, đều bị quân ta bao vây chặn đánh kịch liệt. Qua nhiều ngày đêm liên tục chiến đấu, đến ngày 8- 10 thì cả hai binh đoàn đều bị ta tiêu diệt. Thượng tá Sác-tông, thượng tá Lơ-pa-giơ và một số sĩ quan chỉ huy địch bị ta bắt sống. Bộ chỉ huy địch ở Hà Nội, hết sức hoảng sợ phải ra lệnh cho các đồn ở Thất Khê, Nà Sầm, Đồng Đăng, Lạng Sơn, Lào Cai phải toàn bộ rút lui. Hệ thống phòng ngự của Pháp ở Biên giới hoàn toàn bị tan rã. Khu giải phóng của ta với Đại hậu phương Trung Quốc nối liền với nhau thành một dải.
Sau khi chiến dịch Biên giới thắng lợi, trong một cuộc hội nghị cán bộ, Hồ Chủ tịch nói: “Thắng lợi của chiến dịch Biên giới là thắng lợi của tinh thần chủ nghĩa quốc tế vô sản”. Tư lệnh chỉ huy chiến dịch Võ Nguyên Giáp nói: “Chiến địch Biên giới đã phá tan sự phong tỏa của thực dân ở Biên giới, phá tan ý đồ chiến lược của địch muốn cô lập ta. Thắng lợi này sẽ ảnh hưởng rất lớn cả về mặt quân sự, chính trị và kinh tế, đó là một thắng lợi lớn nhất trong lịch sử kháng chiến Việt Nam. Thắng lợi đó chứng tỏ tư tưởng quân sự Mao Trạch Đông hết sức thích hợp với hoàn cảnh Việt Nam và cuộc đấu tranh vũ trang của ta”.
Riêng tôi, sau khi đi dự Quốc khánh Tiệp Khắc (9-5) về qua Bắc Kinh một thời gian, vào khoảng đầu tháng 9 thì về đến Biên giới, lúc chiến dịch đang chuẩn bị. Khi nghe nói Trung ương hai Đảng chủ trương đánh Đông Khê trước chứ không đánh Cao Bằng trước, thì chỉ hiểu giản đơn rằng, Đông Khê là một cứ điểm nhỏ dễ đánh hơn Cao Bằng, nhưng sau khi đánh Đông Khê rồi, binh đoàn Sác-tông và binh đoàn Lơ-pa-giơ đến cứu viện đều bị diệt gọn, thì mới thấy rõ chủ trương đánh Đông Khê là một chủ trương chiến lược rất sáng suốt, chiến thuật “đánh điểm diệt viện” và chiến thuật “vận động chiến” quả là chiến thuật có hiệu quả rõ rệt. Khi chiến dịch kết thúc, tôi cùng với một số cán bộ địa phương đi thẳng vào thị trấn Cao Bằng để quan sát, thì thấy là một thành phố bỏ trống, chẳng những không còn một tên địch nào, mà ngay cả dân chúng cũng đã sơ tán hết. Tôi chỉ ở thị trấn Cao Bằng hai hôm rồi lại trở về chỗ Trung ương và Hồ Chủ tịch làm việc. Báo cáo công việc và nhận chỉ thị xong, tôi lại sang Trung Quốc. Ngày 5-11-1950 đến Bắc Kinh, mang theo thư Trung ương Đảng Việt Nam gửi Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, và gặp đồng chí Lưu Thiếu Kỳ để thông báo cụ thể về mọi vần đề.
Công tác ở Bắc Kinh một thời gian, đầu năm 1951, tôi lại về nước để tham gia Đại hội lần thứ hai của Đảng.

2. Về Đại hội lần thứ hai của Đảng (tháng 2-1951)
Đại hội Đảng họp từ ngày 11 đến ngày 19-2-1951 ở một khu rừng tỉnh Tuyên Quang, được gọi là Đại hội lần thứ hai của Đảng Cộng sản Đông Dương, cũng gọi là Đại hội thành lập Đảng Lao động Việt Nam. Vì sao thế? Để thấy rõ vấn đề, tôi thấy ở đây cần nhắc lại tóm tắt quá trình thành lập và sự phát triển của Đảng trong hơn hai mươi mốt năm qua.
Ngày 3-2-1930, ba nhóm Cộng sản Việt Nam dưới sự chủ trì của Hồ Chủ tịch, chủ trương thống nhất cả ba nhóm thành một Đảng Cộng sản Việt Nam. Cuối năm 1930, theo ý kiến của Quốc tế Cộng sản, Trung ương chủ trương đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương với ý nghĩa là một Đảng cộng sản chung cho cả ba nước Đông Dương là Việt, Miên, Lào cùng chống thực dân Pháp. Sau phong trào Xô-viết Nghệ-Tĩnh, thực dân Pháp khủng bố ác liệt, phong trào bị lắng xuống. Năm 1935 Ban chỉ huy ở ngoài của Đảng Cộng sản Đông Dương triệu tập một cuộc hội nghị ở Ma-cao để chỉnh đốn lại hàng ngũ của Đảng. Cuộc hội nghị này được gọi là Đại hội Ma-cao, Đại hội lần thứ nhất của Đảng. Đại hội đã bầu đồng chí Hà Huy Tập làm Tổng Bí thư của Đảng thay cho đồng chí Trần Phú đã hy sinh. Tháng 9-1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập, nhưng nước Việt Nam bị chia thành hai phần, một phần từ vĩ tuyến 16 trở vào do quân Anh tiếp quản, một phần từ vĩ tuyến 16 trở ra do quân Tưởng tiếp quản, phần lớn lãnh thổ Miên và Lào đều bị quân Pháp trở lại chiếm đóng. Để đối phó với tình hình phức tạp đó, ngày 11-11-1945 Đảng Cộng sản Đông Dương công khai tuyên bố tự giải tán. Tuyên bố như vậy nhưng thực tế Đảng vẫn tồn tại lãnh đạo cách mạng dưới danh nghĩa Mặt trận Việt Minh. Qua hơn bốn năm anh dũng kháng chiến chống Pháp, nhất là sau thắng lợi chiến dịch Biên giới, Việt Nam đã nối liền với Trung Quốc, Liên Xô và các nước trong phe xã hội chủ nghĩa thành một khối vững chắc. “Những chuyển biến mới của tình hình thế giới và tình hình trong nước đòi hỏi Đảng ta công khai hoạt động để lãnh đạo, tổ chức và động viên toàn Đảng và toàn dân quyết chiến và quyết thắng thực dân Pháp và bọn can thiệp Mỹ đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn”. Vì vậy Trung ương Đảng đã quyết định triệu tập cuộc Đại hội lần thứ hai của Đảng.
Đại hội lần này có mấy điểm nổi bật cần nêu rõ, đặc biệt là việc thành lập Đảng Lao động Việt Nam và việc nêu cao tầm quan trọng của kinh nghiệm cách mạng Trung Quốc và tư tưởng Mao Trạch Đông đối với cách mạng Việt Nam.
*

Việc thành lập Đảng Lao động Việt Nam
“Sau khi nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa ra đời, Đảng ta đã trở thành Đảng nắm chính quyền; sinh hoạt chính trị và phương thức hoạt động của Đảng cũng có những thay đổi mới, khác với thời kỳ hoạt động không hợp pháp trước kia. Để phù hợp với tình hình mới và yêu cầu mới của cách mạng, điều lệ của Đảng cần phải bổ sung và sửa đổi cho thích hợp. Hơn nữa, từ khi thành lập, Đảng Cộng sản Đông Dương là Đảng chung của giai cấp công nhân cả ba nước Việt Nam, Cam-pu-chia và Lào. Từ ngày kháng chiến toàn quốc, Việt Nam là một xã hội có ba tính chất: Dân chủ nhân dân, một phần thuộc địa và nửa phong kiến. Trong khi đó, ở Cam-pu-chia tuy hai phần ba đất nước đã được giải phóng và ở Lào đã có những chiến khu giải phóng rộng lớn ở cả Thượng Lào, Trung Lào và Hạ Lào, nhưng nhìn chung ở hai nước đó phổ biến vẫn là xã hội thuộc địa và phong kiến, và ở nhiều nơi thuộc nước Lào, giai cấp vẫn chưa phân hóa rõ rệt. Cho nên, tuy cả ba dân tộc đều cùng ở trên bán đảo Đông Dương, cùng có chung một kẻ thủ là bọn xâm lược Pháp và can thiệp Mỹ, và cùng phát triển trong chu kỳ chiến tranh và cách mạng mới của thế giới, nhưng điều kiện lịch sử và dân tộc của mỗi nước không giống nhau. Tình hình đó đòi hỏi mỗi nước cần có một Đảng hợp với tình hình thực tế của nước mình.
“Hình thế trên đây đã đề ra yêu cầu gấp rút triệu tập Đại hội lần thứ hai của Đảng, đề nghị rõ chính cương, sách lược của Đảng trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, quyết định việc Đảng ra hoạt động công khai và sửa đổi điều lệ Đảng cho thích hợp tình hình và nhiệm vụ cách mạng mới, bầu lại Ban Chấp hành Trung ương để thay mặt Đại hội lãnh đạo công việc chung của toàn Đảng, toàn dân” [2] .
Như vậy, việc thành lập Đảng Lao động Việt Nam là sự chấm dứt của Đảng Cộng sản Đông Dương, đồng thời cũng là sự xúc tiến việc Cam-pu-chia và Lào sẽ lập ra chính đảng riêng của mình để lãnh đạo cách mạng Cam-pu-chia và Lào cho đúng với điều kiện lịch sử và dân tộc của các nước đó.
*
Việc nêu cao tầm quan trọng của kinh nghiệm cách mạng Trung quốc và tư tưởng Mao Trạch Đông đối với cách mạng Việt Nam
Từ trước, các Đảng cộng sản và công nhân trên thế giới đều đặt nhiệm vụ nghiên cứu và học tập kinh nghiệm cách mạng Nga và học thuyết Mác- Lê-nin. Từ khi cách mạng Trung Quốc thành công, thì các đảng đều đặt vấn đề nghiên cứu và học tập kinh nghiệm cách mạng Trung Quốc và tư tưởng Mao Trạch Đông. Riêng cách mạng Việt Nam thì từ trước Cách mạng tháng Tám (1945), Hồ Chủ Tịch đã dùng kinh nghiệm của cách mạng Trung Quốc kết hợp với hoàn cảnh thực tế của ta, xây dựng Khu giải phóng, xây dựng quân đội và chính quyền, xây dựng Mặt trận thống nhất dân tộc, đưa cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền, cuộc kháng chiến chống Pháp đến giai đoạn cầm cự. Lần này ở Đại hội lần thứ hai của Đảng lại nâng cao tầm quan trọng của việc học tập kinh nghiệm cách mạng Trung Quốc và tư tưởng Mao Trạch Đông thành một nhiệm vụ cho toàn Đảng, bằng cách ghi rõ vào trong điều lệ mới của Đảng một đoạn như sau: “Đảng Lao động Việt Nam lấy học thuyết của Mác, Ăng-ghen, Lê-nin, Sta-lin và tư tưởng Mao Trạch Đông kết hợp với thực tế của cách mạng Việt Nam làm nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam của tất cả mọi hành động. Có thể nói đó là một việc đặc biệt, đó là sự thể hiện tình hữu nghị chiến đấu khăng khít giữa hai nước Việt-Trung như môi với răng.
Chúng ta còn nhớ tại Hội trường Đại hội, “trước mặt các đại biểu, dưới chân dung của Mác, Ăng-ghen, Lê-nin là chân dung của Sta-lin và Mao Trạch Đông” [3] . Và trong bức điện Đại hội thành lập Đảng Lao động Việt Nam gửi Đảng Cộng sản Trung Quốc có đoạn nói: “Đảng Lao động Việt Nam nguyện noi gương anh dũng Đảng Cộng sản Trung Quốc, học tập tư tưởng Mao Trạch Đông, tư tưởng lãnh đạo nhân dân Trung Quốc và các dân tộc Á Đông trên con đường độc lập và tự chủ” [4] .
Kinh nghiệm của cách mạng Trung Quốc và tư tưởng Mao Trạch Đông đã ảnh hướng khá sâu rộng trong Đảng và trong cuộc chiến đấu của nhân dân ta để bảo vệ Tố quốc. Trong bài giới thiệu quyển Kháng chiến nhất định thắng lợi của anh Trường Chinh trên báo Nhân Dân ngày 2-1-1956 có đoạn nói: “Đảng có đường lối chính trị và đường lối quân sự đúng đắn, lấy chủ nghĩa Mác-Lê-nin và tư tưởng Mao Trạch Đông làm nền tảng”. Lại có đoạn nói: “Đồng chí Trường Chinh theo tinh thần chỉ thị của Hồ Chủ tịch, đã vận dụng một cách sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lê-nin và tư tưởng Mao Trạch Đông để phân tích quy luật chiến tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam, vạch rõ phương châm chiến lược và chiến thuật của cuộc trường kỳ kháng chiến”.
Trong bài xã luận Mừng 30 năm thành công vĩ đại của Đảng Cộng sản Trung Quốc, báo Nhân dân ngày 28-1-1951 viết: “Để mừng 30 năm đấu tranh thắng lợi của Đảng Cộng sản Trung Quốc, chúng ta phải:
…Học tập kinh nghiệm phong phú của Đảng Cộng sản Trung Quốc về mọi mặt: Đấu tranh vũ trang, kinh tế, tài chính, chính sách mặt trận, chính quyền dân chủ nhân dân v.v…”
Và trong dịp kỷ niệm mười năm chiến thắng Điện Biên Phủ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết bài “Những bài học thắng lợi của chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ nói riêng và của cuộc kháng chiến thần thánh của nhân dân ta chống đế quốc Pháp và can thiệp Mỹ nói chung” đăng trên báo Nhân dân ngày 7-5-1964 có đoạn viết: “Từ năm 1950 trở đi, sau cách mạng Trung Quốc thắng lợi, quân đội và nhân dân ta càng có điều kiện học tập những kinh nghiệm quý báu của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc, học tập tư tưởng quân sự Mao Trạch Đông. Đó là một yếu tố quan trọng giúp vào sự trưởng thành nhanh chóng của quân đội ta, góp phần vào những thắng lợi liên tiếp của quân ta, đặc biệt là trong chiến địch Thu Đông năm 1953-1954 và trong chiến dịch Điện Biên Phủ vĩ đại...”
Điểm qua một vài nét lớn như trên, chúng ta thấy những kẻ sau này chủ trương xâm lược Cam-pu-chia, khống chế Lào và chống Trung Quốc là đã phản bội đường lối Hồ Chủ tịch, là vong ơn bội nghĩa đến và trụy lạc đến chừng nào?

3. Hội nghị Trung ương về vấn đề sửa sai cải cách ruộng đất (tháng 9-1956)
Cải cách ruộng đất là một chủ trương chiến lược nhằm xóa bỏ chế độ bóc lột phong kiến ở nông thôn, nâng cao đời sống của nông dân để đưa cuộc kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi.
Để đảm bảo việc cải cách ruộng đất được tiến hành đúng đắn, tháng 2 năm 1953 Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã thông qua một Cương lĩnh về vấn đề ruộng đất; tháng 12 năm 1953 lại đề nghị Quốc hội ra đạo luật cải cách ruộng đất để thực hành việc cải cách ruộng đất trên toàn miền Bắc. Đồng thời một Ủy ban cải cách ruộng đất được thành lập để chỉ đạo việc thực hành cải cách ruộng đất.
a) Cương lĩnh ruộng đất của Đảng. Có mấy điểm về nguyên tắc cơ bản như sau:
  • Tịch thu ruộng đất, trâu bò nông cụ và tài sản của bọn Việt gian phản quốc.
  • Tịch thu hoặc trưng thu (tùy tội nặng nhẹ) ruộng đất, trâu bò, nông cụ và tài sản của địa chủ phản động và cường hào gian ác.
  • Trưng mua ruộng đất, trâu bò, nông cụ của địa chủ kháng chiến và địa chủ thường; địa chủ kháng chiến, nhân sĩ dân chủ được chiếu cố một cách thích đáng.
  • Không được đụng đến ruộng đất, trâu bò, nông cụ, nhà cửa và tài sản của trung nông.
  • Không được đụng đến ruộng đất của những người có ít ruộng đất phải phát canh vì tham gia công tác kháng chiến, vì thiếu sức lao động hoặc vì bận làm nghề khác.
  • Để thực hiện cải cách ruộng đất phải phát động quần chúng theo đúng đường lối của Đảng ở nông thôn: Dựa hẳn vào bần cố nông, đoàn kết chặt chẽ với trung nông, liên hiệp phú nông, tiêu diệt chế độ phong kiến từng bước và có phân biệt, phát triển sản xuất, đẩy mạnh kháng chiến.
b) Luật cải cách ruộng đất do Quốc hội thông qua còn quy định cụ thể:
  • Về việc tịch thu, trưng thu, trưng mua ruộng đất (chương II).
  • Về việc chia ruộng đất (chương III).
  • Về cơ quan chấp hành và thực hiện cải cách ruộng đất (chương IV). Trong chương này có hai điều quy định chặt chẽ nhằm hạn chế sự lệch lạc trong khi chấp hành, như điều 34 quy định: “Thành phần giai cấp do hội nghị đại biểu nông dân bình nghị. Những người đương sự phải được dự hội nghị để tham gia bàn định”. Điều 36 quy định: “Đối với kẻ phạm pháp thì xét xử theo pháp luật, nghiêm cấm việc bắt bớ và giết chóc trái phép, đánh đập hoặc dùng mọi thứ nhục hình khác”.
c) Một ủy ban cải cách ruộng đất được thành lập: Gồm Trường Chinh, Tổng Bí thư Trung ương Đảng là Trưởng ban; Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương, Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng, Hồ Viết Thắng, Ủy viên Trung ương Đảng là ủy viên.
Việc cải cách ruộng đất do Trung ương đề ra với chủ trương đường lối như trên và một ủy ban chỉ đạo gồm những thành viên quan trọng như vậy là hoàn toàn đúng đắn và cần thiết. Nhưng khi thực hành thì do tác phong gia trưởng và ý thức tả khuynh của Trường Chinh đã đưa đến những sai lầm nghiêm trọng là đánh tràn lan vào trung nông, phú nông và những người có một ít ruộng đất cho thuê, đánh tràn lan cả vào cơ sở Đảng.
Tôi còn nhớ trong một cuộc hội nghị Trung ương năm 1955, Ủy ban cải cách ruộng đất báo cáo về đợt thí nghiệm ở Thái Nguyên do Hoàng Quốc Việt lãnh đạo. Trong đợt có năm trăm địa chủ lọt lưới và bốn trăm địa chủ bị quy sai. Các ủy viên Trung ương đã nêu lên rằng, những người lọt lưới, thì sau có thể quy định lại, nhưng những người bị quy sai, thì mất hết cả tài sản, cả danh dự, gây thành một sự thù oán trong nhân dân, đó là một việc rất nguy hiểm không thể để xảy ra tình trạng ấy. Ý kiến đó đã không được Ủy ban cải cách coi trọng, mà lại tự do cho phép các đội cải cách ruộng đất được bắn địa chủ gian ác để nâng cao khí thế nông dân. Việc bắn địa chủ mở đầu từ Thái Nguyên, sau lan tràn đi nhiều nơi, coi đó là một phương pháp tốt, để nâng cao uy thế nông dân.
Tiếp đó việc cải cách ruộng đất mở rộng ra thành vấn đề chỉnh đốn tổ chức Đảng. Do phương pháp chỉ nghe nhân chứng không trọng vật chứng, và phương pháp nhục hình ép phải cung nhận, kết quả là chỗ nào cũng có người “phản Đảng” hoặc người “chui vào Đảng để phá hoại”. Ở Nghệ-Tĩnh là nơi cơ sở Đảng mạnh nhất, thì cũng là nơi bị phá hoại nghiêm trọng nhất.
Từ trước, Trung ương vốn tin ở Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương, nay vì sai lầm lớn ở Nghệ-Tĩnh, sự phản ứng mãnh liệt của nhân dân vang dội đến Hà Nội, Trung ương phải khấn cấp họp hội nghị đặc biệt để nghiên cứu tình hình. Việc sửa sai bắt đầu.
*

Hội nghị Trung ương về sửa sai cải cách ruộng đất họp vào tháng 9 năm 1956, là một cuộc hội nghị họp nhiều ngày nhất [5] từ khi có Đảng. Hầu hết các đồng chí Trung ương đều cho rằng trong quá trình cải cách ruộng đất, Ủy ban có cách ruộng đất đã không thi hành đúng chủ trương của Đảng. Thí dụ:
  • Đảng chủ trương “đấu lý” để nâng cao giác ngộ của nông dân và làm cho địa chủ biết việc bóc lột nông dân là không đúng thì các đội cải cách đã để cho nông dân xỉ vả người bị gọi là địa chủ, thậm chí chủ trương để cho nàng đâu xỉ vả mẹ chồng, con xỉ vả bố mẹ, mà người bị gọi là địa chủ cứ phải cúi đầu chịu, không được thanh minh phải trái, có người bị bao vây chặt chẽ đến nỗi cơm không có ăn, hàng xóm hoặc bà con quá thương phái giấu lén đưa cho củ khoai, củ sắn.
  • Đảng chủ trương những gia đình có công với cách mạng, hoặc “địa chủ kháng chiến” được chiếu cố, thì các đội cải cách ruộng đất đều coi họ như địa chủ có tội ác với nhân dân mà đấu tố lung tung.
  • Đảng chủ trương những người có một ít ruộng cho thuê, nhưng nguồn sống chính là nhờ vào việc làm ăn khác, như đi buôn, làm thợ v.v… thì chỉ khuyên họ trả ruộng đất cho nông dân, mà không coi là địa chủ, nhưng các đội cải cách cứ vẫn coi là địa chủ, để mặc cho nông dân tùy tiện xỉ vả. Vì vậy, những người chỉ năm ba sào ruộng mà cũng bị coi là địa chủ trở thành một hiện tượng phổ biến. Những người là trung nông đáng lý phải được đoàn kết chặt chẽ trong hàng ngũ của nông dân, những người phú nông đáng lý phải được ở vào địa vị được liên hiệp trong cải cách thì một số không ít cũng bị coi là địa chủ, bị tịch thu hết ruộng đất nhà cửa, của cải, bị đủ mọi điều sỉ nhục mà không có quyền được chối cãi.
Tai hại hơn là lúc chuyển sang giai đoạn “chỉnh đốn tổ chức” thì chẳng những đánh vào trung nông và phú nông, mà còn đánh cả vào các tổ chức cơ sở Đảng, phần lớn những người đảng viên vào Đảng từ năm 1930, hoặc tham gia Thanh niên cách mạng đồng chí hội từ những năm 1925-1926 đều bị đấu tố và giam cùm. Đặc biệt là ở Nghệ-Tĩnh, do Đặng Thí phụ trách thì nhà tù dựng lên khắp nơi, hầu hết cơ sở Đảng đều bị đánh phá tan nát.
Những sai lầm như trên đã được nêu lên khá rõ rệt và đầy đủ, nhưng người phụ trách Ủy ban cải cách ruộng đất là Trường Chinh tuy không chối cãi được, nhưng cứ lý luận rằng cải cách đã đưa lại ruộng đất cho nông dân là một thắng lợi lớn, còn những sai lầm thì tránh né không thừa nhận một cách thẳng thắn. Hoàng Quốc Việt cũng không nhận sai lầm. Chỉ có Lê Văn Lương, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương là thành thực nhận sai lầm trong việc chỉnh đốn tổ chức. Hồ Chủ tịch tuy không ở trong Ủy ban cải cách ruộng đất, nhưng với cương vị là Chủ tịch Đảng, đã nghiêm khắc tự phê bình trước Hội nghị về việc thiếu kiểm tra đôn đốc, và chủ trương kiên quyết sửa sai.
Hội nghị Trung ương đáng lẽ phải có một nghị quyết tổng kết kinh nghiệm về cải cách ruộng đất. Nhưng Trường Chinh vừa là Tổng Bí thư Trung ương Đảng vừa là Trưởng ban cải cách ruộng đất, vì tư tưởng không thông, nên dự thảo nghị quyết mấy lần đều không được Hội nghị Trung ương chấp nhận. Kết quả vì cuộc họp đã lâu quá không thể kéo đài, đành phải kết thúc bằng chủ trương kiên quyết sửa chữa và thi hành kỷ luật với một số người phụ trách. Còn về nghị quyết thì phải tạm gác lại, giao cho Trường Chinh viết lại để trình Trung ương duyệt trong một phiên họp khác.

Về việc thi hành kỷ luật, Trung ương quyết định như sau:
  • Trường Chinh thôi chức Tổng Bí thư Trung ương Đảng, chức vụ này tạm do Hồ Chủ tịch kiêm.
  • Hoàng Quốc Việt rút ra khỏi Bộ Chính trị.
  • Lê Văn Lương rút ra khỏi Bộ Chính trị và thôi giữ chức Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Đảng.
  • Hồ Viết Thắng rút ra khỏi Ban Chấp hành Trung ương.
Để bổ sung vào Bộ Chính trị, Hội nghị Trung ương bỏ phiếu bầu Nguyễn Duy Trinh, Lê Thanh Nghị và Hoàng Văn Hoan làm ủy viên Bộ Chính trị. Đồng thời Trung ương cũng nghĩ đến việc Hồ Chủ tịch vừa là Chủ tịch Đảng, vừa kiêm chức Tổng Bí thư thì sẽ phải quản cả mọi việc sự vụ, cần phải nhắm đến người thay thế chức vụ Tổng Bí thư.
Lê Duẩn là một cán bộ công tác ở miền Nam, trước đã viết thư đề nghị Trung ương phải cải cách ruộng đất để cải thiện đời sống nông dân. Các đồng chí trong Bộ Chính trị đều nghĩ rằng một người đã có sáng kiến như vậy thì chắc chắn có thể giúp Hồ Chủ tịch trong chức vụ là Bí thư Trung ương Đảng. Không bao lâu thì Lê Duẩn được điều từ miền Nam ra làm việc ở miền Bắc.
*

Vào khoảng cuối năm 1956 đầu năm 1957, Lê Duẩn đến Hà Nội, Trung ương quyết định ủy nhiệm làm quyền Tổng Bí thư để giúp Hồ Chủ tịch giải quyết các việc hàng ngày của Ban Chấp hành Trung ương.
Với tư cách là quyền Tổng Bí thư Trung ương Đảng, nhưng Lê Duẩn không mải miết ở bàn giấy như Trường Chinh, mà liên hệ rộng rãi với cán bộ đảng viên với các nhân sĩ dân chủ. Trong các cuộc họp Bộ Chính trị hay Trung ương cũng tỏ ra khiêm tốn, lắng nghe ý kiến của người khác và phát biểu không nhiều. Theo anh ta nói, thì mới ra miền Bắc chưa hiểu tình hình, cần phải học hỏi, đặc biệt là cần phải nghiên cứu tình hình kinh tế để xây dựng miền Bắc.
Về việc sửa sai trong cải cách ruộng đất, trong một cuộc họp Bộ Chính trị, Lê Duẩn có nêu một số ý kiến, cho rằng cải cách ruộng đất sai lầm chủ yếu là ở chỗ không dựa vào Đảng, mà chỉ dựa vào các tổ cải cách ruộng đất. Ở Trung Quốc sau khi giải phóng, cải cách ruộng đất ở các vùng Hoa Trung, Hoa Nam phải dựa vào tổ cải cách ruộng đất là vì ở đó cơ sở Đảng rất yếu, có chỗ hầu như không có. Còn ở Việt Nam, qua nhiều năm chiến đấu, cơ sở Đảng đã phát triển sâu rộng trong nhân dân, nhưng cải cách ruộng đất chẳng những không dựa vào Đảng mà lại còn đánh tràn lan cả vào cơ sở Đảng. Qua sự phân tích đó, Bộ Chính trị thấy rằng việc thảo nghị quyết Trung ương tổng kết kinh nghiệm cải cách ruộng đất, giao cho Lê Duẩn phụ trách là hợp lý. Lê Duẩn từ chối với lý do Trường Chinh là người phụ trách cải cách ruộng đất thì cứ để Trường Chinh phụ trách thảo nghị quyết là tốt hơn. Nhưng rồi Trường Chinh cứ mắc míu dây dưa mãi cho đến Đại hội lần thứ ba của Đảng cuối năm 1960 mà nghị quyết vẫn không thảo ra được. Trong lịch sử Đảng, lần đầu tiên một cuộc họp Trung ương quan trọng như thế mà không có một bản nghị quyết tổng kết là một việc làm cho đảng viên hết sức thắc mắc. Chẳng những hội nghị Trung ương không có nghị quyết, mà ngay cả trong quá trình sửa sai, Trường Chinh vẫn không dứt khoát, nên những án oan, án giả không được minh oan và người bị quy sai thành phần cũng không được tuyên bố một cách rõ rệt, cho nên mối oán thù trong cải cách ruộng đất vẫn ăn sâu trong lòng một số người, thậm chí cho đến ngày nay vẫn chưa phai nhạt. Trường Chinh vốn là một người có uy tín lớn trong Đảng trong nhân dân vì thời gian trước và sau Cách mạng Tháng Tám đã nghiêm chỉnh chấp hành đúng chủ trương đường lối của Hồ Chủ tịch, đã góp phần đáng kể vào việc thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, vào việc đưa cuộc kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi. Nhưng qua việc sai lầm trong cải cách ruộng đất và việc sửa sai không triệt để, nên uy tín bị tụt xuống rõ rệt, đặc biệt là do sự mớm ý hết sức khéo léo của Lê Duẩn, càng làm cho sự tin tưởng của cán bộ và đảng viên dần dần chuyển từ Trường Chinh qua Lê Duẩn, mà bản thân Trường Chinh có lẽ cũng không ý thức đến.
Tham dự xong Hội nghị Trung ương về cải cách ruộng đất, tôi lại trở ra Bắc Kinh. Thủ tướng Chu Ân Lai được biết tin và rất quan tâm về vấn đề sai lầm trong cải cách ruộng đất, khi gặp tôi liền hỏi: Việc sai lầm trong cải cách ruộng đất có liên quan gì đến các đồng chí cố vấn Trung Quốc không? Tôi trả lời: Kinh nghịệm cải cách ruộng đất của Trung Quốc là rất tốt. Ủy ban cải cách ruộng đất ở Việt Nam phạm sai lầm, như coi thành phần địa chủ lên quá nhiều, đánh vào phần lớn phú nông và trung nông, đánh vào những người chỉ có một ít ruộng đất nhưng nguồn thu nhập chính là ở nghề nghiệp khác, đánh vào những địa chủ kháng chiến, địa chủ có công lao với cách mạng, đặc biệt là đánh tràn lan cả vào cơ sở Đảng, thì đó là sai lầm của Ủy ban cái cách ruộng đất Việt Nam, chứ không phải là sai lầm của các cố vấn Trung Quốc.
Sai lầm trong cải cách ruộng đất, đối với Trường Chinh là một bi kịch, đối với Lê Duẩn lại là một dịp tốt để từng bước xây dựng bè cánh, dần dần xa lìa đường lối của Hồ Chủ tịch, đưa vận mệnh Tổ quốc đến chỗ tai nạn.


[1]Ghi chép của tác giả trùng với quan điểm của Trung Quốc và ngược với quan điểm của Việt Nam về việc ai chủ trương đánh Đông Khê. BT
[2]Ba mươi lăm năm đấu tranh của Đảng tập II trang 95-96
[3]báo Nhân dân ngày 11-3-1951
[4]báo Nhân Dân ngày 11-3-1951
[5]gần một tháng
[6]báo Nhân dân ngày 24-11-1957
[7]báo Nhân dân ngày 6-12-1960
[8]Nguyễn Văn Kỉnh là Đại sứ Việt Nam tại Liên Xô, nên hội đàm xong thì ở lại Liên Xô chứ không về nước
[9]thủ phủ Khu tự trị Nội Mông (Hohhot-BT)
[10]thủ phủ Tây Tạng (Lhasa-BT)
[11]báo Nhân dân ngày 7-8-1964
[12]cùng đi với tôi từ Cu Ba về
[13]chỉ dùng danh nghĩa Đoàn đại biểu Chính phủ chứ không dùng danh nghĩa Đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ như thường lệ
[14]báo Nhân dân ngày 11-2-1965
[15]báo Nhân dân ngày 19-4-1965.
----------------------------------------------

Phần 7:
Cách mạng Việt Nam với sự phản bội của Lê Duẩn (1957-1979)

 Tháng 4-1957, Trung ương quyết định cử anh Nguyễn Khang thay tôi làm Đại sứ ở Trung Quốc, anh Trần Độ thay tôi làm Đại sứ ở Triều Tiên, còn tôi thì về nước nhận nhiệm vụ khác.
Thời gian này công tác ở Đảng triển khai trên nhiều mặt. Tôi được phân phối phụ trách công tác Quốc hội giúp Bác Tôn là Trưởng Ban thường trực Quốc hội nhưng tuổi cao sức yếu, mà tôi là Ủy viên Ban thường trực Quốc hội được Quốc hội bầu từ tháng 10-1946.
Năm 1961 tại Đại hội Đảng bộ Hà Nội, tôi được bầu làm Bí thư Thành ủy Hà Nội. Sau một thời gian không lâu, Trung ương quyết định tôi thôi chức Bí thư Thành ủy Hà Nội, chuyển sang giữ chức Trưởng Ban liên lạc đối ngoại Trung ương Đảng.
Thế là từ năm 1957 về sau, sinh hoạt chính trị của tôi gắn liền với sinh hoạt Bộ Chính trị Trung ương Đảng, trừ trường hợp tôi phải dẫn đầu (hoặc tham gia) Đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ, hoặc dẫn đầu Đoàn đại biểu Quốc hội đi hoạt động ở nước ngoài, và trường hợp tôi phải nghỉ ngơi dưỡng bệnh.
Theo quy định, Bộ Chính trị mỗi tuần họp một lần, khi Hồ Chủ tịch vắng mặt thì Lê Duẩn chủ trì; hội nghị Trung ương thì toàn thể Bộ Chính trị là Đoàn Chủ tịch, mỗi ủy viên Bộ Chính trị luân lưu chủ tọa hội nghị một ngày hoặc một buổi theo sự sắp xếp trong thời gian hội nghị.
Do sự quan hệ về công tác, tôi thường xuyên tiếp xúc với Lê Duẩn suốt từ năm 1957 đến năm 1979, và do sự tiếp xúc đó, mà tôi được biết rõ Lê Duẩn là con người như thế nào.
Lê Duẩn là một người thông minh, hiểu biết chính trị nhiều cả về mặt lý luận cũng như mặt thực tiễn. Nhưng là một người không thật thà, có dã tâm lớn về danh vọng và địa vị, ưa nịnh hót, ghét người trung trực, không có phong độ của một người đàn anh trong hàng ngũ cách mạng. Điều đó không có gì khó hiểu, vì hầu hết người cách mạng đều xuất thân từ xã hội cũ, từ xã hội phong kiến và thuộc địa, khi vào hàng ngũ cách mạng vẫn mang theo ít nhiều ảnh hưởng tư tưởng của xã hội đó. Tuy vậy người cách mạng thật lòng muốn đi cải tạo xã hội thì đồng thời phải tự cải tạo mình. Trong quá trình thực tiễn cách mạng sẽ dần dần tự cải tạo mình trở thành người có phẩm chất, có đạo đức cách mạng, trở thành người thật lòng thật dạ phục vụ quyền lợi cách mạng, quyền lợi Tổ quốc và nhân dân.
Nhưng qua hơn hai mươi năm gần gũi, quan sát, tôi thấy Lê Duẩn là một người không tự cải tạo. Đã không tự cải tạo để phục vụ lợi ích cách mạng, thì dần dần sa ngã thành một người phản bội cách mạng là lẽ tất nhiên.
Cách mạng Việt Nam bị Lê Duẩn phản bội trong bối cảnh quốc tế là phe xã hội chủ nghĩa và phong trào Cộng sản quốc tế bị rạn nứt do Khơ-rút-sốp, người choán quyền Đảng Cộng sản Liên Xô từ tháng 9 năm 1953 gây nên; và bối cảnh là Hồ chủ tịch bị đau yếu luôn trong mấy năm và mất trước ngày miền Nam giải phóng.
Cách mạng Việt Nam bị Lê Duẩn phản bội chẳng những là một việc đau xót cho nhân dân Việt Nam mà cũng là một việc đau xót cho cả những người đã từng hết lòng hết sức giúp nhân dân Việt Nam chống đế quốc giành độc lập dân tộc, đau xót cho cả những người lương thiện muốn thế giới có một nền hòa bình, muốn nhân dân Việt Nam ấm no hạnh phúc.
Lê Duẩn được điều động ra miền Bắc công tác vào khoảng cuối năm 1956 đầu năm 1957. Mấy năm mới đến vì chưa xây dựng được vây cánh, chưa có một địa vị vững chắc trong cơ cấu lãnh đạo của Đảng, nên y còn khiêm tốn tỏ vẻ chan hòa với mọi người. Cuối năm 1960, trong Đại hội lần thứ ba của Đảng Lao động Việt Nam, y được chính thức bầu làm Bí thư thứ nhất Trung ương Đảng thì nhích dần từng bước, từng bước xa rời khỏi đường lối của Đảng và của Hồ Chủ tịch, đến sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng thì trắng trợn trở thành một tên phản bội cách mạng. Những hành động phản bội cụ thể của y là việc lợi dụng Đại hội lần thứ tư của Đảng cuối năm 1976 gạt một phần ba (23/71) ủy viên Trung ương ra khỏi Ban Chấp hành Trung ương mới; việc ép Trung ương ra khỏi Ban Chấp hành Trung ương mới; việc ép Trung ương Đảng ra nghị quyết chống Trung Quốc (7-1978); việc ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Việt – Xô mà thực chất là hiệp ước liên minh quân sự nhằm chống Trung Quốc (11-1978); việc đưa hai mươi vạn quân sang xâm chiếm Cam-pu-chia.
Để nói rõ quá trình phản bội của Lê Duẩn, phần hồi ký này sẽ thuật lại những biến cố hữu quan trong nhiều năm, qua các mục sau đây:

  • Những sự việc xảy ra ở Liên Xô sau khi Sta-lin mất và thái độ của Đảng Lao động Việt Nam.
  • Những sự việc xảy ra sau khi Liên Xô viện trợ quân sự cho Việt Nam chống Mỹ.
  • Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước với vai trò của Lê Duẩn.
  • Cách mạng Việt Nam với sự phản bội của Lê Duẩn.
  • Quyết tâm rời Tổ quốc để tiếp tục làm cách mạng.
  • Những văn kiện kèm theo.
I. Những sự việc xảy ra ở Liên Xô sau khi Sta-lin mất và thái độ của Đảng Lao động Việt Nam
Trước Đại hội lần thứ ba của Đảng Lao động Việt Nam, một sự việc bất ngờ đã xảy ra ở Liên Xô là sau khi Sta-lin mất (tháng 3-1953) không lâu, thì Khơ-rút-sốp lật đổ Ma-len-cốp và nắm chức Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Liên Xô, rồi làm một số việc nguy hại đến sự đoàn kết trong phe xã hội chủ nghĩa và trong phong trào Cộng sản quốc tế:
  • Tháng 2-1956, tại Đại hội lần thứ hai mươi của Đảng Cộng sản Liên Xô, trong bản báo cáo tổng kết trình Đại hội, Khơ-rút-sốp đã đưa ra chủ trương “thi đua hòa bình với đế quốc” làm đường lối chung cho các nước xã hội chủ nghĩa, chủ trương “tiến lên chủ nghĩa xã hội bằng con đường nghị viện” làm đường lối chung cho các Đảng cộng sản và công nhân ở các nước tư bản. Và cũng trong Đại hội này qua một buổi họp kín không có đại biểu các đảng anh em tham gia, Khơ-rút-sốp đã đưa ra một bản báo cáo “mật” bôi nhọ Sta-lin, mà thực chất là bôi nhọ Liên Xô. Vì trong lúc này, các nước tư bản đứng đầu là đế quốc Mỹ đang tìm đủ mọi cách bôi nhọ Liên Xô, thì bản báo cáo “mật” của Khơ-rút-sốp là một sự tiếp tay có hiệu quả cho các đế quốc. Bản báo cáo mật đó, Mỹ đã lấy được và đã lập tức cho công bố ngay trong thời gian đó.
  • Tháng 6-1957, Khơ-rút-sốp lên án Ma-len-cốp, Mô-lô-tốp, Ca-ga-nô-vích là tập đoàn phản Đảng, mà thực ra thì đó chỉ là một sự vu khống nhằm tiến tới choán toàn bộ quyền hành trong Đảng.
  • Tháng 11 năm 1957 nhân dịp kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười, Hội nghị các đảng cộng sản và công nhân các nước xã hội chủ nghĩa họp ở Mạc Tư Khoa có Hồ Chủ tịch tham gia, đã ra một bản Tuyên bố chung có đoạn viết:
    Trong quan hệ với nhau, các nước xã hội chủ nghĩa dựa trên những nguyên tắc hoàn toàn bình đẳng, tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ, độc lập và chủ quyền quốc gia, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Đó là những nguyên tắc quan trọng[6] .
  • Năm 1959, Trung Quốc và Ấn Độ có sự tranh chấp về vấn đề Biên giới, Khơ-ru-sốp ép Trung Quốc phải nhượng bộ Ấn Độ, nhưng Trung Quốc không chịu vì đoạn Biên giới tranh chấp đó là do Mác-ma-hông, nguyên Tổng đốc Anh ở Ấn Độ tự vạch ra mà Trung Quốc chưa bao giờ thừa nhận.
  • Tháng 6-1960, tại cuộc họp đảng các nước xã hội chủ nghĩa ở Bu-ca-rét, Thủ đô Ru-ma-ni, Khơ-rút-sốp công khai chỉ trích Đảng Cộng sản Trung Quốc, buộc đại biểu Đảng Cộng sản Tung Quốc là Bành Chân phải phê phán lại Khơ-rút-sốp ngay trong cuộc họp.
  • Tháng 7-1960, Khơ-rút-sốp đã đơn phương tuyên bố rút toàn bộ chuyên gia Liên Xô đang công tác ở Trung Quốc, xóa bỏ hơn 600 bản hiệp định và hợp đồng ký với Trung Quốc, và khuấy động thành một phong trào rộng rãi chống Trung Quốc.*
Những việc làm của Khơ-rút-sốp đã công khai bộc lộ trước thế giới sự rạn nứt trong phong trào Cộng sản quốc tế, đặc biệt là sự bất hòa giữa hai nước lớn xã hội chủ nghĩa là Liên Xô và Trung Quốc. Đối với tình hình đó, Đảng Lao động Việt Nam hết sức lo lắng. Một Đoàn đại biểu do Hồ Chủ tịch dẫn đầu, Hoàng Văn Hoan, Xuân Thủy là đoàn viên, ngày 10-8-1960 đã gấp rút lên đường đi Liên Xô để thuyết phục Khơ-rút-sốp duy trì mối quan hệ hữu nghị với Trung Quốc, nhưng không có kết quả vì Khơ-rút-sốp văn khăng khăng chống Trung Quốc. Tuy vậy trong thời gian này Hồ Chủ tịch vẫn chủ trương phải bảo vệ uy tín của Liên Xô, vẫn xem Liên Xô là “người anh cả” trong phong trào Cộng sản quốc tế, vẫn chủ trương phải đoàn kết Liên Xô, đoàn kết Trung Quốc và đoàn kết phe xã hội chủ nghĩa. Các chủ trương đó đã thể hiện rõ trong các văn kiện của Đại hội lần thứ ba của Đảng Lao động Việt Nam họp từ ngày 5 đến ngày 10 tháng 9 năm 1960.
Sau ba mươi năm đấu tranh gian khổ, lần đầu tiên Đảng họp Đại hội ở Thủ đô Hà Nội, có sự tham gia của đại biểu Đảng các nước xã hội chủ nghĩa, đại biểu của một số Đảng cộng sản lớn như Đảng Pháp, Đảng Ấn Độ, Đảng In-đô-nê-xi-a, Đảng Ca-na-da và đại biểu một số đảng cần giữ bí mật không nêu tên. Đó là Đại hội “xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh thống nhất nước nhà”, là Đại hội “góp phần tăng cường sự đoàn kết nhất trí trong phe xã hội chủ nghĩa, tăng cường sự thống nhất phong trào Cộng sản quốc tế”.
Đại hội đã bầu ra Ban chấp hành Trung ương gồm 71 ủy viên trong đó có 43 ủy viên chính thức, 28 ủy viên dự khuyết. Tiếp đó, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương mới đã bầu Hồ Chủ tịch làm Chủ tịch Trung ương Đảng, Lê Duẩn làm Bí thư thứ nhất Trung ương Đảng. Hội nghị Trung ương cũng bầu Bộ Chính trị gồm 11 ủy viên chính thức là Hồ Chủ tịch, Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Phạm Hùng, Võ Nguyên Giáp, Lê Đức Thọ, Nguyễn Chí Thanh, Nguyễn Duy Trinh, Lê Thanh Nghị, Hoàng Văn Hoan và hai ủy viên dự khuyết là Trần Quốc Hoàn, Văn Tiến Dũng.
Đại hội kết thúc trong bầu không khí tưng bừng phấn khởi. Mọi người đều mong chờ ở Lê Duẩn những kết quả công tác tốt đẹp trong nhiệm vụ đoàn kết Liên Xô, đoàn kết Trung Quốc, đoàn kết phe xã hội chủ nghĩa, đoàn kết phong trào Cộng sản quốc tế. Nhưng sau Đại hội không bao lâu, thì Lê Duẩn đã dần dần ngả theo Khơ-rút-sốp, càng ngày càng có những hành động trái ngược với nhiệm vụ cao cả đó!
*

Sau Đại hội lần thứ ba của Đảng, Hồ Chủ tịch dẫn đầu đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ đi Mạc Tư Khoa để dự lễ kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười. Nhân dịp này, Khơ-rút-sốp đột kích triệu tập một cuộc hội nghị các đảng cộng sản và công nhân để bàn về phong trào Cộng sản quốc tế. Trong hội nghị, một số đại biểu đã thẳng thắn phát biểu ý kiến, nhẹ nhàng phê bình cách làm của Khơ-rút-sốp, nhưng rồi thỏa thuận thông qua một bản thông cáo chung có tính chất xây đựng. Bản thông cáo chung đó có đoạn viết: “Tất cả các đảng theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin đều độc lập, bình đẳng, đều xuất phát từ những điều kiện cụ thể của nước mình và dựa vào những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lê-nin mà đề ra chính sách, đồng thời ủng hộ lẫn nhau[7] . Điều đó nói lên sự ước mong của các đảng anh em trong phong trào Cộng sản quốc tế là độc lập tự chủ quyết định đường lối của đảng mình, không bị bắt buộc phải làm theo càng chỉ huy của một đảng nào khác.
Thế nhưng sau đó, Khơ-rút-sốp vẫn ép một số đảng anh em chống Trung Quốc, phong trào Cộng sản quốc tế càng rạn nứt. Biểu hiện cụ thể là tại Đại hội của các đảng, như Đảng Cộng sản Bun-ga-ri, Đảng Công nhân xã hội Hung-ga-ri, Đảng Cộng sản Tiệp Khắc vào cuối năm 1962, Đảng Xã hội thống nhất Đức vào đầu năm 1963, trong bản báo cáo chính trị của Trung ương các đảng đó đều có chỗ công khai phê phán Trung Quốc, làm cho đại biểu Đảng Trung Quốc phải công khai tỏ thái độ bác lại những lời phê phán đó ngay ở trước đại hội. Với tư cách là Trưởng đoàn đại biểu Đảng Lao động Việt Nam đến dự những cuộc đại hội đó, tôi được chứng kiến một tình trạng đau xót là tình trạng bất hòa trong phe xã hội chủ nghĩa mà khi về đến Hà Nội tôi đã báo cáo rõ với Hồ Chủ tịch và Bộ Chính trị Trung ương Đảng.
Đến như các đảng anh em chưa nắm chính quyền thì từ đông sang tây đảng nào cũng có sự phân hóa: Nhóm được gọi là “chính thống” thì theo chủ trương của Khơ-rút-sốp chống Trung Quốc; nhóm “mác-xít” thì chống chủ trương của Khơ-rút-sốp và ủng hộ Trung Quốc. Các nhóm chống chủ trương của Khơ-rút-sốp đều giương cao ngọn cờ chống chủ nghĩa xét lại vì cho rằng trong khi toàn thế giới đang chống chủ nghĩa đế quốc, mà Khơ-rút-sốp lại chủ trương thi đua hòa bình với đế quốc, chủ trương tiến lên chủ nghĩa xã hội bằng con đường nghị viện, như vậy là chẳng khác gì giội nước lạnh vào cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân thế giới, như vậy là không phù hợp với chủ nghĩa Mác-Lê-nin. Về tình hình này, Đảng Lao động Việt Nam thảo luận nội bộ rất nhiều, đến cuối năm 1963, thì trong Đảng mới cơ bản nhất trí là phải kiên trì nguyên tắc chủ nghĩa Mác-Lê-nin, không thể chấp nhận kiểu “chung sống” của Khơ-rút-sốp trong khi nhân dân miền Nam đang vùng dậy chống Mỹ-ngụy phá hoại Hiệp đinh Giơ-ne-vơ và ráo riết khủng bố bất kể những ai đòi thực hiện thống nhất Tổ quốc. Bấy giờ, Hồ Chủ tịch mới chủ trương họp hội nghị lần thứ chín của Trung ương Đảng để thảo luận vấn đề chống chủ nghĩa xét lại.
Lê Duẩn trong mấy năm trước đó, đi lại Mạc Tư Khoa nhiều lần, bị Khơ-rút-sốp tìm mọi cách lôi kéo, đã ngấm ngầm đứng về phía Khơ-rút-sốp chống Trung Quốc, nên khi Bộ Chính trị quyết định họp Trung ương để nghiên cứu vấn đề chống chủ nghĩa xét lại, thì Lê Duẩn tránh né không tự mình chuẩn bị bản báo cáo, mà đẩy trách nhiệm đó cho Trường Chinh.
*

Hội nghị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam thảo luận về vấn đề chống chủ nghĩa xét lại họp cuối năm 1963.
Trong hội nghị, sau khi nghe Trường Chinh đọc báo cáo, các đồng chí thảo luận rất sôi nổi. Tố Hữu thì phê phán Liên Xô rất mạnh bằng cách nêu ra mười tội trạng với giọng nói lên bổng xuồng trầm của một nhà thơ. Riêng Lê Duẩn thì không phát biểu gì cả. Sau nhiều ngày thảo luận, hội nghị thông qua nghị quyết. Trong bản dự thảo nghị quyết có đoạn nêu rõ tên Khơ-rút-sốp. Lê Duẩn đề nghị không nên nêu tên Khơ-rút- sốp. Cuối cùng Trung ương quyết định không nêu tên Khơ- rút-sốp. Trung ương quyết định rằng nghị quyết này là một văn kiện học tập trong nội bộ chứ không công bố, nhưng tinh thần chủ yếu thì như bản thông cáo đăng ở báo Nhân dân ngày 21-l-1964. Thông cáo có đoạn viết:
Đảng Lao động Việt Nam ra sức đấu tranh để bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác-Lê-nin, chống chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh là nguy cơ chủ yếu của phong trào Cộng sản quốc tế, đồng thời chống chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa biệt phái”; “Trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa xét lại hiện đại, Đảng ta đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, kiên quyết bảo vệ những nguyên tắc của hai bản tuyên bố Mạc Tư Khoa năm 1957 và năm 1960”; “Kiên quyết chống chủ nghĩa xét lại hiện đại không những là nghĩa vụ quốc tế của Đảng ta, mà còn là một yêu cầu cấp bách để bảo vệ sự đoàn kết nhất trí trong Đảng, bảo vệ đường lối đúng đắn của Đại hội toàn quốc lần thứ ba của Đảng và đẩy mạnh sự nghiệp cách mạng của nhân dân cả nước.
Việc Trung ương ra được bản nghị quyết chống chủ nghĩa xét lại như thế là kết quả của một cuộc đấu tranh nội bộ kể từ năm 1960 khi Khơ-rút-sốp đã ra mặt chống Trung Quốc. Bản nghị quyết ra được mấy hôm thì Liên Xô mời một Đoàn đại biểu Đảng Lao động Việt Nam qua Liên Xô. Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam liền cử Đoàn đại biểu do Lê Duẩn làm trưởng đoàn, Lê Đức Thọ, Hoàng Văn Hoan, Tố Hữu và Nguyễn Văn Kỉnh là đoàn viên. Ngày 27-1- 1964, Đoàn lên đường đi Liên Xô. Khi qua Bắc Kinh, Mao Chủ tịch đã thết tiệc thân mật. Trong bữa tiệc Lê Duẩn đã nói rõ với Mao Chủ tịch rằng, chuyến này chúng tôi qua Liên Xô là để trình bày lập trường và quan điểm của Đảng chúng tôi, đồng thời cũng sẵn sàng nghe lập truờng và quan điểm của Đảng Cộng sản Liên Xô, nhưng Bộ Chính trị và Hồ Chủ tịch đã dặn chúng tôi là không ra thông cáo chung. Mao Chủ tịch tỏ lòng khâm phục đối với Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã quan tâm đến phong trào Cộng sản quốc tế, quan tâm đến sự đoàn kết giữa Trung Quốc với Liên Xô. Mao Chủ tịch chúc Đoàn sẽ đạt được thành công trong sứ mệnh của mình.

*

Ngày 31-1-1964, Đoàn đại biểu Đảng Lao động Việt Nam đến Mạc Tư Khoa.
Sau nhiều ngày hội đàm với Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Liên Xô dẫn đầu là Xu-xlốp, Liên Xô đưa ra một bản thông cáo chung, Đoàn đại biểu Việt Nam từ chối không ký, vì trước khi lên đường, Hồ Chủ tịch đã dặn rõ ràng rằng không ký thông cáo chung. Một lý do cụ thể mà Đoàn đại biểu Việt Nam không ký là vì nội dung của bản thông cáo có chỗ không phù hợp với tinh thần chống chủ nghĩa xét lại của Hội nghị Trung ương lần thứ chín.
Việc Đoàn đại biểu Việt Nam không chịu ký thông cáo chung đã làm cho Liên Xô không vui lòng, nên khi Đoàn đại biểu Việt Nam về nước, Liên Xô chỉ mua cho bốn cái vé máy bay hàng không dân dụng [8] , mà thông thường thì một Đoàn đại biểu như vậy là Liên Xô phải phái một máy bay chuyên cơ. Trong khi Đoàn đại biểu Việt Nam đang ngồi chờ máy bay dân dụng ở sân bay Mạc Tư Khoa thì Liên Xô kéo Lê Duẩn đi bàn riêng. Thế là Lê Duẩn tự ý ký bản thông cáo chung với Liên Xô rồi về chỗ ngồi cũ gặp mấy người chúng tôi và giải thích rằng, không ký thông cáo chung với Liên Xô là không xã giao. Tôi liền hỏi, lúc ra đi Hồ Chủ tịch đã dặn là không ra thông cáo chung sao bây giờ lại ra thông cáo chung? Lê Duẩn trả lời rằng, về việc này, tôi sẽ chịu trách nhiệm với Bộ Chính trị và Hồ Chủ tịch.
Được một hồi, cán bộ lễ tân Liên Xô thông tri cho biết là Liên Xô đã chuẩn bị cho Đoàn một chiếc chuyên cơ để đi Bắc Kinh. Rõ ràng đây không phải là một chiếc chuyên cơ thông thường, mà là kết quả của một việc mua bán.
Sau khi Đoàn đại biểu từ Mạc Tư Khoa về đến Hà Nội, Lê Duẩn đọc kỹ lại báo Nhân dân thì thấy ngày 21-1-1964 có bài xã luận nhan đề là “Tăng cường đoàn kết nhất trí, nâng cao ý chí chiến đấu đưa sự nghiệp của chúng ta tiến tới những thắng lợi mới”, có đoạn viết:
“Hội nghị lần thứ chín của Trung ương Đảng là một sinh hoạt tư tưởng quan trọng của Đảng ta. Nghị quyết của Trung ương là cơ sở lý luận để thống nhất tư tưởng và hành động của toàn Đảng và toàn dân ta”.
Lại có đoạn viết: “Về thực chất sai lầm của chủ nghĩa xét lại là xuyên tạc và vứt bỏ những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lê-nin và những nguyên tắc cách mạng của hai bản tuyên bố Mạc Tư Khoa năm 1957 và năm 1960, thi hành chính sách thỏa hiệp giai cấp, chính sách hợp tác vô nguyên tắc với chủ nghĩa đế quốc, xóa bỏ ranh giới giữa ta, bạn, địch, chia rẽ phe xã hội chủ nghĩa và phong trào Cộng sản quốc tế”. Báo Nhân dân ngày 29-1-1964 lại đăng bài tuyên bố của Đảng Cộng sản In-đô-nê-xi-a có đoạn viết: “Những người mác-xít- lê-nin-nít toàn thế giới hãy đoàn kết lại, tiếp tục đập tan chủ nghĩa xét lại”.
Lê Duẩn đọc xong các bài báo đó, liền gọi Hoàng Tùng đến cảnh cáo rằng, nếu còn đăng những bài như thế này nữa thì sẽ cách chức Tổng Biên tập báo Nhân dân. Thế là Hoàng Tùng xin nhận lỗi và hứa sau này sẽ không đăng những bài như thế nữa.
Việc ký thông cáo chung với Liên Xô và việc không cho đăng bài ở báo Nhân dân như đã nói trên, thực chất là một việc chống nghị quyết Trung ương về vấn đề chống chủ nghĩa xét lại, thực chất là một sự vào hùa với bọn xét lại trong việc “thi hành chính sách thỏa hiệp giai cấp, chính sách hợp tác vô nguyên tắc với chủ nghĩa đế quốc… chia rẽ phe xã hội chủ nghĩa và phong trào Cộng sản quốc tế”.

*

Nhưng chính sách hợp tác vô nguyên tắc với đế quốc không mảy may làm cho đế quốc giảm bớt tính tàn bạo của nó.
Ngày 5-8-1964, Mỹ bịa chuyện Vịnh Bắc Bộ, cho máy bay bắn phá thành phố Vinh (Nghệ An), cửa sông Gianh (Quảng Bình), thị xã Hòn Gai (Quảng Ninh). Đối với sự kiện này, thái độ của Trung Quốc và của Liên Xô là khác hẳn nhau.
Ngày 6-8-1964, Chính phủ Trung Quốc tuyên bố: “Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là nước láng giềng khăng khít như răng với môi của Trung Quốc, nhân dân Việt Nam là những người thân như ruột thịt của nhân dân Trung Quốc. Mỹ xâm lược nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa tức là xâm lược Trung Quốc. Nhân dân Trung Quốc quyết không khoanh tay ngồi nhìn mà không cứu. Nhất định Mỹ phải trả món nợ máu đối với nhân dân Việt Nam”.
Tiếp đó, ngày 9-8-1964, mười vạn nhân dân Bắc Kinh họp mít tinh có các đồng chí Chu Ân Lai, Lục Định Nhất, La Thụy Khanh, Hoàng Viên Bồi, Lâm Phong, Quách Mạt Nhược, Liêu Thừa Chí tham gia. Tôi và Tố Hữu thăm Cu-ba về qua Bắc Kinh cũng được mời tham gia. Cuộc mít tinh đó đã gửi đến Hồ Chủ tịch bức thư biểu thị lòng quyết tâm ủng hộ Việt Nam của nhân dân Trung Quốc. Thư có đoạn viết:
Trung Quốc và Việt Nam là láng giềng thân thiết như môi với răng. Nhân dân hai nước chúng ta là những người anh em cùng chia bùi sẻ ngọt. Đế quốc Mỹ xâm lược chống nhân dân Việt Nam tức là chống nhân dân Trung Quốc. Nhân dân Trung Quốc sẽ không ngồi yên mà không giúp đỡ… Dù việc gì xảy ra đi nữa, 650 triệu nhân dân Trung Quốc chúng tôi vẫn mãi mãi đứng bên cạnh những người anh em Việt Nam…
Tiếp đó, ngày 10-8-1964, một triệu tám mươi vạn nhân dân Thượng Hải, mười vạn nhân dân ở Phúc Châu, và đông đảo nhân dân ở Hút Hao [9] , ở La Xa [10] , ở đảo Hải Nam và nhiều thành phố khác đã ra phố biểu tình tỏ quyết tâm ủng hộ Việt Nam.
Về tình hình hoạt động của Trung Quốc như đã nói trên, báo Nhân dân đều có thuật lại đầy đủ trong các số báo từ ngày 7 đến ngày 15-8-1964.
Khác với Trung Quốc, Chính phủ Liên Xô không tỏ thái độ gì mà chỉ cho Thông tấn xã Liên Xô tuyên bố”
Các giới có thẩm quyền ở Liên Xô kiên quyết lên án những hành động xâm lược ở Vịnh Bắc Bộ của Mỹ hiện đang làm cho tình trạng Đông Nam Á vốn đã căng thẳng lại nghiêm trọng thêm một cách nguy hiểm. Những hành động đó cùng với những hành động dại dột mới hoặc những sự khiêu khích ở vùng này có thể dẫn tới những sự việc có khả năng biến những vụ rắc rối vừa xảy ra thành một cuộc xung đột quân sự mở rộng với tất cả những hậu quả nguy hiểm của nó[11] .
Cảm nghĩ về thái độ khác nhau giữa Liên Xô và Trung Quốc như trên, nhà thơ Tố Hữu [12] đã viết mấy vần thơ Nhật ký đường về đăng ở báo Nhân dân ngày 2-9-1964 có những đoạn như sau:

Pra-ha
Bỗng tin đâu tới, bàng hoàng,
Quê ta giặc đến mấy tràng bom rơi.
Mỹ toan cướp biển, cướp trời,
Quê ta anh dũng tuyệt vời đánh tan.


Mạc Tư Khoa
Mạc Tư Khoa của ta ơi,
Dấu chân Cách mạng Tháng Mười còn đây,
Ngôi sao đỏ giữa sương dầy,
Vẫn trông mỗi bước, mỗi ngày ta đi.
Lê-nin đang nghĩ suy gì,
Krem-lin in bóng thành trì, lặng im.


Bắc Kinh
Sáng rồi rộn rã trong tim,
Đường về phơi phới, cánh chim tung hoành.
Cờ bay Vạn Lý Trường Thành,
Bắc Kinh tay chị tay anh triệu vòng.
Bạn mừng ta những chiến công,
Vui như tiền tuyến giữa lòng hậu phương.


Vì thấy thái độ của Liên Xô đối với Việt Nam lạnh nhạt như vậy là không tốt, nên trong dịp đi dự lễ kỷ niệm lần thứ 47 Cách mạng Tháng Mười, Phạm Văn Đồng và Lê Đức Thọ đã đề nghị Liên Xô cử một Đoàn đại biểu qua thăm Việt Nam tỏ thái độ sẵn sàng viện trợ cho Việt Nam chống Mỹ cả về mặt quân sự để giảm bớt uy tín của Trung Quốc đối với nhân dân Việt Nam. Đề nghị đó được Liên Xô tán thành.
Ngày 6-2-1965, Liên Xô cử một Đoàn đại biểu của Chính phủ Liên Xô [13] do Cô-xư-ghin, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng dẫn đầu sang thăm Việt Nam. Qua mấy buổi hội đàm thẳng thắn, ngày 10-2-1965, Phạm Văn Đồng và Cô-xư-ghin cùng ký bản tuyên bố chung của hai Chính phủ trong đó có đoạn viết: “Hai Chính phủ đã đi tới một thỏa thuận thích đáng về những biện pháp sẽ được tiến hành nhằm củng cố khả năng quốc phòng của nước Việt Nam[14] . Qua lời tuyên bố đó người ta có thể hiểu Liên Xô sẽ viện trợ quân sự cho Việt Nam chống Mỹ, nhưng chỉ nói một cách lờ mờ không rõ ràng.
Tiếp đó, ngày 17-4-1965, Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp lại đi Mạc Tư Khoa để bàn bạc thêm về vấn đề viện trợ quân sự cho Việt Nam. Qua sự bàn bạc lần này, Liên Xô mới thỏa thuận ghi rõ trong bản tuyên bố chung: “Liên Xô xác nhận rằng từ nay về sau vẫn sẵn sàng có sự giúp đỡ cần thiết cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đánh bại sự xâm lược của Mỹ[15] .



[1]Ghi chép của tác giả trùng với quan điểm của Trung Quốc và ngược với quan điểm của Việt Nam về việc ai chủ trương đánh Đông Khê. BT
[2]Ba mươi lăm năm đấu tranh của Đảng tập II trang 95-96
[3]báo Nhân dân ngày 11-3-1951
[4]báo Nhân Dân ngày 11-3-1951
[5]gần một tháng
[6]báo Nhân dân ngày 24-11-1957
[7]báo Nhân dân ngày 6-12-1960
[8]Nguyễn Văn Kỉnh là Đại sứ Việt Nam tại Liên Xô, nên hội đàm xong thì ở lại Liên Xô chứ không về nước
[9]thủ phủ Khu tự trị Nội Mông (Hohhot-BT)
[10]thủ phủ Tây Tạng (Lhasa-BT)
[11]báo Nhân dân ngày 7-8-1964
[12]cùng đi với tôi từ Cu Ba về
[13]chỉ dùng danh nghĩa Đoàn đại biểu Chính phủ chứ không dùng danh nghĩa Đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ như thường lệ
[14]báo Nhân dân ngày 11-2-1965
[15]báo Nhân dân ngày 19-4-1965.
-----------------------------------------

II. Những sự việc xảy ra sau khi Liên Xô viện trợ quân sự cho Việt Nam chống Mỹ 

Những sự việc xảy ra sau khi Liên Xô viện trợ quân sự cho Việt Nam, có thể nói tóm tắt là Lê Duẩn đã ngả hẳn theo đường lối của Liên Xô là chống Trung Quốc và tìm cách đàm phán hòa bình với Mỹ để giải quyết vấn đề miền Nam Việt Nam. Hai việc này liên quan chặt chẽ với nhau, vì sau khi ký Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, Đảng Lao động Việt Nam trao đổi ý kiến với Đảng Cộng sản Liên Xô và Đảng Cộng sản Trung Quốc về đường lối đấu tranh thống nhất nước nhà của Việt Nam, thì Liên Xô đề nghị “hai miền Nam, Bắc Việt Nam chung sống hòa bình, thi đua kinh tế, miền Bắc hơn hẳn về mặt kinh tế thì miền Nam sẽ thống nhất vào miền Bắc”. Còn Trung Quốc thì giới thiệu kinh nghiệm công tác trong vùng địch chiếm là “trường kỳ mai phục, liên hệ quần chúng, tích trữ lương thực, chờ đón thời cơ”. Trung ương Đảng Lao động Việt Nam không tán thành ý kiến của Liên Xô, mà tán thành áp dụng kinh nghiệm của công tác của Trung Quốc trong vùng địch chiếm. Nhưng năm 1956, Ngô Đình Diệm cự tuyệt việc Tổng tuyển cử để thống nhất nước nhà, năm 1959 lại ra đạo luật 10-59 chém giết bừa bãi nhân dân miền Nam, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam mới chủ trương miền Nam phải đấu tranh vũ trang để tự vệ, Trung Quốc nhận định chủ trương đó là hợp lý, và hứa sẵn sàng giúp về mặt quân sự. Biểu hiện cụ thể là năm 1962 Trung Quốc đã giúp riêng cho nhân dân miền Nam chín vạn khẩu súng trường và súng máy để phát triển chiến tranh du kích, về sau cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam càng phát triển thì số lượng viện trợ của Trung Quốc lại càng ngày càng nhiều hơn. Lúc đó Lê Duẩn là một người tích cực đẩy mạnh cuộc đấu tranh vũ trang ở miền Nam, nhưng sau một thời gian bị Khơ-rút-sốp thuyết phục thì dần dần ngả theo chiều hướng chống Trung Quốc và muốn nhờ Liên Xô dàn xếp việc đám phán với Mỹ để giải quyết vấn đề miền Nam.
Về chủ trương của Lê Duẩn chống Trung Quốc và đàm phán với Mỹ sẽ được trình bày cụ thể như sau:

Về chủ trương chống Trung Quốc
Chúng ta còn nhớ, sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết (20-7-1954), nhiệm vụ cách mạng Việt Nam là một mặt xây dựng miền Bắc, một mặt đấu tranh giải phóng miền Nam. Về mặt xây dựng miền Bắc thì Trung Quốc và Liên Xô đều viện trợ, còn về mặt đấu tranh giải phóng miền Nam thì khi miền Nam đấu tranh vũ trang chỉ có Trung Quốc viện trợ quân sự cho Việt Nam, còn Liên Xô thì Khơ-rút-sốp vẫn chủ trương hai miền Nam, Bắc chung sống hòa bình nên không viện trợ cho miền Nam về mặt quân sự. Chẳng những không viện trợ quân sự, mà còn nhồi nhét tư tưởng chung sống hòa bình với đế quốc và tư tưởng chống Trung Quốc cho đám học sinh Việt Nam qua học ở Liên Xô.
Tháng 10 năm 1964, Khơ-rút-sốp bị đánh đổ. Bờ-rê-giơ-nép lên nắm chức Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Liên Xô. Tháng 11-1964, nhân dịp kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười, Trung Quốc cử Thủ tướng Chu Ân Lai và Nguyên soái Hạ Long qua Liên Xô dự lễ kỷ niệm để tỏ lòng muốn cải thiện quan hệ với Liên Xô. Nhưng trong bữa tiệc chiêu đãi, Xu-xlốp, Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô đã nói thẳng với Thủ tướng Chu Ân Lai rằng, chủ trương của Liên Xô đối với Trung Quốc là chủ trương chung của Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, không phải chủ trương riêng của Khơ-rút-sốp. Ma-li-nốp-xki, Bộ trưởng Quốc phòng Liên Xô trắng trợn hơn, đã nói một cách khiêu khích với Nguyên soái Hạ Long rằng, Liên Xô đã đánh đổ Khơ-rút-sốp, Trung Quốc cũng nên đánh đổ Mao Trạch Đông. Như vậy là ở Liên Xô tuy Khơ-rút-sốp đã bị đánh đổ nhưng chủ trương chống Trung Quốc vẫn được tiếp tục đẩy mạnh một cách không giấu giếm. Biểu hiện cụ thể là quân đội Liên Xô đóng dọc vùng biên giới Xô-Trung trong thời kỳ Khơ-rút-sốp chỉ có hơn sáu mươi vạn, mà trong thời kỳ Bờ-rê-giơ-nép tăng lên hơn một triệu. Một biểu hiện cụ thể khác là trong quan hệ giữa các nước anh em Bờ-rê-giơ-nép nêu ra nguyên tắc “chủ quyền có hạn chế”.
Vì vậy, việc Liên Xô viện trợ quân sự cho Việt Nam chống Mỹ tuy cũng có lợi cho Việt Nam, nhưng tựu trung đã bao hàm một nhân tố nguy hiểm là thông qua sự phối hợp của Lê Duẩn, để lái Việt Nam đi chệch khỏi đường lối kháng chiến đúng đắn của Hồ Chủ tịch, nhằm xây dựng một căn cứ chống Trung Quốc từ phía nam, đồng thời tạo điều kiện để sau này khống chế Việt Nam và khống chế luôn cả các nước Đông Dương, uy hiếp nền an ninh ở vùng Đông Nam Á.
Nguyên từ đầu năm 1957, Lê Duẩn mới được Trung ương điều ra miền Bắc tạm quyền chức Tổng bí thư Trung ương thay cho Trường Chinh, người vì mắc sai lầm trong cải cách ruộng đất phải từ chức vụ đó, thì Lê Duẩn đã ngấm ngầm tìm người vây cánh, trước hết là những người ngả nghiêng không có lập trường vững, gió chiều nào theo chiều ấy, những người nghe theo luận điệu chống Trung Quốc của y cụ thể là những người trong ngành quân sự như Văn Tiến Dũng, Nguyễn Văn Vịnh, những người trong ngành tuyên huấn như Tố Hữu, Trần Quỳnh, Hoàng Tùng, những người trong ngành ngoại giao như Nguyễn Cơ Thạch, những người ở ngành công an như Trần Quốc Hoàn, ở Viện kiểm sát như Hoàng Quốc Việt, và người mà y cho là đáng tin cậy nhất là Lê Đức Thọ, Trưởng ban tổ chức Trung ương Đảng. Có thể nói đó là thời kỳ Lê Duẩn âm mưu chuẩn bị vây cánh, từng bước choán quyền lãnh đạo, để thực hiện những âm mưu đen tối.
Tiếp theo việc ký thông cáo chung với Liên Xô (năm 1964), việc chống nghị quyết Trung ương về vấn đề chủ nghĩa xét lại, nay được dịp Liên Xô viện trợ quân sự cho Việt Nam, thì Lê Duẩn phối hợp chặt chẽ với người lãnh đạo Liên Xô, đẩy mạnh hơn việc chống Trung Quốc.
Việt Nam đang chống Mỹ rất ác liệt, nhưng Liên Xô không giúp vũ khí tốt cho Việt Nam, lấy cớ rằng giúp cho Việt Nam thì Việt Nam sẽ giúp cho Trung Quốc lấy được bí mật về kỹ thuật. Thí dụ như máy bay Mic 23 [1] , Liên Xô đã giúp cho Ấn Độ và Ai Cập mà không giúp cho Việt Nam.
Liên Xô vốn có thể chở một phần vũ khí hoặc các thứ hàng viện trợ khác cho Việt Nam bằng đường biển để giảm bớt gành nặng về việc vận chuyển cho Trung Quốc, nhưng Liên Xô chỉ chở bằng xe hỏa, khi qua đất Trung Quốc tức là phải nhờ đường sắt và toa xe của Trung Quốc. Do đó những thứ hàng viện trợ của Liên Xô, của các nước Đông Âu và cả của Trung Quốc nữa ứ đọng lại rất nhiều ở ga Bằng Tường bên phía biên giới Trung Quốc, vì Việt Nam không có điều kiện bốc dỡ chuyên chở nhanh chóng. Lê Duẩn vẫn biết rõ tình hình này, nhưng lại phối hợp với Liên Xô ngấm ngầm tuyên truyền trong nội bộ rằng Trung Quốc không chịu chở hàng viện trợ của Liên Xô và các nước Đông Âu cho Việt Nam. Về tình hình này, một số ký giả phương Tây được Liên Xô mớm ý, đã đưa tin tuyên truyền rùm beng.
Để bác lại lời tuyên truyền vu khống này, ngày 28-2-1967, Chính phủ Việt Nam đã chỉ thị cho Thông tấn xã Việt Nam phải công khai tuyên bố trên đài và trên báo chí rằng Trung Quốc vẫn chuyên chở hàng của Liên Xô cho Việt Nam đúng kế hoạch, đồng thời phê phán Thông tấn xã phương Tây tung tin nhảm là nhằm một ý đồ xấu. Ngoài việc vu khống như trên, Liên Xô còn thông qua bọn Lê Duẩn dùng nhiều thủ đoạn thâm độc lý gián mối quan hệ Việt–Trung.

*

Vào khoảng giữa năm 1965, trong dịp thăm Mạc Tư Khoa, Lê Duẩn đã triệu tập nhân viên Sứ quán Việt Nam và đại biểu học sinh Việt Nam học ở Liên Xô về Sứ quán nói chuyện ca ngợi Liên Xô, và phê phán một số chính sách của Trung Quốc. Đại biểu học sinh cho là Lê Duẩn nói không đúng chủ trương của Đảng, đã viết thư về báo cáo Trung ương và đặt hơn bốn mươi câu hỏi về bài nói chuyện của Lê Duẩn. Nhưng bức thư về đến Văn phòng Trung ương thì bị Lê Duẩn hủy bỏ, các đồng chí Bộ Chính trị không được trực tiếp xem bức thư này, mà chỉ được nghe người trong ban văn thư nói riêng cho biết mà thôi. Lúc Lê Duẩn từ Mạc Tư Khoa về qua Bắc Kinh, lại triệu tập nhân viên Sứ quán Việt Nam ở Bắc Kinh phê bình Trung Quốc trên nhiều vấn đề. Nhân viên Sứ quán phải ngồi nghe hơn ba tiếng đồng hồ, không một người nào phát biểu ý kiến, nhưng Lê Duẩn khi về đến Hà Nội, lại nói rằng Trần Tử Bình [2] đã đồng ý với luận điểm của y. Sau đó tôi có dịp gặp anh Trần Tử Bình và một số nhân viên Sứ quán thì mới biết, lời nói đó hoàn toàn là một chuyện bịa đặt.
Cũng năm 1965, khi Lê Duẩn còn ở Mạc Tư Khoa, Tố Hữu đã mở một cuộc hội nghị cán bộ tuyên huấn toàn miền Bắc, cho phép Trần Quỳnh đứng ra phê phán một số chính sách của Trung Quốc với những luận điệu y hệt như luận điệu của Lê Duẩn đã nói chuyện ở Sứ quán Việt Nam tại Mạc Tư Khoa và ở Sứ quán Việt Nam tại Bắc Kinh.
Luận điệu phê phán Trung Quốc của Lê Duẩn là: Trong thời kỳ chống Tưởng và chống Nhật, Trung Quốc chủ trương lấy nông thôn bao vây thành thị, trong thời kỳ xây dựng, Trung Quốc chủ trương lấy nông nghiệp làm cơ sở, công nghiệp làm chủ đạo, những chủ trương như thế đều là tư tưởng nông dân, chứ không phải là tư tưởng vô sản. Đến như chính sách nông thôn mà Trung Quốc chủ trương dựa vào bần cố nông và trung nông lớp dưới thì chỉ là một sự mâu thuẫn giả tạo, vì sau khi cải cách ruộng đất rồi, thì nông dân ai cũng như ai. Việc công khai phê phán chủ trương của Trung Quốc như trên, đứng về nguyên tắc tổ chức mà nói, là một việc vi phạm kỷ luật nghiêm trọng, vì muốn phê phán chính sách của một đảng anh em, là phải qua sự thảo luận của Trung ương, ít nhất là của Bộ Chính trị, khi được phép phát biểu thì mới có thể công khai phát biểu.
Ngày 13-3-1967, Lê Duẩn cho đăng trên báo Nhân Dân bài thơ Tâm sự của Tố Hữu có nội dung chống Trung Quốc. Sau khi bị Hồ Chủ tịch phê bình, Ban tuyên huấn phải tuyên bố thu hồi số báo này, nhưng báo đã gửi đi khắp trong nước và ngoài nước, thu hồi làm sao được.
Năm 1967, ở Liên Xô đã xảy ra mấy sự kiện đáng đau xót. Một sự kiện là Đoàn học sinh Trung Quốc khi đến thăm Lăng Lê-nin, công an Liên Xô đã đánh họ ngay tại Hồng Trường, quần chúng Liên Xô trông thấy đều lên tiếng la thét đòi không được đánh học sinh Trung Quốc, nhưng công an vẫn đánh.
Một sự kiện đau xót khác cũng xảy ra ở Mạc Tư Khoa, là học sinh Việt Nam kéo nhau đến trước Sứ quán Mỹ đòi Mỹ phải chấm dứt việc xâm lược Việt Nam. Đó là một việc bình thường và rất hợp lý, thế mà công an Liên Xô lại đánh học sinh Việt Nam, đánh ác đến nỗi có người bị thương phải chữa mấy tháng mới khỏi. Sau đó không lâu, Lê Duẩn có dịp quan Liên Xô, trong cuộc gặp gỡ người lãnh đạo Liên Xô, Lê Duẩn đã ngỏ lời xin lỗi đến hai lần. Hồ Chủ tịch và các đồng chí Bộ Chính trị khi xem biên bản về cuộc gặp gỡ đó đều cho rằng việc xin lỗi như thế là hoàn toàn không đúng.
Một sự kiện nữa là trong những năm Việt Nam chống Mỹ rất ác liệt, có một số học sinh và cán bộ Việt Nam sang học ở Liên Xô không muốn về nước chống Mỹ, mà xin tị nạn chính trị ở Liên Xô. Liên Xô đã giữ lại những người tị nạn chính trị này, không chịu cho họ về nước mặc dù Việt Nam đã kháng nghị và chính thức yêu cầu họ về nước. Số người này lên tới bốn mươi tám người, trong đó có Lê Vinh Quốc, một cán bộ cấp sư đoàn trong quân đội, có Văn Doãn, một cây bút của báo Quân đội nhân dân, có Nguyễn Minh Cần và Trần Minh Việt là ủy viên Thành ủy Hà Nội. Thử hỏi trong lúc Việt Nam đang chống Mỹ, cứu nước, mà Liên Xô cho học sinh và cán bộ Việt Nam tị nạn chính trị như vậy là có ý đồ gì? Không thể hiểu thế nào khác, là Ban lãnh đạo Liên Xô muốn nuôi dưỡng một số người để sau này lúc cần thì làm chuyện lật đổ.
*
Đối với một số sự kiện như trên, thông thường thì mọi người Việt Nam đang chống Mỹ tự nhiên là phải tỏ thái độ bực tức, nhưng Lê Duẩn thì vẫn dửng dưng như không có chuyện gì, vẫn tán tụng Liên Xô và phổ biến sâu rộng những luận điệu chống Trung Quốc.
Vì sao Lê Duẩn là một người tham gia cách mạng đã lâu năm, mà đối với một người bạn đã từng cùng hoạn nạn, cùng chiến đấu với nhân dân Việt Nam suốt hơn hai mươi năm như Trung Quốc mà lại có một thái độ vong ơn bội nghĩa như vậy? Vì trong đầu óc Lê Duẩn đã sẵn có một thứ tư tưởng chống Trung Quốc do thực dân Pháp nhồi nhét từ trước và sau lại được chủ nghĩa xét lại Khơ-rút-sốp nhồi nhét thêm.
Chúng ta đều biết thực dân Pháp muốn củng cố nền thống trị ở Việt Nam, chúng đã tìm mọi cách phá hoại mối quan hệ sẵn có từ mấy nghìn năm giữa nhân dân hai nước Việt – Trung về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội, sự quan hệ đó thể hiện rõ rệt trong tiếng nói Việt Nam có đến mấy chục phần trăm là chịu ảnh hưởng của tiếng nói Trung Quốc. Bọn thực dân Pháp đã lấy tội ác của các triều đại phong kiến Trung Quốc miêu tả thành tội ác nói chung của Trung Quốc đối với Việt Nam. Theo chúng thì dân tộc Trung Quốc là một dân tộc chuyên môn xâm lược các dân tộc khác. Chúng dùng hai tiếng “tai họa vàng”, ý nói tai họa do người da vàng gây ra, để hình dung sự xâm lược của Trung Quốc.
Chúng ta cũng đều biết, ở Liên Xô, khi đã lật đổ Ma-len-cốp, choán được quyền lãnh đạo Đảng, Khơ-rút-sốp đã dùng mọi thủ đoạn ép các nước anh em trong “gia đình xã hội chủ nghĩa” và các Đảng trong phong trào Cộng sản quốc tế phải múa nhảy theo càng chỉ huy của mình, đã gây ra một sự bất mãn và chống đối lớn trong phạm vi thế giới, đặc biệt là về vấn đề muốn khai trừ Trung Quốc ra khỏi phe xã hội chủ nghĩa. Khi Khơ-rút-sốp còn hoành hành, người ta gọi đó là “chủ nghĩa Khơ-rút-sốp”. Khi Khơ-rút-sốp đã bị lật đổ nhưng chủ trương Khơ-rút-sốp vẫn được tiếp tục đẩy mạnh, người ta gọi đó là “chủ nghĩa Khơ-rút-sốp không có Khơ-rút-sốp”.
Lê Duẩn trước kia đã bị tư tưởng chống Trung Quốc do chủ nghĩa thực dân nhồi nhét, thì ngày nay lại được cái tư tưởng chống Trung Quốc do chủ nghĩa Khơ-rút-sốp bồi bổ thêm, nên đã lún sâu trong vũng lầy chống Trung Quốc. Nhưng tư tưởng chống Trung Quốc lúc này của Lê Duẩn không phải vì lẽ sợ Trung Quốc xâm lược, mà là vì ngấm ngầm chống đối đường lối kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc của Hồ Chủ tịch và ngấm ngầm từng bước lái theo chủ trương Khơ-rút-sốp là hai miền Nam, Bắc chung sống hòa bình, mà cụ thể là nhờ Liên Xô dàn xếp đàm phán hòa bình với Mỹ để giải quyết vấn đề miền Nam.

Về chủ trương đàm phán hòa bình với Mỹ
Chúng ta còn nhớ rằng, về đường lối chống Mỹ, cũng như đường lối kháng chiến chống Pháp từ trước, Hồ Chủ tịch nhận định là phải “trường kỳ gian khổ nhưng nhất định thắng”. Nhưng từ tháng 8-1964, Mỹ ném bom bắn phá miền Bắc hòng buộc nhân dân Việt Nam phải ngừng chiến đấu thì Lê Duẩn đã có ý muốn nhờ Liên Xô đàm phán hòa bình với Mỹ để giải quyết vấn đề miền Nam, và đã phổ biến trong cán bộ một luận điểm trái với nhận định của Hồ Chủ tịch, luận điểm đó là “trường kỳ gian khổ, nhưng phải tranh thủ một thắng lợi có tính chất quyết định trong thời gian ngắn để giải quyết vấn đề”. Vậy cái gọi là “thắng lợi có tính chất quyết định” là thắng lợi như thế nào? Gọi là “để giải quyết vấn đề” là vấn đề gì? Thì Lê Duẩn ấp úng không trả lời, vì Lê Duẩn vẫn vướng vít trong lòng chủ trương muốn đàm phán, mong có một cơ hội nào đó thì nắm lấy để thực hiện việc đàm phán với Mỹ. Đàm phán với Mỹ trong khi trên chiến trường còn ở thế giằng co, bên ta chưa tuyệt đối hơn hẳn đối phương, đối phương cũng chưa ở trong một thế bí, thì giải quyết vấn đề là chia cắt, mặc dù sự chia cắt đó ta được phần lợi nhiều, chẳng hạn như được thêm Trị Thiên, thậm chí được cả toàn bộ Khu 5, Mỹ chỉ nắm Nam kỳ mà thôi, thì vẫn là chia cắt, mà chia cắt như vậy là thừa nhận quyên thống trị của Mỹ ở Nam kỳ. Lê Duẩn ấp úng không trả lời được chính là ở chỗ đó.
Ngày 30-1-1968, chiến dịch Mậu Thân bùng nổ. Quân giải phóng miền Nam đồng loạt đánh vào hơn 40 thành phố, thị xã, thị trấn, trong đó có thành phố Sài Gòn và Huế. ở Sài Gòn, Quân giải phóng đã tiến công vào Dinh Độc Lập, Đài phát thanh, Tổng nha cảnh sát, sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ chỉ huy quân ngụy, và đánh đến gác ba Sứ quán Mỹ. Ở Huế thì chiếm hẳn cả thành phố, cờ Mặt trận dân tộc giải phóng Miền Nam tung bay trên Hoàng cung, trên các cơ quan và trên đường phố gần một tháng. Nhưng so sánh lực lượng giữa ta với địch trong lúc đó, thì địch đâu đã chịu chấp nhận tình trạng đó. Mỹ-ngụy bất chấp đến tính mệnh và tài sản nhân dân, đã dùng máy bay, đại bác và mọi thứ hoả lực là quân ta phải rút lui với một sự thiệt hại rất nặng về người, về binh lực và vũ khí.
Còn về phía địch, thì qua một trận mất vía đã hoàn hồn lại, Mỹ biết chắc là Quân giải phóng không thể chiếm được miền Nam, nên một mặt tiếp tục càn quét, một mặt tung tin muốn đàm phán hòa bình hòng làm cho Quân giải phóng miền Nam mong mỏi được hòa bình, bớt lòng hăng hái chiến đấu.
Ngày 31-3-1968 là ngày cách chiến dịch Mậu Thân vừa đúng hai tháng, Tổng thống Mỹ Giôn-xơn một mặt tuyên bố cuộc ném bom bắn phá miền Bắc chỉ hạn chế từ vĩ tuyến 20 (Nghệ An) trở vào, một mặt chính thức đưa ra kiến nghị muốn đàm phán với Hà Nội, thì ngày 3 tháng 4 năm 1968, Lê Duẩn tự ý tuyên bố sẽ cử Đại biểu đàm phán với Mỹ. Lúc này Hồ Chủ tịch đang dưỡng bệnh ở Bắc Kinh, Thủ tướng Chu Ân Lai được biết tin này, liền đến hỏi Hồ Chủ Tịch, Hồ Chủ tịch cũng ngẩn cả người ra và nói là không biết gì về việc này.
Đàm phán với Mỹ để giải quyết vấn đề Việt Nam là một việc cực kỳ quan trọng, đáng lẽ Lê Duẩn phải đích thân đến Bắc Kinh báo cáo với Hồ Chủ tịch để cùng trao đổi ý kiến với Trung Quốc, nhưng Lê Duẩn không làm như thế, mà lại tự tiện trả lời Giôn-xơn một cách vội vàng như vậy là vì sao? Nguyên do là từ năm 1964, khi Mỹ ném bom miền Bắc, thì Lê Duẩn và một số người đã có ý định muốn đàm phán với Mỹ, nhưng lại sợ Hồ Chủ tịch không tán thành nên phải nói quanh rằng, việc muốn đàm phán với Mỹ là làm theo kinh nghiệm “vừa đánh vừa đàm” của Trung Quốc. Hồ Chủ tịch nói, nếu như vậy thì còn có thể nghe được, khi chưa giải quyết được vấn đề trên chiến trường thì làm sao giải quyết được vấn đề trên bàn hội nghị. Phải lấy đánh làm chính, đồng thời cũng có thể tỏ ý sẵn sàng đàm phán. Nhưng vấn đề này cần phải được bàn kỹ với các đồng chí Trung Quốc. Ý kiến của Hồ Chủ tịch như vậy là rất rõ ràng, vừa nắm vững nguyên tắc chiến lược, vừa có sự mềm dẻo về sách lược, đồng thời rất coi trọng sự bàn bạc, trao đổi ý kiến với Trung Quốc. Nhưng Lê Duẩn cố lập lờ để vượt quyền Hồ Chủ tịch và tránh không trao đổi ý kiến với Trung Quốc, cứ tuyên bố thẳng với Giôn-xơn, làm thành một việc đã rồi, thì Hồ Chủ tịch dù không đồng ý cũng không nói thế nào được nữa.
Có người nghĩ rằng một việc quan trọng như thế, nếu không được sự đồng ý của Hồ Chủ tịch thì Lê Duẩn đâu dám vượt quyền để quyết định?.
Để hiểu rõ việc Lê Duẩn cố ý vượt quyền Hồ Chủ tịch trong việc trả lời Giôn-xơn, chúng ta hãy xem lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch đăng trên báo Nhân Dân ngày 17-7-1966 có đoạn:
“Giôn-xơn và bè lũ phải biết rằng: Chúng có thể đưa 50 vạn quân, một triệu quân hoặc nhiều hơn nữa để đẩy mạnh chiến tranh xâm lược ở miền Nam Việt Nam. Chúng có thể dùng hàng nghìn máy bay, tăng cường đánh phá miền Bắc. Nhưng chúng quyết không thể lay chuyển được chí khí sắt đá, quyết tâm chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam anh hùng. Chúng càng hung hăng thì tội của chúng càng thêm nặng. Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ!”.
Chúng ta cũng xem bứt thư của Hồ Chủ tịch trả lời Giôn-xơn ngày 15-02-1967 về việc Giôn-xơn đề nghị “tìm kiếm một giải pháp hòa bình” bằng cách “thu xếp một cuộc nói chuyện trực tiếp giữa những người đại biểu tin cậy”. Bức thư trả lời của Hồ Chủ tịch có đoạn viết:
“Nếu Chính phủ Mỹ thật muốn nói chuyện thì trước hết Mỹ phải chấm dứt không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Chỉ sau khi Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thì Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mỹ mới có thể nói chuyện và bàn các vấn đề có liên quan đến hai bên. Nhân dân Việt Nam quyết không khuất phục trước vũ lực và quyết không nói chuyện trước sự đe doạ của bom đạn.
Lời kêu gọi và bức thư trả lời của Hồ Chủ tịch với một thái độ cương quyết và dứt khoát như vậy cốt là để phá tan cái ảo tưởng của Lê Duẩn muốn đàm phán hòa bình với Mỹ để giải quyết vấn đề miền Nam. Nhưng Lê Duẩn vẫn ảo tưởng, nên khi Giôn-xơn tuyên bố muốn đàm phán với Việt Nam thì Lê Duẩn cả gan dám vượt quyền Hồ Chủ tịch, cứ trả lời thoả thuận, làm thành một việc đã rồi, để gấp rút mở cuộc đàm phán Pa-ri với Mỹ. Chúng ta hãy xem một cuộc hội đàm Pa-ri đã kéo dài bao nhiêu năm và đã diễn ra như thế nào.

*

Ngày 13-5-1968 tại Trung tâm Hội nghị quốc tế ở Pa-ri, phiên họp đầu tiên của cuộc hội đàm giữa Việt Nam và Mỹ bắt đầu. Phía Việt Nam đòi Mỹ chấm dứt việc ném bom bắn phá miền Nam thì phía Mỹ đòi hai bên cùng xuống thang, nghĩa là đòi quân và dân miền Nam phải ngừng chiến đấu. Việc cùng đòi xuống thang như thế cứ cù nhầy hơn năm tháng, mãi đến ngày 01-11-1968 Giôn-xơn mới tuyên bố ngừng ném bom bắn phá toàn miền Bắc, để hai bên có thể bàn đến việc tham gia của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam và của Chính quyền Nguyễn Văn Thiệu thành cuộc hội đàm bốn bên. Nhưng cuộc bàn cãi cũng chỉ loanh quanh trên những chuyện lặt vặt, hình thoi hay hình tròn v.v…Cuộc bàn cãi kéo dài gần ba tháng mới đi tới thoả thuận.
Ngày 18-01-1969, đại biểu bốn bên ngồi lại chung quanh một cái bàn tròn, và thoả thuận mỗi tuần họp một lần. Nhưng khi họp khi thôi, Mỹ-ngụy vẫn muốn kéo dài cuộc hội đàm để tìm kiếm một thắng lợi có tính chất quyết định về mặt quân sự. Vì vậy, đến phiên họp thứ 29 ngày 19-11-1970, tính ra là gần hai năm cuộc hội đàm vẫn giẫm chân tại chỗ.
Ngày 21-11-1970, Mỹ lại dùng máy bay ném bom Hải Phòng, Quảng Ninh, Hà Tây, Hòa Bình, Quảng Ninh, Hà Tĩnh. Như vậy, đáng lẽ có thể ngừng hội đàm để đẩy mạnh cuộc chiến đấu của quân và dân miền Nam. Nhưng Lê Duẩn chủ trương cứ họp, cho đến phiên họp thứ 148 mà vẫn không giải quyết được vấn đề gì.
Ngày 30-3-1972, quân và dân miền Nam nổi dậy tiến công mãnh liệt ở Quảng Trị, Thừa Thiên, Tây Nguyên, Khu 5 và Nam Bộ.
Ngày 6-4-1972, Mỹ lại dùng không quân và hải quân đánh phá toàn miền Bắc.
Không còn ảo tưởng gì về cuộc hội đàm nữa, ngày 11-4-1972, Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam ra lệnh đánh mạnh, giải phóng quê hương. Tháng 10-1972, quân và dân miền Nam đồng loạt nổi dậy tiến công mãnh liệt bắt hơn ba vạn tên địch, tiêu diệt bốn cứ điểm lớn của lực lượng đặc biệt ngụy, bắn phá dữ dội sáu sân bay, phá tan hàng trăm đồn bốt [3] .
Cuối tháng 12-1972, Mỹ lại mở cuộc tập kích lớn bằng không quân chiến lược vào Hà Nội, Hải Phòng và các tỉnh Vĩnh Phú, Hà Bắc, Thái Bình, Nghệ An v.v… Nhưng cuộc tập kích chiến lược này đã bị hoàn toàn thất bại. Hơn tám mươi máy bay Mỹ trong đó có 34 máy bay B52 và 5 máy bay F.111 bị bắn tan xác. Vì vậy ngày 23-1-1973, trong phiên họp thứ 175 là phiên họp cuối cùng của cuộc hội đàm Pa-ri, Kít-xinh-gơ mới chịu cùng Lê Đức Thọ ký tắt vào bản “Hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam”, và ngày 27-1-1973 thì bản Hiệp định đó mới được ngoại trưởng bốn bên ký chính thức.
Cần phải thấy rằng trong khi cuộc hội đàm Pa-ri kéo dài gần năm năm (13-5-1968 đến 27-1-1973), bốn lần ném bom ác liệt của Mỹ đã không doạ dẫm nổi quân và dân Việt Nam anh hùng, đồng thời cuộc đấu tranh đòi hòa bình của nhân dân và quân đội Mỹ cũng như của nhân dân thế giới liên tục nổ ra. Cuộc đấu tranh anh dũng của quân và dân Việt Nam và tiếng thét đòi chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam làm cho Nhà trắng phải nghĩ đến chuyện “rút lui trong danh dự”.
Rõ ràng, Hiệp định Pa-ri được ký kết là vì:
  1. Quân và dân Việt Nam, đặc biệt là quân và dân miền Nam, với sự tin tưởng vào đường lối đúng đắn của Hồ Chủ tịch thà chết không chịu làm nô lệ, đã bất chấp mọi hy sinh gian khổ, kiên quyết chiến đấu đến cùng.
  2. Quân Mỹ đã bị đánh mạnh và bị thiệt hại nặng trên chiến trường. Theo tài liệu được biết thì số lính Mỹ bị chết trên chiến trường là năm vạn tám nghìn, số bị thương là ba mươi vạn. Đây chỉ là một con số rút nhỏ lại, nhưng dù nhỏ đến mấy thì vẫn là cái chết uổng vì lợi ích của bọn lái buôn vũ khí của Mỹ.
  3. Vì phong trào đấu tranh của nhân dân và quân đội Mỹ nổi lên khắp nước Mỹ, đi đôi với phong trào đấu tranh của nhân dân thế giới, đòi Mỹ phải chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam.
  4. Vì mắc kẹt ở chiến tranh Việt Nam, việc Mỹ tranh quyền bá chủ với Liên Xô đã bị đẩy lùi. Về mặt khoa học kỹ thuật Liên Xô đã có phần đuổi kịp Mỹ, và có những lĩnh vực thì Liên Xô hơn Mỹ.
Việc Lê Duẩn hấp tấp thoả thuận đưa một bộ máy lớn đến Pa-ri hội đàm với Mỹ như thế, là một việc tính toán sai lầm và nôn nóng không cần thiết. Nếu để sức người sức của phải tiêu hao ở Pa-ri trong gần năm năm tăng cường cho cuộc chiến đấu ở miền Nam và chống bắn phá ở miền Bắc, thì cuối cùng Mỹ vẫn phải hội đàm, phải chịu ký kết “Hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam” bằng cách Mỹ phải rút hết quân đội ra khỏi Việt Nam. Đồng thời cuộc hội đàm có thể rút ngắn, thí dụ như cuộc hội đàm Giơ-ne-vơ năm 1954, chỉ độ hai tháng là kết thúc.
Nói tóm lại, thắng lợi của cuộc hội đàm Pa-ri là do thắng lợi ở chiến trường quyết định như Hồ Chủ tịch đã nói, chứ không phải do chủ trương thoả hiệp mà Lê Duẩn tự khoe khoang là mưu lược tài tình, càng không phải là do ba tấc lưỡi của Lê Đức Thọ ở Pa-ri quyết định.
Tuy vậy, đứng về mặt công tác mà nói, thì Lê Đức Thọ cũng như các người khác công tác ở cuộc hội đàm Pa-ri, đều có sự đóng góp của mình. Sự đóng góp đó là qua các hoạt động trong cuộc hội đàm đã nói lên được sự anh dũng của nhân dân Việt Nam trên chiến trường, đồng thời cũng nói lên được sự tích cực công tác và sự khôn ngoan của những người cán bộ Việt Nam trên bàn hội nghị.

III. Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước với vai trò của Lê Duẩn
Sau khi Hồ Chủ tịch qua đời tháng 9-1969, Lê Duẩn lên nắm quyền lãnh đạo, và ngày 30-4-1975 miền Nam được giải phóng. Như vậy, người ta có thể hiểu lầm rằng cuộc kháng chiên chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta cuối cùng giành được thắng lợi là nhờ sự chỉ đạo tài tình của Lê Duẩn. Chính trong đám tay chân của Lê Duẩn cũng thường rêu rao như vậy. Hãy xem tạp chí Cộng sản số tháng 12-1984, trong bài Trang sử đen của nền nghệ thuật quân đội Mỹ có đoạn nói: “Trong cuộc đọ sức gay go, quyết liệt, kéo dài với đế quốc Mỹ, dưới sự chỉ đạo chiến tranh, chỉ đạo chiến lược tài tình, sáng suốt của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn, quân và dân Việt Nam đã viết nên những trang sử vẻ vang nhất trong cuốn lịch sử 2.000 năm nghệ thuật quân sự Việt Nam”. Chỉ nịnh hót và tâng bốc cá nhân Lê Duẩn, mà không nói rõ chủ trương đường lối của Hồ Chủ tịch, không nói rõ tinh thần đấu tranh anh dũng của quân đội và nhân dân, không nêu rõ trí tuệ tập thể đã kịp thời sửa chữa những sai lầm của Lê Duẩn, thì đó chỉ là một sự thiếu hiểu biết của kẻ bồi bút. Để nói rõ sự hiểu biết đó, tôi thấy cần nêu ra mấy điểm như sau:
  • Những chủ trương sai lầm của Lê Duẩn sau khi Hiệp định Pa-ri được ký kết.
  • Phản ứng của Trung ương cục và cán bộ miền Nam.
  • Chiến dịch Tây Nguyên mở ra một triển vọng mới.
  • Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước với vai trò của Lê Duẩn.
1. Những chủ trương sai lầm của Lê Duẩn sau khi Hiệp định Pa-ri được ký kết
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta, Lê Duẩn đã có một số chủ trương không đúng, như việc đánh giá sai lực lượng ta và lực lượng địch trong chiến dịch Mậu Thân, việc hấp tấp đàm phán với Mỹ ở Pa-ri, là những việc mà tôi đã phê phán ở phần trên. Giờ đây nói về vấn đề giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và vai trò của Lê Duẩn.
Như chúng ta đều biết, sau khi hiệp định Pa-ri được ký kết, Mỹ-ngụy không hề tôn trọng Hiệp định, vẫn tăng cường càn quét lấn chiếm, hòng thủ tiêu Quân giải phóng và những người cách mạng miền Nam. Thế mà lúc bấy giờ chủ trương của Lê Duẩn là không được đấu tranh vũ trang, chỉ dùng hình thức đấu tranh chính trị và binh vận, để hòa giải dân tộc. Đây là một chủ trương xuất phát từ nguyện vọng chủ quan, không đúng với tình hình thực tế.
Về chủ trương này, ngay cả Trần Văn Trà, một người theo đuôi Lê Duẩn trong việc nói xấu Trung Quốc, cũng đã phải nói lên sự thật trong quyển Hồi ký của mình rằng: “Một số cán bộ, một ít địa phương với tinh thần chấp hành chỉ thị của trên là đấu tranh thi hành triệt để Hiệp định Pa-ri, sợ đánh trả địch thì vi phạm Hiệp định, chấp hành chủ trương công tác binh địch vận vô hiệu hoá quân ngụy một cách hữu khuynh, nguy hiểm, cụ thể hoá ra thành năm cấm: Cấm tấn công địch, cấm đánh quân địch càn quét lấn chiếm, cấm bao vây đồn, cấm pháo kích đồn ngụy và cấm xây dựng xã chiến đấu. Tưởng như vậy để ổn định tình hình, tránh gây căng thẳng để đi vào hòa hợp dân tộc. Một số nơi rút các đơn vị ở tuyến trước về sau để chấn chỉnh, củng cố. Cho rằng rút về sau thì đơn vị sẽ bị tiêu diệt. Thực tế là khi rút đơn vị vũ trang ta về, thì địch lại lấn lướt, phá cơ sở quần chúng, diệt cơ sở Đảng ta, xoá trạng thái da beo ở đấy” [4] .
Hồi ký của Trần Văn Trà còn nói: “Hiệp định Pa-ri không phải chấm dứt đấu tranh giữa cách mạng và phản cách mạng và cũng không chấm dứt được đấu tranh vũ trang mà nó quy định, vì địch vi phạm lấn chiếm như nói trên kia với ý đồ là chỉ còn một chính quyền ngụy, một quân đội ngụy. Thế mà chủ trương ta nên phân định dứt khoát thành hai vùng thôi, vùng địch và vùng ta, để có phương châm đấu tranh thích hợp cho mỗi vùng để ổn định ngay tình hình, để ta có thể củng cố xây dựng lại lực lượng vũ trang của ta đã yếu rồi, xây dựng vùng kinh tế của ta, xây dựng chính quyền của ta, thì thật không phù hợp chút nào”. [5]
Sau khi Hiệp định Pa-ri ký kết không lâu, địch đã lợi dụng chủ trương sai lầm này của Lê Duẩn, xua quân lấn chiếm một số vùng quan trọng của ta, như Cửa Việt thuộc Quảng Trị, vùng Bảy Núi thuộc Long Xuyên, đường số 4 ở Mỹ Tho, Đường số 2 ở Bà Rịa và Sa Huỳnh thuộc Quảng Ngãi. Đặc biệt, ở Nam Bộ, địch đã đánh chiếm các vùng kiểm soát của ta trên tất cả các tỉnh trong quân khu. Ở Sài Gòn, chúng còn dùng xe ủi đất để san bằng nhà ở, vườn tược của nhân dân, lập thêm ấp chiến lược, đóng thêm nhiều đồn bốt và tung bọt gián điệp về bắt bớ, bắn giết những cán bộ hạ tầng của ta. Đồng thời chúng còn ào ạt càn quét vào những vùng mà từ trước tới nay vẫn là vùng tranh chấp, để biến thành vùng do chúng kiểm soát, và đóng thêm đồn bốt mới. Chỉ riêng ở Mỹ Tho, Gò Công, Kiến Tường và Bến Tre chúng đóng thêm gần ba trăm đồn bốt. Đi đối với những hành động đó, địch còn tăng cường củng cố hệ thống ngụy quyền từ trên xuống dưới, lập thêm nhiều chi khu mới ở các xã, kìm kẹp nhân dân một cách khắt khe, tăng cường bao vây lùng bắt những người cách mạng ở miền Nam.
2. Phản ánh của Trung ương cục và cán bộ miền Nam
Thấy rõ nguy cơ đang đến với quân và dân miền Nam, “các đồng chí Trung ương cục miền Nam và Quân uỷ miền đã không đồng ý rút lực lượng phía trước về phía sau, mà ra lệnh phải củng cố, chấn chỉnh tại chỗ, giữ vững thể xen kẽ ba vùng và đã tích cực báo ý kiến này về Trung ương”. [6]
Vẫn theo Hồi ký của Trần Văn Trà, thì vì đã bất mãn với chủ trương đó của Lê Duẩn, cán bộ và chiến sĩ miền Nam đã tuyên bố là “chúng tôi có muốn đánh nữa cho thoả chí cá nhân đâu, chúng tôi muốn đất nước hòa bình, nhân dân hết chết chóc, nhưng địch hành quân càn quét lấn chiếm, chĩa súng bắn chúng tôi, âm mưu xoá sạch thành tựu cách mạng vừa qua, thì chúng tôi phải làm gì? Có phải chúng tôi đứng thẳng người giơ nắm tay lên trời hô khẩu hiệu “Hòa bình muôn năm”? Không! Thật tình chúng tôi không muốn cái trò ngây thơ đau xót hồi những năm 1954-1959 diễn lại. Trong tim mình còn nhức nhói cái tang của không ít đồng chí đã ngã xuống lúc ấy trong tay còn cầm súng mà không dám bắn, cái tang của nhiều phong trào địa phương bị dìm trong máu. Vì sợ bị phê bình làm sai chủ trương [7] , ở Mỹ Tho du kích phải tổ chức đánh lén [8] đồn bốt dịch đóng trái phép vào căn cứ mình. Ở Mỏ Cày, Bến Tre, đánh trả, phải lùi mãi, anh em than thở: “Chỉ còn nước chui xuống sàn mà ở”. Cuối cùng phải tự động đánh trả mới khôi phục lại được vùng căn cứ của huyện”. [9]
Ngược với chủ trương của Lê Duẩn, quân và dân miền Nam đã quyết tâm giáng trả địch lấn chiếm trái phép. Trung ương cục miền Nam đã cùng với hàng triệu nhân dân, hàng vạn chiến sĩ quân giải phóng, bộ đội địa phương, dân quân du kích ngày đêm vật lộn với kẻ thù, giành nhau từng tấc đất, từng thôn ấp, từng người dân. Kết quả là ta đã thu được nhiều thắng lợi, bẻ gãy nhiều đợt hành quân càn quét của địch, phá huỷ nhiều đồn bốt mà chúng đóng trái phép vào đất của ta, giành lại quyền kiểm soát trên hầu hết các vùng mà trước đây chúng lấn chiếm trái phép, buộc chúng phải co về vị trí đã hình thành trước ngày 28-1-1973, tức là ngày Hiệp định Pa-ri có hiệu lực.
Kết quả hành động dũng cảm của quân và dân miền Nam không những làm chùn bước ý đồ của Mỹ-ngụy muốn tiêu diệt những người cách mạng miền Nam, mà còn giúp cho Bộ Chính trị sửa lại cách đánh giá tương quan lực lượng giữa ta và địch. Vì vậy, ngày 18-12-1974, trong cuộc họp Bộ Chính trị có sự tham gia của đại diện các chiến trường miền Nam để bàn về phương hướng nhiệm vụ chiến lược hai năm 1975-1976, Lê Đức Thọ đã nói: Từ hiệp định Pa-ri tới nay, nói chung là ta đánh giá địch cao ta thấp... Bây giờ qua thực tiễn rõ ràng là ta mạnh hơn địch.
Tuy vậy, về kế hoạch cụ thể, Bộ Tổng tham mưu vẫn quy định năm 1975 các chiến trường không được đánh lớn, chỉ được đánh nhỏ phá kế hoạch bình định của địch, phải để dành lực lượng cho năm 1976 đánh lớn đạt thắng lợi quyết định. Chỉ sau khi Quân giải phóng đánh chiếm được Phước Long, thì Bộ Chính trị mới quyết tâm mở chiến dịch Ban Mê Thuột, và quyết định cử Văn Tiến Dũng vào Nam truyền đạt chỉ thị của Bộ Chính trị cho chiến trường Tây Nguyên và tổ chức hiệp đồng chiến đấu giữa Quân giải phóng miền Nam, bao gồm quân chủ lực Tây Nguyên, Quân khu 5, Bộ đội địa phương với sư đoàn 316 và một số trung đoàn tăng cường của Bộ Tổng tư lệnh.

3. Chiến dịch Tây Nguyên mở ra một triển vọng mới
Sau một thời gian tích cực chuẩn bị, sáng ngày 10-3-1975, quân ta bắt đầu nổ súng tiến công Ban Mê Thuột. Trước đòn tiến công sét đánh của ta, ngày 11-3-1975 phần lớn quân ngụy đã tháo chạy vào rừng, thế là Ban Mê Thuột được giải phóng.
Hoảng sợ trước chiến thắng Ban Mê Thuột, ngày 14-3-1975, Nguyễn Văn Thiệu đã ra lệnh cho toàn bộ quân ngụy phải rút khỏi Tây Nguyên.
Đồng thời với chiến dịch Ban Mê Thuột, ở Trị Thiên, lực lượng vũ trang quân khu cũng bắt đầu mở các cuộc tiến công bao vây địch, diệt và bức rút nhiều đồn bốt, phá hoại một số kho tàng và cắt đứt các tuyến giao thông quan trọng của địch.
Ngày 19-3, tiến công và giải phóng Quảng Trị.
Ngày 21-3, tiến công Huế và ngày 25-3 thì ta hoàn toàn làm chủ Huế.
Ngày 24-3 và 25-3, quân ta tiến công giải phóng Tam Kỳ và Tuần Dưỡng. Lực lượng địch ở địa phương tỉnh Quảng Ngãi cũng nổi dậy giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Ngãi.
Do ta liên tiếp giành được nhiều thắng lợi trên chiến trường, trong phiên họp ngày 25-3, Bộ Chính trị đã nhận định: Việc mở màn chiến dịch Tây Nguyên đánh vào Ban Mê Thuột đã làm cho cục diện chiến trường thay đổi theo chiều hướng rất có lợi cho ta. Thời cơ mới đã xuất hiện. Hơn lúc nào hết ta có điều kiện hoàn thành sớm quyết tâm giải phóng miền Nam. Trong cuộc họp này, Bộ Chính trị cũng quyết tâm điều Văn Tiến Dũng từ Tây Nguyên xuống Nam bộ để phối hợp với Phạm Hùng và Trần Văn Trà chỉ huy chiến dịch giải phóng Sài Gòn – Gia Định.
Ngày 25-3, quân ta bắt đầu nổ súng tiến công Đà Nẵng. Cũng giống như ở Huế, tại đây phần đông lính ngụy đã mất tinh thần chiến đấu, bỏ đơn vị tháo chạy, nhiều tên chỉ huy của chúng cũng bỏ vị trí chiến đấu để tìm cách đưa gia quyến chạy trốn vào phía Nam. Một số đơn vị của địch, mặc dù chưa hề bị quân ta tiến đánh đã tự tan rã.
Đứng trước tình hình bi đát đó, ngày 28-3, Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh quân đoàn một và vùng một chiến thuật ngụy đã hạ lệnh rút bỏ Đà Nẵng theo chỉ thị của Thiệu.
Ngày 29-3, ta hoàn toàn làm chủ thành phố Đà Nẵng.
Sau những thất bại dồn dập ở Tây Nguyên, Huế, Đà Nẵng, và nhất là sau khi bị mất tuyến phòng thủ Phan Rang - Xuân Lộc, chế độ ngụy đang đứng trước nguy cơ sụp đổ nhanh chóng cả về quân sự và chính trị. Nắm vững thời cơ chiến lược đó, đầu tháng 4, Bộ Chính trị đã nhắc nhở Quân ủy chỉ thị cho các binh đoàn, các quân khu phải hết sức khẩn trương để có thể bắt đầu cuộc tổng công kích vào Sài Gòn càng sớm càng tốt.
Ngày 14-4, theo đề nghị của Quân ủy Trung ương, Bộ Chính trị đồng ý chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định lấy tên là chiến dịch Hồ Chí Minh.
Trước khi chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu, quân và dân Nam Bộ đã chuẩn bị đầy đủ về các mặt để phục vụ cho chiến dịch. Quân chủ lực miền liên tục tiến công quân địch, giải phóng nhiều vùng rộng lớn, tạo ra một vành đai giải phóng liên hoàn, bao vây ép sát Sài Gòn. Vì vậy mà khi quân chủ lực của Bộ hành quân từ ngoài vào tham gia chiến dịch giải phóng Sài Gòn – Gia Định đã đến địa điểm tập kết một cách thuận lợi và bí mật.
Đúng nửa đêm ngày 28-4-1975, các cánh quân của ta đồng loạt nổ súng tổng công kích vào các mục tiêu chính ở nội đô Sài Gòn.
Phối hợp với các cánh quân của ta tiến vào Sài Gòn, các Đảng bộ địa phương, các cơ sở cách mạng đã lãnh đạo nhân dân nổi dậy đấu tranh vũ trang, vận động lính ngụy bỏ súng đầu hàng và cướp chính quyền từ trong tay ngụy, giữ gìn nguyên vẹn các công trình, nhà máy để bàn giao cho chính quyền cách mạng, duy trì trật tự trị an tại chỗ. Lực lượng học sinh sinh viên Sài Gòn, ngoài việc ngăn chặn có hiệu quả các hành động phá hoại của địch, còn tích cực dẫn đường cho bộ đội ta tiến vào các mục tiêu, các công sở trong thành phố.
Đúng 11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975, quân ta đã cắm cờ lên Dinh Độc Lập, kết thúc chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Ngày 30-4-1975, khắp các đường phố Sài Gòn đâu đâu cũng thấy cờ đỏ sao vàng và cờ nửa đỏ nửa xanh của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tung bay trước gió. Đông đảo nhân dân thành phố đã vui mừng đón chào Quân giải phóng. Trật tự thành phố và mọi sinh hoạt đều được giữ nguyên, nhiều nhà máy, công xưởng vẫn hoạt động, nhu cầu điện nước của các gia đình vẫn được cung cấp đầy đủ.
Không riêng gì ở Sài Gòn, ngày 30-4-1975, tất cả các nẻo đường, các miền quê của đất nước, đâu đâu cũng vui vẻ, rộn ràng, đâu đâu cũng vang lời ca:
Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng,
Lời Bác nay đã thành chiến thắng huy hoàng…
Việt Nam Hồ Chí Minh.
Việt Nam Hồ Chí Minh.

Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước với vai trò của Lê Duẩn
Trong niềm vui hân hoan mừng thắng lợi, chúng ta không quên nhìn lại chặng đường đấu tranh gian khổ với bao hy sinh anh dũng của dân tộc ta trong suốt mấy chục năm qua. Chặng đường mà chúng ta đã đi là chặng đường đầy chông gai bão tố, đầy máu và nước mắt, nhưng hết sức quang vinh. Vì độc lập tự do của đất nước, không biết bao nhiêu đồng bào, đồng chí của ta đã ngã xuống. Máu đào của họ đã tô thắm non sông đất nước Việt Nam. Họ là những người làm nên chiến thắng.
Trong khi đánh giá nguyên nhân cơ bản của chiến thắng 30-4 và nguyên nhân cơ bản dẫn đến thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta, chúng ta phải đứng trên lập trường cách mạng, phải đánh giá một cách khách quan, đầy đủ và chân thật. Ăn quả nhớ kẻ trồng cây. Phải thấy được chủ trương của Hồ Chủ tịch, trí tuệ của tập thể Bộ Chính trị, của toàn Đảng và công sức của toàn quân, toàn dân ta. Đồng thời phải thấy được sự giúp đỡ to lớn của các nước anh em, đặc biệt là những người cùng chiến đấu trong một chiến hào với chúng ta như các bạn Trung Quốc, Lào và Cam-pu-chia. Tuyệt đối không thể lấy công lao của tập thể và sự hy sinh của cả dân tộc, của bạn bè đánh tráo thành ra công lao của cá nhân Lê Duẩn.
Nếu như sau khi có Hiệp định Pa-ri, quân và dân miền Nam cũng triệt để chấp hành chủ trương sai lầm của Lê Duẩn mà không có sự uốn nắn kịp thời của tập thể, của quân và dân trong cương vị chiến đấu thực tế, thì chúng ta khó có thể lường trước được cái nguy cơ sẽ xảy ra đối với miền Nam, và cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta sẽ đi đến kết quả như thế nào.
Thực tế đã cho thấy, chỉ có kiên trì thực hiện tư tưởng, chỉ đạo của Hồ Chủ tịch, và chỉ có tinh thần chiến đấu anh dũng bền bỉ không sợ hy sinh của toàn thể quân và dân cả nước, thì chúng ta mới có ngày thắng lợi huy hoàng 30-4-1975, đất nước Việt Nam mới có ngày hoàn toàn giải phóng và thống nhất.
Vinh quang này mãi mãi thuộc về Hồ Chủ tịch và Đảng Lao động Việt Nam, thuộc về quân và dân Việt Nam, đặc biệt là quân và dân miền Nam anh hùng.
Trong khi nói đến đường lối đúng đắn của Hồ Chủ tịch, nói đến sự lãnh đạo tập thể của Bộ Chính trị và Trung ương Đảng, nói đến công lao của toàn thể nhân dân, đặc biệt là công lao của quân và dân miền Nam, chúng ta không quên phần đóng góp cá nhân. Vì vậy, đối với Lê Duẩn, chúng ta cũng cần đánh giá đúng đắn. Lê Duẩn là một người đã tham gia cách mạng lâu năm, và đã có sự đóng góp nhất định cho cách mạng, mặc dù trong quá trình cách mạng có phạm sai lầm này, sai lầm khác cũng là một việc không thể tránh khỏi. Vì cách mạng luôn luôn là những sự việc mới, không phải ai cũng có thể một lúc nhận thức được hết. Phải vừa làm vừa học, phải kết hợp sát với thực tế từng địa phương từng giai đoạn, phải luôn luôn tổng kết kinh nghiệm, phải thành thực phê bình và tự phê bình, và phải luôn luôn trau dồi phẩm chất để không bị tha hóa, mà việc đó thì không phải ai cũng thực hành được một trăm phần trăm.
Những sai lầm của Lê Duẩn trước ngày đất nước hoàn toàn giải phóng, chúng ta chỉ coi là sai lầm của người cách mạng, sai lầm trong nội bộ nhân dân.
Nhưng từ khi đất nước hoàn toàn giải phóng, Lê Duẩn đã xa rời hẳn chủ trương đường lối của Hồ Chủ tịch, đã xa rời hẳn những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, phá hoại thành quả cách mạng do cuộc đấu tranh gian khổ và hy sinh không bờ bến của nhân dân trong hơn một thế kỷ đã mang lại, biến nước Việt Nam anh hùng thành một nước bị mang tên là xâm lược, gây tình hình căng thẳng và chống đối với các nước láng giềng đời này qua đời khác, biến Việt Nam thành một căn cứ quân sự của nước ngoài, làm tổn hại đến nền hòa bình của đất nước, của Đông Nam Á và thế giới.
Tất cả những sai lầm của Lê Duẩn sau khi đất nước giải phóng, không còn là sai lầm của một người cách mạng nữa, mà là một sự biến chất, một sự phản bội đối với cách mạng, đối với dân tộc, với Tổ quốc.

IV. Cách mạng Việt Nam với sự phản bội của Lê Duẩn
Mục tiêu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là để xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh như Hồ Chủ tịch đã đề ra. Nhưng sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ thắng lợi thì Lê Duẩn làm ngược lại tất cả, xuất phát từ một mục đích chiến lược phản cách mạng là âm mưu biến Việt Nam thành một nước bá chủ ở Đông Dương và ở Đông Nam Á.
Lê Duẩn biết rất rõ là Trung Quốc đối với âm mưu đó nhất định sẽ phản ứng mạnh. Vì vậy, để ngăn chặn sự phản ứng của Trung Quốc, để thực hiện cho bằng được cái mục đích chiến lược phản cách mạng như trên, Lê Duẩn đã nặn óc dùng thủ đoạn dối trá làm một số việc với những hậu quả hết sức nguy hại của nó như sau:
  • Việc họp Đại hội lần thứ tư của Đảng vào cuối năm 1976, để gạt bỏ những người không cùng bè cánh.
  • Việc ép Trung ương ra nghị quyết chống Trung Quốc.
  • Việc ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Việt – Xô rồi đánh chiếm Cam-pu-chia.
1. Về việc họp Đại hội lần thứ tư của Đảng vào cuối năm 1976
Theo đúng điều lệ Đảng bốn năm họp một lần, thì Đại hội lần thứ tư có thể họp vào cuối năm 1964 hoặc đầu năm 1965, nhưng vì Liên Xô vẫn chủ trương hai miền Nam, Bắc chung sống hòa bình, không chịu viện trợ quân sự cho Việt Nam, như vậy là về tình hình quốc tế còn có chỗ không thuận lợi. Sau khi Liên Xô đã đồng ý viện trợ quân sự cho Việt Nam chống Mỹ (2-1965) là điều kiện quốc tế cũng như điều kiện trong nước đều rất thuận lợi cho việc chuẩn bị họp Đại hội. Nhưng vì Lê Duẩn đang tính toán việc đàm phán với Mỹ, nên chưa dứt khoát về đường lối. Đã không dứt khoát về đường lối thì không có cơ sở viết báo cáo chính trị để trình Đại hội. Còn Hồ Chủ tịch thì suốt mấy năm liền phải chống chọi với bệnh tật, tuy cũng có giục Lê Duẩn chuẩn bị họp Đại hội, nhưng Lê Duẩn cứ nói là chuẩn bị không kịp, thì cũng không làm thế nào được. Sau khi Hồ Chủ tịch mất, quyền đảng đã hoàn toàn nắm trong tay, thì Lê Duẩn có thể tự do đẩy lùi cuộc họp Đại hội cho đến sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng. Miền Nam đã hoàn toàn giải phóng thì việc thỏa hiệp với Mỹ không phải lo tính nữa, ý đồ xâm chiếm Cam-pu-chia và khống chế Lào đã có thể thực hiện được một cách chắc chắn; việc nhờ vào Trung Quốc viện trợ để kháng chiến nay có thể không cần thiết nữa; việc kéo bè, kéo cánh để gạt bỏ những người chống đối chủ yếu đã có thể thực hiện mà không ngại đến lòng hăng hái chống Mỹ của nhân dân. Cái thắng lợi mà toàn thể nhân dân đã hy sinh tất cả để mang lại, Lê Duẩn đã có thể tự vơ lấy để khoe khoang mình, do đó Lê Duẩn mới quyết định họp Đại hội vào cuối năm 1976.
Tháng 11 năm 1976, trong khi chuẩn bị họp Đại hội, Lê Duẩn đề nghị Bộ Chính trị cử tôi dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng đi dự Đại hội Đảng An-ba-ni. Tôi biết rất rõ ý đồ của Lê Duẩn là muốn điều tôi đi xa để ở nhà chúng có thể tự do bố trí việc lôi kéo bè cánh, gạt bỏ những người không ăn ý, thành lập một ban lãnh đạo mới phù hợp với chủ trương, đường lối phản động của tập đoàn Lê Duẩn. Tôi biết, nhưng tôi rất vui lòng đi An-ba-ni, vì như vậy tôi khỏi phải tham gia vào việc bàn bạc về nhân sự, mà bọn Lê Duẩn thế nào cũng tìm cách gạt tôi ra khỏi cơ quan lãnh đạo Đảng, ít nhất là ra khỏi Bộ Chính trị.
Ngày 1 tháng 12 năm 1976, Đại hội lần thứ tư chuẩn bị họp trù bị, thì cũng là lúc Quốc hội Cu-ba họp khóa họp đầu tiên, có mời Quốc hội Việt Nam cử Đoàn đại biểu tham gia. Lê Duẩn vẫn muốn cử tôi dẫn đầu Đoàn đại biểu Quốc hội ta đi Cu-ba, nhưng sợ như vậy lộ liễu quá, nên một mặt quyết định cử chị Nguyễn Thị Thập, Phó Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội làm Trưởng đoàn, một mặt lại bảo Xuân Thủy tâm sự với tôi rằng, đi dự Quốc hội Cu-ba mà chị Nguyễn Thị Thập là Trưởng đoàn có thể Cu-ba không vui lắm, nhưng ta đang chuẩn bị họp Đại hội, thì không có cách nào khác. Tôi hiểu ý Xuân Thủy tức là ý Lê Duẩn, nên tôi nói, nếu Đảng thấy cần tôi dẫn đầu Đoàn đại biểu Quốc hội Việt Nam đi dự Quốc hội Cu-ba, thì tôi vui lòng nhận nhiệm vụ, mặc dù tôi sẽ phải vắng mặt trong cuộc họp trù bị Đại hội. Theo thói quen các đảng, thì cuộc họp trù bị là một cuộc họp để thảo luận trước về tư tưởng, về nhân sự xong xuôi đã rồi mới đưa ra Đại hội chính thức. Tôi nhận lời đi Cu-ba như vậy, cũng là cốt để tránh việc phải bàn bạc về vấn đề nhân sự. Quả vậy, sau khi Quốc hội Cu-ba họp xong, ngày 7-12-1976 tôi dẫn Đoàn đại biểu Quốc hội Việt Nam từ Cu-ba về đến Hà Nội, thì cũng là ngày mà cuộc họp trù bị vừa kết thúc. Lê Đức Thọ gặp tôi để giải thích về việc cuộc họp trù bị không đề cử tôi vào Ban Chấp hành Trung ương. Việc này đối với tôi không phải là một việc đột ngột, càng không phải là một việc làm cho tôi phải buồn bực, vì tôi biết dưới sự khống chế của Lê Duẩn, thì tôi cũng như các người khác, dù có chân trong Ban Chấp hành Trung ương cũng không thể thật sự phát huy được tác dụng của một uỷ viên Trung ương, vì đã nhiều năm rồi, từ khi sức khoẻ Bác Hồ bị kém sút, thì ngay cả hội nghị Trung ương cũng hầu như không còn tác dụng là một tập thể lãnh đạo cao nhất của Đảng.
*

Tôi còn nhớ vụ án chính trị phát hiện trong năm 1967 do một số học sinh và cán bộ học ở Liên Xô về câu kết với nhau thành một nhóm chống Đảng. Khi lộ tẩy rồi bị bắt, nhóm này đã khai ra nhiều người trong đó có Nguyễn Văn Vịnh, trung tướng Quân đội nhân dân, Chủ nhiệm Ủy ban thống nhất của Quốc hội, là một tên tội phạm quan trọng đã bí mật cung cấp tài liệu quân sự và tình báo chính trị cho nước ngoài. Một vụ án đặc biệt như vậy, thông thường là phải báo cáo đầy đủ với Bộ Chính trị để báo cáo với Trung ương quyết định việc xử lý. Nhưng khi Hồ Chủ tịch đang còn thì Lê Đức Thọ lấy cớ là vụ án đang ở trong giai đoạn điều tra, thỉnh thoảng mới báo cáo với Bộ Chính trị về sự phát triển của vụ án để biết. Sau khi Hồ Chủ tịch mất không lâu, Lê Đức Thọ đề nghị Bộ Chính trị cho lập một ban điều tra gồm ba người là Trần Quốc Hoàn, Nguyễn Lương Bằng là uỷ viên, Lê Đức Thọ là Trưởng ban, nhưng thực tế thì Lê Đức Thọ và Trần Quốc Hoàn nắm, còn Nguyễn Lương Bằng thì chỉ nghe thế nào thì biết thế ấy. Từ đó Lê Đức Thọ không báo cáo với Bộ Chính trị nữa, mà chỉ ở hội nghị Trung ương khi có người hỏi thì mới báo cáo ở hội nghị Trung ương để biết. Mãi đến năm 1976, trong một cuộc hội nghị Trung ương, Lê Đức Thọ mới đề nghị xin Trung ương quyết định kỷ luật Nguyễn Văn Vịnh là hạ chức trung tướng Quân đội nhân dân xuống cấp thiếu tướng, hạ chức Chủ nhiệm Ủy Ban thống nhất của Quốc hội [10] xuống cấp Thứ trưởng. Cả hội nghị Trung ương đều phản đối, nhất trí quyết định phải khai trừ Đảng tịch, tước hết quân hàm, cách chức Chủ nhiệm Ủy Ban thống nhất của Quốc hội, và giao cho Lê Đức Thọ, Trưởng Ban tổ chức Trung ương Đảng làm thủ tục thi hành. Trước hội nghị Trung ương, Lê Đức Thọ không thể không thừa nhận nhiệm vụ thi hành, nhưng lại nói riêng với Nguyễn Văn Vịnh rằng, tuy tuyên bố kỷ luật như vậy, nhưng anh vẫn được tự do, cứ yên tâm chờ đợi một thời gian thì sẽ có cách xóa án. Thế rồi sau Đại hội lần thứ tư của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương được bầu lại, Lê Duẩn đã nắm chắc về tổ chức, thì trong một cuộc họp Trung ương năm 1977, Lê Đức Thọ mới đề nghị xin Trung ương xét lại vụ án Nguyễn Văn Vịnh và quyết định cho thôi chức Chủ nhiệm Ủy Ban thống nhất của Quốc hội, và chỉ hạ một cấp quân hàm từ trung tướng xuống thiếu tướng. Phải chờ đến khi có Ban Chấp hành Trung ương mới mới giải quyết được vấn đề, là vì theo nguyên tắc tổ chức thì chỉ có Trung ương mới phủ quyết được một nghị quyết đã có hiệu lực của Trung ương. Vì sao vụ án phát hiện từ năm 1967 mà để mãi đến mười năm sau là năm 1977 mới giải quyết? Là vì trong vụ anh Nguyễn Chí Thanh bị ám hại, Nguyễn Văn Vịnh là người được biết tất cả mọi chi tiết, nếu xử lý Nguyễn Văn Vịnh đúng theo kỷ luật Đảng và pháp luật Nhà nước thì Nguyễn Văn Vịnh sẽ bươi ra hết cả, như vậy bộ mặt của bọn Lê Duẩn sẽ bị bóc trần, tội ác của bọn Lê Duẩn sẽ phơi bày trước Đảng và trước dư luận nhân dân.
*

Tôi cũng còn nhớ trong một cuộc họp hội nghị Trung ương năm 1968 [11] , bàn về vấn đề kháng chiến chống Mỹ, anh Nguyễn Thọ Chân, Ủy viên Trung ương dự khuyết, Đại sứ Việt Nam tại Liên Xô phát biểu ý kiến rằng cuộc kháng chiến hiện nay chủ yếu là phải dựa vào sự viện trợ của Trung Quốc, còn Liên Xô tuy có viện trợ ta, nhưng rất sợ Mỹ. Thế là Phạm Văn Đồng đang ngồi trên ghế Chủ tịch hội nghị liền cắt ngang lời, nói một hồi rằng chính Trung Quốc mới là kẻ sợ Mỹ. Anh Nguyễn Thọ Chân nói tiếp được mấy câu lại bị ngắt lời, phải đứng trên diễn đàn để nghe tiếp lời giáo huấn của Phạm Văn Đồng, vì Phạm Văn Đồng là Ủy viên Bộ Chính trị lại là Thủ tướng. Anh Nguyễn Thọ Chân nghe xong vẫn tiếp tục đưa chứng cớ nói Liên Xô là sợ Mỹ. Lại bị ngắt lời một lần nữa. Thế là anh phải bỏ dở lời phát biểu, rời diễn đàn quay về chỗ ngồi.
Lại trong một cuộc hộp nghị Trung ương năm 1970 cũng bàn về vấn đề kháng chiến chống Mỹ, đồng chí Phạm Văn Xô, Ủy viên Trung ương phát biểu ý kiến rằng, cần thấm nhuần tư tưởng trường kỳ gian khổ như Hồ Chủ tịch đã dạy. Anh Xô cũng bị ngắt lời ba lần, và cũng đành phải bỏ dở lời phát biểu như anh Nguyễn Thọ Chân lần trước.
Lại trong một cuộc hội nghị Trung ương khác vào năm 1973 sau khi quân Mỹ đã rút hết khỏi miền Nam, mấy đồng chí quân sự có tham gia chiến dịch Mậu Thân đều phát biểu rằng, chiến dịch Mậu Thân kéo dài đã mang lại những tổn thất rất lớn là cơ sở nông thôn cũng như ở thành thị đã bị phá hoại nghiêm trọng. Nhiều cơ sở đến nay vẫn còn chưa khôi phục lại được. Có đồng chí sợ nói miệng có thể lại bị xuyên tạc, nên đã viết lời phát biểu thành văn bản, trịnh trọng đọc ở diễn đàn rồi giao văn bản cho Đoàn Chủ tịch. Một vấn đề quan trọng như vậy được các đồng chí có trách nhiệm về quân sự trực tiếp nêu thẳng ra trong hội nghị Trung ương, thế mà Đoàn Chủ tịch gồm các uỷ viên Bộ Chính trị, lại không nêu ra thảo luận và cũng không có một sự giải thích nào. Các đồng chí Trung ương trong hội nghị chỉ nhìn nhau, nói sang vấn đề khác theo sự điều khiển của Chủ tịch điều khiển hội nghị.
*

Vì những sự thực như trên, nên khi nghe Lê Đức Thọ nói lại ý kiến của cuộc họp trù bị không đề cử tôi vào danh sách ứng cử Trung ương, tôi không phản ứng gì cả, mà chỉ đề nghị trong Đại hội chính thức tôi sẽ xin phát biểu để đóng góp ý kiến của mình đối với Đại hội. Lê Đức Thọ liền trắng trợn nói thẳng rằng, chương trình phát biểu ở Đại hội đã xếp đặt đầy đủ, nếu anh phát biểu, người khác cũng xin phát biểu thì khó xử quá. Thế là trong Đại hội, chẳng những tôi không được đề cử vào Trung ương, mà cũng không có quyền phát biểu ý kiến.
Kết quả Đại hội lần này là một phần ba uỷ viên Trung ương bị gạt ra noài Ban Chấp hành Trung ương mới, Trung ương khóa ba chỉ có 71 người, thì lần này tăng lên 133 người gồm 101 uỷ viên chính thức, 32 uỷ viên dự khuyết, địa bộ phận là những người theo chủ trương của Lê Duẩn chống Trung Quốc, một số người khác tuy không đồng tình chủ trương chống Trung Quốc nhưng không găng lắm, hoặc kín miệng không dám phát biểu thẳng thắn.
Sau Đại hội Đảng toàn quốc, thì đến Đại hội tỉnh, rồi đến Đại hội huyện, đại hội cấp nào cũng có đại biểu của Ban Tổ chức Trung ương (do Lê Đức Thọ nắm) đến tham dự. Theo lời tuyên bố của Ban Tổ chức [12] là Trung ương quy định người nào ngoài năm mươi lăm tuổi không được vào Tỉnh uỷ, ngoài năm mươi tuổi không được vào Huyện uỷ, trừ trường hợp đặc biệt do Trung ương quyết định [13] .
Thế là hàng loạt người không đồng ý với Lê Duẩn từ Trung ương đến địa phương, đều bị gạt ra khỏi ban lãnh đạo của Đảng. Việc chuẩn bị về tổ chức để tiến tới những hành động phiêu lưu của bọn Lê Duẩn đã cơ bản được thực hiện.
Đại hội Đảng họp vào cuối năm 1976, nhưng những sự việc có thể xảy ra trong Đại họi và sau Đại hội như thế nào, là tôi đã dự đoán được. Nên trong dịp đầu xuân năm 1976, tôi đã làm một bài thơ nói rõ cách nhìn và quyết tâm của mình như sau:
Bảy mươi mốt tuổi vẫn chưa già,
Vẫn cứ hăng say việc nước nhà.
Mắt tỏ nhìn ra người xấu tốt,
Tai tinh nghe biết chuyện gần xa.
Vạch đường cách mạng nhờ ơn Bác,
Vẽ bức dư đồ góp sức ta.
Mấy chục năm trời quen cặm cụi,
Non sông còn phải điểm thêm hoa.




[1]Mig 23. BT
[2]Đại sứ Việt Nam ở Trung Quốc
[3]báo Nhân dân ngày 01-12-1972
[4]Hồi ký Trần Văn Trà trang 54
[5]Hồi ký Trần Văn Trà trang 70
[6]Hồi ký Trần Văn Trà trang 68
[7]binh vận
[8]lén đối với cấp trên
[9]Hồi ký Trần Văn Trà trang 83
[10]ngang chức Bộ trưởng
[11]Hồ Chủ tịch mệt không đến dự được
[12]chỉ tuyên bố miệng chứ không có văn bản
[13]mà thực sự là do Ban Tổ chức quyết định.
----------------------------------------
2. Về việc ép Trung ương ra nghị quyết chống Trung Quốc
Như ở phần trên đã nói, tư tưởng chống Trung Quốc của Lê Duẩn vốn có từ lâu, nhưng cách biểu hiện thì mỗi thời kỳ một khác. Thời kỳ chưa thật sự choán được quyền lãnh đạo Đảng (1957-1960) thì dùng thủ đoạn hai mặt, thỉnh thoảng nói tốt Trung Quốc một vài câu, có khi còn tỏ thái độ cho rằng những người đánh giá thấp công lao của các đồng chí cố vấn Trung Quốc là vong ơn bội nghĩa.
Thời kỳ đã chính thức được bầu làm Bí thư thứ nhất Trung ương Đảng từ cuối năm 1960 về sau thì tư tưởng chống Trung Quốc vẫn giấu giếm khôn khéo, nhưng đã lộ đầu mối ra ít nhiều.
Thời kỳ Liên Xô viện trợ quân sự cho Việt Nam và sức khoẻ Hồ Chủ tịch sa sút nghiêm trọng, tức là từ năm 1965 về sau, thì luận điệu chống Trung Quốc theo kiểu Khơ-rút-sốp đã được phổ biến khá rộng rãi trong đám cán bộ cùng bè cánh.
Thời kỳ ở Trung Quốc đang tiến hành cuộc cách mạng văn hóa, tuy với những chủ trương quá tả, lũ bốn người đã mang lại cho Trung Quốc những thiệt hại rất lớn, nhưng đối với việc viện trợ Việt Nam chống Mỹ, Trung Quốc vẫn tích cực trước sau như một. Thủ tướng Chu Ân Lai đã cấm hồng vệ binh ở Bắc Kinh không được đấu tố các đồng chí Phương Nghị và Lý Cường là những người đang phụ trách việc viện trợ Việt Nam; Thủ tướng cũng cấm hồng vệ binh ở Vũ Hán không được ngăn cản các chuyến tàu hỏa chở vũ khí và vật tư cho Việt Nam. Tình hình đó Lê Duẩn biết rất rõ nhưng vẫn tuyên truyền cách mạng văn hóa Trung Quốc có hại cho kháng chiến Việt Nam và cố tình làm một số việc có tính chất khiêu khích đối với Trung Quốc. Lê Duẩn đã ép buộc Hội Liên hợp Hoa kiều ở Hà Nội phải cải tổ bằng cách đưa một tên phản động người Hoa đã từng chống đối cách mạng Trung Quốc lên nắm quyền lãnh đạo thay cho những người phẩm chất tốt và đã có công lao với cách mạng Việt Nam; tên phản động này mỗi lần tham gia hội nghị do Mặt trận Tổ quốc tổ chức, đều lên diễn đàn nói xấu Đảng Cộng sản Trung Quốc. Lê Duẩn còn ép buộc tờ báo Tân Việt Hoa, một tờ báo chữ Hán do Hội Liên hợp Hoa kiều xuất bản, phải đóng cửa. Đối với những việc khiêu khích đó Trung Quốc đều cho là việc nội chính của Việt Nam, không tỏ thái độ, thì Lê Duẩn lại cho đó là sự mềm yếu của Trung Quốc, càng tỏ vẻ hí hửng, đắc ý.
Thời kỳ Mỹ rút hết quân đội ra khỏi miền Nam, rồi không lâu miền Nam được hoàn toàn giải phóng, thì chủ trương của Lê Duẩn chống Trung Quốc được đẩy mạnh một cách hết sức trắng trợn.
Một việc nổi bật, là Trung Quốc đề nghị lập lãnh sự quán ở Sài Gòn, Lê Duẩn trở mặt nói rằng ở Việt Nam không có vấn đề Hoa kiều, mà chỉ có vấn đề người Việt gốc Hoa, không đồng ý cho Trung Quốc đặt lãnh sự quán, trong khi ở Trung Quốc, Việt Nam có ba Tổng lãnh sự quán ở Côn Minh, Nam Ninh và Quảng Châu.
Một việc nữa là việc "đánh tư sản mại bản” người Hoa. Nói là đánh tư sản mại bản, nhưng kỳ thực thì đánh tràn lan cả vào những người Hoa làm ăn lương thiện, thậm chí cả vào những người đã có công lao với cách mạng Việt Nam. Đi đôi với việc đánh tư sản mại bản còn có việc ép buộc một số người Hoa đi khu kinh tế mới. Những người đi khu kinh tế mới đều phải bỏ lại những gì là bất động sản, chỉ được mang theo một số đồ đạc nhẹ. Khi đến khu kinh tế mới là những nơi hoang vu trơ trọi, lại không được một sự giúp đỡ nào. Kết quả là có người phải quay về nơi làm ăn cũ, thì nhà cửa đồ đạc đã mất hết, không được nhập lại hộ khẩu và không có phiếu lương thực, phải chui rúc đầu cầu xó chợ, và thường bị xua đuổi chửi mắng; có người không có cách nào khác, đành phải ở lại khu kinh tế mới, thì cũng chết dần chết mòn vì đau khổ, vì đói rét, vì bệnh tật.
Một việc nổi bật nữa là cho đến nay đã có hơn hai mươi bảy vạn người Hoa bị đuổi về Trung Quốc và khoảng mười vạn người Hoa bị đuổi ra biển khơi rồi muốn đi đâu thì đi. Hai loại người này tuy cách đuổi khác nhau, nhưng có một điều giống nhau là tài sản và của cải bị cướp hết với lý do là khi đến Việt Nam hai bàn tay không, thì khi rời Việt Nam cũng hai bàn tay không!
*

Nhưng thế chưa đủ, để đẩy mạnh việc chống Trung Quốc hơn nữa, Lê Duẩn còn đặt việc chống Trung Quốc thành chính sách cơ bản của Nhà nước và đường lối chung của Đảng. Về mặt Nhà nước, Lê Duẩn đã thông qua Trường Chinh ép Ủy ban dự thảo Hiến pháp ghi rõ trong Hiến pháp rằng nhân dân Việt Nam "phải đương đầu với bọn bành trướng và bá quyền Trung Quốc cùng bè lũ tay sai của chúng ở Cam-pu-chia”.
Về mặt Đảng thì vào khoảng giữa năm 1978, Lê Duẩn đã ép Trung ương ra nghị quyết chống Trung Quốc. Nghị quyết nói Trung Quốc là kẻ thù trực tiếp, kẻ thù nguy hiểm của nhân dân Việt Nam; phải đánh đổ nhóm cầm quyền phản động thân Mao ở Bắc Kinh; phải giúp cho lực lượng tiến bộ ở Trung Quốc lên nắm quyền; phải phê phán tư tưởng Mao Trạch Đông trên tất cả các lĩnh vực; phải phái người đi các nước Đông Nam Á vận động các nước này chống Trung Quốc.
Sau khi có nghị quyết chống Trung Quốc thì những luận điệu chống Trung Quốc của Khơ-rút-sốp mà trước kia đã lén lút truyền nhau, bây giờ được phổ biến rộng rãi trong toàn Đảng; tác phẩm phản cách mạng của Vương Minh trước kia chỉ mới in một ít để chuyền tay nhau xem trong đám cán bộ thân cận của Lê Duẩn, thì bây giờ đã in hàng chục vạn quyển, bắt cán bộ từ cấp tỉnh trở lên phải học tập. Vậy Vương Minh là người như thế nào mà tác phẩm lại được Lê Duẩn quý trọng như vậy? Vương Minh là một người đối lập với tư tưởng Mao Trạch Đông, có lúc tả khuynh, như chủ trương phát động quần chúng cướp chính quyền ở thành thị, chủ trương trận địa chiến, không bỏ một tấc đất trong lúc quân Tưởng điều động hàng chục vạn quân hòng tiêu diệt khu Xô-viết Giang Tây; có lúc hữu khuynh, như chủ trương "hết thảy phải phục tùng mặt trận” khi Quốc - Cộng hợp tác chống Nhật. Những chủ trương tả khuynh và hữu khuynh đó đã làm cho hơn chín mươi phần trăm cơ sở Đảng ở thành thị bị tan rã, đã làm cho Hồng quân ở Giang Tây bị lâm vào cảnh nguy ngập, phải rời bỏ khu Xô-viết, tiến hành cuộc trường chinh gian khổ hơn một năm mới đến được miền bắc Thiểm Tây với những thiệt hại rất nặng.
Để thực hiện nghị quyết chống Trung Quốc, Phạm Văn Đồng đã đi thăm các nước Đông Nam Á để nói xấu Trung Quốc và cam đoan rằng sẽ không giúp đỡ Đảng Cộng sản của các nước này. Nói không giúp đỡ nhưng sự thực là phá hoại. Chúng đã đuổi những người đại diện Trung ương các Đảng này đang ở Hà Nội phụ trách công tác liên lạc với Trung ương Đảng Việt Nam. Đặc biệt tồi tệ là đối với Đảng Cộng sản Thái-lan, chúng đã đánh lừa, gọi các đồng chí Thái-lan ở Hà Nội đi qua Viêng Chăn để bàn việc, rồi giữ các đồng chí ở lại đó không cho về Hà Nội, cuối cùng vì không đủ điều kiện sống, các đồng chí phải rời khỏi Lào chạy về Thái-lan, trong khi đang bị đương cục Thái-lan lùng bắt. Chúng còn xúi giục một số người Thái-lan phản dân tộc như Nai Bun-dên lập ra một cái đảng gọi là "Đảng mới”, sau đổi tên là "Đảng Đông Bắc”, nhằm âm mưu chia cắt mười sáu phủ ở Đông Bắc Thái-lan thành một nước độc lập. Bọn Bun-dên thường phải người về các phủ Đông Bắc Thái-lan hoạt động, nhưng khi bị bắt thì khai ra tất cả những âm mưu thủ đoạn và nhiệm vụ mà bọn Lê Duẩn đã giao phó. Rõ ràng cách đối xử của Lê Duẩn với Đảng Thái-lan như đã nói trên, không phải là xuất phát từ nguyên tắc "không xuất cảng cách mạng” theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, cũng không phải là xuất phát từ nguyên tắc "không can thiệp vào nội chính của nước khác” như chủ trương chung sống hòa bình đã được thế giới công nhận, mà là một sự phản bội đối với các đảng anh em, một âm mưu lật đổ đối với nước láng giềng.
Để thực hiện nghị quyết chống Trung Quốc, Lê Duẩn tiếp tục bức hại, xua đuổi và cướp bóc tài sản của người Hoa, đưa ra khỏi cơ quan Đảng, Nhà nước và quân đội bất kể người Hoa nào, mặc dù là anh hùng diệt Mỹ, là lao động tiên tiến, là người có công lao trong kháng chiến cũng như trong việc xây dựng đất nước Việt Nam. Một việc rất độc ác là đối với người Việt có vợ hoặc có chồng là người Hoa thì mặc dù đã có con cái, cũng bắt buộc hoặc phải ly hôn với người Hoa, hoặc phải chịu một số phận như người Hoa là đi khu kinh tế mới hoặc cùng phải lìa bỏ Việt Nam đi nước ngoài. Ở dọc đường biên giới Việt – Trung, chúng cấm hẳn không cho nhân dân cả hai bên đi lại trao đổi hàng hóa hoặc thăm hỏi lẫn nhau như trước kia hai Đảng đã thỏa thuận. Chúng còn đào hầm hố, cắm chông gài mìn và khiêu khích bằng quân sự, giết hại những người dân thường đang làm lụng ở đồng ruộng, hoặc đang đi trên đường bên phía Trung Quốc.
Đi đôi với những việc làm trên, là việc thanh lọc nội bộ mà đối tượng là những người có ý kiến muốn hòa mục với các nước láng giềng, những người thường nói đến công ơn của Trung Quốc trong thời gian chống Pháp và chống Mỹ.

3. Về việc ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Việt–Xô rồi đánh chiếm Cam-pu-chia
Việc Lê Duẩn ép Trung Quốc rồi làm một số việc như đã kể trên, mục đích là cốt làm cho Liên Xô thấy rằng Lê Duẩn đã quyết tâm chống Trung Quốc và phá hoại tất cả những đảng anh em nào không đồng ý với chủ trương của Liên Xô chống Trung Quốc, tự nhiên những việc làm như vậy chẳng những được người lãnh đạo Liên Xô vừa lòng, mà còn được khuyến khích nữa là khác.
Ngày 3 tháng 11 năm 1978, Lê Duẩn và Phạm Văn Đồng đích thân đến Liên Xô ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Việt – Xô, mà thực chất là một hiệp ước Liên minh quân sự. Hiệp ước có khoản viết: "Trong trường hợp một trong hai bên bị tiến công, hoặc bị đe dọa tiến công thì hai bên ký hiệp ước sẽ lập tức trao đổi ý kiến với nhau nhằm loại trừ mối đe dọa đó, và áp dụng những biện pháp thích đáng có hiệu lực để bảo đảm hòa bình và an ninh của hai nước”. Rõ ràng điều khoản đó không phải để Lê Duẩn bảo đảm an ninh cho Liên Xô, mà là để Liên Xô bảo đảm an ninh cho Lê Duẩn chống Trung Quốc và những hành động phiêu lưu khác của Lê Duẩn mà Trung Quốc có thể phản ứng bằng quân sự.
Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Việt – Xô ký xong, thì ngày 25-12-1978, Lê Duẩn đưa hai mươi vạn quân đánh thẳng vào Cam-pu-chia, ngày 7-1-1979 chiếm Phnôm Pênh, và ngày 10-1-1979 đưa tên bù nhìn Hêng Xom-rin ra tuyên bố thành lập cái gọi là "nước Cộng hòa Nhân dân Cam-pu-chia” để hợp pháp sự xâm chiếm của bọn Lê Duẩn.
Kế hoạch của bọn Lê Duẩn là với một lực lượng lớn và cách đánh chớp nhoáng như vậy, thì chỉ trong mấy tuần là tiêu diệt hết lực lượng kháng chiến và thôn tính xong Cam-pu-chia. Nhưng từ tháng giêng năm 1979 đến nay đã hơn bảy năm mà còn bị lún chân ở vũng lầy Cam-pu-chia, con em Việt Nam còn phải đi làm bia đỡ đạn, nông nghiệp Việt Nam ngày càng sa sút, công nghiệp bị đình trệ, nhân dân bị đói khổ, bệnh tật, chết chóc và mất hết tự do dân chủ. Trên trường quốc tế, Việt Nam đã hết sức bị cô lập. Liên hợp quốc đã liên tiếp bảy lần ra nghị quyết đòi Việt Nam phải rút hết quân đội khỏi Cam-pu-chia, nhưng Lê Duẩn chẳng những không chịu rút quân khỏi Cam-pu-chia, mà còn dùng quân đội quấy rối và uy hiếp nền an ninh của Thái-lan nữa.
Lê Duẩn thường tuyên truyền là người lãnh đạo Cam-pu-chia dùng chính sách diệt chủng. Nhưng thực ra thì Lê Duẩn đã dùng chính sách diệt chủng ở Cam-pu-chia bằng cách đốt phá và giết chóc nhân dân Cam-pu-chia bằng cách đưa người Việt di cư đến Cam-pu-chia [1] , đồng thời bắt ép bọn bù nhìn Hêng Xom-rin phải nhường đất đai nhà cửa cho người Việt di dân, để họ cùng với quân đội Việt Nam khống chế Cam-pu-chia cả về mặt quân sự, chính trị và kinh tế. Chúng còn ép con gái Cam-pu-chia phải lấy người Việt, bắt các trường học Cam-pu-chia phải dạy chữ và tiếng Việt, để từng bước đồng hóa người Cam-pu-chia thành người Việt, hòng thực hiện cái mộng "Liên bang Đông Dương” mà Việt Nam làm bá chủ.
Bộ mặt lừa thầy phản bạn của Lê Duẩn đã hoàn toàn lộ rõ. Cái gọi là "chủ nghĩa quốc tế”, gọi là "liên minh đặc biệt” với Lào và Cam-pu-chia, hoàn toàn chỉ là một sự lừa bịp.

Hậu quả của sự phản bội của Lê Duẩn
Hậu quả của sự phản bội Lê Duẩn đã phá hoại tất cả những gì tốt đẹp của một Đảng mác-xit-lê-nin-nít, phá hoại tất cả những gì là thành quả của cách mạng, phá hoại tất cả những gì là tương lai tươi sáng của Tổ quốc, phá hoại tất cả những gì là sự cống hiến của Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân thế giới. Cụ thể thể hiện ở các mặt như sau:
a) Về mặt Đảng. Trước kia Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chủ tịch sáng lập và rèn luyện, là một đảng gồm những người làm đầy tớ trung thành của nhân dân, thì ngày nay dưới sự lãnh đạo của Lê Duẩn, thực tế đã trở thành một tổ chức mà phần lớn là do những người cùng bè cánh của Lê Duẩn hoàn toàn khống chế, chúng bao che đùm bọc lẫn nhau, đè đầu cưỡi cổ nhân dân. Trong Đảng không có một chút tự do dân chủ, không ai dám nói lên ý kiến thật của mình về những vấn đề lớn của đất nước, của xã hội, hễ ai dám mạnh dạn phê bình những sai trái của chúng là bị trù úm, bị hãm hại, ở cấp nào cũng vậy. Dựa vào Đảng, Lê Duẩn đã bất chấp cả hiến pháp, pháp luật, bất chấp cả ý kiến của Quốc hội, của Mặt trận, của các đoàn thể nhân dân mà chính cách mạng đã xây dựng nên. Thực ra chỉ là một hình thức "đảng trị” theo kiểu phát-xít, trái hẳn với nguyên tắc một chính đáng mác-xit-lê-nin-nít. Việc Lê Duẩn tự khoe khoang là trung thành với đường lối của Hồ Chủ tịch, trung thành với chủ nghĩa Mác – Lê-nin, khoe khoang là xây dựng chủ nghĩa xã hội, khoe khoang là thi hành chủ nghĩa quốc tế vô sản đối với Lào và Cam-pu-chia, hoàn toàn chỉ là một chuyện nói láo trên đài và trên báo, không lừa bịp được ai.
b) Về mặt đối nội. Do chính sách xâm lược và hiếu chiến, tất cả sức người sức của đều dồn cả vào việc chiến tranh và chuẩn bị chiến tranh, con em chúng ta còn phải đi làm bia đỡ đạn trên chiến trường. Vì vậy mà công, nông, thương nghiệp đã bị đình trệ, đời sống nhân dân đã tụt xuống đến mức bị xếp vào hạng thấp nhất trên thế giới. Tệ nạn xã hội như tham ô, móc ngoặc, buôn gian bán lậu, trộm cắp, cờ bạc, đĩ điếm, ăn mày, mê tín dị đoan ngày một lan tràn. Một xã hội được khoe khoang là xã hội chủ nghĩa mà ở nông thôn đã xuất hiện tầng lớp cường hào mới, ở nhà máy, xí nghiệp đã xuất hiện tầng lớp cai xếp mới, ở cơ quan Nhà nước đã xuất hiện tầng lớp quan lại mới, ở bộ đội đã xuất hiện tầng lớp quân phiệt mới.
Việc xóa bỏ chế độ tự trị của các dân tộc thiểu số đã gây nên sự chống đối của các dân tộc và tạo cơ hội cho một số phần tử phản động có điều kiện hoạt động phá hoại nền thống nhất của đất nước.
Việc xây dựng khu kinh tế mới là một chủ trương tốt, nhưng bọn Lê Duẩn đã biến nó thành một hình thức trừng phạt để đối phó với những người không được chúng ưa thích, kể cả người Việt lẫn người Hoa, đã gây nên một sự mất mát lớn về sức lao động và của cải của nhân dân, một sự bất mãn lớn trong hầu hết những người bị bắt buộc phải đi khu kinh tế mới.
Chính sách đối với miền Nam cũng là một vấn đề rất lớn về mặt đối nội. Chúng ta còn nhớ trong những năm 1964-1968, khi được tin bọn Lê Duẩn đang có âm mưu muốn thỏa hiệp với Mỹ, cán bộ miền Nam tuyên bố "thà chết chứ không chịu tập kết ra Bắc một lần nữa”. Lời tuyên bố đó đại biểu cho ý chí kiên cường bất khuất trong cuộc đấu tranh chống Mỹ-ngụy để giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước. Nhưng khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng thì bọn Lê Duẩn đã vơ lấy toàn bộ thành quả của cuộc chiến đấu làm công lao của mình. Thậm chí còn ép buộc miền Nam phải rập khuôn theo kiểu làm ăn không thích hợp đã thi hành ở miền Bắc, và để cho cán bộ miền Bắc nắm mọi chức quyền trọng yếu trong các ngành, gạt bỏ một phần lớn cán bộ và nhân sĩ yêu nước miền Nam trước đã tham gia kháng chiến, kể cả những người có chân trong Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Đó là những việc làm sai trái đã gây nên sự phản ứng mãnh liệt trong cán bộ và nhân dân miền Nam.
c) Về mặt đối ngoại. Việc động viên toàn bộ lực lượng bóp méo lịch sử, xuyên tạc sự thật, ghi vào Hiến pháp và ra Nghị quyết Trung ương gây thành một phong trào chống Trung Quốc rộng khắp trong toàn Đảng, toàn quốc, chẳng những là một việc vong ân bội nghĩa mà còn là một việc ngu xuẩn đưa nhân dân Việt Nam vào một cuộc chống đối liên miên đời này qua đời khác không biết bao giờ mới có thể chấm dứt. Gần đây bọn Lê Duẩn thường rêu rao là muốn hòa giải với Trung Quốc, nhưng thử hỏi, nếu không tuyên bố xóa bỏ những điều đã ghi trong Hiến pháp và Nghị quyết Trung ương chống Trung Quốc, không rút quân khỏi Cam-pu-chia thì làm sao Trung Quốc có thể hòa giải với Việt Nam.
Việc đưa hàng chục vạn quân đội qua đốt phá, bắn giết nhân dân Cam-pu-chia hòng vĩnh viễn thôn tính nước này cũng là một việc vong ơn bội nghĩa, một việc phản cách mạng. Nhân dân Cam-pu-chia sẽ không bao giờ khuất phục. Đó cũng là một mối tai họa lâu dài cho Việt Nam.
Việc dựa vào Liên Xô để thực hiện chính sách hiếu chiến hòng làm bá chủ Đông Dương và khu vực Đông Nam Á, dẫn đến việc phải phụ thuộc vào Liên Xô về mọi mặt kinh tế, chính trị, quân sự và ngoại giao, phải bán rẻ quyền lợi của Tổ quốc, phải biến Việt Nam thành căn cứ quân sự của Liên Xô. Đó là một hành động phản quốc, phản dân tộc.
Việc khoe khoang Việt Nam là một nước mạnh thứ ba trên thế giới về mặt quân sự, hung hăng xâm phạm lãnh thổ Thái-lan là một việc mà những người có đầu óc chính trị đúng đắn không bao giờ có thể làm.
Những việc làm ngu xuẩn như trên đã đặt Việt Nam vào địa vị thù địch với tất cả các nước láng giềng, vào địa vị phải gầm ghè với tất cả các nước trong khu vực, Việt Nam đã mất hết lòng tin cậy và sự khâm phục của nhân dân thế giới, đã mất hết sự ủng hộ về tinh thần và vật chất của hầu hết các nước, đã bị cô lập rõ rệt trên trường quốc tế. *
Sự phản bội của Lê Duẩn đối với cách mạng Việt Nam đã mang lại những hậu quả rất to lớn, rộng khắp và sâu xa. Nếu Lê Duẩn còn có lương tâm muốn quay đầu lại với nhân dân Việt Nam, thì sự hàn gắn lại những vết thương về tâm lý về xã hội của nhân dân, và sự bù đắp lại sự mất mát của Tổ quốc cũng phải hàng mấy chục năm mới xong. Nhưng cho đến nay, chúng ta chưa thấy một chút triệu chứng nào của Lê Duẩn muốn quay đầu lại với nhân dân. Vậy con đường mà nhân dân Việt Nam ngày nay phải lựa chọn, chỉ là đoàn kết đấu tranh, đánh đổ ách thống trị tàn bạo và thối nát của bọn Lê Duẩn. Đó là con đường duy nhất, không có con đường nào khác để lựa chọn.

V. Quyết tâm rời Tổ quốc để tiếp tục làm cách mạng

Làm cách mạng gần suốt một đời, mà đến lúc cách mạng thành công lại phải mang cái thân già rời khỏi Tổ quốc, đó quả là một việc hiếm có. Nhưng đối với tôi, lại là một việc không thể nào khác, vì Lê Duẩn phản bội cách mạng, đã kéo bè kéo cánh tổ chức thành một nền thống trị độc tài phát-xít, dựa trên cơ sở mạng lưới công an mật vụ dầy đặc cả trong Đảng cũng như ở ngoài xã hội, khiến cho những người quan tâm đến lợi ích của Tổ quốc không nói lên được ý kiến của mình, những người cách mạng không thể phát huy được tác dụng tích cực trong việc thúc đẩy cách mạng tiến tới.
Là một người có trách nhiệm với cách mạng, tôi không thể nhìn cái cảnh cách mạng bị phản bội, nhân dân bị đau thương, Tổ quốc bị nguy ngập, sự đoàn kết trong phe xã hội chủ nghĩa, trong phong trào Cộng sản quốc tế đang bị bọn Lê Duẩn phá hoại nghiêm trọng. Tôi phải tỏ thái độ đồng tình với nỗi đau khổ của nhân dân, ủng hộ những ý kiến của cán bộ phê bình Lê Duẩn, phải nói rõ cái nguồn gốc của tệ nạn xã hội cho mọi người biết, phải tìm cách giải nguy cho một số người vô tội bị vu khống trong một số vụ án, tuy không giải quyết được tận gốc là trừng phạt những người lợi dụng chức quyền hãm hại nhân dân vì những người này được bọn Lê Duẩn bao che.
Vì vậy, mà bọn Lê Duẩn đã xem tôi như một cái gai trước mắt. Trước hết là chúng cách bao vây, cô lập tôi, chúng cho bọn tay chân và bọn mật vụ trắng trợn phao tin trong cán bộ rằng tôi là người đang bị công an theo dõi, làm cho cán bộ nghi ngờ và không dám gần gũi tôi. Mặt khác, chúng tìm cách hạ thấp uy tín của tôi, như trong lễ kỷ niệm 40 năm ngày thành lập Đảng, chúng không để tôi ở trong Đoàn Chủ tịch của lễ kỷ niệm; trong một số dịp, tôi với danh nghĩa là Phó Chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội chủ trì việc tiếp kiến đại sứ nước ngoài, chúng không cho báo chí đưa tin; trong một số trường hợp long trọng tôi có mặt trên Đài Chủ tịch, hoặc trong buổi tiếp kiến khách quốc tế, chúng bảo người chụp ảnh chụp trong lúc tôi bị che lấp. Người chụp ảnh ấy là ai, tôi không muốn nói tên, nhưng là một người được Ban Tuyên huấn của Lê Duẩn cho tiền phụ cấp riêng và giao nhiệm vụ cho làm như vậy.
Ngoài ra chúng còn đặt mật vụ trước nhà ở của tôi và nhà ở của vợ con tôi để thăm dò những ai ra vào. Ngay cả những người bảo vệ, những người công tác y tế cũng được giao nhiệm vụ theo dõi tôi. Chúng cũng đặt cả máy nghe trộm ở chỗ làm việc, trong phòng tiếp khách và trong phòng dưỡng bệnh của tôi ở bệnh viện. Những tình hình này tôi đều biết rất rõ, đồng thời cũng có người có cảm tình đã bí mật nói cho tôi biết để đề phòng. Đối với những việc bố trí của chúng như vậy, tôi không sợ, vì tôi chỉ làm cách mạng, nói cách mạng, dù chúng có dò xét được hoặc nghe trộm được thì cũng chỉ biết tôi là người cách mạng. Tuy vậy, trong phạm vi có thể, tôi vẫn hết sức tranh thủ làm một số việc có ích cho cách mạng, cho nhân dân.
Nhưng đến lúc Lê Duẩn ép Trung ương ra nghị quyết chống Trung Quốc và trắng trợn xâm chiếm Cam-pu-chia, thì tôi thấy rõ là nếu còn ở trong nước cũng không thể làm được gì có ích cho nhân dân, cho cách mạng. Vì vậy, trong dịp đi Đông Đức chữa bệnh, tôi đã tìm cách thoát ly khỏi sự kìm kẹp và hãm hại của bọn Lê Duẩn, đến Trung Quốc để tiếp tục làm cách mạng.
*
Trước khi đi Đông Đức, tôi đã nằm bệnh viện 108 Hà Nội hơn hai tháng. Suốt thời gian đó, nhiệt độ của tôi ngày nào cũng trên 37 độ. Tôi nghi ngờ là mình có bệnh ung thư, nhưng thầy thuốc hội chẩn chỉ nói là tôi có vết đen ở phổi, nghi là lao phổi, đề nghị Trung ương để tôi đi Đông Đức để kiểm tra chắc chắn và điều trị được tốt hơn trong nước. Thế là trên đường đi Đông Đức chữa bệnh, tôi quyết định tìm cách chuyển hướng đi Trung Quốc.
Sau khi đến Trung Quốc được mấy hôm, tôi được đưa vào bệnh viện kiểm tra, thì quả là bị ung thư. Cái mà bệnh viện Hà Nội nói nghi là lao phổi, chính là khối ung thư lớn như quả bàng dài 6 xăng-ti-mét, rộng 5 xăng-ti-mét, sau thời gian hơn một tháng chữa bằng phóng xạ kết hợp với thuốc Trung y có thành phần mật gấu, xạ hương và tê giác là những thứ thuốc rất hiếm và quý, thì khối ung thư bị rút nhỏ lại còn dài 5 xăng-ti-mét, rộng 4 xăng-ti-mét. Hết giai đoạn chữa bằng phóng xạ, tôi được ra khỏi bệnh viện, chữa ngoại trú, để thầy thuốc tổng kết và nghiên cứu phương án chữa tiếp theo.
Khi đã biết rõ bị ung thư phổi nghiêm trọng như thế, thì tôi quyết tâm là phải làm phẫu thuật, nhưng thầy thuốc còn tìm hiểu về mặt sức khỏe của tôi xem có thể chịu đựng nổi một lần phẫu lớn như vậy không? Để có quyết đoán chắc chắn, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã mời một đoàn chuyên gia Nhật Bản, gồm Viện trưởng Viện ung thư Nhật Bản, một bác sĩ chuyên khoa về phẫu thuật phổi, đến Bắc Kinh để cùng với các thầy thuốc Trung Quốc nghiên cứu phương án điều trị. Sau khi nghiên cứu, các bác sĩ Trung Quốc và bác sĩ Nhật Bản đều nhất trí phải mổ cắt lá phối có khối ung thư. Tôi rất phấn khởi về cuộc hội chẩn và hết sức tin tưởng là một cuộc phẫu thuật thành công. Đoàn y tế Nhật Bản về nước, cuộc phẫu thuật do đồng chí Viện trưởng Viện ung thư Trung Quốc chủ trì, một số chuyên gia về các bộ môn có liên quan cũng có mặt để phối hợp trong khi tiến hành phẫu thuật.
Ngày 5 tháng 9 năm 1979, tôi nằm thiếp đi trên giường mổ bệnh viện suốt bốn giờ đồng hồ. Khi tỉnh dậy, các bác sĩ cho biết là kết quả phẫu thuật rất tốt. Tôi ở bệnh viện điều trị độ hai tuần thì vết thương đã lành, chỉ khâu các vết mổ ở trước ngực và sau lưng đã cắt rút sạch sẽ. Tôi không phải ở bệnh viện nữa, được xếp về chỗ ở riêng để tiếp tục điều trị, luôn luôn bên cạnh có hai bác sĩ và bốn y tá luân lưu nhau trực nhật và săn sóc hết sức chu đáo. Sau một thời gian mấy tháng, bệnh viện kiểm tra lại toàn bộ, kết luận là bệnh ung thư của tôi đã khỏi hẳn. Mừng quá, tôi làm một bài thơ bằng chữ Hán tặng các bạn y tế Trung Quốc như sau:

Bệnh nhập cao hoang nhất tải da,
Thần Châu hữu hạnh ngộ Hoa Đà.
Như kim bệnh dĩ liên căn trị,
Nguyện bả tàn niên phổ chiến ca.

Tạm dịch
Hơn một năm trời bệnh diết da
Thần Châu may được gặp Hoa Đà.
Bây giờ bệnh đã trừ tận gốc,
Ngày cuối đời dành viết chiến ca.


Cần nói rõ một điều là khi tôi đến Trung Quốc tuy cốt để tiếp tục làm cách mạng, nhưng tôi vẫn muốn đấu tranh qua con đường tổ chức, nghĩa là tôi sẽ viết thư nói rõ những sai lầm hiện hành về các mặt của Lê Duẩn, đồng thời đề ra những phương pháp sửa chữa, rồi nhờ Sứ quán Việt Nam tại Trung Quốc chuyển về. Nhưng tiếc thay ý nghĩ của tôi đã không thể thực hiện. Vì tôi mới đến Trung Quốc được mấy hôm, thì Đài Hà Nội đã loan tin tôi là "phản quốc”, cách chức Đại biểu Quốc hội và Phó Chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội, cách chức thành viên Đoàn Chủ tịch của Mặt trận Tổ quốc, đồng thời quyết định Tòa án sẽ xử vắng mặt tôi về cái tội gọi là "phản quốc”.
Vì vậy, tôi không có cách nào khác là phải họp báo chí ở Bắc Kinh, tuyên bố Thư gửi toàn thể đồng bào Việt Nam của tôi để báo cáo với đồng bào lý do vì sao tôi phải rời khỏi Tổ quốc [2] .
Sau đó chỉ độ 20 ngày, bọn Lê Duẩn lại ra quyết định khai trừ tôi ra khỏi Đảng. Tôi lại ra một bản thanh minh, nói rõ việc Lê Duẩn có dã tâm choán quyền Đảng và phản bội quyền lợi của nhân dân như thế nào. [3]
Tiếp theo đó độ khoảng mười tháng, ngày 26 tháng 6 năm 1980, bọn Lê Duẩn lại tổ chức tòa án xử vắng mặt, tuyên bố tôi bị tội tử hình và tịch thu toàn bộ tài sản! Tử hình gì? Tôi vẫn còn sống để hoạt động chống lại chúng. Đến như tài sản của tôi thì chỉ có một số quần áo rét mà mùa hè tôi không cần mang theo, một số sách báo cách mạng, một số tặng phẩm và những tập ảnh mà các nước hữu hảo tặng tôi trong các dịp tôi dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng và Nhà nước hoặc Đoàn đại biểu Quốc hội đến thăm các nước đó.
Về việc này, phóng viên tờ Nhân dân nhật báo Bắc Kinh đã phỏng vấn tôi, và tôi đã trả lời phóng viên đó. Nguyên văn đăng ở tờ Nhân dân nhật báo Bắc Kinh ngày 10-7-1980. [4]
Tôi đến Trung Quốc không phải chỉ để tránh sự hãm hại của Lê Duẩn mà cốt để tiếp tục làm cách mạng bằng cách vạch rõ sự phản bội của Lê Duẩn để nhân dân thấy sự cần thiết phải đoàn kết đấu tranh để lật đổ ách thống trị tàn bạo và thối nát của nó, khiến cho nước Việt Nam trở thành một nước: Hòa bình và hữu nghị với các nước láng giềng; dân chủ và đoàn kết dân tộc; nhân dân no ấm và xã hội lành mạnh; độc lập tự chủ và trung lập không liên kết – thực chất vẫn là chủ trương của Hồ Chủ tịch cụ thể hóa thành bốn điều và hai mươi và hai mươi biện pháp – như đã nói trong bức thư của tôi gửi toàn thể đồng báo đầu xuân năm Quý Hợi.
Để thực hiện mục đích trên, từ khi rời Việt Nam cho đến nay, tôi đã cùng một số người yêu nước Việt Nam ra tờ tạp chí Tin Việt Nam và viết một số tài liệu phát hành rộng rãi ở trong nước cũng như ở ngoài nước. Những tài liệu tôi tự viết lấy và đã công bố là:


  • Thư gửi toàn thể đồng bào Việt Nam [5] .
  • Thanh minh về việc Lê Duẩn khai trừ tôi ra khỏi Đảng [6] .
  • Sự thực về tình hữu nghị chiến đấu Việt- Trung không thể xuyên tạc [7] .
  • Cách mạng Việt Nam phải làm lại [8] .
  • Đấu tranh nhằm khôi phục và phát triển tình hữu nghị Việt – Trung [9] .
  • Bình luận về hiến pháp mới của Việt Nam [10] .
  • Tuyên bố về việc Lê Duẩn đánh tráo di chúc của Hồ Chủ tịch [11] .
  • Khôi phục và phát triển tình hữu nghị Việt – Trung là nhiệm vụ lịch sử của nhân dân Việt Nam hiện nay [12] .
  • Tuyển tập Hồ Chí Minh với tên phản bội Lê Duẩn [13] .
  • Thư gửi toàn thể đồng bào Việt Nam nhân dịp đầu xuân Quý Hợi [14] .
  • Bức thư ngỏ gửi các bạn Lào [15] .
  • Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 với vấn đề thống nhất đất nước [16] .

Tất cả những hoạt động của tôi từ khi rời Tổ quốc đến nay đều nhằm mục đích xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh như Hồ Chủ tịch đã vạch ra. Tôi rất mong muốn Lê Duẩn là người đã phản bội chủ trương đó sẽ mạnh dạn sửa chữa những sai lầm của mình để giải thoát mọi tai ách cho Tổ quốc, cho dân tộc. Nếu Lê Duẩn cứ đâm lao theo lao, thì nhân dân kiên quyết đấu tranh, không chóng thì chày, những sai lầm của Lê Duẩn sẽ bị thanh toán, chủ trương đường lối của Hồ Chủ tịch sẽ được khôi phục, mối tình thắm thiết Việt–Hoa sẽ được lập lại và phát triển không ngừng.
Đứng về phạm vi quốc tế mà nói thì tôi mong muốn những chủ trương không thực tế của những người lãnh đạo Liên Xô sẽ được uốn nắn lại phù hợp với lợi ích của nhân dân Liên Xô và yêu cầu của cách mạng thế giới. Tôi mong muốn sự rạn nứt giữa các nước xã hội chủ nghĩa và trong phong trào Cộng sản quốc tế sẽ được khắc phục trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lê-nin và tinh thần hai bản tuyên bố chung của hai cuộc hội nghị họp ở Mạc Tư Khoa năm 1957 [17] và năm 1960 [18] như đã trích dẫn ở đoạn đầu mục I trong phần này.
Về tương lai của thế giới, tôi tin tưởng chắc chắn rằng chế độ xã hội chủ nghĩa đầy sức sống nhất định sẽ thay thế chế độ tư bản chủ nghĩa đã già cỗi. Sự thay thế đó là xu thế tất nhiên của lịch sử, cũng như trước kia chế độ phong kiến đã thay đổi chế độ nô lệ, chế độ tư bản đã thay thế chế độ phong kiến.
Đến như việc các nước xã hội chủ nghĩa, trong sự quan hệ với nhau có lúc không nhịp nhàng, chủ trương này hoặc chủ trương khác trong việc xây dựng có lúc không sát thực tế, đó cũng là điều rất dễ hiểu, vì bất cứ một chế độ nào mới ra đời cũng phải trải qua một thời kỳ non trẻ, đã là non trẻ thì bước đi còn chập chững, có lúc vấp ngã. Nhưng vẫp ngã ở chỗ nào thì đứng dậy ở chỗ đó, rồi lại tiếp tục tiến lên.
Những ai thấy cách mạng đang trong lúc thoái trào mà bi quan thất vọng thì hãy tỉnh táo chờ đón cao trào cách mạng sẽ đến. Những ai thù địch với cách mạng, hý hửng trước sự vấp váp của cách mạng, huênh hoang sẽ tiêu diệt chế độ xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa cộng sản, đều là những kẻ mù quáng mơ ước hão huyền. Chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản nhất định sẽ thực hiện trên phạm vi toàn thế giới. Đó là niềm tin sắt đá của tôi.

VI. Những văn kiện kèm theo
Kèm theo đây có ba văn kiện:
  • Thư gửi toàn thể đồng bào Việt Nam.
  • Thanh minh về việc Lê Duẩn khai trừ tôi ra khỏi Đảng.
  • Trả lời phóng viên Nhân dân nhật báo Bắc Kinh về việc Lê Duẩn tổ chức tòa án xử vắng mặt và tuyên bố tôi bị tội tử hình.
1. Thư gửi toàn thể đồng bào Việt Nam (ngày 9-8-1979)
Thưa toàn thể đồng bào thân mến,
Trong những ngày gần đây, bọn Lê Duẩn cho người làm rùm beng về việc tôi ra nước ngoài, làm cho dư luận sôi nổi khắp cả thế giới. Khi biết việc này, chắc chắn đồng bào ai cũng rất quan tâm, vậy tôi xin có mấy lời báo cáo với đồng bào như sau:
Sau hơn ba mươi năm chiến đấu gian khổ, năm 1975 nhân dân ta đã giành được thắng lợi triệt để trong cuộc chiến tranh giải phóng đất nước. Nhân dân ta đã khao khát được sống yên ổn, xây dựng Tổ quốc, để mở ra con đường tiến tới tương lai tốt đẹp. Nhưng, mọi thành quả cách mạng và tình hình đầy triển vọng đó đã bị bọn Lê Duẩn phá hoại hoàn toàn, nguyện vọng của nhân dân ta đã bị tan đi như mây khói. Chúng lại đưa nhân dân ta trở lại kiếp nô lệ, chịu đựng một cuộc đời thiếu thốn cực khổ chưa từng có, một cuộc đời mất hết tự do, dân chủ, nhục nhã, ngột ngạt chưa từng có. Chúng tự phong cho mình là xã hội chủ nghĩa, nhưng sự thực thì chẳng có một chút gì là xã hội chủ nghĩa cả.
Chúng đổi trắng thay đen, coi bạn là thù, gây chuyện ở biên giới tây nam để đánh chiếm Cam-pu-chia; gay chuyện ở biên giới phía bắc để động viên hàng chục triệu người chuẩn bị chiến tranh chống Trung Quốc; đưa hàng vạn bộ đội qua đàn áp nhân dân Lào và khống chế nước Lào. Chúng ta đều biết: Cam-pu-chia, Trung Quốc và Lào là những nước láng giếng đã từng kề vai sát cánh, và góp phần xương máu với nhân dân ta trong các cuộc đấu tranh chống Pháp và chống Mỹ cứu nước.
Nước Việt Nam ngày nay dưới sự khống chế của bọn Lê Duẩn, thực tế đã không còn là một nước độc lập tự chủ nữa, mà là một nước phụ thuộc vào nước ngoài cả về mặt kinh tế, chính trị, quân sự và ngoại giao. Tình hình này nếu cứ tiếp tục phát triển nữa, thì một ngày kia không xa lắm, nước Việt Nam sẽ biến thành một chỗ cung cấp nguyên liệu và chế biến hàng hóa, đồng thời là một căn cứ quân sự của nước ngoài mà thôi!
Đứng trước tình thế đó, là một người cách mạng, tôi không thể ngậm miệng ngồi im. Tôi phải làm cách mạng, phải tìm mọi cách thoát khỏi sự kìm kẹp của chúng để tiếp tục cách mạng.
Từ những năm 20, tôi đã theo Bác Hồ chiến đấu cho nền độc lập dân tộc. Tôi mến yêu Tổ quốc và nhân dân. Nhưng do bọn Lê Duẩn chuyên quyền độc đoán, đàn áp những người cách mạng, khiến tôi không cách nào ở trong nước mà có thể làm việc cho nhân dân được nữa. Tôi đành phải rời khỏi Tổ quốc với tấm lòng hết sức phẫn uất và vô cùng lưu luyến. Mặc dù tôi đã tuổi già sức yếu, nhưng còn chút hơi thở cuối cùng, tôi vẫn phải cố gắng đóng góp phần của mình cho sự nghiệp cách mạng chung của nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới.
Tôi biết rằng, sau khi tôi ra đi, bọn Lê Duẩn sẽ buộc cho tôi tội này tội nọ, thậm chí là tội phản quốc với án tử hình. Nhưng, là một người cách mạng, tôi không sợ gì hết, miễn là việc làm của tôi có lợi cho Tổ quốc và nhân dân.
Tôi còn nhiều lời muốn nói với đồng bào, nhưng vì điều kiện sức khỏe, hôm nay xin tạm ngừng ở đây.
Nhân dịp này, tôi xin gửi tới đồng bào trong nước cũng như đồng bào ở ngoài nước lời thăm hỏi ân cần và lời chào thân ái nhất!
Hoàng Văn Hoan
Ngày 9 tháng 8 năm 1979


2. Thanh minh về việc Lê Duẩn khai trừ tôi ra khỏi Đảng (ngày 1-9-1979)
Gần đây, Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam do Lê Duẩn khống chế, đã quyết định khai trừ tôi ra khỏi Đảng. Nhân việc này, tôi có mấy lời thanh minh như sau:
Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chủ tịch sáng lập và rèn luyện, là một Đảng vĩ đại. Mấy chục năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đấu tranh bền bỉ và anh dũng đã hoàn toàn giải phóng đất nước khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, khiến cho Việt Nam trở thành một nước độc lập dân chủ, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng chung của nhân dân toàn thế giới. Đó là một điều mà những người Cộng sản Việt Nam có thể tự hào.
Nhưng từ năm 1965, sức khỏe của Hồ Chủ tịch càng ngày càng kém, Lê Duẩn đã âm mưu từng bước, từng bước choán quyền lãnh đạo của Đảng; đặc biệt là sau khi Hồ Chủ tịch mất, thì Lê Duẩn và đồng bọn đã hoàn toàn khống chế Đảng. Chúng tìm đủ mọi cách đưa người thân thuộc và người cùng bè cánh vào nắm các chức vụ trọng yếu, đồng thời quy định Đảng ủy các cấp đều phải có đại biểu của ngành công an là ủy viên, để có thể giám sát Đảng, có thể dò la bịa đặt chứng cớ, hãm hại những người không cùng bè cánh với chúng. Nguyên tắc dân chủ trong Đảng bị xóa bỏ hoàn toàn, đảng viên đối với việc Đảng, việc nước không dám nói sự thật; thậm chí cả Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị cũng hầu như không còn tác dụng là những cơ quan lãnh đạo tập thể nữa. Tình trạng chuyên quyền độc đoán, tình trạng xu nịnh, luồn cúi, và tình trạng tham ô hủ hóa, ức hiếp bóc lột nhân dân, tràn lan khắp nơi, kể từ cấp Trung ương cho đến các ngành, các cấp tỉnh, huyện, xã, đâu đâu cũng có.
Năm 1976, tại Đại hội lần thứ IV của Đảng, trong bản báo cáo chính trị, Lê Duẩn đã lấy sự hy sinh không bờ bến của nhân dân và thắng lợi vẻ vang của dân tộc ta để khoe khoang mình là người mác-xít tài tình nhất, và để nhồi nhét cái tư tưởng nước lớn trong cán bộ và nhân dân.
  • Về đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới, y chỉ đưa ra một số công thức rỗng tuếch như chuyên chính vô sản, làm chủ tập thể, sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa v.v… Nhưng lại giấu kín không cho đảng viên biết cách mạng xã hội chủ nghĩa khác với cách mạng giải phóng dân tộc ở chỗ nào? Cách mạng xã hội chủ nghĩa phải dựa vào ai là lực lượng chính, và phải tiến hành như thế nào? v.v…
  • Về tình hình thế giới, cũng chỉ đưa ra một số từ ngữ rỗng tuếch, như ba dòng thác cách mạng v.v… Nhưng lại giấu kín không cho đảng viên biết sự phân hóa trong phong trào Cộng sản quốc tế và trong phe xã hội chủ nghĩa, sự đấu tranh trong phong trào độc lập dân tộc, và sự thay đổi về chủ trương đường lối trong phong trào công nhân ở các nước tư bản chủ nghĩa.
  • Về kế hoạch 5 năm, y đã nêu lên một lô những điều kiện thuận lợi, mà giấu kín sự sai lầm về đường lối trong việc lãnh đạo kinh tế; đồng thời đưa ra những chỉ tiêu khoác lác, hoàn toàn không có cơ sở thực tế, để tự thổi phồng mình lên, và để lừa dối nhân dân.
Cũng tại Đại hội này, bọn Lê Duẩn đã gạt một phần ba số ủy viên Trung ương cũ ra khỏi Ban Chấp hành Trung ương mới, đưa xen vào một số người ăn cách với chung, thậm chí một số có vấn đề chính trị, mà trong Đại hội III, Hồ Chủ tịch đã không đồng ý đưa vào.
Sau đại hội V, Lê Duẩn đã thành thái thượng hoàng trong Đảng, cùng với động bọn ngồi trên đầu Đảng, trên đầu nhân dân, làm những việc hoàn toàn trái ngược với nguyện vọng của nhân dân, trái ngược với nguyên tắc của Đảng ta mác-xít-lê-nin-nít chân chính, trong đó có những việc xấu xa không thể tưởng tượng nổi. Tuy vậy, tôi vẫn kiên trì lập trường của một người cộng sản, cố gắng vừa đấu tranh, vừa làm một số việc có ích cho cách mạng và cho nhân dân.
Nhưng đến năm 1978 thì một loạt sự việc có nguy hại đến vận mệnh của dân tộc liên tiếp xảy ra. Vào khoảng tháng 7, Hội nghị toàn thể Trung ương lần thứ tư đã thông qua nghị quyết vu khống Trung Quốc muốn "thôn tính” Việt Nam; nhận định Trung Quốc là kẻ thù trực tiếp của Việt Nam; chủ trương đánh đổ "phái phản động theo Mao ở Bắc Kinh” để giúp đỡ cho lực lượng "tiến bộ[19] lên nắm quyền; giao trách nhiệm cho ngành tuyên huấn phải triệt để phê phán "tư tưởng Mao” trên tất cả mọi lĩnh vực; cử người đi hoạt động để lôi kéo các nước Đông Nam Á chống Trung Quốc. Rõ ràng là ý đồ đen tối và ngông cuồng muốn lật đổ, muốn thay đổi cả bộ máy lãnh đạo ở Trung Quốc, như chúng đã thường rêu rao. Để thực hiện được cái ý đồ đen tối, ngông cuồng nhưng to lớn quá sức có thể làm được, chúng phải dựa vào sức mạnh của nước ngoài: Chúng đã ký điều ước đồng minh quân sự - thực chất là như vậy - với một nước lớn, để có thể làm những việc mạo hiểm, uy hiếp các nước láng giềng. Hiệp ước ký vừa ráo mực, thì chúng đưa quân đội đi đánh chiếm Cam-pu-chia.
Qua những sự việc nói trên, tôi khẳng định rằng Lê Duẩn là một người có dã tâm, đã đưa Đảng đi trệch khỏi đường lối cách mạng, đã phản bội lại quyền lợi của nhân dân, và đưa vận mệnh của dân tộc đến chỗ nguy hiểm. Do đó, tôi đã quyết liệt chống lại.
Việc Lê Duẩn khai trừ tôi ra khỏi Đảng là một việc tôi đã biết trước. Việc đó không phù hợp với ý chí của những người cộng sản chân chính, không mảy may lay chuyển được quyết tâm của tôi tiếp tục làm cách mạng. Trong bức Thư gửi toàn thể đồng bào Việt Nam ngày 9 tháng 8 tôi đã nói:
"Mặc dù tôi đã tuổi già sức yếu, nhưng còn chút hơi thở cuối cùng, tôi vẫn phải cố gắng đóng góp phần của mình cho sự nghiệp cách mạng chung của nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới”.
Hôm nay, lời thanh minh của tôi đưa ra vừa gặp dịp mười năm ngày Hồ Chủ tịch mất, và ba mươi tư năm ngày thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tôi không thể không tưởng nhớ đến công ơn xây dựng của Đảng và lãnh đạo cách mạng của Hồ Chủ tịch, không thể không tưởng nhớ đến khí thế cách mạng sôi sục của quần chúng sau Cách mạng Tháng Tám. So sánh ngày nay với ngày trước, tôi càng lo lắng đến tiền đồ của Tổ quốc; và tôi tin rằng tất cả những người cộng sản chân chính Việt Nam cũng đều một lòng như tôi.
Để cứu vãn tình hình nguy ngập của cách mạng và của đất nước, những người cộng sản chân chính Việt Nam hãy đoàn kết lại, cùng với nhân dân kiên quyết đấu tranh, nhằm phá tan ách thống trị phát xít của bọn Lê Duẩn.
Hoàng Văn Hoan
Ngày 1 tháng 9 năm 1979



3. Trả lời phóng viên Nhân dân nhật báo Bắc Kinh về việc Lê Duẩn tổ chức tòa án xử vắng mặt và tuyên bố tôi bị tội tử hình (Ngày 10-7-1980)
Hỏi: Gần đây có tin ngày 26 tháng 6, bọn Lê Duẩn đem việc đồng chí sang Trung Quốc ra tòa xử tội. Đồng chí nhận xét như thế nào?
Trả lời: Việc bọn Lê Duẩn làm án tôi, là chuyện tôi đã dự đoán trước. Tháng 8 năm ngoái, trong bức Thư gửi toàn thể đồng bào Việt Nam, tôi có nói: "Tôi biết rằng, sau khi tôi ra đi, bọn Lê Duẩn sẽ buộc cho tôi tội này tội nọ, thậm chí là tội phản quốc với án tử hình. Nhưng là một người cách mạng, tôi không sợ gì hết, miễn là việc làm của tôi có lợi cho Tổ quốc và nhân dân”.
Tòa án của bọn Lê Duẩn buộc tội tôi sang Trung Quốc là đứng vào hàng ngũ của địch. Đó là một sự xuyên tạc bỉ ổi. Trung Quốc là người bạn rất tốt của nhân dân Việt Nam. Trong ba mươi năm ròng rã, trong cuộc đấu tranh chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, nhân dân Việt Nam đã được Trung Quốc viện trợ cho mấy chục tỷ đô–la. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, Trung Quốc đã cử hàng mấy chục vạn người sang giúp Việt Nam xây dựng hậu phương, và có hàng nghìn người đã hy sinh dưới bom đạn của Mỹ. Do đó, chỉ có những người vong ân bội nghĩa mới gọi Trung Quốc là kẻ thù.
Sự thực là từ ngày Hồ Chủ tịch từ trần, bọn Lê Duẩn đã choán quyền lãnh đạo của Đảng và Nhà nước và thi hành một loạt chính sách đối nội và đối ngoại rất phản động; đặc biệt là việc năm 1978, chúng ép Trung ương Đảng ra nghị quyết chống Trung Quốc, đã bộc lộ triệt để bộ mặt của chúng bán rẻ Tổ quốc và làm tay sai cho nước ngoài, mang lại tai họa rất lớn cho nước nhà. Chúng ngang nhiên đàn áp những người có ý kiến bất đồng, chính là nhằm thực hiện chính sách phản động nói trên.
Là một người cách mạng hoàn toàn đối lập với chúng, ở lại trong nước đã không thể phát huy tác dụng tích cực được nữa, tôi đành phải rời khỏi Việt Nam để tiếp tục làm cách mạng. Theo tôi biết, những ý kiến tôi phát biểu trong thời gian gần một năm nay đã có ảnh hưởng khá sâu rộng trong nhân dân và quân đội Việt Nam. Chính vì đó mà bọn Lê Duẩn rất hoảng sợ, và phải ép buộc tòa án nặn ra vụ án này. Việc làm của chúng đối với tôi không có nghĩa lý gì cả. Mục đích đen tối của chúng là nhằm tự gây cho mình một thanh thế để dọa dẫm và đàn áp những người chống đối lại chúng, mà những người đó đâu đâu cũng có, ở trong cũng như ở ngoài nước. Ngày nay, bọn Lê Duẩn đang giãy giụa trên núi lửa chờ ngày nhân dân tuyên án chúng.
Đứng về cá nhân tôi mà nói, tôi hết sức khinh miệt chúng, phỉ nhổ chúng. Tất cả những điều chúng bịa đặt và vu khống tôi đều không có giá trị gì hết. Tôi vẫn quyết tâm tiếp tục làm cách mạng để góp phần của mình trong việc xây dựng một nước Việt Nam thực sự hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh như Hồ Chủ tịch mong muốn. Tôi quyết tâm đem sức mình để đấu tranh nhằm khôi phục mối tình hữu nghị Việt – Trung "vừa là đồng chí, vừa là anh em” do Hồ Chủ tịch xây đắp nên mà bọn Lê Duẩn đang rắp tâm phá hoại.
Đây là những ý kiến của tôi đối với vụ án ngày 26 tháng 6 do bọn Lê Duẩn nặn ra.

Hoàng Văn Hoan
Ngày 10 tháng 7 năm 1980


Phần phụ lục

Lý lịch tóm tắt và một số hoạt động cụ thể

I. Lý lịch tóm tắt

1905 Xuất thân từ một gia đình nhà nho nghèo ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.
1923 Tốt nghiệp lớp sơ học Pháp- Việt ở huyện nhà.
1924 Bắt đầu giác ngộ cách mạng và tích cực hoạt động tìm cách mạng.
1926 Được tổ chức cách mạng đưa đi Quảng Châu dự lớp huấn luyện chính trị do Hồ Chủ tịch chủ trì. Xong lớp huấn luyện được tổ chức vào Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội, gọi tắt là Thanh Niên, và được phái về nước hoạt động.
1928 Bị Pháp lùng bắt, được Kỳ ủy Thanh Niên Trung kỳ giới thiệu qua Xiêm hoạt động cách mạng.
1929 Tỉnh ủy Thanh Niên ở Xiêm được thành lập, tôi là một thành viên trong Tỉnh ủy.
1930 Gia nhập Đảng Cộng sản Xiêm và là Tỉnh ủy viên Đảng Cộng sản Xiêm.
1934 Được cử làm Ủy viên Trung ương lâm thời của Đảng Cộng sản Xiêm (gọi tắt là Xiêm ủy).
1935 Qua Trung Quốc chữa bệnh. Sau vì mất liên lạc với Xiêm ủy, được Ban chỉ huy ở ngoài của Đảng Cộng sản Đông Dương đồng ý ở lại Trung Quốc hoạt động cách mạng.
1936 Cùng một số anh em Việt Nam ở Nam Kinh lập "Việt Nam độc lập đồng minh hội” (gọi tắt là Việt Minh) ở Nam Kinh.
1937 Nam Kinh bị Nhật uy hiếp. Rời Nam Kinh đi Vũ Hán.
1938 Khi Vũ Hán sắp mất thì rời Vũ Hán đi Trường Sa (Hồ Nam), Quý Dương (Quý Châu), rồi đi Côn Minh (Vân Nam) cùng các đồng chí Việt Nam ở đó hoạt động.
1939 Đồng chí Phùng Chí Kiên đến Côn Minh lập Ban hải ngoại để lãnh đạo mọi mặt công tác ở Trung Quốc, tôi là một ủy viên trong Ban.
1940 Hồ Chủ tịch từ Diên An về Côn Minh. Tháng 6-1940 phát-xít Đức chiếm Pa-ri, Hồ Chủ tịch chủ trương chuyển hướng công tác về phía Quảng Tây, để liên lạc với cách mạng trong nước. Bước đầu là đến Quế Lâm để giao thiệp với Lý Tề Thâm, Chủ nhiệm Hành dinh khu Tây Nam đóng ở đó. Theo sự chỉ dẫn của Hồ Chủ tịch, "Biện sự xứ hải ngoại của Việt Minh” và "Trung – Việt văn hóa công tác đồng chí hội” được thành lập. Qua một thời gian hoạt động, được sự giúp đỡ của Lý Tề Thâm, Hồ Chủ tịch và tất cả chúng tôi đều đi Tịnh Tây, một huyện của Trung Quốc, giáp giới với tỉnh Cao Bằng Việt Nam.
1941 Hồ Chủ tịch về Pác Bó. Tôi được phái đi Long Châu lập Biện sự xứ Việt Minh ở Long Châu, rồi lại về Tịnh Tây, cùng các anh Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Lê Thiết Hùng, Cao Hồng Lĩnh và một số người trong nước ra công khai hoạt động với danh nghĩa Việt Minh.
Tháng 5-1941 về Pác Bó tham gia Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tám. Hội nghị quyết định lấy Mặt trận Việt Minh thay Mặt trận Phản Đế. Tôi được chỉ định làm Ủy viên Tổng bộ Việt Minh.
Cuối năm 1941, do sự tố giác của tên phản Đảng là Trần Báo, hoạt động Việt Minh ở Trung Quốc gặp khó khăn. Phần lớn các đồng chí đều về nước, tôi được Trung ương chỉ định ở lại Tịnh Tây để duy trì cơ sở, nhưng không lâu bị bắt ở Bình Mãnh, lần lượt bị giải đi Trấn Biên, Tịnh Tây, rồi Liễu Châu để giám thị.
1942 Ở Liễu Châu lãnh đạo nhóm Việt Minh, liên hệ với những người tiến bộ trong nhóm Phục Quốc, đấu tranh với chủ trương của Quốc dân đảng Trung Quốc và bọn tay sai muốn lập Chính phủ bù nhìn Việt Nam để phục vụ cho việc "Hoa quân nhập Việt”.
Tháng 6-1942, với ý đồ "điệu hổ ly sơn”, Trương Phát Khuê ủy nhiệm tôi làm Dịch thuật quan của "Trung- Việt biên khu chính trị công tác đội” ở Tịnh Tây. Đến Tịnh Tây không lâu thì bỏ Tịnh Tây về nước hoạt động ở Cao Bằng, Lạng Sơn, góp phần xây dựng Khu giải phóng Việt Bắc.
1945 Dự Hội nghị toàn quốc của Đảng ở Tân Trào, được bầu làm Ủy viên Trung ương chính thức của Đảng và Bí thư Khu giải phóng Việt Bắc.
Cuối tháng 9-1945 được Trung ương điều về Hà Nội, giữ chức Phó Bộ trưởng Quốc phòng kiêm Chính trị viên Vệ quốc quân toàn quốc (lúc này Giải phóng quân đội tên là Vệ quốc quân).
1946 Hà Nội bị quân Pháp uy hiếp, Trung ương rời khỏi Hà Nội, tôi được cử làm Bí thư Khu ủy, Đại biểu Chính phủ Trung ương và Chủ nhiệm Việt Minh tại Liên khu 4.
1948 Được ủy nhiệm làm Đặc phái viên Chính phủ ở hải ngoại, và Đại biểu Trung ương Đảng chỉ đạo việc chỉnh đốn một số công tác ở hải ngoại.
1949 Được cử làm Trưởng đoàn đại biểu Công đoàn Việt Nam đi dự Hội nghị Công đoàn Á – Úc họp ở Bắc Kinh.
1950 Sau khi Trung Quốc tuyên bố thừa nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hồ Chủ tịch quyết định tôi ở lại Bắc Kinh với danh nghĩa Đại biểu Đảng và Chính phủ (sau chuyển thành Đại sứ) Việt Nam tại Trung Quốc. Đồng thời kiêm làm Đại sứ ở Triều Tiên và ở Mông Cổ, mãi cho đến năm 1957 Trung ương điều về Hà Nội công tác.
1951 Tại Đại hội lần thứ hai của Đảng lại được bầu làm Ủy viên Trung ương Đảng.
1956 Tại Hội nghị Trung ương Đảng bàn về vấn đề sửa sai cải cách ruộng đất, được bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng.
1958 Tại kỳ họp thứ tám Quốc hội khóa I được bầu làm Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Ủy ban thường vụ Quốc hội, đồng thời được bầu làm Chủ nhiệm Ủy ban dự thảo Pháp luật Quốc hội.
Tại kỳ họp Quốc hội này cũng bầu ra Ủy ban sửa đổi Hiến pháp do Hồ Chủ tịch làm Trưởng ban, tôi là một thành viên trong Ủy ban.
1960 Tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa II lại được bầu làm Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký UBTV Quốc hội và Chủ nhiệm Ủy ban dự thảo Pháp luật của Quốc hội.
Tháng 9-1960 tại Đại hội lần thứ ba của Đảng lại được bầu làm Ủy viên Trung ương và Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng.
1961 Tại Đại hội Đảng thành phố Hà Nội được bầu làm bí thư Thành ủy Hà Nội. Sau một thời gian thôi chức Bí thư Thành ủy Hà Nội để giữ chức Trưởng Ban liên lạc đối ngoại Trung ương Đảng, Trưởng Ban pháp chế Trung ương Đảng, đồng thời phụ trách chỉ đạo Ban CP 38 về công tác Lào, Miên.
1964 Tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa III lại được bầu làm Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký UBTV Quốc hội.
1971 Tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa IV lại được bầu làm Phó Chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ nhiệm Ủy ban dự thảo Pháp luật của Quốc hội.
1976 Tại Đại hội lần thứ tư của Đảng bị bọn Lê Duẩn gạt ra khỏi Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Nhưng tại kỳ họp thứ nhất Quốc Hội khóa V (Quốc hội chung cả nước) vẫn được bầu làm Phó Chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội.
1979 Sau khi Lê Duẩn trắng trợn phản bội cách mạng, thấy rõ dù ở trong nước cũng không thể phát huy được tác dụng của một người cách mạng, tôi đành phải rời Tổ quốc ra nước ngoài để tiếp tục hoạt động.
1986 Không ngừng đấu tranh chống chủ trương phản nước hại dân của Lê Duẩn.


II. Một số hoạt động cụ thể
A. Hoạt động với danh nghĩa Đảng và Chính phủ
954 Đại biểu Chính phủ Việt Nam dự Hội nghị Giơ-ne-vơ về vấn đề Đông Dương.

1955 Cùng Hồ Chủ tịch đi thăm chính thức các nước Trung Quốc, Mông Cổ, Liên Xô.

1957 Cùng Hồ Chủ tịch đi thăm chính thức các nước Triều Tiên, Tiệp Khắc, Ba Lan, Cộng hòa Dân chủ Đức, Hung-ga-ri, An-ba-ni, Bun-ga-ri, Ru-ma-ni, Nam Tư.

1961 Cố vấn đặc biệt Đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam dự Hội nghị Giơ-ne-vơ về vấn đề Lào.

1964 Dẫn đầu đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ đi dự lễ Quốc khánh Cu-ba.

1965 Đại biểu Đảng và Chính phủ dự lễ tang đồng chí Gioóc-giu-đây, Bí thư thứ nhất Đảng và Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Ru-ma-ni.

1972 Thành viên Đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ dự lễ kỷ niệm lần thứ năm mươi Cách mạng Tháng mười Nga.

1973 Đại biểu Đảng và Chính phủ dự lễ tang đồng chí Un-bơ-rích, nguyên Bí thư thứ nhất Đảng và Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Cộng hòa Dân chủ Đức.

B. Hoạt động với danh nghĩa Đảng
1958 Dẫn đầu đại biểu Đảng dự Đại hội lần thứ 5 Đảng Xã hội Thống nhất Đức.
Dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng dự Đại hội lần thứ 13 Đảng Nhân dân Cách mạng Mông Cổ.
Cùng Hồ Chủ tịch dự Đại hội lần thứ 21 Đảng Cộng sản Liên Xô.
1963 Dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng dự Đại hội lần thứ 12 Đảng Cộng sản Bun-ga-ri, Đại hội lần thứ 8 Đảng Công nhân Hung-ga-ri, Đại hội lần thứ 12 Đảng Cộng sản Tiệp Khắc, Đại hội lần thứ 6 Đảng Xã hội Thống nhất Đức.
1966 Dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng dự Đại hội lần thứ 5 Đảng Lao động An-ba-ni.
1975 Dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng dự Đại hội lần thứ 11 Đảng Công nhân Hung-ga-ri.
1976 Dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng dự Đại hội lần thứ 7 Đảng Lao động An-ba-ni


C. Hoạt động với danh nghĩa Quốc hội
1965 Dẫn đầu đoàn Đại biểu Quốc hội thăm các nước Triều Tiên, Mông Cổ, Liên Xô, Trung Quốc.
1970 Dẫn đầu đoàn Đại biểu Quốc hội thăm các nước Bun-ga-ri, Cộng hòa Dân chủ Đức, An-ba-ni, Hung-ga-ri.
1971 Dẫn đầu đoàn Đại biểu Quốc hội thăm các nước Ba Lan, Tiệp Khắc, Ru-ma-ni, Liên Xô.
1976 Dẫn đầu đoàn Đại biểu Quốc hội dự lễ khai mạc kỳ họp đầu tiên của Quốc hội Cu-ba.


D. Hoạt động sau khi rời Tổ quốc
1979 Đến Bắc Kinh được các đồng chí Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đón tiếp thân mật. Mấy hôm sau gửi thư báo cáo đồng bào lý do vì sao phải rời khỏi Tổ quốc.
1980 Nói chuyện với kiều bào về vấn đề Cách mạng Việt Nam phải làm lại.
1981 Nói chuyện với kiều bào về vấn đề khôi phục và phát triển mối tình hữu nghị Việt – Trung là nhiệm vụ lịch sử của nhân dân Việt Nam hiện nay.
Tháng 3-1981 cùng các người yêu nước Việt Nam ra tờ tạp chí Tin Việt Nam.
1982 Mở hai lớp học tập cho cán bộ Việt kiều tại Trung Quốc.
1983 Nhân dịp đầu xuân năm Quý Hợi kêu gọi đồng bào đoàn kết đấu tranh, đánh đổ ách thống trị tàn bạo và thối nát của Lê Duẩn.
1985 Nhân dịp kỷ niệm 40 năm Cách mạng Tháng Tám, mở tiệc chiêu đãi cán bộ trong các đoàn cố vấn, đoàn chuyên gia Trung Quốc trước đây tại Việt Nam. Trong buổi chiêu đãi còn có nhiều đại biểu Việt kiều và một số nạn dân Việt Nam tham gia.
1994 Hoàng Văn Hoan mất tại Bắc Kinh, chôn tại nghĩa trang Bát Bảo Sơn, nơi yên nghỉ của các chức sắc cao cấp CHND Trung Hoa.




[1]theo tin Cam-pu-chia thì hiện nay đã có hơn sáu chục vạn
[2]toàn văn kèm theo sau
[3]toàn văn kèm theo sau
[4]toàn văn kèm theo sau
[5]ngày 9-8-1979
[6]ngày 1-9-1979
[7]tháng 11-1979
[8]ngày 28-1-1980
[9]Tin Việt Nam số 1 tháng 3-1981
[10]một bài hoàn chỉnh, chia ra ba lần đăng ở Tin Việt Nam trong các số tháng 5, tháng 6, tháng 7 năm 1981
[11]Tin Việt Nam số 7 tháng 9 -1981
[12]Tin Việt Nam số đặc biệt ngày 19-5-1982
[13]Tin Việt Nam số 21 tháng 11- 1982
[14]Tin Việt Nam số 24 tháng 2-1983
[15]Tin Việt Nam số 34 tháng 12-1984
[16]Tin Việt Nam số 41 tháng 7-1984
[17]Hội nghị đảng các nước xã hội chủ nghĩa
[18]Hội nghị các đảng cộng sản và công nhân
[19]tức lực lượng chống "Mao”

Nguồn: vnthuquan.net






Nhóm mạng Việt Nam Văn Hiến
Trang: Giọt Nước Trong Biển Cả
www.vietnamvanhien.net
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.info
www.vietnamvanhien.com

Email: thuky@vietnamvanhien.net

"Bất chiến tự nhiên thành" chi kế
Văn Hiến ngàn năm sử đã đề
  Giải trừ quốc nạn bằng Tâm lực
"Nhân Chủ (tự chủ) - An Vi (an lạc)" khai lối về


Lấy Tâm Lực thay cho vũ lực để giải trừ quốc nạn là phục hoạt nếp sống Văn Hiến và phục hồi nền "An Lạc & Tự Chủ" ngàn đời cuả Việt tộc.