Việt
Nam
Văn
Hiến
Năm Thứ 4889 www.vietnamvanhien.org www.vietnamvanhien.net www.vietnamvanhien.info www.vietnamvanhien.com Giỗ Tổ Hùng Vương Tại Little Sài Gòn Trang nghiêm, đông đảo và ý nghĩa Hà Giang/Người Việt Khán
đài ở đại lễ
giỗ tổ Hùng Vương ở Vườn Hồng, Westminster.
(Hình: Hà Giang/Người Việt) WESTMINSTER (NV) - Vào khoảng 11 giờ trưa Thứ Bảy, không khí chung quanh khu Vườn Hồng trong thành phố Westminster nhộn nhịp và ấm áp hẳn lên với cờ xí rợp trời, và những tà áo phất phơ của hàng trăm đồng hương người Việt ở quanh Little Sài Gòn kéo về để tham dự lễ Giỗ Tổ Hùng Vương năm 4890 theo Việt lịch do Hội Ðền Hùng hải ngoại tổ chức. Nghi
thức giỗ tổ Hùng Vương cổ truyền là một phần quan
trọng của ngày
đại lễ. Trước làn trầm hương nghi ngút, mọi người cùng hướng mình về với quê hương. (Hình: Dân Huỳnh/Người Việt) Những tiếng dục liên hồi của đoàn múa lân làm nao nức lòng những người bước đi trong đoàn lễ kiệu gồm thành viên của gần hai mươi hội đoàn, nhịp nhàng tiến về cổng Tam Quan để đến nơi cử hành đại lễ. Kiệu mang Ðất và Nước Thiêng đi đến đâu thì được ban tổ chức thông báo đến đó. Ðoàn Kiệu đi qua, kéo theo nhưng những ánh mắt chăm chú không rời của những người Việt tha hương ngồi kín những chiếc ghế xếp gọn ghẽ dưới những chiếc lều trắng lớn. Người ta nhìn theo đoàn kiệu, theo dõi những nghi thức tế lễ cổ truyền, như thể có thể tìm được ở đó bóng dáng của quê nhà. Ðoàn võ sinh Vovinam tại
lễ giỗ tổ Hùng Vương.
(Hình: Hà Giang/Người Việt) Sự tham dự đông đảo và làm việc sát cánh nhau của gần hai mươi hội đoàn và tổ chức khiến người tham dự ấm lòng. Nếu có một điều gì chung và gắn bó chặt chẽ nhất có thể khiến cộng đồng đa dạng của người Mỹ gốc Việt tại Nam Cali, hay bất cứ ở đâu, có thể xích lại gần nhau, thì điều đó chắc chắn phải là Quốc Tổ, phải là Quốc Tổ Hùng Vương. Chị Mai Vũ, thuộc Hội Ðền Hùng, trang trọng trong chiếc áo dài gấm và khăn hoàng hậu mầu hồng, cho biết năm nào chị cũng tham dự giỗ tổ, vì “đó là dịp để nhớ về quốc tổ, về Việt Nam, và về đất nước.” Ðứng cạnh chị Mai, chị Thu Huỳnh, cũng trong bộ áo dài khăn đội đầu màu hồng chia sẻ: “Bận thế nào thì cũng phải đến dự lễ giỗ tổ để nhớ lại tổ tiên.” “Vua
Hùng Vương à? Biết chứ, mười tám đời cơ
mà, phải không?” GS Stephen Young
trả lời câu hỏi của phóng viên Người Việt như thế trong khuôn viên Vườn Hồng tại Westminster, nơi ông tham dự lễ giỗ tổ Hùng Vương. (Hình: Hà Giang/Người Việt) Ðược hỏi về cảm tưởng của mình, GS Stephen Young, một nhà ngoại giao Hoa Kỳ từng tham gia chiến tranh Việt Nam, và cũng từng có nhiều sinh hoạt rất gắn bó với đất nước Việt Nam như cùng GS Nguyễn Ngọc Huy dịch bộ Luật Hồng Ðức ra tiếng Anh, phát biểu: “Có hai điều quan trọng, thứ nhất, buổi lễ Giỗ Tổ Hùng Vương cho thấy người Việt Nam sống xa quê hương vẫn nhớ đến cội nguồn. Thứ hai, tôi rất vui khi thấy ở giữa Little Sài Gòn này, vào thế kỷ thứ 21 mà còn được thấy những y phục cổ truyền từ ngàn xưa của Việt Nam, thì thật là một điều đáng quý.” Ðồng
hương và quan khách đến tham dự lễ giỗ tổ
Hùng Vương ngồi chật mấy gian lều
ở Vườn Hồng, Westminster. (Hình: Hà Giang/Người Việt) Sự
tham gia của giới trẻ trong đại lễ giỗ tổ Hùng Vương khiến
đồng hương
ấm lòng. (Hình: Dân Huỳnh/Người Việt) Tham dự đại lễ giỗ tổ, không chỉ có những cụ cao niên đầu tóc bạc phơ, mà còn có các thanh niên thiếu nữ thuộc Tổng Hội Sinh Viên. Ðặc biệt là sự có mặt của các thiếu niên trong hội võ thuật Vô Vi Nam, mắt sáng ngời, mắt ngây thơ trên tay cầm những cây cờ Hoa Kỳ và cờ VNCH vàng với ba sọc đỏ bay phất phới. Duyệt qua danh sách người tham dự, ngoài những vị danh cử quen thuộc trong vùng như Nghị Viên Tạ Ðức Trí, ông bà Frank Fry, người ta còn thấy tên những người ở xa đến như Luật Sư Trần Thanh Hiệp đến từ Pháp, GS Stephen Young đến từ Minnesota, cùng các thành viên trong đại gia đình GS Nguyễn Ngọc Huy.Trả lời câu hỏi của phóng viên nhật báo Người Việt là ông có biết gì về vua Hùng Vương không, Giáo Sư Stephen Young cười, và trả lời bằng tiếng Việt rất sõi: “Vua Hùng Vương à? Biết chứ, mười tám đời cơ mà, phải không?” Nghe ông trả lời, chợt thấm thía nhận ra bốn chữ Giỗ Tổ Hùng Vương nghe sao ấm áp quá. Hà Giang/Ngươì Việt TÂM
THƯ VẬN ĐỘNG DIÊN HỒNG
Kính Gủi Qúy Cụ Lão ông, Lão Bà khắp bốn phương Kính Thưa Qúy Cụ Người viết là Võ Toàn tên riêng Lão Nông sinh trưởng tại Thanh Hóa đầu năm Tân Hợi (1911) hơn mười tuổi mới đi học tại các trường thành phốVinh, Nghệ An, được con trai bảo lãnh qua Hoa Kỳ năm 1991. Nay đã ngoài trăm lẻ một (101) tuổi. Kính Thưa Qúy Cụ Tuy chúng ta ít có dịp hoặc chưa có cơ hôi về thăm quê hương , chúng ta vẫn được biết khá rõ về hiện trạng nguy khốn của đất nước. Chế độ cộng sản Hà Nội đã đồng tình với cộng sản Bắc Kinh cho cả vạn chuyên gia và công nhân xâm nhập cao nguyên nhân danh khai thác Bô xít. Cao nguyên là địạ điểm chiến lược sung yếu của nước ta chi phối cả ba miền Việt Miên Lào. Vì thế các tướng Võ Nguyên Giáp, Đồng Sĩ Nguyên, Nguyễn Trọng Vĩnh, các nhà khoa học, nhà văn nhà báo nhất tề quyết liệt chống đối. Nhiều cuộc thảo luận gay go xôm tụ đã diễn ra. Gần đây sau vụ thế giới xôn xao vì bùn đỏ nước Hungari bất ngờ tạo cái chết thảm gần 100 người dân vô tội khiến 12 khoa học gia lại nêu bật vấn đề. Nhưng đây là chủ trương của Bắc Kinh nên mọi việc vẫn tiến hành.Hà Nội làm tiếp một điều quái dị là cho người Hồng Kông, Đài Loan, thuê rừng đầu nguồn tại các tỉnh biên giới, thời hạn 50 năm. Họ ngây thơ hay quên những người ấy đều là người Tầu và cũng không tiên liệu những người thuê rừng phải có vợ con hoặc lấy gái Việt. Sau nửa thế kỷ sinh sôi nẩy nở bao nhiêu nhân mạng và bao nhiêu nhà cửa cho số người đó sinh sống?? Đáo hạn 50 năm làm sao trục xuất họ??? Chưa hết chuyện nguy nan. Hầu hết các thí điểm xi măng, hóa chất, điện khí đều do người Trung Quốc trúng thầu. Điều kỳ lạ, mỗi người được đem theo vài ba ngàn công nhân, sống riêng biệt trong những xóm làng do chúng tư tạo. Chắc chắn bọn này đều độc thân chúng sẽ tìm kiếm gái Việt thực hành âm mưu Hán hóa dân tộc Việt. Những người Tầu ấy, sinh sống ở Việt Nam với cơm gạo Việt Nam, nhưng khi hữu sự họ sẽ trở thành đội quân thứ năm giúp kẻ thù. Nhìn chung mọi mặt Bắc Kinh ở thế thượng phong nên Hải quân họ mặc sức truy lùng các ngư thuyền và ngư phủ V.N, bắt nộp tiền chuộc người và ngư cụ.Có khi họ thẳng tay bắn giết hay đâm chìm cả ngư thuyền và tuyên bố biển Đông là Nam Hải của họ. Hà Nội chỉ phản đối lấy lệ. Thái độ hống hách và uy hiếp Việt Nam quá đáng, khiến các nước lớn tỏ ý nâng đỡ Việt Nam. Rõ rệt là Hoa Kỳ sau 15 năm tái lập bang giao, bà ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton tuyên bố tại một cuộc họp tại Hà Nội là Hoa Kỳ có “quyền lợi quốc gia” tại biển Đông và sẵn sàng nâng đỡ các nước nhỏ khối Đông Nam Á. Hoa Kỳ mời Hải quân Việt Nam cùng tập trận tại biển Đông. Hà Nội không dám thách thức nước đàn anh vẫn im lặng vô cùng bất lợi cho dân tộc. Trước sư bế tắc nguy hiểm này, những người quan tâm tới thời cuộc đồng ý với nhau là phải vận động HỘI NGHỊ DIÊN HỒNG dể cứu nước.Tuy nhiên để bắt tay vào công việc vận động Lão Nông tôi đã đi tiếp xúc với các nhà Nhân Sĩ cao trọng cũng như các vị lãnh tụ các đảng phái song các vị này đều lấy lý do thoái thác là chưa ổn định xong nội bô của qúy vị nên chưa thể tham gia…Thật là buồn và chán nản!!! Những tưởng rằng sẽ chết ôm theo giấc mơ Diên Hồng tan trong sương khói…. Tuy nhiên gần đây khi các cuộc cách mạng nổ ra tại Tunisia và Ai cập mà người ta gọi là cuộc cách mạng Hoa Lài đã làm rung động tất cả các nước độc tài trên thế giới kể cả Trung Cộng và CSVN.Đồng bào VN trong nước và ngoài nước đều nức lòng ai nấy đều mong cuộc cách mạng Hoa Lài sẽ lan nhanh đến Việt nam để dân tộc VN sớm thoát khỏi ách họa cộng sản. Trong bầu không khí sôi động mới này, tình cờ chúng tôi được gắp nhà Biên Khảo Lịch sử, người tù bất khất Phạm Trần Anh đại diện Hội Ai Hữu Tù Nhân Chính Trị và Tôn Giáo tại hải ngoại. Ông muốn tìm hiểu về tổ chức Diên Hồng Bắc Cali và sau khi nghe tâm sự của Lão Nông Ông Phạm Trần Anh có nói với lão: “Lúc này các Bô lão Bắc Cali nói riêng và toàn hải ngoại nói chung nên đứng ra vận động Hội Nghị Diên Hồng là rất hợp cảnh, hợp thời đề cứu nước. Hơn lúc nào hết, toàn dân Việt Nam phải đoàn kết một lòng, muôn người như một đứng lên làm cuộc cách mạng cứu nguy dân tộc thoát khỏi ách thống trị bạo tàn của tập đoàn Việt gian CS bất nhân, hại dân bán nước đang từng bước đưa dân tộc vào vòng nô lệ của đế quốc Trung Cộng. Chúng tôi sẵn sàng đứng sau lưng Qúy Cụ để thực hiện những quyết định của Hội nghị Diên Hồng. Trước hết, xin, các Cụ kiện toàn tổ chức Hội Bô Lão Diên Hồng tại Bắc Cali, chúng tôi sẽ về Nam Cali vận động thành lập Hội Bô Lão Diên Hồng tại Nam Cali, sau đó sẽ vận động thành lập các Ban Vận Động Bô Lão Diên Hồng trên các tiểu bang và toàn hải ngoại. Các Bô Lão với hào khí Diên Hồng biểu trưng của lòng yêu nước thương nòi để thế hệ cháu con theo gương tiền nhân đứng lên đáp lời sông núi, hoàn thành cuộc cách mạng Trống Đồng, hào khí Diên Hồng Tây Sơn thời đại để cứu dân cứu nước. Các Bô lão sẽ giữ vai trò tiền phong vận động các giới tiến tới ngày Đại Hội không xa…” Được lời như cởi tấm lòng… Phải chăng đây là vận nước đã tới rồi. và cũng nhờ Hồn Thiêng sông núi luôn độ trì cho Dân Tộc Việt Nam sẽ thoát khỏi ách nô lệ giặc Tầu lần thứ năm, nếu chúng ta biết dựa vào sức dân vận động được Hội Nghị Diên Hồng Hải Ngoại. Diên Hồng sẽ tuyển lựa những người tài năng đức độ vào Hội Đồng Diên Hồng hải ngoại đại diện 4 triệu người Việt lưu vong, Hội Đồng được coi như Quốc Dân Đại Hội sẽ chọn những người có đạo đức, có tài năng và bản lĩnh chính trị cho các chức vụ, trưởng phó cho các Khối, các Ủy Ban các Ngành…Hội Đồng Diên Hồng hải ngoại cũng là BAN THAM MƯU định ra những sách lược và chiến lược cụ thể, khả thi và có hiệu năng nhằm vận động, phát huy SỨC MẠNH TỔNG THỂ CỦA CỘNG ĐỒNG, làm tiền đề vận động phát huy SỨC MẠNH TỔNG HỢP CỦA DÂN TỘC ngõ hầu hoàn thành 2 sứ mệnh lớn là CỨU QUỐC và KIẾN QUỐC mà 90 triệu người dân trong và ngoài nước đang mong đợi. Kính thưa Qúy vị Lão Ông, Lão Bà Bắc Cali,và toàn Hải Ngoại Truyền thống Á Đông cũng như Việt Nam là trọng người cao tuổi. Là các vị Bô Lão, chúng ta co trách nhiệm phải đứng ra kêu gọi tất cả các Đảng Phái Hội Đoàn, các Cộng Đồng ,các tổ chức đấu tranh, các hội đoàn văn hóa xã hội cùng mọi giới đồng bào cùng tham gia Hội Nghị Diên Hồng Hải Ngoại mới có được SỨC MẠNH TỔNG HỢP để cứu nước cứu dân trong giai đoạn dầu sôi lửa bỏng này. Kế thừa tinh thần Diên Hồng bất diệt trong lịch sử Việt, giới bô lão chúng ta vừa có trách nhiệm và đồng thời được vinh dự nêu cao tinh thần, sự đóng góp của mỗi cá nhân quý cụ nhân ngày Đại Hội Lịch Sử hiếm qúy này. Kính Thưa Qúy Vị Bô Lão. Tuy ngày nay chúng ta không có đủ thẩm quyền với con cháu. gia đình và dòng họ như qúy vị Bô Lão tham dự Hội Nghị Diên Hồng thời Nhà Trần, nhưng vẫn có trách nhiệm lưu ý con cháu,bạn hữu của chúng, cũng như bạn hữu của chúng ta và đồng bào các giới cùng tham gia Hội Nghị Diên Hồng Hải Ngoại. Ngày khai hội nhất tâm cầu nguyện cho Đại Hội Diên Hồng hải ngoại thành công viên mãn. Đại Hội khai mạc sớm hay muôn cũng do chính nỗ lực của chúng ta cùng nhau vận động. Vậy kính xin Qúy vị sốt sắng liên lạc với Lão Nông qua số điện thoại; (408) 272-3889 và vui lòng cho Lão Nông biết: Tên Họ, tuổi tác, số phone và đia chỉ của qúy vị hay gửi thư qua Bưu điện về địa chỉ của Lão Nông:Võ Toàn, 2368 mammoth Dr Apt # 1, San Jose CA 95116. Trân trọng kính chào và hẹn gặp qúy vị trong ngày Đại Hội. San Jose ngày 19 tháng 2 năm 2011 Lam Sơn Lão Nông Võ Toàn Bô Lão Võ Toàn, Nhà Biên Khảo Lịch sử Phạm Trần Anh và LS Nguyễn Xuân Nghĩa Hội Trưởng Hội Đền Hùng Hải Ngoại TÂM THƯ Kính thưa Toàn thể Đồng bào Kính thưa Quý vị Bô Lão Kính thưa Quý vị Nhân sĩ Trí thức Lịch sử Việt là lịch sử của sự thăng trầm nổi trôi của vận nước từ khi lập quốc đến ngày nay. Dân tộc Việt đã trải qua hàng ngàn năm đô hộ của giặc Tàu, gần một trăm năm nô lệ giặc Tây và hơn nửa thế kỷ nô dịch văn hóa ngoại lai của chủ nghĩa Cộng Sản. Trong suốt trường kỳ lịch sử, Hán tộc luôn luôn chủ trương xâm lược tiêu diệt Việt tộc bằng mọi giá, ngay cả sau khi Việt tộc đã giành lại độc lập tự chủ. Các triều đại Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh đều đem quân xâm lược Việt Nam nhưng đều bị quân dân ta đánh cho tan tành không còn manh giáp. Bản chất xâm lược của Hán tộc trước sau như một, từ Hán tộc du mục xâm lược xa xưa và Trung Cộng bành trướng ngày nay vẫn tìm cách xâm lấn đất đai, biển cả của chúng ta. Chiến thắng Bạch Đằng Giang lịch sử của Ngô Quyền mở ra một thời kỳ Độc lập tự chủ của dân tộc. Sau hơn một ngàn năm độc lập với các triều đại Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn thì thực dân Pháp lại vào xâm chiếm nước ta. Vận mệnh dân tộc Việt trải qua nhiều thăng trầm dâu bể, hết gần một ngàn năm chịu nô lệ của giặc Tàu lại đến trăm năm đô hộ của giặc Tây. Trong khi toàn dân đang đấu tranh giành độc lập thì đảng Cộng Sản Việt Nam đã lợi dụng công cuộc đấu tranh giành độc lập, núp dưới danh nghĩa kháng chiến để bành trướng chủ nghĩa Cộng sản đưa dân tộc vào thế khốn cùng nhất trong lịch sử. Kính thưa quý vị, Hơn ¾ thế kỷ tính từ ngày thành lập, đảng Cộng Sản Việt gian đã đưa dân tộc Việt vào cuộc chiến tranh bi thảm nhất trong lịch sử Việt. Hàng triệu đồng bào Việt Nam đã hy sinh cho sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng Sản, hàng triệu đồng bào đã phải bỏ nước ra đi tìm tự do. Một đất nước Việt Nam độc tài toàn trị, nghèo nàn chậm tiến nhất thế giới đang từng bước trở thành một Tân Cương, một Tây Tạng thứ hai trong lịch sử bành trướng xâm lược của đế quốc Trung Cộng. Sau hơn 35 năm thống trị cả nước, đảng Cộng Sản Việt Nam đã đem lại hậu quả nặng nề cho dân tộc Việt Nam trên nhiều phương diện. Bộ mặt thật “Hại dân bán nước” đã dâng đất nhường biển cho quan thầy Trung Cộng. Trong lịch sử Việt, gian hùng Hồ Chí Minh, một Lê Chiêu Thống của thời đại và đảng cộng sản việt Nam là tội đồ của dân tộc đã cam tâm bán nước phản bội công lao của tiền nhân bao đời đã hy sinh xương máu để bảo vệ giang sơn gấm vóc từ thời lập quốc đến ngày nay. Việt Nam đang đứng bên bờ vực thẳm của suy vong, nguy cơ mất nước cận kề. Đây là thời kỳ đau thương ô nhục nhất trong lịch sử dân tộc Việt. Kính thưa quý vị, Cách đây đúng 727 năm, đội quân Mông Cổ “Bách chiến bách thắng” tràn xuống tấn công nước ta. Trong lịch sử chiến tranh xâm lược, vó ngựa Mông Cổ chưa một lần thất bại. Trong nửa thế kỷ XIII, một đế chế rộng lớn chưa từng thấy “Đế quốc” Mông Cổ trải dài từ Á sang Âu, từ bờ Thái Bình Dương đếnn bên kia bờ Hắc Hải châu Âu. Thế mà 3 lần xâm lược nước ta đều thất bại thảm hại. Để huy động sức mạnh của toàn dân tham gia kháng chiến chống quân Mông Cổ xâm lược, Thái Thượng Hoàng Trần Thánh Tông mời các bô lão trên toàn quốc về kinh đô Thăng Long dự hội nghị Diên Hồng bàn việc nước “Hòa hay chiến”. Toàn thể bô lão cả nước đồng thanh hô lớn “Quyết chiến, quyết chiến”, quân sĩ xâm vào cánh tay hai chữ “Sát Đát” thề chiến đấu cho tới hơi thở cuối cùng, người Việt Nam cuối cùng để bảo vệ đất nước. Đại Việt Sử ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên chép: “Muôn người cùng nói như một miệng phát ra … Quyết chiến, quyết chiến. Giặc đi đến đâu, tất cả quận huyện trong cả nước phải liều chết mà đánh. Nếu sức không địch nổi thì phải lẩn tránh vào rừng núi … Tuyệt đối, không được hàng giặc …”. Ngày hôm nay, đế quốc mới Trung Cộng với sự tiếp tay của đảng Cộng sản Việt Nam đã dâng đất nhường biển và đang từng bước biến nước ta thành một khu tự trị của Trung Quốc. Chúng ta đã bước sang năm thứ 36 của ngày Quốc hận, hơn 3 triệu đồng bào Việt Nam chúng ta phải sống đời lưu vong ở Hải ngoại. Tám mươi bảy triệu đồng bào đang sống trong khốn khó dưới sự thống trị kìm kẹp bạo tàn của Việt gian CS. Việt Nam đang đứng bên bờ vực thẳm của suy vong, nguy cơ mất nước cận kề. Đây là thời kỳ đau thương ô nhục nhất trong lịch sử dân tộc Việt. Kính thưa toàn thể Đồng bào, Kính thưa quý Nhân sĩ, Trí thức yêu nước Trước tình trạng Tổ Quốc lâm nguy, Sơn hà nguy biến, toàn thể đồng bào Việt Nam muôn người như một, phải đồng lòng đứng lên đấu tranh giải thể chế độ Cộng sản bạo tàn để CỨU DÂN CỨU NƯỚC. Là những người Việt Nam yêu nước thương nòi, chúng ta đã chứng kiến bao đổi thay tang thương dâu bể của đát nước, nay đã đến lúc chúng ta phải gầy dựng lại “HÀO KHÍ DIÊN HỒNG”của tiền nhân để cùng với thế hệ con cháu đứng lên đáp lời sông núi diệt kẻ nội thù, diệt quân xâm lược. Chúng ta thành lập Hội Nghị Bô Lão Diên Hồng đáp ứng yêu cầu bức thiết của lịch sử để thể hiện quyết tâm bảo toàn đất Tổ. Chúng ta cùng với toàn dân hoàn thành sứ mạng của lịch sử đấu tranh dẹp kẻ nột thù Việt gian hại dân bán nước, huy động sức mạnh toàn dân tộc chống quân Trung Cộng xâm lược bảo vệ giang sơn gấm vóc mà tiền nhân bao đời đã hy sinh xương máu để bảo toàn đất Tổ. Chúng ta hãnh diện tự hào đã chu toàn bổn phận của một con dân nước Việt, xứng đáng với tiền nhân và với các thế hệ cháu con của chúng ta nữa. Tám mươi bảy triệu đồng bào Việt Nam khốn khổ quằn quại trong ngục tù bao la “Nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam” đang chờ đợi chúng ta… Nguyện cầu Hồn thiêng sông núi phù trợ cho đất nước chúng ta Việt Nam Hải Ngoại, ngày 22-2-2011 TM UỶ BAN VẬN ĐỘNG HỘI NGHỊ DIÊN HỒNG THỜI ĐẠI Giáo sư Nguyễn Thanh Liêm 1. Bô Lão Võ Toàn 101 tuổi, San Jose Hoa Kỳ. 2. Bô Lão Nguyễn văn Bách, Nam cali 100 tuổi. 3. Giáo sư Nguyễn Thanh Liêm, Nhân sĩ Nam Cali. 4. LM Nguyên Thanh, Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị và Tôn Giáo Việt Nam. 5. Khoa học gia, GSTS Nguyễn Xuân Vinh. 6. Bô Lão Vũ Ngọc Truy, Cựu Luật sư 96 tuổi. 7. Nhân sĩ Đinh Thị Việt Liên 95 tuổi Bắc Cali. 8. Nhà văn Lão thành Doãn Quốc Sỹ, 88 tuổi Texas. 9. GS Nguyễn Tư Mô, Cố vấn Hội Đền Hùng Hải Ngoại. 10. Cụ Bà Âu Tiên Nguyễn thị Đức. 11. Giáo sư Phạm Cao Dương. 12. Cụ Bà Nguyễn thị Chương 13. Học giả Huỳnh văn Lang, 90 tuổi Nam California. 14. Luật sư Đoàn Thanh Liêm, Nam California. 15. Giáo sư Nguyễn Chính Kết USA. 16. Nhân sĩ Phạm văn Tường 85 tuổi, Bắc California. 17. Nhân sĩ Lê Châu Lộc, Cựu Thương Nghị sĩ Việt Nam Cộng Hòa. 18. Nhân sĩ Nguyễn Hy Vọng 80 tuổi, Nam Cali. 19. Nhân sĩ Phan Kỳ Nhơn, Ủy Ban Đặc nhiệm chống Tuyên vận Cộng Sản. 20. Nhà Báo Trần Phong Vũ. 21. Giáo sư Vũ Thiệu Phúc, Cố vấn Hội Đền Hùng Hải Ngoại. 22. Nhân sĩ Chu Chi Nam, Hội Nghiên cứu Lịch sử Pháp Quốc. 23. Nhân sĩ Trần Như Huỳnh, Bắc Cali. 24. Nhân sĩ Trần Thanh Phong, CT Hội Đồng Kiểm soát Hội Đền Hùng hải Ngoại 25. Nhân sĩ Nguyễn văn Cừ, Cộng Đồng Việt Nam Los Angeles. 26. Phan Như Hữu, Hội Đồng Việt Nam Tự Do Nam Cali. 27. Nhân sĩ Phạm Ngọc Khôi, Phó HT Hội Đền Hùng Hải Ngoại. 28. Nhân sĩ Trần Ngọc Tôn, Cựu Đốc sự Hành Chánh. 29. Bác sĩ Nghiêm Phú, Nam Cali. 30. DS Bùi Như Hải. Hội Đền Hùng Hải Ngoại. 31. DS Nguyễn Đình Thức, Hội Đền Hùng Hải Ngoại. 32. Nhân sĩ Trần văn Thắng, Hội Đền Hùng Hải Ngoại. 33. Nhân sĩ Pham Ngọc Điệp 81 tuổi Úc Châu. 34. Tiến sĩ Phan văn Song, Đại Việt Quốc Dân Đảng. 35. Nhân sĩ Phan Đa Văn, Nam Cali HK. 36. Nhân sĩ Dương Ngọc Sum Nam Cali. 37. Nhân sĩ Nguyễn Duy Nghiêu Nam Cali. 38. Nguyễn Thị Ngọc Hạnh, Phong Trào Phụ Nữ Hành Động Cứu Nước. 39. Cư sĩ Minh Pháp. 40. Nhân sĩ Nguyễn Hữu Đĩnh. 41. Nhân sĩ Nguyễn Tạ Quang, Hội Hải Quân Trần Quang Khải Philadelphia. 42. Nhân sĩ Đoàn Thế Cường, Ủy Ban Bảo Toàn Đất Tổ. 43. Nhân sĩ Vũ Lang, Câu Lạc Bộ Thi Văn Tao Đàn Hải Ngoại. 44. Nhân sĩ Phùng Ngọc Ẩn San Diego. 45. Giáo sư Nhạc sĩ Lê Quốc Tấn, SanJose. 46. Nhân sĩ Hoàng Ngọc An Nam Cali. 47. Nhân sĩ Hoàng Vy Nam cali. 48. Nhân sĩ Lê Văn Lan Texas. 49. Nguyễn Hữu Lễ, Cộng Đồng Việt Nam Ohio. 50. Nguyễn Phùng Phong, CT Hội Ái Hữu Tù nhân CT và Tôn Giáo VN Cambodia. 51. Lê Thái Lan, CT Hội Ái Hữu Tù nhân Chính Trị và Tôn Giáo VN Thái Lan. 52. LS Nguyễn Xuân Nghĩa, HT Hội Đền Hùng Hải Ngoại. 53. Giáo sư Trần Đức Thanh Phong, Nhân sĩ Tây Nam Hoa Kỳ. 54. Thi họa sĩ Vũ Hối, nhân sĩ Đông Bắc Hoa Kỳ. 55. Mhân sĩ Trần Vệ, CT TT Cựu Chiến sĩ Tây Nam Hoa Kỳ.. 56. Nhà văn Nguyễn Hữu Của, TT Văn Bút Tây Nam Hoa Kỳ. 57. Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, nhân sĩ Đông Bắc Hoa Kỳ. 58. Nhân sĩ Đào Xuân Đàm 93 tuổi, nhân sĩ Tây Nam HK. 59. Tiến sĩ Hà Thế Ruyệt, nhân sĩ Nam Cali. 60. GS Nguyễn Thành Long PGHH. 61. GS Nguyễn Thanh Giàu PGHH. 62. Hiền Tài Phạm Văn Khảm Cao Đài. 63. BS Phạm Nguyên Lương, Nhân sĩ Nam Cali. 64. Cụ Nguyễn văn Sĩ, Nhân sĩ Nam Cali. 65. Ông Vũ Hoàng Hải, VNQDĐTN Nam Cali. 66. Nhân sĩ Hoàng văn Phong, Đoàn An Lạc Phụng sự Nam Cali. 67. Nhân sĩ Nguyễn Phổ Nam Cali. 68. Nhân sĩ Trần Việt Nhân Úc Châu. 69. Nhân sĩ Hoa Thế Nhân, Hội Cử Tri Việt Mỹ Nam Cali. 70. Nhân sĩ Trần Thị Hồng Khương, Hội Văn Hóa Phụ Nữ Philadelphia và vùng Phụ cận HK. 71. Nhân sĩ Lê Thị Hồng Lan, Hội Phụ Nữ Nhân Ái Thiện Nguyện Nam Cali HK. 72. Nhân sĩ Lê Quý An, Hội Giáo Chức Việt Nam Nam Cali. 73. Nhân sĩ Nguyễn thị Ngọc Dung, nhà văn Cỏ Thơm Magazine HK. 74. Học giả Vũ Hữu San. 75. Bà Đỗ Thị Thuấn, Điện báo Ánh Dương. 76. Nhà văn Chu Vũ Ánh Fháp Quốc. 77. Nhá Báo Thanh Phong. 78. Họa sĩ Hoàng Vinh, nhân sĩ Nam Cali. 79. Nhân sĩ Trần Ngọc Thiệu, QGHC Nam Cali. 80. Nhà Biên Khảo Lịch sử Phạm Trần Anh, Mặt Trận Dân Tộc Cứu Nguy Việt Nam. HỘI ĐOÀN - Mặt Trận Dân Tộc Cứu Nguy Việt Nam. - Hội Cao Niên Việt Nam Sanjose. - Lê Văn Duyệt Foundation. - Hội Cao Niên Montréal Canada. - Hội Đền Hùng Hải Ngoại. - Ủy Ban Đặc Nhiệm chống Tuyên vận Cộng Sản. - Hội Nghiên cứu Lịch sử. - Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị và Tôn Giáo Việt Nam. - Liên Minh Dân Tộc Việt Nam. - Ủy Ban Hoà Đồng Dân Tộc và Tôn Giáo. - Phong Trào Phụ Nữ Hành Động Cứu Nước. - Hội Hải Quân Philadelphia và vùng phụ cận. - Đại Việt Quốc Dân Đảng. - Việt Nam Quốc Dân Đảng Thống Nhất Nam Cali. - Hội Cao niên Á Mỹ. - Câu Lạc Bộ Thi Văn Tao Đàn Hải Ngoại. - Câu Lạc Bộ Dân chủ Tự Do. - Cộng Đồng Người Việt Cleverland Ohio. - Hội Đồng Việt Nam Tự Do. - Diễn Đàn Dân chủ Tự Do. - Chi Hội Ái Hữu Tù nhân Chính Trị và Tôn Giáo Cambodia. - Chi Hội Ái hữu Tù nhân Chính Trị và Tôn Giáo Thái Lan. - Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Nam California. - Nghị Hội Người Việt Toàn Quốc Hoa Kỳ. - Hội Cử Tri Việt Mỹ. - Phật Tử An Lạc. Phụng sự. - Hội Văn Hóa Phụ Nữ Philadelphia và vùng Phụ cận HK. - Hội Phụ Nữ Nhân Ái Thiện Nguyện Nam Cali HK. - Hội Giáo Chức Việt Mỹ Tây Nam Hoa Kỳ. - Cỏ Thơm Magazine. 1. HỘI ĐỒNG NHÂN SĨ DIÊN HỒNG NAM CALI: Nhân sĩ Phan Kỳ Nhơn. 2. HỘI ĐỒNG NHÂN SĨ DIÊN HỒNG BẮC CALI: Nhân sĩ Phạm văn Tường. 3. HỘI ĐỒNG NHÂN SĨ DIÊN HỒNG MONTRÉAL CANADA: Nhân sĩ Vũ Ngọc Truy. 4. HỘI ĐỒNG NHÂN SĨ DIÊN HỒNG ĐÔNG BẮC HOA KỲ: Nhân sĩ Nguyễn Ngọc Bích. 5. HỘI ĐỒNG NHÂN SĨ DIÊN HỒNG HAWAI HK: Nhân sĩ Nguyễn Anh Tuấn. 6…………………………………………………………… XIN MỜI QUÝ BÔ LÃO, NHÂN SĨ TRÍ THỨC, QUÝ HỘI ĐOÀN ĐOÀN THỂ THAM GIA VÀO ỦY BAN VẬN ĐỘNG HỘI NGHỊ DIÊN HỒNG THỜI ĐẠI. - Xin liên lạc với Phạm Trần Anh qua email: quocvietanhpham@yahoo.com hoặc điện thoại 1(714) 603-9291 LỄ HỘI ĐỀN HÙNG
10-3 Âm Lịch “Dù ai đi ngược về xuôi Nhớ ngày giỗ tổ mồng mười tháng ba …” GIỖ TỔ
HÙNG VƯƠNG Hàng năm cứ
vào ngày mồng mười tháng ba
Âm
lịch, nhân dân cả nước nô nức kéo về đền Hùng để dự lễ giỗ Tổ Hùng Vương, người khai mở nước Văn Lang xa xưa của Việt tộc. Truyền thống uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây đã đi vào tâm thức Việt như một nguồn suối tâm linh làm phong phú thêm đời sống tinh thần của người Việt. Ngay tự thuở xa xưa, người Việt cổ đã có một đời sống tâm linh siêu vượt. Người Việt cổ đã sớm nhận thức được cuộc sống thường nhật để tìm ra lẽ sống của cả một đời người nên không chỉ tin vào thần thánh mà còn tin vào chính con người. Chính vì vậy, từ xa xưa người Việt ngoài việc thờ cúng thần linh giúp cho cuộc sống còn thờ cả nhân thần là những người khi còn sống đã giúp dân giúp nước, giúp ích cho địa phương. Đặc biệt người Việt có truyền thống thờ cúng Tổ tiên, ông bà cha mẹ là những người trực tiếp sinh đẻ ra mình, nuôi dưỡng mình thành người. Ngay cả ông Trời, đối với người Việt là cư dân sống bằng nghề nông nên tôn thờ ông trời đã ban cho những giọt nước mưa tưới xuống đất để hạt giống nảy mầm, cây cối đâm chồi nảy lộc. Ông trời được dân gian Việt kêu cầu đến “Trời ơi” mỗi khi gặp sự đau buồn, dân gian còn nhân cách hoá ông trời thân thương từ chân trời, lưng trời đến mặt trời và nếu cần thì sẵn sàng bắc thang lên hỏi ông trời .. chứ không thần thánh hoá kiểu Hán tộc là có một ông Ngọc Hoàng Thượng đế toàn quyền ban phát, toàn quyền sinh sát trên thượng giới và cả ở dưới trần gian nữa. Một nhà Việt Nam học người Pháp Léopold Cadìere đã nhận định về tín ngưỡng và thực hành tôn giáo của người Việt Nam như sau: “Với người Việt, Trời không phải là một vị thần, ít nhất là trong quan niệm dân gian. Đó là ông Trời, đấng hình như thuộc về thế giới siêu việt. Hoàng đế tế trời một cách trọng thể còn dân gian thì cầu trời, kêu trời hàng ngày bằng ngôn ngữ thông thường. Ý niệm trời thấm sâu vào tâm tư người Việt và được biểu lộ thường xuyên mỗi ngày qua ngôn ngữ một cách minh nhiên đến nỗi ta không thể thấy rằng ý niệm trời chính là một nguyên lý cơ bản và cao cả nhất đối với đời sống tín ngưỡng của người Việt”. Trong khi đó, phương Tây với nền văn minh hết duy thần, duy linh, duy tâm, duy lý rồi duy vật thái quá khiến con người cảm thấy bất an nên thường đặt ra những vấn nạn như chúng ta từ đâu đến rồi chết sẽ đi về đâu? Chính những câu hỏi xa vời không bao giờ giải đáp được nên con người trở nên vô thần hoặc phải tìm đến tôn giáo chấp nhận một cách vô thường. Với niềm tin đơn giản chân chất của người Việt cổ thì Tổ Tiên, ông bà cha mẹ đã sinh ra mình chứ không phải do một thần linh nào từ trên trời. Chính vì thế phải biết ơn cha mẹ đã sinh thành dưỡng dục mình nên người. Bổn phận con người là phải hiếu thảo với cha mẹ, anh chị em thương yêu đùm bọc lẫn nhau vì cùng một mẹ mà ra. Huyền thoại Rồng Tiên với Bố Lạc mẹ Âu của Việt tộc, chúng ta cùng một bào thai mẹ Âu, trăm họ cũng cùng từ một gốc Bố Rồng mẹ Tiên mà ra cả. Trên thế giới duy nhất chỉ có dân tộc ta mới có hai chữ “Đồng bào”, chúng ta cùng một bào thai mẹ sinh ra nên đối với mọi người, chúng ta cũng dùng tình thân mà đối xử, mới gọi nhau là bà con cô bác như trong một nhà vậy. Người Việt có một đời sống tinh thần tâm linh sâu thẳm, thể hiện tình cảm thiêng liêng cao cả mà không một dân tộc nào có được. Đạo lý làm người dạy chúng ta rằng khi sống là phải biết tri ân thờ cúng ông bà cha mẹ để mai này khi ta có chết đi thì cũng về với ông bà cha mẹ mà thôi. Từ việc hiếu thảo thờ cúng cha mẹ, ông bà tiên tổ đến ý thức tôn thờ ông Tổ của dòng giống: Quốc tổ Hùng Vương cũng như các anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá đã hun đúc ý thức cao độ về lòng yêu nước thương nòi, tạo cho mỗi con dân đất Việt niềm tự hào về dòng dõi con Rồng cháu Tiên của Việt tộc. Hiện nay ở Việt Nam vẫn còn tôn thờ nhân thần và đạo thờ cúng ông bà vẫn còn trân trọng bảo lưu, đó chính là bản sắc văn hoá đặc trưng của dân tộc và cũng là đạo lý làm người của Việt tộc. Truyền thống cao đẹp này trải qua hơn sáu ngàn năm lịch sử vẫn thấm đậm trong lòng dân tộc với bao thăng trầm biến đổi của dòng vận động lịch sử. Cho tới nay và mãi mãi về sau, hàng hàng lớp lớp thế hệ trẻ Việt Nam vẫn tưởng nhớ về cội nguồn dân tộc với tất cả lòng hãnh diện tự hào Việt Nam. Tự xa xưa, tiền nhân ta đã chọn ngay mồng mười tháng ba là ngày giỗ Tổ Hùng Vương. Tháng ba là tháng Thìn, tháng của bố Rồng và ngày mười là ngày của mẹ Tiên nên tiền nhân đã giỗ quốc Tổ vào ngày mồng 10 tháng 3 hàng năm. Đền Hùng nằm trên núi Nghĩa Lĩnh còn có tên là núi cả, núi cao nhất 175 mét trong quần thể 100 ngọn núi ở Vĩnh Phú. Theo Hùng triều Ngọc phả, Thần phả xã Tiên Lát huyện Việt Trì tỉnh Hà Bắc thì đến đời Hùng Vương thứ 16 là Hùng Tạo Vương huý Đức Quân Lang mới dời đô xuống Việt Trì, Phong Châu. Hùng Tạo Vương trị vì từ năm Tân Dậu 660 TDL đến năm Nhâm Thìn 569 TDL ngang với thời Chu Linh Vương đời Đông Chu. Đền Hùng gồm Đền Hạ, Đền Trung, Đền Thượng với Lăng vua Hùng. Từ dưới đi lên qua cổng Đền cao 8m1, nóc cổng hình dáng tám mái, hai bên là phù điêu hình 2 võ sĩ cầm đao và chùy bảo vệ đền. Khách hành hương chỉ bước lên 225 bậc đá là lên đến đền Hạ. Tương truyền nơi đây mẹ Âu đã sinh ra bọc trăm trứng sau nở thành trăm người con trai. Bước thêm 168 bậc thang đá là đến Đền Trung toạ lạc ngang sườn núi Nghĩa Lĩnh, theo tương truyền thì đây là nơi Lang Liêu đã gói bánh dày bánh chưng dâng vua cha để cúng tiên tổ nhân ngày Tết. Chính tại nơi đây, vua Hùng thường hội các Lạc Hầu Lạc Tướng để bàn việc nước. Đền Trung thờ phượng các vua Hùng và dòng dõi, có cả bệ thờ công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa. Ngay ở gian giữa đền Trung treo bức đại tự “Hùng Vương Tổ miếu” nghĩa là miếu thờ Tổ Hùng Vương, gian bên phải treo một bức đại tự “Triệu Tổ Nam bang” nghĩa là Tổ muôn đời của nước Nam, gian bên trái treo bức “Hùng Vương Linh tích” nghĩa là Huyền tích linh thiêng của vua Hùng. Bước thêm 132 bậc thang đá nữa là tới đền Thượng. Đền Thượng có 4 nếp nhà: Nhà chuông trống, nhà Đại Bái, nhà Tiền Tế, Cung thờ. Trên vòm cung cửa chính ra vào được trang trí phù điêu hình 2 vệ sĩ phương phi làm nổi bật bức hoành phi 4 chữ “Nam Việt Triệu Tổ” nghĩa là Tổ Triệu muôn đời của nước Việt. Trong nhà Đại bái có câu đối bất hủ: Mở lối đắp nền bốn hướng non sông về một mối Lên cao nhìn rộng, nghìn trùng đồi núi tựa đàn con … Trong nhà Tiền tế đặt một Hương án trên để tráp thờ bên trong đặt một triện gỗ hình vuông có khắc 4 chữ: “Hùng Vương tứ phúc”. Đặc biệt có treo một bức hoành phi trong đó có câu “Quyết sơ dân sinh” nghĩa là cuộc sống của nhân dân là điều quyết định đầu tiên của người lãnh đạo. Ngay từ thời vua Hùng đã lấy dân làm gốc, Tất cả của dân, do dân và vì dân, còn giá trị mãi đến muôn đời*. Bên phải đền Thượng là cột đá thề của An Dương Vương, bên trái đền Thượng là Lăng vua Hùng nhìn về hướng Đông Nam, kiến trúc theo hình khối vuông, trên có cổ diêm 8 mái, đỉnh chóp đắp hình rồng uốn lượn nổi lên 3 chữ khắc chìm: “Hùng Vương Lăng”. Trên mỗi mặt tường đều đắp mặt hổ phù, thành bậc đắp kỳ lân, cửa chính của Lăng nổi lên 2 câu đối tri ân Quốc Tổ Hùng Vương: Lăng tẩm tự năm nào, núi Tản sông Đà … non nước vẫn quay về đất Tổ Văn minh đương buổi mới, con Hồng cháu Lạc giống nòi còn biết nhớ mồ ông ..! Hàng năm vào ngày mồng mười tháng ba là ngày lễ hội Hùng Vương được xem như Quốc lễ của cả một dân tộc. Thời xưa đích thân nhà vua đứng chủ tế với đủ nghi thức tế lễ long trọng. Lễ vật gọi là lễ Tam sinh gồm nguyên một con heo, một con bò và một con dê. Bánh chưng và bánh dày là lễ vật không thể thiếu được cũng như khi cử hành tế lễ phải có đầy đủ bộ nhạc cụ đặc biệt là chiếc trống đồng độc đáo của Việt tộc. Sau phần tế lễ là phần lễ hội với cuộc rước bánh dày bánh chưng và rước cỗ chay, rước voi và cuối cùng là lễ rước kiệu bay truyền thống của dân gian các làng xung quanh vùng đất Tổ. Mỗi làng đều đem theo kiệu riêng của làng mình từ các làng do vị bô lão dẫn đầu rồi đến thanh niên trai trẻ mặc võ phục thuở xưa tay cầm đủ loại cờ quạt sắc màu rực rỡ. Tất cả tề tựu dưới chân đền chờ cử hành tế lễ tạo nên một rừng người, rừng cờ hoa với đủ sắc màu. Mọi người nô nức dự lễ hội, già trẻ rộn rã tiếng cười nhưng khi tiếng chiêng tiếng trống khai lễ thì không khí trang nghiêm u mặc bao trùm cả một vùng đất Tổ. Sau phần tế lễ rước kiệu là phần hội hè với đủ mọi trò vui chơi cho nam thanh nữ tú tham dự thưởng ngoạn. Mở đầu là cuộc thi đua thuyền truyền thống của các đội thuyền Rồng của các làng trong hồ Đá Vao ngay cạnh chân núi. Dọc bờ hồ vòng quanh ven chân núi đủ các trò vui chơi nào là những rạp tuồng chèo, những cây đu tiên, những trò chơi dân gian như đánh cờ người, trò tung còn giữa thanh niên thiếu nữ ngày xuân, những phường hát Xoan của các nơi về tụ hội tổ chức hát Xoan với những làn điệu dân ca truyền thống mỗi độ xuân về. Việt tộc là cư dân nông nghiệp nên thường tổ chức lễ tết hội hè quanh năm suốt tháng nhưng lễ hội đền Hùng mang một ý nghĩa hết sức cao đẹp. Dự lễ hội đền Hùng chính là cuộc hành hương trở về nguồn cội dân tộc trong tâm thức mỗi con dân đất Việt. Lễ hội đền Hùng không đơn thuần là cuộc chơi xuân với những hội hè đình đám mà để chúng ta hướng vọng về Quốc tổ Hùng Vương, người truyền thừa sự sống và khai mở đất nước Văn Lang cho tất cả chúg ta. Trên thế giới ngày nay, có lẽ chỉ có dân tộc Việt Nam có Quốc tổ để tôn thờ và có một huyền thoại Rồng Tiên đẹp như áng sử thi để chúng ta có quyền tự hào gọi nhau là đồng bào, là anh em ruột thịt cùng một mẹ sinh ra: Bọc điều trăm họ thai chung, Đồng bào tiếng gọi vô cùng Việt Nam ĐỀN THỜ QUỐC TỔ
Theo Ngọc phả Đền Hùng do Hàn lâm viện Đại học sĩ Nguyễn Cố phung soạn vào năm Hồng Đức nguyên niên 1470, sau được Hàn lâm Thị Độc sao lại năm Hoàng Đinh Nguyên niên 1600 thì Đền Trung tức Hùng Vương Tổ miếu được xây vào thế kỷ XIV, bị quân Minh phá huỷ vào thế kỷ XV. Đến thời Lê (1427-1573) đền được xây dựng lại theo bố cục hình chữ nhất cùng với Gác chuông và Thiền Quang Tự nay chỉ còn 2 phần tiền tế. Đền Thượng cũng được xây dựng vào thời kỳ này. Đến thế kỷ XVII-XVIII đền Hạ mới được xây dựng. Năm 1823, vua Minh Mạng cho xây dựng Miễu “Lịch đại Đế vương” ngay tại kinh thành Huế. Nhà vua đã bà bac kỹ lưỡng với bộ Lễ để đưa các nhân vật lịch sử vào thờ trong miếu. Bản tâu trình của bộ Lễ lên vua Minh Mạng như sau: “Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân thực là thuỷ tổ của nước Việt ta. Thế thì từ ngoại kỷ trở về trước phải lấy các vị sáng thuỷ mà thờ. Từ nhà Đinh về sau thì giềng mối mới rõ. Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Lý Thái Tổ, Trần Thái Tông, Lê Thái Tổ thừa vận lần lượt nổi lên, đều là vua dựng nghiệp một đời. Trong khoảng ấy, anh chúa trung hưng như Trần Nhân Tông ba lần đánh bại quân Nguyên, hai lần khôi phục xã tắc. Lê Thánh Tông lập ra chế độ, mở rộng bờ cõi, công nghiệp rạng rỡ vang rền đều nên liệt vào miếu thờ”. Đến năm Tự Đức thứ 27 (1874) ra sắc chỉ sửa chữa lại đền Thượng trên núi Nghĩa Lĩnh và cho khắc 2 bia đá dựng tại khu đền thờ. Năm Duy Tân thứ sáu (1912) cho trùng tu cung trong điên ngoài qui thứ như ngày nay. Năm Khải Định thứ 7 (1922) lại cho sửa sang thêm Lăng mộ và trùng tu đền Giếng thờ 2 công chúa Tiên Dung con vua Hùng thứ 3 lấy Chử Đồng Tử và công chúa Ngọc Hoa, con vua Hùng thứ 18 lấy Cao Sơn tức Sơn Tinh (Thánh Tản Viên). Năm 1935, vua Bảo Đại cho trùng tu và mở rộng thêm diện tích đền và cho dựng bia đá ngày 10 Đông Bắc và dải núi Tản Viên ở rìa Tây Nam. Nói theo ngôn ngữ Phong thuỷ cận địa lý học thì đất tổ với trung tâm điểm Việt Trì ở ngã ba Bạch Hạc ngoảnh mặt hướng biển hậu chấm xa là dải Hoàng Liên Sơn chất ngất trời Nam, tay “Long” là dải Tam Đảo với dưới chân nó là sông Cà Lồ. tháng 3 năm Canh Thìn “Đền vua Hùng là nơi thờ các vua họ Hồng Bàng trong lịch sử tối cổ của nước Việt ta”. Thời xưa, hàng năm tổ chức quốc lễ vào mùa Thu nhưng đền đời vua Khải Định năm 1917, Tuần phủ Phú Thọ là Lê Trung Ngọc xin bộ Lễ lấy ngày mồng 10 tháng 3 Âm lịch hàng năm làm Quốc lễ, trước ngày giỗ vua Hùng thứ 18 một ngày. Theo cách tính ngày tháng Việt Lịch của dân tộc, thì tháng 3 là tháng Thìn, và đếm từ Tý trong 12 con giáp, thě ngŕy 10 lŕ ngŕy Dậu. Theo 12 địa chi, Dậu là gà, thuộc loài chim, và chim là biểu hiệu của Tiên. Cũng vậy, địa chi Thìn đã mang nghĩa là Rồng. Ngày 10 tháng 3 là ngày Tiên, tháng Rồng. Ngày 10 tháng 3 được Tổ Tiên chọn chính là để giúp con cháu dễ dàng nhận thức về nguồn gốc dân tộc của mình: Con Rồng cháu Tiên. Ngày nay chúng ta không những bảo lưu truyền thống giỗ Tổ Hùng Vương mà còn xem ngày này là ngày nhớ ơn cha mẹ, bậc sinh thành dưỡng dục mình nên người. Chính vì vậy ngày này được xem như “Ngày Phụ Mẫu Truyền thống ” của người Việt Nam chúng ta. ** Theo học giả Trần Quốc Vượng thì Việt Trì và vùng xung quanh Vĩnh Phú là đỉnh cao nhất của tam giác châu sông Hồng. Sông Hồng là tên gọi muộn màng ở cuối thế kỷ thứ XIX do màu nước của sông này. Sách Thuỷ Kinh chú ở thế kỷ thứ VI gọi nó là Tây Đạo, cái tên chữ Hán Việt này là sự phiên âm từ một tên Tày cổ: Nậm Tao mà tên Việt hiện nay còn giữ được ở Việt Trì là sông Thao. Tam giác châu sông Hồng được giới hạn bởi dải núi Tam Đảo ở rìa Tay “Hổ” là dãy Tản Viên với dưới chân nó là sông Tích, sông Đáy. Trước mặt là sự “Tụ thuỷ” rồi “Tụ nhân” trên đôi bờ nhị thuỷ với các đầm lớn trũng lầy như đầm Vạc Vĩnh Yên, ao Vua, suối Hai Sơn Tây …Thế đất đó bảo đảm một viễn cảnh phát triển ngàn năm, hơn bốn ngàn năn nếu tính từ người Việt cổ Phùng Nguyên đến ngày nay. Bao quanh điểm Việt Trì là những núi đồi lô nhô như bát cơm mà dân gian hình dung thành bầy voi trăm con mà tới 99 con chầu về đất tổ. Tư tưởng vì dân này mãi đến ngày 19-11 năm 1863, mới được Tổng Thống Abraham Lincoln khẳng định “Nhất định sẽ khai sinh nền tự do và chính phủ Của Dân, Do Dân và Vì Dân nhất định sẽ không biến mất khỏi mặt địa cầu này” tại lễ khánh thành Nghĩa trang Quốc gia tại Gettysburg. PHẠM TRẦN QUỐC VIỆT www.phamtrananh.wordpress.com www.phamtrananh.net Nhóm mạng
Việt
Nam
Văn
Hiến
Trang : Giỗ Tổ Hùng Vương 4889 www.vietnamvanhien.net www.vietnamvanhien.org www.vietnamvanhien.info www.vietnamvanhien.com Email: thuky@vietnamvanhien.net
Trang
mạng Việt Nam Văn Hiến là nơi bảo tồn di sản văn hóa của
Việt tộc. Thắp sáng niềm tin Diên Hồng và nếp sống
Văn Hiến hầu phục hồi nền "An Lạc
& Tự Chủ" ngàn đời cuả Việt tộc.
|